You are on page 1of 16

Đề 1: Phân tích bài thơ “Đồng Chí” của nhà thơ “Chính Hữu”

I.Mở bài:
“Cuộc đời anh, cho tôi chia một nửa
Nửa giọt mồ hôi vạt áo còn đầm
Nửa dãy Trường Sơn thác ghềnh vất vả
Nửa bát cơm hạt muối nhọc nhằn”
(“Một nửa” – Chính Hữu)
Tình đồng chí, đồng đội trong thơ Chính Hữu luôn là vậy, nó đẹp một cách giản đơn, đẹp một cách lạ
thường. Với “Đồng Chí”, Chính Hữu đã góp thêm một tiếng thơ hay về người lính và tình đồng đội cho nền
thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bằng những chi tiết hết sức chân thực, bài thơ đã thể hiện một cách cảm
động tình đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của
tổ quốc.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung:
Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trong kháng chiến chống Pháp. Ông sáng
tác thơ không nhiều, chỉ chủ yếu viết về người lính và những cuộc chiến tranh, đặc biệt là những tình cảm
cao đẹp giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của tổ quốc.
Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ tiêu biểu của Chính Hữu, ngợi ca tình đồng chí, đồng đội của
những người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp. […]
 […] Đặc biệt 7 câu đầu của bài thơ đã nêu lên cơ sở hình thành tình đồng chí khiến chúng ta cảm nhận
được những vẻ đẹp đáng trân trọng của người lính trong kháng chiến:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá
Anh với tôi hai người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”
 […] Đặc biệt 10 câu tiếp theo của bài thơ đã nói về những biểu hiện chân thành và sức mạnh mà tình đồng
chí, đồng đội mang lại:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày ,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính .
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách nát vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ”
 […] Đặc biệt 3 câu cuối của bài thơ đã nói về biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
2. Khái quát về đoạn thơ:
- Hoàn cảnh sáng tác: “Đồng Chí” được ông sáng tác vào năm 1948, sau thắng lợi vẻ vang của quân ta
trong chiến dịch Việc Bắc (thu đông năm 1947). Bài thơ là kết quả từ những trải nghiệm của tác giả về thực
tế cuộc sống và chiến đấu của bộ đội ta trong những ngày đầu kháng chiến
- Đề tài: Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ đã thể hiện ấn tượng hình ảnh người lính thời kì
đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn giữa các anh.
- Vị trí đoạn thơ:
 Đoạn thơ trên thuộc phần đầu của tác phẩm, đã khắc họa được cơ sở hình thành nên tình đồng chí và
cả những thiếu thốn cơ cực của người lính đã tạo nên một thứ tình cảm đặc biệt giữa những người
lính cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp.
 Đoạn thơ trên thuộc phần giữa của tác phẩm, đã khắc họa thành công những biểu hiện của tình đồng
chí và sức mạnh của nó để những người lính Cụ Hồ hiểu được tâm tư, nỗi niềm của nhau
 Đoạn thơ trên thuộc phần cuối của tác phẩm, đã khắc họa thành công biểu tượng cao đẹp của tình
đồng chí giúp ta hiểu được vẻ đẹp đặc trưng của những người lính Cụ Hồ
3. Phân tích đoạn thơ
 7 câu đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí:
3.1: Đồng chí – cùng chung cảnh ngộ xuất thân:
Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động, dưới ánh mặt trời rạng soi của cách mạng mới
khoác lên mình màu áo quân nhân và ra đi tìm lại độc lập cho dân tộc. Từ cuộc đời thật, họ bước thẳng vào
trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Ngay vào đầu bài thơ “Đồng chí” bằng lối cấu trúc song hành đối xứng, nhà thơ Chính Hữu đã đi sâu vào
xuất thân của những người lính. Với giọng điệu tự nhiên, mộc mạc, đầy thân tình như đang tâm sự cùng
nhau. “Quê anh” và “làng tôi” đều là những vùng đất nghèo, cằn cỗi, xác xơ, là nơi “nước mặn đồng chua”
đại diện cho vùng đồng bằng ven biển, là xứ xở của “đất cày lên sỏi đá” tượng trưng cho vùng đồi núi trung
du. Người miền ngược, kẻ miền xuôi nhưng đều là những người nông dân với cuộc sống vất vả, lam lũ,
thiếu thốn ở chốn quê. Quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” nhưng cái nghèo, cái đói ấy vẫn vây
quanh. Hai câu thơ gợi lên không khí cách mạng của thời đại và cuộc đổi đời vĩ đại của giai cấp nông dân.
Lần đầu tiên trong lịch sử, họ đứng lên làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mình.
3.2: Đồng chí – chung lí tưởng chiến đấu, chung mục đích cao cả
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những con người tưởng chừng như “chẳng hẹn” nhưng thật ra lại có chung lòng yêu nước nồng nàn, chồng
ước mong, ý chí diệt giặc, chung một đơn vị, cũng tưởng chừng như rất “xa lạ” nhưng lại rất thân quen, đến
từ hai miền quê khác nhau nhưng lại cùng sống trên mảnh đất Việt Nam, cùng chảy trong người dòng máu
Việt. Nếu như đất nước được bình yên thì có lẽ “Anh với tôi” sẽ là những người dưng qua đường nhưng vì
chiến tranh xảy ra đã tạo điều kiện cho chúng ta gặp nhau nơi chiến trường, đã từ giã quê hương để chạm
đến khát vọng về một ngày mai tươi sáng. Như thế, những người lính không những tương đồng về hoàn
cảnh, về giai cấp mà còn chung lí tưởng, chung chí hướng, sống hết mình vì tiếng gọi của tổ quốc:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
Câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Nó đã gợi nên tư thế của người lính trong
đêm phục kích. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng” vừa là hình ảnh cụ thể
nhưng cũng là biểu tượng về cuộc chiến đấu về nhiệm vụ của người lính đang phải gánh vác. “Đầu” là biểu
tượng cho lí tưởng, cho nhận thức, cho khát vọng về một đất nước hòa bình. Với nghệ thuật điệp từ, Chính
Hữu đã thành công nhấn mạnh sự gắn bó khăng khít trong nhiệm vụ, trong lí tưởng của những người lính.
Đó là điểm chung lớn nhất để họ găn kết với nhau, trở thành đồng đội, “kề vai sát cánh bên nhau”.
3.3: Đồng chí – cùng chung khó khăn, thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ:
Bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã miêu tả rõ ét tình cảm của những người
lính:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
“Đêm rét chung chăn” là chung cái khắc nghiệt, cái gian khổ của cuộc đời người lính. Hình ảnh ấy cho ta
thấy được những con người biết đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia những ngọt bùi, gian khó, những thiếu
thốn nơi chiến tranh. Cũng sự chia sẻ ấy, Tố Hữu từng viết:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
Tấm chăn tuy mỏng nhưng lại ấm tình đồng chí, đồng đội không thể phai mờ. Nó đã vun đắp lên tình đồng
chí của các anh, cái tình ấy ngày một thắm thiết, sâu đậm để giờ đây trở thành “đôi tri kỉ”. Bạn tri kỉ thật sự
không dễ kiếm, có khi cả đời này không thể tìm được một ai. Vậy mà hai anh lính lại trở thành tri kỉ của
nhau, gắn bó với nhau nhanh chóng như vậy, bất chấp chiến trường nhiều kẻ địch, đường rừng lắm chông
gai. Phải chăng khi đứng giáp ranh giữa sự sống và cái chết của chiến tranh, khi quên cả bản thân ình vì lợi
ích chung, con người ta mới có những tình cảm tự nhiên mà sâu sắc đến thế? Phải chăng khi đất nước hoạn
nạn, đứng trước nguy cơ đánh mất độc lập thì tình bạn, tình tri kỉ mới sớm nay nở nơi hai con người “xa lạ”?
Và, như một phép màu, sự đồng cảnh, đồng cảm, đồng giai cấp và đồng tâm tư đã hóa tình cảm cao quý ấy
thành tiếng gọi thiêng liêng: Đồng chí!
3.4: Câu thơ cuối: Đồng chí!
Câu thơ thứ bảy là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở, như một lời khẳng định cứ ngân vang. Nó
khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí và mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt nhấn
trên bản đàn, buộc người ta phải dừng lại để suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi ra. Những người lính không chỉ
ngừng lại ở tình bạn, tình tri kỉ mà cao hơn là tình đồng chí. Gọi nhau là “đồng chí”, giữa họ dường như
không còn nữa những khác nhau về văn hóa, sự chênh lệch tuổi tác hay những e dè của hai con người đến từ
hai phương trời khác biệt. Các cá thể khác nhau như quyện hòa làm một, trở thành một khối với tình đoàn
kết vững vàng, sát cánh cùng nhau để thực hiện lí tưởng vì hòa bình tổ quốc, vì cuộc sống của nhân loại. Hai
tiếng “đồng chí” đơn sơ mà cảm động đến nao lòng, làm bừng sang ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.
 10 câu tiếp: Những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí:
3.1: Tình đồng chí là sự thấu hiểu, chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau:
Chiến tranh đã gây ra cho tất cả bao nỗi đau thương, mất mát về người, về của và cả niềm tinh. Nhưng cũng
tại những trận địa quyết liệt chỉ có khói bom đạn, máu đỏ tươi thì những bông hoa đẹp nhất về tình yêu quê
nhà, tình đồng chí mới được vươn mình nở rộ. Trải qua bao gian khó nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp
các anh có được sự cảm thông, các anh thấu hiểu được nỗi lòng, tình cảm của nhau. Những lúc ngồi kề cận
bên nhau, họ đã kể về chuyện quê nhà với bao cảm xúc thương nhớ dâng trào, đầy bâng khuâng:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”
Cô đơn giữa núi rừng thăm thẳm, hai anh bộ đội đã tâm sự với nhau về những ngổn ngang trong tâm tư. Cái
chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối với những người nông dân, ruộng
nương, nhà cửa là những thứ quý giá nhất mà họ phải “dãi nắng dầm mưa” mới có được. Họ sống nhờ vào
đồng ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Nhưng họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ
để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, theo tiếng gọi thân thương của
một trái tim yêu nước. Ra chiến trường vì lí tưởng bảo vệ tổ quốc, hai tiếng “mặc kệ” đã nói lên tất cả. “Mặc
kệ” vốn chỉ thái độ thờ ơ, vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu đã nói lên được cái kiên
quyết, dứt khoát mạnh mẽ của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, khi mục đích đã lựa chọn. Đối với anh trai
làng mặc áo lính không có gì quan trọng hơn sinh mệnh của đất nước như Hồ Chủ Tịch đã nói: “Không có gì
quý hơn độc lập tự do”. Các anh quên đi cái quý giá của đời mình để bảo vệ cho cái quý giá của đất nước
gian sơn. Song dù dứt khoát, mạnh mẽ đến mấy thì liệu trong họ có nguôi ngoại được nỗi nhớ về vùng đất
tuy cằn cỗi, bạc màu nhưng đầy ắp điều thân thương? Thật sự sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê
hương với một tình yêu trọn vẹn. Chính thái độ gồng mình lên ấy lại cho ta hiểu rằng những người lính càng
cố gắng kiềm chế tình cảm bao nhiêu thì tình cảm ấy lại càng trở nên bùng cháy bấy nhiêu:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Hình ảnh thơ hoán dụ mang tính nhân hóa này càng tô đậm sự gắn bó yêu thương của người lính đối với quê
nhà, nó giúp người lính diễn tả một cách hồn nhiên và tinh tế tâm hồn mình. Giếng nước gốc đa kia nhớ
người ra lính hay chính tấm lòng người ra lính không nguôi nhớ quê hương và đã tạo cho giếng nước gốc đa
một tâm hồn? Qủa thực giữa người chiến sĩ và quê hương anh dường như có một mối giao cảm vô cùng sâu
sắc đậm đà. Cùng một nỗi nhớ nhưng lại hằn sâu nơi cả hai miền ký ức. Hậu phương ủng hộ tiền tuyến luôn
hướng về tiền tuyến, còn tiền tuyến lại mạnh mẽ hơn trước niềm tin mãnh liệt của hậu phương. Những tâm
tư tình cảm ấy chắc chắn sẽ là hành trang tiếp thêm sức mạnh giúp người lính vượt lên trên tất cả những gian
lao đang tồn tại ở chiến trường ngoài kia.
3.2: Sự đồng cam cộng khổ, chia sẻ những khó khăn thiếu thốn của một đời người lính:
Không chỉ dừng lại ở việc thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và niềm vui
bên chiến hào chiến đấu:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Bằng những hình ảnh tả thực, hình ảnh sóng đôi, tác giả đã tái hiện chân thực những khó khăn thiếu thốn
trong buổi đầu kháng chiến. Trên tất cả là căn bệnh sốt rét rừng – là nỗi ám ảnh của biết bao con người thời
ấy. Vào lúc đó, người bệnh rét run lên, đắp bao nhiêu chăn cũng không đủ nhưng mồ hôi lại vã ra như tắm.
Câu thơ chỉ như một lời kể nhưng lại gieo vào lòng bạn đọc biết bao thương cảm, ta thương các anh vì trong
suốt chặng đường bảo vệ tổ quốc thân yêu, các anh không chỉ bị bệnh tật dày vò mà còn thiếu thốn tất cả:
thiếu lương thực, thiếu vũ khí, quân trang, thuốc men,.. Những trang phục phong phanh giữa mùa đông lạnh
giá. Tất cả những gì gian khổ nhất của đời người được tái hiện bằng những chi tiết hết sức chân thật, không
một chút tô vẽ “áo rách vai, quần có vài mảnh vá, chân không giày..” Đọc những câu thơ này, ta vừa không
khỏi chạnh lòng khi thấu hiểu những gian nan vất vả mà thế hệ cha ông đã từng trải qua, vừa dâng trào một
niềm kính phục ý chí và bản lĩnh vững vàng của những người lính vệ quốc.
Cùng hướng về một lí tưởng, cùng nếm trải sự khắc nghiệt của chiến tranh, người lính chia sẻ cho nhau tình
thương yêu ở mức tột cùng:
Miệng cười buốt giá
Trong tình thế ngặt nghèo nhất, cảnh ngộ tăm tối nhất, thế mà nụ cười vẫn nở trên môi các anh, dù đó là cái
“miệng cười buốt giá”. Đó là cái buốt giá của thời tiết hay cái lạnh lẽo của cuộc sống vốn lắm trêu người,
gieo rắc khó khăn lên đời người lính? Dù là gì đi nữa thì nó vẫn là nụ cười đáng quý nhất, vì được thắp lên
trong gian nan ngặt nghèo, trong tình huống mà tưởng chừng như không thể mỉm cười nổi, tựa như ánh bình
minh chiếu sáng cả một vùng đen tối, như đóa hoa bung nở trong khu vườn băng đóng im lìm. Hai người
đồng chí đã vượt lên tất cả, từ cái rét tê tái của thời tiết, cái lạnh run người của bệnh sốt rét rừng, cái thiếu
thốn về tư trang để đến được cái ngưỡng thăng hoa của tình cảm, của tình đồng chí thiêng liêng, gắn bó, sẻ
chia, hai anh lính chiến nắm tay nhau trong cảnh rừng buốt giá ấy lại chính là biểu tượng đẹp nhất của sự
thương nhau giữa người với người, của tình đồng chí mộc mạc thấm thía:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Với hai chữ “thương nhau” thôi đã khái quát được hết tình yêu thương của những người lính dành cho nhau,
câu thơ đã biểu cảm trực tiếp tình cảm ấy một cách chân thực. Và có lẽ những gian lao, mệt nhọc trong cuộc
sống của người lính những năm tháng kháng chiến dường như bị phá tan bởi cái “nắm tay” thật chặt. Gía
buốt mà chẳng hề lạnh lẽo là khi hai người bộ đội nắm chặt tay nhau truyền cho nhau hơi ấm tình người,
những khát khao vượt lên số phận, những niềm tin chiến thắng hân hoan. Tác giả đã khéo léo sử dụng giọng
thơ trầm lắng, cảm động khi nói về hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” để bộc lộ tình đồng chí caha thành, đậm
sâu, hồn hậu như cây lúa, củ khoai, như tấm lòng của anh trai cày ra trận. Từ cái nắm tay thật chặt ấy đã
truyền cho người lính sức mạnh, động viên nhau quyết tâm chiến đấu vì một ngày mai độc lập.
 3 câu cuối: Biểu tượng của tình đồng chí:
Ba câu thơ cuối trong bài “Đồng chí”, tác giả Chính Hữu đã dựng lên bức tượng đài về người lính và tình
đồng chí. Kết tinh vẻ đẹp của tình đồng chím cũng là biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí, đó là cùng
sát cánh chiến đấu, cùng chung chiến hào:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Nổi bật trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy là những người lính đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới trong cái nơi
mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh cùng nhau chờ giặc
đến, “chờ” đã nói rõ cái tư thế “thành đồng vách sắt” trước quân thù, làm phai đi cái gian khổ, ác liệt của
cuộc chiến đấu. Như vậy, tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách gian lao nhưng họ vẫn bình thản và
lãng mạn bên thềm cuộc chiến đấu, thấy cuộc đời đẹp đẽ và thơ mộng ngay giữa nguy hiểm và gian lao. Hai
câu thơ đối nhau thật chỉnh và gợi cảm giữa khung cảnh lạnh lẽo, buốt giá. Từ đó, tác giả muốn ngợi ca sức
mạnh của tình đồng đội đã giúp người lính vượt qua bao gian khó của đời người. Tình đồng đội đã sưởi ấm
các anh giữa rừng hoang mùa đông và sương muối buốt giá.
Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính trong chính đêm phục kích của
mình. Câu thơ không trực tiếp nói về những người đồng chí mà vẫn thể hiện được tình đồng chí sâu sắc.
Đêm khuya, trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở vào một vị trí và tầm nhìn nào đó, vầng trăng
như treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục kích chờ giặc. Rõ ràng, tình cảm đồng chí ấm áp,
thiêng liêng đã mang đến cho người lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực đầy khắc nghiệt: Đầu
súng trăng treo. Nhịp 2/2 gợi sự sóng đôi và như gợi sự bát ngát, lơ lửng chứ không cợt chặt vừa thực vừa
gợi lên nhiều liên tưởng phong phú. Súng và trăng cũng là một cặp đồng chí, tô đậm vẻ đẹp của cặp đồng
chí kia. Tình đồng chí khiến người lính vẫn tươi vui, bình thản bên thềm cuộc chiến đấu, khiến họ thấy cuộc
đời vẫn đẹp đẽ, thơ mộng ngay giữa nguy hiểm và gian lao, khiến họ có sức mạnh trong tư thế, có sự đằm
thắm trong tâm hồn tình cảm. Hình ảnh thơ ở đây có nhiều sức khái quát, gợi nhiều liên tưởng: súng là hình
ảnh của chiến tranh, khói lửa; trăng là hình ảnh của thiên nhiên trong mát, cuộc sống thanh bình. Sự hòa hợp
giữa súng và trăng vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính và tình đồng chí của họ vừa nói lên ý nghĩa cao
đẹp của cuộc chiến đấu. Người lính cầm súng là để bảo vệ độc lập, tự do, hòa bình, hạnh phúc. Súng và
trăng, thực và mộng, cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ… Đó là các mặt bổ sung cho nhau của cuộc đời
ngườ lính cách mạng. Câu thơ như nhãn tự của cả bài, vừa mang tính hiện thực, vừa mang sắc thái lãng mạn,
là một biểu tượng đẹp của tình đồng chí thân thiết. Từ đó thấy được tâm hồn các anh, những người chiến sĩ
cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn hướng về một ngày mai tươi sáng.
4. Đánh giá:
Với giọng điệu tâm tình thiết tha, lời thơ giản dị, nồng ấm, đoạn thơ đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của
tình đồng chí. Đồng thời tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở
thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau. Tất cả đã làm cho giọng thơ như xao xuyển hơn,
lời thơ như lưu luyến hơn và bản hòa can bất tận của tình người trở nên sâu sắc, lắng động hơn.
III. Kết bài:
Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của những hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhịp điệu câu thơ, bài đã
đã khắc họa, tôn vinh vẻ đẹp cao quý của tình đồng chí đồng đội bền chặt keo sơn, hòa nhập với cảm hứng
lãng mạn cách mạng của văn học thời chống Pháp. Dù lịch sử đã sang trang mới nhưng có lẽ hình ảnh những
người nông dân mặc áo lính vẫn sống mãi trong lòng thế hệ mai sau. Vẻ đẹp của các anh, tinh thần của các
anh sẽ chẳng thể bị bụi thời gian cuốn đi mất:
“Nếu được làm hạt giống để mùa sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối, tim ta làm ngọn lửa”
(Tổ Hữu)
Đề 2: Phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt.
I.Mở bài:
Lép Tôn-xtoi đã từng nói rằng: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Tình yêu con người, yêu
cuộc sống chính là hạt mầm khỏe khoắn nuôi dưỡng tầm hồn mỗi người. Đó cũng là nguồn cảm hứng sáng
tác cho biết bao văn nghệ sĩ. Hòa vào mạch cảm xúc ấy, “Bếp lửa” như một trạm dừng chân ký ức của Bằng
Việt, bếp lửa giản dị mà thiêng liêng. Bếp lửa vẫn cháy hoài qua năm tháng bởi lẽ ngọn lửa rạo rực tình bà
cháu của thi nhân thiêng liêng đến khó tả, thiêng liêng đến nằm ngoài quy luật băng hoại của thời gian.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung:
Bằng Việt là nhà thơ cùng lứa với các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ như Nguyễn Duy,
Nguyễn Khoa Điềm,.. “Vào những năm đầu của thập kỉ 60, Bằng Việt xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như
một ánh đèn nê-ông kỳ ảo, tỏa sáng trí tuệ, sự mát mẻ của tuổi xuân và cái dịu dàng của hồn thơ anh” (Phạm
Hải). Bằng Việt xếp chữ nên thơ như nỗi trải lòng mềm mại, chính vì vậy mà giáo sư Lê Đình Kỵ nhận thấy
trong anh “cái tâm hồn nhiều suy nghĩ và rung động tinh tế”.
Cũng như bao người con xa nhà, Bằng Việt đem theo tình yêu bà và quê hương da diết tới nơi đất khách quê
người. Bài thơ “Bếp lửa” được ra đời trong nỗi yêu nhớ dâng trào trong lòng của tác giả và được in trong tập
“Hương Cây – Bếp Lửa” vào năm 1968. Bài thơ là dòng hồi tưởng của người cháu về bà qua những kỉ niệm
thơ ấu. Khơi nguồn cho dòng cảm xúc ấy chính là hình ảnh bếp lửa thân quen, rồi đến những kỉ niệm về tình
bà cháu, những siu ngẫm của cháu về bà và tình cảm của bà, cuối cùng khép lại bằng việc bộc lộ tình cảm
của cháu đối với bà khi đã đi xa.
Đề bài: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải
I.Mở bài:
Thơ ca từ lâu đã được xem là một món quà quý báu dành cho đời sống tinh thần của mỗi người. Dù dưới
hình thức nào thì nó vẫn là một tấm gương phản ánh một thế giới khách quan. Tác phẩm nghệ thuật, văn học
chân chính là nơi để tác giả gửi gắm tâm tư, khát vọng sâu xa của mình. Và nhà thơ người Pháp Andre
Chenien đã nhấn mạnh rằng: “Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ”. Nghệ
thuật trong thơ ca chính là sự sáng tạo, nó bắt nguồn từ chất liệu trong cuộc sống cũng như cảm xúc của nhà
thơ. Điều đó ta nhận thấy rõ qua tác phẩm “Mùa Xuân nho nhỏ” của Thanh Hải
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung:
Thanh Hải – một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, ông là người tài hoa, giàu sức sống
nghệ thuật và lắng nghe được nhiều thanh âm của cuộc sống. Dùng ngòi bút của mình, ông đã góp phần xây
dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. Thanh Hải sáng tác không nhiều nhưng đã để
lại ấn tượng đẹp bởi những bài thơ xúc động gợi nhiều suy nghĩ sâu xa trong tâm hồn người đọc bao thế hệ.
“Mùa xuân nho nhỏ” là một trong những bài thơ như thế. <Vị trí của đoạn thơ> đã để lại ấn tượng sâu sắc
cho người đọc về <Nội dung đoạn thơ><Trích dẫn thơ>
2. Khái quát về bài thơ/ đoạn thơ:
Hoàn cảnh sáng tác:
Bài thơ được ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt (11/1980), khi Thanh Hải đang giành giật với tử thần từng
phút sống và chỉ ít lâu sau tháng 12/1980 thì nhà thơ đã ra đi mãi mãi. Ở giữa mùa đông giá rét của xứ Huế,
đối mặt với biên giới giữa sự sống và cái chết nhưng cũng không làm trái tim nhà thơ nguội lạnh. Với nhà
thơ giữa giây phút giao thoa của đất trời đón mùa xuân và trong thời khắc giữa sự sống và cái chết cận kề,
tiếng thơ của ông vang lên như lời tự bạch chân thành với những tâm niệm đầy tính nhân văn về lẽ sống và
đời thơ. Thanh Hải cũng đã vĩnh viễn ra đi nhưng cuối cùng thì ông cũng kịp hiến dâng cho đời “Một mùa
xuân nho nhỏ”
Đề tài:
Mùa xuân là mùa khởi đầu cho một năm mới, là mùa muôn hoa đua nở đem đến hương sắc, vị ngọt của sức
sống, tình yêu, hạnh phúc. Trước vẻ đẹp diệu kỳ của mùa xuân, mỗi một thi phẩm về mùa xuân đều có ít
nhiều những nét đặc sắc riêng. Thanh Hải với “Mùa xuân nho nhỏ” cũng đã góp thêm với lời giản dị, tứ thơ
sâu lắng nhưng ôm trọn tâm hồn đôn hậu, bình dị, thiết tha yêu cuộc sống của ông.
Mạch cảm xúc:
Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ cảm nhận mùa xuân của thiên nhiên đất trời đến vẻ đẹp của mùa xuân đất
nước, cách mạng và đến cuối cùng là ước nguyện hiến dâng cuộc đời tươi đẹp của mình cho đất nước của
nhà thơ
Vị trí: <Vị trí của đoạn thơ> của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” thể hiện cảm xúc của Thanh Hải trước <Nội
dung đoạn thơ>
3. Phân tích đoạn thơ:
3.1: Khổ thơ đầu: Mùa xuân thiên nhiên, đất trời:
Vũ điệu của mùa xuân đã rót vào tâm hồn Thanh Hải niềm cảm xúc dâng trào. Mở đầu bài thơ, tác giả đã
dẫn lối chúng ta đến với bức tranh thiên nhiên mùa xuân mang sắc màu và âm thanh quen thuộc của đồng
quê. Thật đơn sơ, lặng lẽ, ấy vẫn mà hình ảnh mùa xuân vẫn hiện về:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Giản dị mà đầm ấm xiết bao! Thanh Hải đã khéo chọn cho mình một bức tranh xuân với gam màu ấm áp mà
dịu dàng, trang nhã. Một màu xanh của dòng sông xứ Huế mênh mông, êm đềm, một màu tím biếc của bông
hoa nhỏ bé. Một màu tím dịu nhẹ tựa như những tà áo dài của nàng thơ xứ Huế. Cả hai sắc màu này đều rất
hài hòa như đang vẩy gọi mùa xuân. Qua đó, chỉ vài nét chấm phá, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh xuân thơ
mộng, tươi tắn. Nghệ thuật đảo ngữ đưa động từ “mọc” lên đầu càng tô đậm hình ảnh một bông hoa bé nhỏ
mà tràn đầy sức sống mãnh liệt, cố vươn lên trong điều kiện có phần khắc nghiệt để hòa cùng vạn vật giữa
vũ trụ bao la vô tận. Chỉ một bông hoa thôi đã cho ta thấy được cái lớn lao trong bức tranh thiên nhiên ấy
chẳng hề lấn át cái bé nhỏ. Hình ảnh thơ thật nhẹ nhàng, thanh thoát, màu hoa tím biếc nhè nhẹ xuôi dòng
sông xanh thẳm thật lãng mạn, quyến rũ đến lạ thường! Một màu tím thủy chung đặc trưng cho con người
xứ Huế mộng mơ, trầm tư, cổ kính.
Trong không gian tĩnh lặng của mùa xuân lại có những thanh âm ngân vang đầy trìu mến, chất chứa niềm
vui rộn rã
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Mùa xuân đâu chỉ hài hòa với những gam màu, mà bức tranh xuân ấy bỗng nhộn nhịp hẳn lên với tiếng chim
hót vang trời đón chào ngày mới. Không gian tươi vui ấy làm xao động đến tâm hồn nhạy cảm của thi nhân.
Từ “ơi” ở đầu câu như là một lời thốt lên ngạc nhiên thích thú, như một nốt nhạc ngân vang trong bản
trường ca mùa xuân vô tận. Tiếng chim hót thánh thót như đã rót vào tâm hồn nhà thơ một niềm trìu cảm.
Tâm hồn nhà thơ đang tràn ngập niềm vui để ngôn từ “hót chi mà” được thốt lên như một lời trách than đầy
thân thương. Tiếng chim chiền chiện hát vang lừng trong trẻo cao vút như nốt thăng rộn rã của sắc xuân. Đi
theo dòng cảm xúc cứ thế tuôn trào trước mùa xuân, người con của xứ Huế ấy còn cảm nhận được hơi thở
nồng ấm của mùa xuân, hương vị ngọt ngào và cả sắc xuân tình xuân chan chứa:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Ông đưa tay hứng từng giọt gì đang long lanh rơi? Liệu có phải giọt sương hay giọt nắng? Hay là những giọt
âm thanh của tiếng chim? Thực chất là những giọt mùa xuân, giọt hạnh phúc của tình đời như đượm thắm cả
đất trời, hòa quyện vào tâm hồn thi sĩ. Sự chuyển đổi cảm giác này thể hiện sự say sưa, ngây ngất, nâng niu
của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời. Thanh Hải xòe bàn tay mình để cảm nhận hương vị ngọt
ngào của mùa xuân bằng một thái độ trân trọng, nâng niu bằng cả trái tim mình. Qua đó, tác giả cũng cụ thể
hóa từng giọt mùa xuân như chan hòa vào lòng đất mẹ để muôn hoa khoe sắc thắm, để sức sống dâng trào,
để tâm hồn con người tràn ngập niềm vui và hạnh phúc. Niềm vui đó, niềm hạnh phúc đó hoàn toàn khác với
tâm trạng buồn chán trước cảnh xuân đất nước đang đắm chìm trong đêm trường nô lệ:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Đêm chi xuân đến gợi thêm sầu
Với tôi, tất cả đều vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
(Xuân – Chế Lan Viên)
3.2: Khổ thơ hai và ba: Mùa xuân của đất nước, cách mạng
Mùa xuân thiên nhiên dần cũng là nguyên cớ tạo nên mùa xuân của đất nước, của cách mạng:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Hình ảnh dân tộc Việt Nam đã kết tụ lại ở hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”. Tự hỏi rằng tại
sao nhà thơ Thanh Hải lại chọn các chi tiết đó thay vì các hình ảnh khác? Bởi lẽ đây là lực lượng quan trọng
với hai nhiệm vụ chiến lược: chiến đấu và sản xuất. Mùa xuân của đất nước hòa cùng niềm vui trong chiến
đấu và niềm vui trong lao động sản xuất. Hình ảnh lộc non là biểu tượng cho sức sống mới vươn lên. Lộc
của lính là cành lá ngụy trang. Những cành lá ngụy trang ấy bỗng dưng biến thành lộc đầu mùa mang theo
từng bước chân của người lính. Lộc mà các chiến sĩ mang đến cho ta là xương máu mà các anh đổ xuống, là
công sức bảo vệ mùa xuân thanh bình của dân tộc, gieo niềm hạnh phúc đến mọi nhà. Người lính biểu trưng
cho những con người bảo vệ tổ quốc và người nông dân là những con người tiêu biểu trong công cuộc xây
dựng đất nước. Bằng hình ảnh sóng đôi hài hòa, âm hưởng câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối. “Lộc trải dài
nương mạ” là hình ảnh của sự lao động cần cù đã làm nên một màu xanh bát ngát ruộng đồng. Người nông
dân đã góp phần tô điểm cho mùa xuân đất nước thêm xanh tươi, tốt đẹp. Qua đó, ta thấy được hậu phương
và tiền tuyến luôn song hành. Người cầm súng và người ra đồng đều là các hình ảnh rất tiêu biểu cho những
con người đã đóng góp, cống hiến cả thân mình để làm nên mùa xuân Tổ quốc. Cả dân tộc ta đang bước vào
mùa xuân với tâm thế khẩn trương và hào hứng:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Hối hả, xôn xao là những từ láy diễn tả sự gấp gáp, khẩn trương, náo nhiệt. Cặp từ láy ấy cùng với điệp ngữ
“tất cả” như làm cho câu thơ vang lên với nhịp điệu vui tươi, mạnh mẽ. Đó là hình ảnh đất nước và dân tộc
đang bước vào mùa xuân của thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh. Trong mùa xuân tươi đẹp ấy, bất giác
Thanh Hải chạnh lòng nghĩ đến quê hương đất nước trong quá khứ, âm hưởng câu thơ bỗng trầm buồn, sâu
lắng:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Dường như cách nói của Thanh Hải tuy giản dị nhưng vẫn chạm được vào phần thiêng liêng trong sâu thẳm
tâm hồn con người – tình yêu Tổ quốc. “Vất vả”, “gian lao” là các tính từ mà tác giả đã sử dụng để đúc kết
ngắn gọn chặng đường 4000 năm trong lịch sử với bao khăn khó, thăng trầm và thử thách. Trải dài suốt
chiều dài lịch sử Việt, tổ quốc ta đã trải qua biết bao biến động, thăng trầm. Ngay từ buổi đầu dựng nước,
nước ta đã đứng trước nguy cơ xâm lược kẻ thù. Câu chuyện mang máu sắc huyền sử về Thánh Gióng – cậu
bé ba tuổi làng Phù Đổng, cất tiếng nói đầu tiên là tiếng nói yêu nước. Một ngàn năm nô lệ cho phong kiến
phương Bắc đầy đau thương, tủi nhục, những hình ảnh người phụ nữ kiên trinh “chỉ muốn cưỡi cơn gió
mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ
không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người.” Năm 938, với chiến thắng oanh liệt của Ngô Quyền trên
sông Bạch Đằng đã mở ra một kỉ nguyên mới của độc lập tự chủ. Những vần thơ bỗng trầm lắng suy tư như
gợi nhớ về một thời kỳ đau thương mà anh dũng. Trong thời kỳ ấy sản sinh ra những người con trưởng thành
từ đất mẹ đầy gian nan, vất vả nhưng luôn giành chiến thắng:
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên
(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)
Cũng bởi thế mà tác giả đã so sánh “đất nước” ta như “vì sao”, bởi tác giả muốn gợi nhắc rằng nhân dân ta
từ trong bóng tối của ách nô lệ, đô hộ từ thực dân và đế quốc đã mạnh mẽ, kiên cường đứng lên thế nào, đã
phá tan xiềng xích, thoát khỏi phong kiến thực dân ra sao để tự mình tỏa sáng như những vì sao lấp lánh từ
vũ trụ, tồn tại vĩnh hằng cùng thời gian. Một thời biến động, thử thách rồi cũng qua, con người Việt Nam
vẫn kiên cường, anh dũng, hiên ngang vượt qua những thách thức đầy cam go như thế. Từ “cứ” như một lời
khẳng khái hùng hồn, một niềm tin bất diệt của thi sĩ về tương lai đất nước đẹp lung linh. Hành trình đi tới
tương lai của đất nước vẫn không ngừng, “cứ đi lên” là sự thể hiện chí khí, quyết tâm của dân tộc Việt. Ta
thấy được rằng tác giả đã gói trọn niềm yêu mến tự hào, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước,
nhân dân.
3.3: Khổ thơ bốn và năm: Tâm nguyện của tác giả trước mùa xuân thiên nhiên:
Sau những dòng thơ dâng tràn tình yêu thiên nhiên, lòng tự hào, lạc quan, tin yêu đối với đất nước, dân tộc,
Thanh Hải đã chuyển sang giọng thơ giàu sức suy tưởng mà làm say đắm lòng người. Nếu ở những khổ thơ
đầu tiên, tác giả chỉ vẽ mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân đất nước, con người thì qua khổ thơ sau đây, tác
giả đã thể hiện khát khao được hòa nhập vào cuộc đời chung của dân tộc. Ngay cả những giây phút đang lâm
bệnh nặng, ông vẫn hoài niệm về cuộc đời, một cuộc đời được gắn trọn với quê hương, đất nước. Theo liền
mạch cảm xúc đang trào dâng, ông đã bộc bạch những tâm niệm cũng như khát vọng và lí tưởng sống cao
đẹp của mình:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Cái giai điệu cứ nhè nhẹ, du dương, êm ái, ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp, những luyến láy, điệp
ngữ “ta làm.., ta làm.., ta nhập..” cứ xôn xao, réo rắt mãi trong lòng người đọc, chừng như ta được bay bổng
theo ước mơ của tác giả. Nếu như ở khổ thơ đầu, tác giả xưng “tôi” hết sức khiêm nhường thì đến khổ thứ
tư, tác giả lại chuyển sang xưng “ta” một cách thật tự hào, giọng thơ vẫn như thế và dường như muốn nói
thay cho nhiều cái “tôi” khác. Đó chính là sự cộng hưởng, sự sẻ chia, đóng góp những gì tinh túy nhất của
mỗi cái “tôi” lại. Các hình ảnh “con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm xao xuyến” mang ý nghĩa
biểu lộ một lẽ sống, niềm tâm niệm của Thanh Hải đối với Tổ quốc, nhân dân. Nhà phê bình văn học Hoài
Thanh – Hoài Chân đã từng nhận xét “Mỗi bài thơ hay là một cánh cửa mở cho tôi đi vào tâm hồn” (Thi
nhân Việt Nam). Vâng! Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã mở cửa cho tất cả chúng ta cảm nhận
một trái tim khiêm tốn, bình dị, đôn hậu, chân thành của nhà thơ. Không ước mơ cao xa, Thanh Hải chỉ nhỏ
nhẹ xin làm một tiếng chim góp tiếng ca tươi vui vào giai điệu rộn rã của mùa xuân, một cánh hoa nhỏ bé
giữa rừng hoa muôn ngàn sắc thắm. Thanh Hải đã khéo mượn vẻ đẹp thanh khiết của thiên nhiên để thể hiện
niềm mong ước thiết tha được sống có ích. Dẫu chỉ là một chú chim trong muôn loài, dẫu chỉ là một cành
hoa trên cánh đồng bát ngát hay chỉ là một nốt trầm trong cả bản đàn bất tận kia, nhà thơ vẫn nguyện được
hóa thân vào, để góp phần tô lên những gam màu sặc sỡ cho bức tranh xuân này. Khát vọng sống là trọn đời
hiến dâng của Thanh Hải cũng gặp được nét đồng điệu trong tâm hồn các nhà thơ khác:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình
(Một khúc ca xuân - Tố Hữu)
Nhà thơ cũng có ước mơ nguyện sống là phải cho, phải cống hiến. Đó là quan niệm sống đẹp đúng đắn. Say
trong vũ khúc mùa xuân, khúc nhạc lòng Thanh Hải cứ ngân lên như cây đàn muôn điệu. Đọc khổ thơ ta
mới cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và khát vọng cháy bỏng cống hiến cho đời. Trong bản
hòa ca trầm bổng của mùa xuân, Thanh Hải chỉ mong được làm một và chỉ một “nốt trầm xao xuyến”. Một
nốt trầm lặng lẽ, đơn sơ, nhỏ nhẹ nhưng lại không thể thiếu trong bản giao hưởng mùa xuân. Cái âm thanh
trầm lắng của nốt trầm trong bản hòa ca càng làm tăng thêm sức gợi cảm trong giai điệu gọi mùa “Em ơi!
Mùa xuân đến rồi đó!”. Cảm hứng ấy càng thêm mãnh liệt khi ta ngâm khẽ những vần thơ “Mùa xuân nho
nhỏ” của Thanh Hải. Âm hưởng nốt trầm ấy cứ mãi du dương để lại dư âm ngọt ngào trong lòng người sau
những nốt thăng cao vút, rộn rã của cuộc đời.
Tất cả khát vọng như lắng lại trong tâm hồn nhà thơ như một niềm cảm xúc:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Mùa xuân là khái niệm trừu tượng chỉ thời gian. Thanh Hải đã cụ thể hình ảnh “nho nhỏ” thể hiện một tâm
hồn bình dị, lặng lẽ cống hiến. Cái “nho nhỏ” mà tác giả nói đến đã cho thấy nhận thức của tác giả về vai trò
của bản thân mình trong cộng đồng. Khi càng biết nhiều, càng mở rộng tầm hiểu biết thì tác giả lại càng cảm
thấy bản thân mình nhỏ bé. Với tình yêu quê hương, đất nước nồng nàn, mong muốn của tác giả chỉ đơn
thuần là góp “một mùa xuân nho nhỏ” của bản thân vào mùa xuân lớn của cả dân tộc. Lặng lẽ thôi mà sao
đẹp biết bao, dạt dào như sóng triều dâng. Mùa xuân của tác giả không có sự ồn ào, khoa trương, nhộp nhịp
mà chỉ âm thầm hiến dâng. Mong muốn dâng hiến mùa xuân cho đời được thực hiện một cách tự nguyện mà
không đòi hỏi bất kì sự đền đáp nào. Trong lời tự tình của Thanh Hải lại làm chúng ta liên tưởng đến những
người chiến sĩ của Lê Anh Xuân:
Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân
(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Lật tiếp những dòng thơ của Thanh Hải, ta lại liên tưởng đến những chiến sĩ, những cô gái thanh niên xung
phong đã miệt mài, âm thầm cống hiến cả thanh xuân phơi phới tươi đẹp cho tổ quốc:
Em đã lấy tình yêu tổ quốc thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom
(Lâm Thị Mỹ Dạ)
Thanh Hải ngay trên giường bệnh trong điều kiện hết sức khắc nghiệt vẫn khẳng định khát vọng cống hiến
trọn cả cuộc đời cho tổ quốc:
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Điệp ngữ “dù là” cùng phép hoán dụ “tuổi hai mươi”, “khi tóc bạc” như một lời hứa, lời nhắc nhở với bản
thân về sự tồn tại bền vững của những khát vọng sống, lí tưởng, sống là cống hiến và hi sinh. Tuổi hai mươi
là tuổi trẻ, hội tụ tài năng, sức lực, là tuổi của sự nhiệt huyết, hừng hực sức lửa để cống hiến. Vì vậy mà tuổi
trẻ xông pha trên mọi mặt trận, từ thiên tai lũ lụt, đến chống dịch bệnh, chống cả giặc ngoại xâm. “Đâu cần
thanh niên có, nơi nào khó có thanh niên”. Khi tóc bạc, chính là khi bóng xế về chiều, đầu bạc răng long, họ
vẫn không ngừng âm thầm mà đóng góp đến cả hơi thở cuối cùng. Để rồi sau này khi nhìn lại quãng đường
ta đã đi sẽ thật tự hào mà không bao giờ phải ngoảnh đầu lại mà hối tiếc, thất vọng về chính mình. Thử hỏi
làm sao ta không khỏi xúc động khi những vần thơ ấy vang lên như lời tổng kết cho cuộc đời của Thanh Hải.
Thật vậy, chính hình ảnh cao cả đó, ta đã bắt gặp ngay ở Thanh Hải, ngay cả khi đang chống chọi với bệnh
tật, Thanh Hải vẫn xin làm một mùa xuân nho nhỏ trong hàng triệu mùa xuân nho nhỏ khác để được suốt đời
góp phần cho “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” (Lê Anh Xuân). Hay nhân vật ông họa sĩ trong tác phẩm
“Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, sự cống hiến hết sức lực, mặc cho tuổi già sức yếu, khi đã về hưu,
ông họa sĩ vẫn luôn đi tìm nguồn cảm hứng sáng tác cho một tác phẩm để đời, vẫn muốn cống hiến dù tóc đã
ngã sang màu bạc.
3.4: Khổ thơ cuối: Lời ca ngợi mà tác giả dành cho quê hương, cội nguồn của mình:
Kết thúc bài thơ, tác giả đã khép lại vẻ đẹp mùa xuân trong giai điệu ngọt ngào, êm dịu của làn điệu dân ca
trữ tình xứ Huế:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế
Vẫn trái tim dào dạt yêu quê hương, Thanh Hải chọn khúc hát giữa mùa xuân. Giai điệu êm ái Nam ai, Nam
bình, thiết tha hiền hòa như con người Việt Nam. Dù ở trên mảnh đất “nước non nghìn dặm” hay ở bất đâu
cũng đẹp, cũng gắn liền với tình cảm con người:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”
(Chế Lan Viên)
Thanh Hải với niềm tin yêu trìu mến quê hương, nhà thơ hết sức khéo léo khi chọn dòng sông, sắc màu, âm
thanh, điệu hát đều gắn chặt với quê hương và dường như nhà thơ muốn ôm trọn tất cả hình ảnh ấy trước khi
về cõi vĩnh hằng. Bằng điệp ngữ “nước non ngàn dặm” kết hợp gieo vần bằng “bình, mình, tình” đã tạo âm
hưởng bài thơ nhẹ nhàng như câu hò xứ Huế cứ ngân dài mãi ra rồi lắng đọng lại trong lòng chúng ta những
cảm xúc chân thành, ru hồn người đọc trên con đò xứ Huế êm ả trôi nhẹ trên sông Hương rồi khép lại trong
âm hưởng rộn ràng, xao động của “nhịp phách tiền” đầy xao xuyến. Kết thúc bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là
tình yêu đời, yêu cuộc sống trỗi dậy thật mãnh liệt. Tình cảm ấy đã trở thành khúc hát tâm tình đầy cảm
động, cao quý và đáng trân trọng như chính cuộc đời của tác giả.
4. Đánh giá chung:
Bài thơ sử dụng thể thơ năm chữ giàu nhạc điệu, mang âm hưởng gần gũi với dân ca, lời thơ bình dị, tình
cảm chân thành, các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ được vận dụng sắc sảo, tài tình. Bài thơ có
câu từ chặt chẽ, giọng điệu thơ luôn có sự biến đổi phù hợp với nội dụng từng đoạn. Tình yêu mùa xuân gắn
liền với tình yêu quê hương, đất nước được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Những lời tâm
sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất.
Và “Mùa xuân nho nhỏ” cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời ông. Ông đã giải bày, tâm tình những
điều sâu kín nhất trong lòng, và cũng chính lúc đó Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung nhịp đập với
thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau.
III. Kết bài:
Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng mãi như khơi gợi trong lòng chúng ta về một tình
cảm cao đẹp của con người. Chính tình yêu thiên nhiên, khát vọng dâng hiến của Thanh Hải làm xao xuyến
rung động biết bao trái tim người đọc. Bài thơ cứ nhẹ nhàng, thấm thía tự nhiên đi vào lòng người như một
bài học sâu sắc về lẽ sống đẹp, cách ứng xử đầy nhân văn, tấm gương cao thượng trong sáng của Thanh Hải
làm ta trân trọng, khâm phục và tự ngẫm phải sống sao cho xứng đáng với Tổ quốc, nhân dân
Đề bài: Phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
I.Mở bài:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.”
Nỗi mong chờ, ao ước của đồng bào được Bác vào thăm đã không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại
bao niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ. Viễn Phương- nhà thơ trẻ miền Nam khi ra thăm lăng
Bác đã thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già của dân tộc.
Với sự xúc động ,bồi hồi, nghẹn ngào, nhà thơ đã viết bài thơ “Viếng lăng Bác”.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung:
Viễn Phương là một trong những cây bút xuất hiện sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam
thời kì chống Mĩ cứu nước. Nhắc đến nhà thơ Viễn Phương là nhắc đến một thi sĩ với hồn thơ nhẹ nhàng,
man mác, giản dị. Thơ ông lay động lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, hình ảnh thơ
mộc mạc mà sâu sắc. Bởi “Viễn Phương là một con người rất đa mang, rất nặng lòng với quá khứ, với cách
mạng, quá khứ đấu tranh của dân tộc lẫn vào sâu sắc với thơ anh, với hồn anh, với đời anh” (Nhà văn, nhà
báo Mai Văn Tạo). Nhà thơ để lại nhiều thi phẩm hay, nhưng chắc chắn phải nhắc đến tác phẩm “Viếng lăng
Bác”. Bài thơ đã thể hiện tình cảm, lòng kính yêu vô hạn của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác Hồ - vị cha
già kính yêu của dân tộc. Đặc biệt <Vị trí của đoạn thơ> thể hiện cảm xúc của tác giả về <Nội dung đoạn
thơ> <Trích dẫn thơ>
2. Khái quát về bài thơ/đoạn thơ:
Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết vào tháng 4/1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc
thắng lợi, đất nước được thống nhất, công trình lăng chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng
đúng lúc nguyện vọng thiết tha của nhân dân ba miền là được đến viếng lăng Bác. Viễn Phương là người con
của đất Nam Bộ, trong suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường, mong mỏi được ra thăm
Bác nơi miền Bắc xa xôi. Bằng tất cả tình cảm chân thành của mình đối với Bác Hồ, nhà thơ đã sáng tác thi
phẩm này. Đồng thời, bài thơ cũng được in trong tập “Như mây mùa xuân” (1978)
Cảm hứng chủ đạo: Như ta đã biết, lúc sinh thời, đất nước chưa được giải phóng, Bác Hồ luôn nghĩ đến
miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền Nam đang chịu nhiều đau thương mất mác. Nhưng tiếc thay, khi đất
nước giải phóng, Bắc Nam sum họp một nhà thì Bác đã không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi xót xa của
đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền Nam dồn nén trong bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn Phương nói hộ
trong bài thơ “Viếng lăng Bác”. Cảm xúc bao trùm bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng
biết ơn và tự hào, xen lẫn nỗi xót đau của tác giả. Mạch cảm xúc của bài thơ đi theo trình tự không gian và
thời gian. Đó là cảm xúc khi đứng trước lăng, cảm xúc khi vào trong lăng và cuối cùng là cảm xúc trong
giây phút chia xa Bác của nhà thơ.
Vị trí: Đây là <Vị trí của đoạn thơ> “Viếng lăng Bác” thể hiện <Nội dung của đoạn thơ>
3. Phân tích cảm nhận đoạn thơ:
3.1: Khổ thơ đầu:
Bác đã không còn, không thể nhìn tận mắt cái ngày mà Bác đã mong ước, đã dõi theo hơn nửa cuộc đời
mình. Ai cũng có thể cảm nhận được trên khoảng trời không bao la kia có ánh mắt hiền từ, vui sướng của vị
cha già dân tộc, Bác đang cười.. một nụ cười mãn nguyện giữa bầu trời rợp đỏ sao vàng. Trong dòng người
đến viếng lăng Bác, Viễn Phương đã bộc bạch:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Câu thơ mở đầu thay cho một lời chào, một lời giới thiệu về hành trình của những đứa con từ miền Nam ra
Hà Nội thăm vị lãnh tụ kính yêu. Nó như một thông báo ngắn gọn, một lời kể chuyện mà chứa chan trong đó
là bao xúc cảm của nhà thơ. Cách xưng hô “con – Bác” của người Nam Bộ gợi đến những tình cảm rất thân
thương và gần gũi. Nó cho thấy mối quan hệ giữa Bác và những đứa con tựa như tình cha con ruột thịt.
Dường như nó đã xóa tan đi mọi khoảng cách giữa một vị lãnh tụ vĩ đại và một công dân. Bởi trong thâm
tâm mọi người, Bác là người cha kính yêu:
Người là Cha, là Bác, là Anh
Qủa tim lớn lọc trăm dòng máu đỏ
(Sáng tháng năm - Tố Hữu)
Trong những dòng thơ đầu tiên cất lên của Viễn Phương, cụm từ “ở miền Nam” như một thông báo cho Bác
biết rằng người con này đến từ một nơi rất xa xôi – miền Nam – mảnh đất anh hùng suốt mấy chục năm trời
chiến đất gian khổ chỉ mong có ngày giành được độc lập, mảnh đất mà Bác vẫn luôn đau đáu một nỗi nhớ
một niềm mong. Sau bao nỗi mong nhớ, đợi chờ, nay con mới được ra miền Bắc, con đã về đây thăm Bác
nhưng Bác đã không còn nữa. Tác giả đã sử dụng từ “thăm”, một cách nói giảm nói tránh đầy tinh tế, tác giả
cố giấu đi, nén lại trong lòng cảm xúc đau thương mất mác không thể nào bù đắp được của cả dân tộc và
cũng như tự nhủ với lòng rằng: Bác còn sống mãi với non sông đất nước, còn sống mãi “như trời đất của ta”,
trong “từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa” (Tố Hữu). Ngoài ra, Viễn Phương cũng muốn nhấn mạnh rằng chuyến
đi này của mình như một chuyến thăm từ miền Nam. Chuyến thăm từ miền đất đau thương, quật cường
trong bao năm gian khó kháng chiến chống Mĩ.
Tiếp đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên tác giả bắt gặp sau làn sương sớm mai là hàng tre xanh bát ngát, thấp
thoáng bóng dáng quen thuộc của làng quê:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Chẳng phải tự nhiên mà Viễn Phương nhắc tới những hàng tre, ta đều biết cây tre là hình ảnh thân quen gắn
bó với mỗi người dân Việt Nam. Đi đâu ta cũng có thể bắt gặp những lũy tre bao bọc làng xóm, quê hương.
Nhà văn Thép Mới trong “Cây tre Việt Nam” cũng có cảm nhận như thế: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái
nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre anh hùng lao động. Tre anh hùng chiến
đấu.” Từ những chuyện cổ tích xa xôi đến những bài thơ, bài văn, tre vẫn luôn hiện hữu. Trước lăng Bác,
trong lòng Viễn Phương, tre như dài rộng mênh mông. Tre vẫn uy nghi, vẫn màu xanh của Việt Nam. Hàng
tre ấy đã gợi cho nhà thơ lấy lại cuộc sống thầm lặng đã từng sát cánh cùng dân tộc chống lại kẻ thù chung.
Tre đã kiên cường chiến đấu bất khuất hiên ngang, là biểu tượng của dân tộc Việt Nam:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã thẳng như chông lạ thường
(Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)
Bao năm cùng người xông pha trận mạc, tre vẫn giữ thế uy nghiêm: “Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”.
Thành ngữ “bão táp mưa sa” kết hợp với hình ảnh “đứng thẳng hàng” đã gợi lên tinh thần đoàn kết dân tộc,
là vẻ đẹp cứng cỏi, kiên cường, bền bỉ, hiên ngang, bất khuất của con người Việt Nam từ bao đời nay đã
vượt qua bao thử thách gian lao để đi đến thắng lợi vinh quang. Qua bao phong ba sóng gió, hàng tre vẫn
vững vàng cùng dân tộc. Từ khi Tháng Gióng nhổ tre đánh giặc cứu nước cho đến nay, những con người đất
Việt đã trải qua bao biến đổi, bao lần chiến đấu để bảo vệ từng mảnh đất cha ông thật kiên cường, bền bỉ.
Tre tượng trưng cho những phẩm chất của con người Việt: đoàn kết, bất khuất, hiên ngang như Nguyễn Duy
cũng từng viết trong “Tre Việt Nam”:
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi!
(Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)
Ngoài ra, chỉ với thán từ “Ôi” mà bao nghẹn ngào tràn ngập cả câu thơ. Tất cả dân tộc đã quay về quanh
Bác, là cây tre trung hiếu, là cả một đội quân danh dự chỉnh tề giữ giấc ngủ bình yên cho Người.
3.2: Khổ thơ hai:
Hòa vào dòng người cùng vào thăm lăng Bác bằng sự trang nghiêm, nhà thơ đã có những cảm nhận thật đặc
biệt, đã khắc họa những hình ảnh thiên nhiên như ánh mặt trời vẫn sáng soi
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Nếu ở khổ thứ nhất, tác giả đã cảm nhận không gian trong cảm giác thanh tĩnh tuyệt đối thì khổ thơ thứ hai
là cảm nhận từ góc độ thời gian nghệ thuật. Thời gian được nói đến là “ngày ngày” diễn tả sự liên tục, bất
biến của thời gian, cũng như góp phần làm bất tử hóa hình ảnh của Bác. Nhà thơ đã sáng tạo hình ảnh mặt
trời vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ. Nếu ánh sáng của mặt trời soi sáng đường đi, giúp
sinh vật phát triển, lớn lên thì “mặt trời trong lăng” đã soi sáng cho cách mạng Việt Nam, soi sáng cho tâm
can lòng người, chính mặt trời ấy đã cứu biết bao sinh mệnh trước chiến tranh đau thương và lấy ánh dương
dẫn ta đến với niềm vui và sự hạnh phúc. “Một mặt trời rất đỏ” – hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp chỉ Bác Hồ kính
yêu vì Bác như vầng mặt trời có công lao to lớn cho toàn thể dân tộc, dìu dắt ta từ chỗ lầm than đến ngày tự
do huy hoàng. Đồng thời, phép ẩn dụ ấy cũng thể hiện tấm lòng thành kính của chính tác giả đối với Bác Hồ.
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, Bác xuất hiện như vầng dương dần nhô lên giữa rặng núi xa xăm,
xua tan đi bóng đêm mù mịt tăm tối, bao trùm, quét sạch hơi đông lạnh lẽo, đớn đau, bẻ gãy đi mọi cùm
gông, xiềng xích. Để rồi, dưới hơi ấm của chân lý bừng chói rực rỡ, những đời nô lệ câm lặng lại ngào ngạt
nở hoa để mỗi kiếp người lại hăm hở, sung sướng được trọn vẹn làm người. Trái tim Bác vẫn luôn rất đỏ
một tình yêu mênh mông, vô tận. Và dòng sữa ngọt ngào, ấm áp một tình thương, cháy bỏng từ con tim vĩ
đại ấy chảy ra ôm ấp phủ cả núi đồi, rừng cây, lại ươm mầm, ấp ủ từng góc lúa, lại vun xới, hồi sinh từng
kiếp người. Theo ánh sáng giục giã, thôi thúc đuốc sống chân lí ở phía trước, cả dân tộc dưới sự dìu dắt của
Bác đã tiến lên, chống lại kẻ thù hùng mạnh, tàn bạo. Và trong đớn đau, một sức mạnh mãnh liệt, dữ dội đã
được Bác thắp lên trong mỗi trái tim quặn thắt của người dân lầm than, cơ cực. Bóng hình Bác lồng lộng
được chắp cánh bát ngát bay lên, vĩ đại đã che chở, dẫn dắt cho cả dân tộc vượt qua tăm tối đêm trường để
đến với một nền tự do huy hoàng, rực rỡ:
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người
(Bác ơi -Tố Hữu)
Hôm nay có hai mặt trời chiếu rọi trên đường đời: một mặt trời tỏa sáng trước mặt, một mặt trời tỏa sáng
tâm hồn. Như mặt trời kia, Bác thuộc về vĩnh cửu. Bác sống mãi trong tâm hồn mỗi con người Việt:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Song hành cùng mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ trong đó có cả nhà
thơ. “Ngày ngày” được lặp lại hai lần như thể hiện sự nối tiếp thời gian. Nhịp thơ lại chậm rãi, trầm lắng hơn
như bước chân của chuỗi người triền miên, lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một không khí thương nhớ
Bác khôn nguôi, để rồi họ “kết tràng hoa” gửi tặng đến Bác – những tràng hoa đẹp nhất, thơm nhất, lung
linh nhất để tỏ lòng biết ơn với Người. Hình ảnh “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” là một hình
ảnh ẩn dụ đặc biệt, sáng tạo của nhà thơ. Tràng hoa ấy là hoa thơm dâng lên Bác mỗi ngày, nó được kết từ
hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu trái tim của đồng bào khắp cả nước, đồng thời nó cũng chính là những gì tốt
đẹp nhất, tinh túy nhất của thiên nhiên, của con người Việt thành kính dâng lên Bác, dâng lên “Bảy mươi
chín mùa xuân”. Phép hoán dụ, cũng là cách nói trang trọng nhằm diễn tả ý tứ sâu xa, bảy mươi chín mùa
xuân là bảy mươi chín năm cuộc đời Bác đã hiến trọn cho quê hương, cho Tổ quốc. Người đã gác lại mùa
xuân tươi đẹp của mình để cho dân tộc ta một mùa xuân vĩnh hằng, mùa xuân của độc lập – tự do – hạnh
phúc.
3.3: Khổ thơ ba:
Ở hai khổ thơ trước của tác phẩm “Viếng Lăng Bác”, Viễn Phương đã thể hiện sự xúc động, tấm lòng thành
kính, biết ơn đối với Bác Hồ kính yêu. Và niềm biết ơn, thành kính trong lòng tác giả lúc ấy đã dần chuyển
sang niềm xúc động nghẹn ngào khi đứng trước di hài của Người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế không gian trong lăng Bác. Đó là không gian vô cùng yên
tĩnh, trang nghiêm với ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo và hình ảnh Bác Hồ đang nằm đó như đang nghỉ ngơi
trong một “giấc ngủ bình yên”. Tác giả lại một lần nữa sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh, chẳng là Bác
chỉ mệt quá nên chỉ ngủ một chút thôi? Cả cuộc đời Bác có lẽ chẳng có nổi một giấc ngủ yên bởi Bác lo cho
nước nhà, cho tổ quốc và Bác “chỉ viết quên mình cho tất cả”:
Đêm nay Bác ngồi đó
Đêm nay Bác không ngủ
Vì một lẽ thường tình
Bác là Hồ Chí Minh
(Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ)
Liên tưởng đến câu thơ này càng khiến ta thêm nghẹn ngào, thành kính trước giấc ngủ ngàn thu đã phần nào
yên giấc, một “giấc ngủ bình yên” gợi sự thanh thản, thư thái, ung dung của Người sau cả cuộc đời dài dằn
dặt lo cho dân, cho nước. Không còn đâu những ngày “trằn trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành”, cũng chẳng
còn những đêm trăn trở, lo toan đến nỗi không ngủ được:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
(Cảnh khuya – Hồ Chí Minh)
Nay miền Nam được giải phóng, Bắc Nam sum họp một nhà nên Người thanh thản, thư thái, Bác chỉ tạm
nghỉ ngơi sau một hành trình vất vả mà thôi! Lời thơ lại một lần nữa như nén nỗi đau lại để khẳng định rằng
Bác vẫn còn sống mãi.
Bác vốn yêu trăng, trăng làm bạn với Bác trong nhà lao, trăng theo Bác lên đường ra chiến dịch và trăng lại
về đây để canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” bao bọc giấc ngủ của
Bác gợi cho ta cảm nhận vẻ đẹp hiền lành, nhân từ của Bác, đến tâm hồn và cách sống thanh cao, sáng trong
của Người. Đồng thời ý thơ còn gợi nhớ đến những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Bác:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
(Ngắm trăng – Hồ Chí Minh)
Cùng với mặt trời, hình ảnh vầng trăng đã hoàn thiện bức chân dung Hồ Chủ Tịch trong tâm khảm mỗi
người: chói lóa, rực rỡ, trong sáng, thanh cao, hiền lương và thương mến. Bác rực rỡ như mặt trời, dịu hiền
như ánh trăng. Bác đã hóa thân vào thiên nhiên đất trời dân tộc, sống mãi trong sự nghiệp và trong tâm trí
của nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao:
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già
(Bác ơi – Tố Hữu)
Dù vẫn biết là như vậy nhưng người con Viễn Phương cũng không thể không đau xót trước sự ra đi của
Người:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
“Trời xanh” là hình ảnh của thiên nhiên tồn tại mãi mãi, vĩnh hằng, là hình ảnh ẩn dụ khẳng định Bác là trời
xanh, Bác đã vĩnh viễn hóa thân vào bầu trời của dân tộc, sự nghiệp của Người mãi mãi vang vọng với non
sông. Người đã hóa thân vào thiên nhiên mây núi để trở thành hồn thiêng dân tộc:
Bác còn đó lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non
(Sáng tháng năm - Tố Hữu)
Trong trái tim đầy yêu thương, kính trọng và biết ơn của mọi người, Bác vẫn còn sống mãi. Dù tin như vậy,
lí trí thì tin như vậy nhưng trước sự thật Bác không còn nữa thì tình cảm không thể không xót đau: “Mà sao
nghe nhói ở trong tim!”. “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột, quặn thắt tê tái như
hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ, của một đứa con
về muộn không kịp gặp cha lần cuối. Nhà thơ tự cảm thấy nỗi đau, mất mác đến tận đáy sâu tâm hồn mình,
nỗi đau tột cùng không nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau của riêng nhà thơ mà còn là nỗi đau của cả
dân tộc. Một mất mác lớn lao không gì bù đắp được! Mạch cảm xúc từ thành kính chuyển sang tiếc thương
ngậm ngùi, câu thơ đọc lên như một tiếng khóc đến nghẹn ngào, để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.
Viễn Phương cũng lại một lần nữa cho ta thấy cách sử dụng ngôn từ khéo léo của mình qua cặp quan hệ từ
“Vẫn còn – Mà sao” khiến người đọc đau nhói hơn khi mà không thể phủ nhận một quy luật nào của tạo hóa
đó là có sinh có tử. Cách nói ấy thể hiện sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm. Nghĩa là con người không thể
kìm nén được trong những khoảnh khắc yếu lòng. Chính nỗi đau xót đó đã làm cho tình cảm giữa nhà thơ
nói riêng và nhân dân nói chung đối với Bác thật sâu nặng, thiết tha và sự ra đi của Bác cũng khiến thiên
nhiên phải nhỏ lệ tiếc thương:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa
(Bác ơi – Tố Hữu)
3.4: Khổ thơ cuối:
Nếu ở khổ thơ đầu bài thơ, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm lăng Bác thì trong khổ
thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác. Cuộc sum họp nào rồi cũng đến lúc chia xa, đứng trước lăng
Bác trong niềm cảm xúc vô bờ, chạnh nghĩ đến việc trở về miền Nam, nhà thơ đã không kìm được nỗi niềm
thương nhớ:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Thương, thương đến trào nước mắt, đó là tình thương của nhân dân Việt Nam, của miền Nam ruột thịt dành
cho Bác trong giây phút này, giây phút lặng người trước sự hi sinh to lớn của Bác. Chữ “thương” thật giản dị
nhưng cũng rất xúc động. Niềm thương không chỉ là cảm xúc dâng ngập trong tâm hồn mà trào lên thành
“nước mắt” phải chăng vì cảm thông được niềm ao ước bấy lâu về một ngày thống nhất vẫn nặng lòng Bác
lúc ra đi; thương vì Bác chưa thỏa ước nguyện thấy nhân dân được hưởng sự sung sướng, hạnh phúc khi Bắc
Nam sum họp một nhà, nhà thơ không cầm lòng được bởi chưa có ngày: “Đón Bác vào thăm thấy Bác cười”
Bao tình yêu thương, nỗi nhớ ấy giờ lại càng đau hơn bởi ông sắp phải xa Bác – vị cha già kính yêu. Và rồi
trong giây phút nghẹn ngào ấy, tác giả đã có những ước nguyện hóa thân rất đỗi bình dị và khiêm nhường:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Âm hưởng bài thơ được nhấn mạnh lên qua điệp ngữ “muốn làm”. Hình ảnh như có một sức mạnh vô hình
nhưng mãnh liệt níu kéo lòng ta ở lại. Phải chi ta có thể biến thành những gì thân yêu quanh nơi Bác yên
nghỉ, để có thể hằng ngày nhìn thấy Bác, nhìn thấy cả tấm lòng của người lãnh tụ vĩ đại, bao dung. Ước gì ta
có thể làm một con chim nho nhỏ góp tiếng hát của mình vào những buổi bình minh nơi lăng Bác. Hay ước
chi ta được làm một bông hoa dân tộc nở quanh lăng Người. Và phải chi một ngày nào đó ta sẽ trở thành
một cây tre bên những hàng tre xanh tỏa bóng mát dịu dàng nơi lăng Bác. Tuy nhiên, không dừng lại ở đó,
hình ảnh thơ còn mang nét nghĩa ẩn dụ cho khát vọng được ở lại để canh giấc ngủ thiên thu cho Người, bày
tỏ niềm biết ơn sâu sắc dành cho vị cha già của dân tộc, góp phần làm nên vẻ đẹp bất khuất, hiên ngang của
tâm hồn Việt Nam. Lời thơ khiến ta nhớ đến ước nguyện của Thanh Hải trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
(Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)
Nếu như Thanh Hải muốn hóa thân vào cảnh vật để làm đẹp cho cuộc đời, để cống hiến mùa xuân của cuộc
đời mình vào mùa xuân chung của dân tộc thì với Viễn Phương, ước nguyện hóa thân vào cảnh vật là để
được bên Bác suốt đời. Tuy nhiên đặc biệt hơn cả là ước nguyện được làm “cây tre trung hiếu”. Hình ảnh
cây tre đã từng xuất hiện ở khổ một giờ lại một lần nữa xuất hiện ở khổ cuối thông qua ước nguyện của nhà
thơ. Nó tạo ra cái kết cấu đầu cuối tương ứng cho thi phẩm. Nếu như đầu bài, cây tre xuất hiện với hình
tượng, phẩm chất rất Việt Nam “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” thì ở đây hàng tre lại được nhà thơ nhấn
mạnh phẩm chất “trung hiếu”. Đó như một điều khắc cốt ghi tâm những gì Bác nói “Trung với nước, hiếu
với dân”. Và phải chăng những ước nguyện ấy chính là lời hứa thủy chung với con đường mà Bác đã chọn.
Với những ý nghĩa như thế, khổ thơ cuối thực sự đã tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc,
không chỉ bộc lộ tình cảm thương nhớ, lưu luyến mà còn biểu đạt một cách xúc động tình cảm thủy chung,
son sắt của nhà thơ, của nhân dân miền Nam và nhân dân cả nước đối với Bác Hồ kính yêu.

4. Đánh giá chung:


Trải qua bao dòng chảy thời gian, bài thơ vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi nội dung và nghệ thuật đặc
sắc. Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ sáng tạo, kết hợp khéo léo chất tự sự và trữ tình. Ngôn ngữ thơ
giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ đồng thời sử dụng những hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều liên tưởng.
Đặc biệt, tác giả sử dụng thành công các biện pháp nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ. “Viếng lăng
Bác” của Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ
vĩ đại kính yêu của dân tộc. Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác
trong một dịp miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt, biểu lộ
niềm đau xót khi thấy Người ra đi.
III. Kết bài:
Đã có rất nhiều áng thơ văn bất hũ viết về Bác, về sự nghiệp cách mạng sáng ngời của Người. “Viếng lăng
Bác” của Viễn Phương xứng đáng góp mặt trong những tác phẩm thi ca xuất sắc nhất viết về Bác, bằng tình
cảm trân trọng, kính yêu của người con miền Nam, Viễn Phương đã nói lên tình cảm của hàng triệu con
người Việt Nam dành cho vị cha già dân tộc. Hình ảnh về Bác, về sự nghiệp và cuộc đời của Bác đâu chỉ gây
xúc động cho Viễn Phương, cho con người, dân tộc Việt mà còn là người truyền cảm hứng cho rất nhiều con
người, dân tộc trên thế giới, đúng như nhà thơ người Cuba từng viết: Hồ Chí Minh – tên người là cả một
miền thơ.

You might also like