You are on page 1of 247

Đề 1: Trong bài “Tiếng nói của văn nghệ”, Nguyễn Đình Thi viết:

“Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. Ta sẽ dừng tay
trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc, không phải
chỉ có trí thức (...) Cho đến một câu thơ kia, người đọc nghe thì thầm mãi trong lòng, mắt
không rời trang giấy.”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy trình bài cảm nhận của em về cái hay trong
bài thơ “Đồng chí ” của nhà thơ Chính Hữu.
Gợi ý
1. Mở bài:
Có người cho rằng: “Thơ là sự tuôn trào bộc phát những tình cảm mãnh liệt”, thậm chí
“thơ là một cái gì mà người ta không định nghĩa được”. Phải chăng vì thế mà thơ là một cái
gì đó mông lung, xa vời vợi ? Không, thơ ca chính bắt nguồn từ những lần ta vô tình mở
lướt qua một bài thơ rồi ta nhận thấy như có mình trong đó. Và phải chăng thơ ở đây như
trong ý kiến của Nguyễn Đình Thi: “Mỗi bài thơ hay không bao bao giờ ta đọc qua một lần
mà bỏ xuống được. Ta sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả
tâm hồn chúng ta đọc không phải chỉ có tri thức...Cho đến một câu thơ kia người đọc nghe
thì thầm mãi trong lòng, mắt không rời khỏi trang giấy”. Ý kiến ấy gợi cho ta bài học sâu
sắc về việc tiếp nhận văn nghệ nói chung và thơ ca nói riêng. Bài thơ khiến cho tôi mắt
không rời trang giấy, tim như hòa cùng nhịp thở của ngày ấy - những năm tháng kháng
chiến chống Pháp ác liệt trong hơi thở và xúc cảm từ “Đồng chí” của Chính Hữu
2. Thân bài:
Bài thơ hay là bài thơ như thế nào? Phải chăng bài thơ ngay từ lần đọc đã tạo được
ấn tượng sâu sắc đối với chúng ta. Thơ hay phải thực sự là thơ, phải có sáng tạo nghệ
thuật, nhà thơ phải có tâm hồn nhạy cảm với cuộc sống và phải có tài năng. Thơ hay
là thơ được người đọc yêu thích và tiếp nhận. Nhà thơ phải có năng lực sáng tác,
không tìm tòi sáng tạo thì không tạo nên được những bài thơ có nghệ thuật riêng
chứa đựng tâm hồn tình cảm cao đẹp riêng của mỗi nhà thơ (phong cách nghệ thuật).
Thơ hay là thơ có tâm sự, nó truyền đến người đọc những tình cảm nào đó theo quy
luật tiếng nói tri âm. Muốn vậy nhà thơ phải gắn bó với cuộc sống, chia sẻ mọi buồn
vui của cuộc đời, vốn sống phải thật sự phong phú, và phải thực sự có cái tâm trong
lành. Cảm xúc trong thơ phải chân thực tự nhiên, nhưng không dễ dãi mà lắng đọng
sâu xa.
Bài thơ hay tự nó có sức lôi cuốn kỳ lạ khiến ta không thể chỉ đọc một lần, càng đọc
đi đọc lại càng thấy bài thơ thực sự hay, có sự sáng tạo độc đáo về nội dung cũng như
hình thức nghệ thuật. Bài thơ đánh thức cảm xúc đẹp trong lòng làm cho người đọc
cùng đồng cảm và nghĩ suy, trăn trở. Đối với một bài thơ nói chung, bài thơ hay nói
riêng: Đọc nhiều lần để khám phá ra sự hấp dẫn về nghệ thuật, sự phong phú về nội
dung tình cảm cũng như chiều sâu ý nghĩa của bài thơ. Đọc thơ không phải chỉ bằng
trí tuệ hay cảm xúc, lý trí hay tình cảm, phải đọc bằng tất cả năng lực tinh thần của
mình, bằng “Tất cả tâm hồn” để cảm và hiểu cái hay cái đẹp của thơ, cho đến lúc tự
bài thơ phát sáng làm rung lên mọi cung bậc tình cảm trong tâm hồn người đọc.
Cũng giống như khi ta đọc bài thơ “Đồng chí” với một chút chân thành, một chút
lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc

1
khó quên. Bài thơ “Đồng chí” với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với
ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy
vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng. Bài thơ được sáng tác vào
năm 1948, đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội
thời kháng chiến.
Ngay từ những câu thơ mở đầu bài thơ “Đồng chí”, ta đã thấy được cái hay của Chính
Hữu khi lí giải những cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của “anh” và
“tôi” – của những người lính cách mạng:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá”, giọng điệu thủ thỉ tâm tình
như lời kể chuyện, cùng nghệ thuật sóng đôi “quê anh - làng tôi”, tác giả cho thấy tình
đồng chí, đồng đội bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người
lính. Họ là những người nông dân áo vải ra đi từ những miền quê nghèo khó - miền biển
nước mặn, vùng đồi núi trung du. Hai câu thơ giới thiệu thật giản dị hoàn cảnh xuất thân
của người lính: họ là những người nông dân nghèo. Những người lính từ những phương
trời khác nhau, không hề quen biết nhau nhưng họ lại giống nhau ở lòng yêu nước. Tình
yêu quê hương, gia đình, nghĩa vụ công dân thúc giục họ lên đường chiến đấu. Bởi thế nên
từ những phương trời xa lạ, mọi người “chẳng hẹn mà quen nhau”.
Cái hay của bài thơ còn là sự sát cánh bên nhau chiến đấu, càng ngày người chiến sĩ lại
càng cảm nhận sâu sắc về sự hòa hợp, gắn bó giữa đồng đội:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
“Súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu; “đầu” biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ.
Hình ảnh sóng đôi, các điệp từ “súng, đầu, bên” tạo nên âm điệu khoẻ, chắc nhấn mạnh sự
gắn kết cùng cùng chung nhiệm vụ, chung lý tưởng, chung chiến hào chiến đấu. Họ đồng
tâm, đồng lòng, cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương, giữ gìn nền
độc lập, tự do, sự sống còn của dân tộc – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Và chính sự
đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau đã giúp các anh gắn bó với nhau, cùng sẻ chia mọi gian
lao thiếu thốn của cuộc đời người lính: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
Đến đây, nhà thơ hạ xuống một giọng thơ thật đặc biệt với hai tiếng: “Đồng chí!” câu thơ
ngắn, cùng với hình thức cảm thán mang âm điệu vui tươi, vang lên như một sự phát hiện,
một lời khẳng định. Hai tiếng “đồng chí” vang lên thật thiêng liêng, sâu lắng, nói lên một
tình cảm lớn lao, mới mẻ của thời đại .
Không chỉ dừng lại ở tình đồng chí, đồng đội với những cơ sở tạo nên nó mà tác giả còn
nói về sự thấu hiểu, chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của cuộc đời người lính:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

2
Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương: ruộng
nương, gian nhà.... Từ “mặc kệ” cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính. Thế nhưng
sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương: “Giếng nước, gốc đa” là hai hình ảnh
hoán dụ nói về quê hương, về người thân nơi hậu phương của người lính. Như câu thơ
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” nói về quê hương nhớ người lính mà thực chất là
người lính nhớ nhà, nỗi nhớ hai chiều ngày càng da diết. Vậy là người lính đã chia sẻ với
nhau mọi tâm tư, nỗi niềm. Họ cùng nhau sống trong những kỷ niệm, trong nỗi nhớ.
Không chỉ cùng nhau chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn hay các câu chuyện nơi quê nhà
mà họ còn chia sẻ những khó khăn, thiếu thốn của cuộc đời người lính:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Người chiến sĩ đã phải trải qua bao khó khăn, vất vả, bệnh tật của những cơn sốt rét rừng
hành hạ: người nóng sốt ướt cả mồ hôi mà vẫn cứ ớn lạnh đến run người. Với phép liệt kê “
áo rách, quần vá, chân không giày” ta thấy chân dung người lính trong kháng chiến chống
Pháp thật đơn sơ, bình dị, nghèo khổ, vất vả. Nhưng đẹp nhất là hình ảnh thơ “miệng cười
buốt giá”, trong cái giá rét lạnh thấu sương chỉ với manh áo mỏng, lại còn “ chân không
giày” nhưng người lính vẫn nở nụ cười thật tươi trước cuộc sống gian khổ, thiếu thốn. Điều
đó làm ta càng thêm chân trọng và yêu quý anh bộ đội Cụ Hồ.
Những người chiến sĩ ấy đã quên mình đi để động viên nhau, truyền cho nhau hơi ấm:
“ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Niềm yêu thương, sự gắn bó được thể hiện qua hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay”, đây là
một cử chỉ vô cùng cảm động, chứa chan tình cảm yêu thương, trìu mến chân thành. Nó
không phải là cái bắt tay thông thường mà là hai bàn tay tự tìm đến với nhau truyền cho
nhau hơi ấm để vượt qua buốt giá. Sẵn sàng chia sẻ với nhau mọi khó khăn, nó còn chứa
đựng bao khát khao được ở bên đồng đội thân yêu.
Cái hay của bài thơ được thể hiện trong giây phút đối mặt với kẻ thù, tình đồng chí đã
trở thành một biểu tượng cao đẹp và thiêng liêng:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Đêm đã về khuya, sương mối xuống dày đặc bao phủ cả không gian đất trời. Nhưng hình
ảnh những người lính thật hiên ngang - vẫn đứng cạnh bên nhau trong những giây phút
căng thẳng “chờ giặc tới”. Động từ “ chờ” gợi ra một tư thế sẵn sàng, tinh thần trách nhiệm
cao. Đây là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Tình đồng
chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả.
Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”. Nó mang đến cho người đọc
sự mới mẻ trong cảm nhận về một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng
phong phú sâu xa. “Súng” biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực chiến đấu khắc nghiệt,
cho người chiến sĩ. “Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp hòa bình, cho ảo mộng và lãng mạn,

3
cho người thi sĩ. Hai hình ảnh “súng” và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng
đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà lãng mạn. Hình ảnh ấy còn gợi
vẻ đẹp của tình đồng chí sáng trong, cho vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo, lãng mạn. Đồng thời
còn gợi vẻ đẹp tâm hồn dân tộc Việt Nam – một dân tộc mà bàn tay giữ chắc cây súng để
bảo vệ những khát vọng thanh bình. Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng
chí, đồng đội của người lính.
Chính Hữu đã thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ bình dị, thấm đượm chất dân
gian, thể hiện tình cảm chân thành. Sử dụng bút pháp tả thực kết hợp với lãng mạn một
cách hài hòa, tạo nên hình ảnh thơ đẹp mang ý nghĩa biểu tượng.
Với những nghệ thuật và ý nghĩa trên, bài thơ đã tác động sâu sắc đến người đọc bao thế
hệ về tình cảm đồng chí, đồng đội gắn bó sâu nặng. Vì thế “Đồng chí” không thể chỉ đọc
một lần, không chỉ đọc bằng lí trí hay tình cảm mà phải đọc bằng cả tâm hồn mới cảm
nhận được hết vẻ đẹp và cái hay trong đó.
3. Kết bài:
Ý kiến về thơ của Nguyễn Đình Thi: “Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần
mà bỏ xuống được. Ta sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả
tâm hồn chúng ta đọc, không phải chỉ có trí thức (...) Cho đến một câu thơ kia, người đọc
nghe thì thầm mãi trong lòng, mắt không rời trang giấy” quả thật xác đáng, cho ta suy nghĩ
và nghiền ngẫm. Bởi thơ ca luôn nồng nàn, ấm áp hơi thở cuộc đời và mang dấu ấn sáng
tạo nghệ thuật của người cầm bút. Thơ là dòng sông soi bóng cuộc đời và len vào tâm hồn
con người những mạch ngầm cảm xúc dạt dào chảy mãi không thôi. “Đồng chí” là một bài
thơ như thế, Chính Hữu đã biết cách thổi vào thơ ca một cái gì đó man mác, dịu nhẹ với
những vần thơ kháng chiến mở ra cánh hoa thơm ngát tô điểm cho dòng thơ văn cách
mạng. Tôi yêu những vần thơ ấy và sẽ đọc đi, đọc lại ..... rồi lại dừng lại để chiêm nghiệm.
Thật đáng yêu biết bao những vần thơ như thế.
………………………………………………………………….
Đề 2: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại.
Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ.
Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình
góp vào đời sống chung quanh”.
(Ngữ Văn 9, Tập II, Tr 12,13 - NXB GD 2005)
Qua “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, em hãy làm sáng tỏ “điều mới mẻ”, “lời nhắn
nhủ” mà nhà thơ Phạm Tiến Duật muốn đem “góp vào đời sống”.
1. Mở bài:
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ.
Những sáng tác của ông lôi cuốn người đọc không phải bằng ngôn từ hoa lệ, trau
chuốt mà bằng sự mạnh mẽ, bằng hiện thực cuộc sống. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” đã tái hiện được cụ thể hình ảnh những chiếc xe không kính từ hiện thực
cuộc sống, đồng thời cũng phản ánh chân thực hình ảnh những người lính lái xe ở
Trường Sơn trong thời chống Mỹ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng
cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. Bởi vậy,
có ý kiến cho rằng: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng vật liệu mượn ở
thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều

4
gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một
phần của mình góp vào đời sống chung quanh”.
2. Thân bài:
Tác phẩm văn học bao giờ cũng lấy chất liệu từ cuộc sống thực tại: đó là những con
người, những số phận, những cuộc đời, những mảng đời sống gia đình, xã hội được
tác giả dùng làm đề tài cho những sáng tác của mình. Văn học đã trở thành tấm
gương phản chiếu hiện thực, qua tác phẩm người đọc có thể hình dung được “cuộc
sống muôn hình vạn trạng”.
Nhưng nghệ sỹ không chỉ ghi lại những cái đã có rồi, không chỉ tái hiện cuộc sống
mà còn muốn gửi gắm những tư tưởng tình cảm, thái độ về cuộc sống. Hơn thế nữa
nhiều tác phẩm văn học có giá trị còn thể hiện những khao khát những ý tưởng mới
mẻ, những điều chiêm nghiệm và những suy ngẫm sâu sắc của nghệ sĩ về cuộc đời, về
con người. Đó chính là những điều mới mẻ nghệ sĩ muốn nói qua tác phẩm của mình.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được Phạm Tiến Duật viết vào năm 1969, với
giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, dí dỏm làm nổi bật hình ảnh những anh chiến sĩ lái xe
Trường Sơn hiên ngang, ung dung và lạc quan, yêu đời.
Ngay nhan đề của bài thơ ta đã thấy được sự mới lạ, độc đáo, đậm chất hiện thực của
cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh. “Bài thơ” gợi chất thơ của cuộc sống nơi chiến
trường. Còn “ Tiểu đội xe không kính” nói lên hiện thực chiến tranh vô cùng ác liệt, vẻ đẹp
của người lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, kiên cường .
Bài thơ còn sử dụng những chất liệu của thực tại đó là tái hiện chân thực hiện thực
khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta qua việc khắc hoạ
hình ảnh những chiếc xe không kính rất trần trụi, bình dị, không nguyên vẹn:
“ Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Ở hai câu thơ này, tác giả đã sử dụng điệp từ “không”, điệp ngữ “không có” để giới
thiệu cho chúng ta về những chiếc xe rất đặc biệt “không có kính”. Điệp từ “ bom” kết hợp
với các động từ mạnh “giật, rung”, hình ảnh chân thực, giọng thơ tinh nghịch để nhấn
mạnh bom đạn kẻ thù, những con đường ra trận đã làm cho những chiếc xe này biến dạng
“không có kính”.
Những mất mát, khó khăn do quân địch, do đường trường gây ra làm những chiếc xe bị
hư hỏng nhiều hơn:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Điệp ngữ “không có” gợi lên hình ảnh những chiếc xe không vẹn toàn, thiếu đi đủ thứ.
Phép liệt kê “ không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước” để khẳng định những
gian khổ, khó khăn, nguy hiểm ngày càng tăng, càng ác liệt.
“Vật liệu mượn ở thực tại” trong tác phẩm còn là hiện thực cuộc kháng chiến
chống Mĩ với nhiều khó khăn, gian khổ và tinh thần chiến đấu, đời sống tình cảm của
những người lính trên tuyến đường Trường Sơn. Qua đó, nhà thơ đã khám phá ra
“những điều mới mẻ” với vẻ đẹp riêng của những người lính lái xe trên tuyến đường
Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ từ chính những khó khăn, gian khổ
của hiện thực:

5
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng”
Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” gợi lên sự điềm tĩnh, bình thản, lạc quan, yêu
đời của những người lính lái xe; họ vẫn tiếp tục công việc của mình dù cho xung quanh có
xảy ra những điều dữ dội, đau thương, mất mát. Điệp từ “nhìn” kết hợp với thủ pháp liệt
kê “đất, trời, thẳng” để nói lên những người lính không hề né tránh hiện thực gian khổ, hy
sinh; họ sẵn sàng đối mặt với gian nan, thử thách – một bản lĩnh vô cùng vững vàng.
Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp
xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Tác giả sử dụng điệp ngữ “ nhìn thấy ” có giá trị gợi tả những nỗi vất vả, cực khổ mà
người lính lái xe đã trải qua, đồng thời khắc sâu vẻ đẹp tỏa ra từ cách nhìn của người chiến
sĩ. Hình ảnh “ gió ” là sự vật vô hình không thể nhìn thấy, lại được nhân hóa với bàn tay
mềm mại “xoa” vào đôi mắt vốn cay xè vị bụi đường, vì thiếu ngủ. Với bút pháp ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng” gợi lên những chiếc xe không kính
phóng băng băng làm cho mắt người lính bị cay xè; qua đó những người chiến sĩ nhìn
những thử thách, gian nan với một thái độ bình tĩnh và tự tin. Nhưng sau đó hình ảnh miêu
tả thể hiện ý nghĩa ẩn dụ “con đường chạy thẳng vào tim”, đó là con đường ra mặt trận, con
đường cách mạng giải phóng dân tộc, con đường tiến vào miền Nam yêu thương. Bằng
biện pháp liệt kê “sao trời, cánh chim” cho ta hiểu thêm những người chiến sĩ lái xe
Trường Sơn lên đường bất kể ngày đêm. Với phép so sánh để ta thấy được thế giới bên
ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt, tạo những cảm giác đột ngột cho người lái.
Giờ đây người lính như giao hòa với thiên thiên, biểu hiện thái độ bình tĩnh, thản nhiên
trước những nguy hiểm của chiến tranh và niềm vui, lạc quan, yêu đời của những người
lính trẻ.
Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là
tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo


Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”
Cấu trúc: “không có kính, ừ thì”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại; dùng khẩu ngữ “ừ thì,
cười ha ha, phì phèo” khiến cho những câu thơ giản dị như lời nói thường, đồng thời cũng
diễn tả thái độ chấp nhận khó khăn, vất vả ấy là đương nhiên khi lái những chiếc xe không
kính. Cái tài của Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực

6
nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn
cảnh của người lính lái xe trong chiến tranh ác liệt. Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng
như người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo”, “mưa tuôn, mưa xối như
ngoài trời” là lẽ tất nhiên. Tác giả đã dùng bút pháp so sánh nhằm nhấn mạnh trước mọi
khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần bận tâm, lo lắng, các anh sẵn sàng
chấp nhận thử thách, gian lao. Với giọng điệu thản nhiên, ngang tàng, hóm hỉnh làm nổi
bật niềm vui, tiếng cười của người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy
của cuộc chiến đấu. Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của
người lính ngoài chiến trường trong những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ
trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời. Thật
đáng đáng tự hào biết bao!
Và trong cuộc chiến tranh gian lao, thử thách như thế này tình cảm đồng chí, đồng đội
luôn được đề cao và khẳng định:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua của kính vỡ rồi”
“Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong chiến trường, từ trong ác liệt trở về. Vượt qua
bom đạn kẻ thù những chiếc xe bỗng tụ hội lại nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Cái
“bắt tay” chân thành qua cửa kính vỡ đã bộc lộ vẻ đẹp của tình đồng đội đơn sơ, giản dị
nhưng vô cùng sâu nặng. Cái bắt tay ấy như là sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau; là lời động
viên thầm lặng mà nồng hậu của người lính Trường Sơn. Đó còn là sự mừng vui, là chúc
mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến thắng. Có
sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”: “Thương nhau tay nắm lấy
bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca trong
hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Hai câu thơ cuối đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí chiến
đấu giải phòng miền Nam:
“Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Vẻ đẹp của người lính cách mạng được thể hiện qua câu “Xe vẫn chạy vì miền nam phía
trước” cho thấy ý chí quyết tâm của người lính, cũng là lời khẳng định về một ngày mai
chiến thắng. Biện pháp hoán dụ “trái tim” để chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm
xưa; cũng là ý chí, tâm huyết, sức lực mà người lính dành trọn cho đất nước. “Trái tim”
còn là một ẩn dụ cho tinh thần, trách nhiệm, cho ý chí chiến đấu. Có thể coi câu thơ cuối là
câu thơ hay nhất của bài vì chỉ cần có “một trái tim”, một trái tim yêu nước, một lòng khao
khát giải phóng miền Nam thì tất cả những thiếu thốn kia đâu có hề gì. Vậy đó khí phách
ngang tàng mà vẫn tha thiết yêu thương.
“Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước.
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Vẻ đẹp của những người lính lái xe có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa cái vĩ đại
phi thường với cái giản dị đời thường

7
“Điều mới mẻ” thể hiện với nhan đề lạ, mới mẻ, độc đáo và thành công trong việc
lựa chọn chi tiết độc đáo, có tính chất phát hiện, hình ảnh đậm chất hiện thực. Sử
dụng ngôn ngữ của đời sống, tạo nhịp điệu linh hoạt thể hiện giọng điệu ngang tàng,
tinh nghịch
Tác giả cũng muốn nhắn nhủ đến với mỗi người đọc chúng ta: hình ảnh những
người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ mãi là biểu tượng đẹp
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Họ chính là những con người đã góp
phần làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc, sức mạnh và tinh thần chiến đấu
của họ đã khẳng định một chân lí của thời đại: sức mạnh tinh thần có thể chiến thắng
sức mạnh vật chất.
3. Kết bài:
Như vậy toàn bộ bài thơ nhắc nhiều tới cái khó khăn, gian khổ của người lính lái xe,
nhưng cái đọng lại là niềm tin, là tình yêu miền Nam, tình yêu đất nước. Bài thơ làm sáng
ngời chất lính rất hồn nhiên, phóng khoáng của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ. Phạm
Tiến Duật bằng chính tài năng và những trải nghiệm sâu sắc của bản thân đã truyền cho thế
hệ trẻ ngày ấy niềm lạc quan, yêu đời để chiến đấu và chiến thắng. Còn đến hôm nay, tuy
chiến tranh đã lùi xa, nhưng “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vẫn khiến chúng ta yêu
mến vô cùng. Bởi nhìn vào đó, chúng ta thấy được không khí của cả thời chống Mỹ, nhìn
vào đó thấy được vẻ đẹp tâm hồn của thế hệ cha anh, để tự hối thúc bản thân sống có ích
hơn, sống lạc quan hơn! Bởi vậy ý kiến của Nguyễn Đình Thi thật đúng đối với “Bài
thơ về tiểu đội xe không kính”.
………………………………………………………………………………………………………………
Đề 3: Trong bài Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi viết: “Tác phẩm vừa là kết tinh
của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang
trong lòng.” Qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
1. Mở bài:
Đối với những người cầm bút thì trong chặng đường sáng tạo gian khổ và vinh
quang của mình, mỗi đứa con tinh thần của họ ra đời đều chính là một thành tựu
nghệ thuật mang đầy tâm huyết. Tác phẩm là nơi được lựa chọn để người nghệ sỹ
thực hiện sứ mệnh gửi bức thông điệp mà mình ấp ủ đến với cuộc đời . Đúng như nhà
văn Nguyễn Đình Thi, trong văn bản “ Tiếng nói của văn nghệ ” đã khẳng định“ Tác
phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi
người sự sống mà nghệ sỹ mang trong lòng ”. Với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn
Duy, nhận định đó trở nên đúng đắn và xác thực hơn bao giờ hết. Qua mạch cảm xúc
dâng trào mãnh liệt, ta cảm nhận được một ngòi bút sâu sắc, một trái tim tinh tế rung
động, trước những đổi thay nhỏ bé nhất, và cả một khát khao ước vọng truyền cho
mọi người lẽ sống, cách sống trọn vẹn, tình nghĩa…
2. Thân bài:
Tại sao Nguyễn Đình thi lại nói: “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng
tác”, bởi vì đó là đứa con tinh thần của nhà văn, là nơi nhà văn gửi gắm những tình
cảm sâu sắc nhất, những cảm xúc, khát vọng chân thành, mãnh liệt nhất về con người
và cuộc đời. Tuy nhiên, đó chỉ mới là một nửa của vấn đề trong nhận định của mình,
ông còn nói tác phẩm văn học “vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ
sỹ mang trong lòng”. Đây chính là cầu nối giữa nhà văn và bạn đọc thông qua tác
8
phẩm. Đó chính là sự lay động cảm xúc, đi vào nhận thức, tâm hồn con người cũng
qua con đường tình cảm. Người đọc như được sống cùng cuộc sống mà nhà văn miêu
tả trong tác phẩm với những yêu ghét, buồn vui.
Nhận định trên đã nêu lên giá trị, chức năng của tác phẩm văn học. Qua tác phẩm
“Ánh trăng” ta sẽ cảm nhận rõ nhất những trăn trở, day dứt, suy tư ấy trong suốt
tác phẩm của ông về triết lí nhân sinh, lẽ sống thủy chung, tình nghĩa và những suy
nghĩ trước cuộc sống hiện đại đầy cám dỗ, đầy lãng quên và vô tình.
Bài thơ nhẹ nhàng như một câu chuyện tâm tình của một người lính, một thế hệ
những người sống và cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Nhân vật trữ tình người lính
trong bài thơ có một thuở ấu thơ sống gắn bó với quê hương như bao đứa trẻ khác.
“ Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể”
Với phép liệt kê “đồng, sông, bể” đã gợi ra một không gian mênh mông, êm đềm, trong
sáng và những kỉ niệm thuổi thơ vô cùng đẹp đẽ. Cánh đồng, sông và bể là những nơi cất
giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Lúc này vầng chăng đã chia
sẻ những niềm vui thơ ấu với tác giả. Điệp từ “ với” để nói trăng và người luôn luôn gắn
bó thân thiết trong niềm hạnh phúc. Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được! Khi lớn
lên – trở thành người lính, vầng trăng lại theo người lính vào chiến trường:
“ Hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Trong những năm tháng gian lao, trăng luôn sát cách bên người lính, cùng trải nghiệm
sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Với phép nhân
hóa trăng đã trở thành “tri kỉ” của người lính: cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ,
người lính lại cùng trăng tâm sự để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở người lính không được quên đi vầng trăng - người
bạn tri kỉ của mình:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ”
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Với từ láy “trần trụi” nhà thơ đã diễn tả sự trong sáng, hồn nhiên trong tâm hồn người
lính và giờ đây con người thật sự chan hòa một cách tuyệt đối với thiên nhiên. Tác giả lại
thành công khi sử dụng phép so sánh “ hồn nhiên như cây cỏ” để tô đậm vẻ đẹp tâm hồn
của người lính hồn nhiên, chân thành, không hề vụ lợi, không toan tính nhỏ nhen. Từ đó
vầng trăng tri kỉ đã hóa thành vầng trăng “tình nghĩa”, trong sự biến đổi kỳ diệu ta lại thấy
biện pháp tu từ ẩn dụ được sử dụng để nói lên cái nghĩa tình của vầng trăng với con người
trong quá khứ của đồng, của sông, của bể và của người lính trong những năm tháng gian
lao. Vì thế người lính “ngỡ chẳng bao giờ quên” để khẳng định với lòng mình một nghĩa
tình thủy chung mãi mãi. Thế nhưng từ “ngỡ” như báo trước một sự thay đổi nằm ngoài dự
định, vì chuyện đời có những ngã rẽ bất ngờ mà không ai lường trước được:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương

9
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
“Từ hồi về thành phố” đã khép lại những năm tháng chiến tranh gian khó và mở ra một
cuộc sống hòa bình. Cuộc sống sau chiến tranh được tái hiện qua phép ẩn dụ “ánh điện,
cửa gương” để miêu tả không gian, lối sống nơi đô thị của con người có cuộc sống đầy đủ
vật chất, tiện nghi. Với biện pháp tu từ nhân hóa “ đi qua ngõ” kết hợp so sánh “vầng trăng
như người dưng” thì mối quan hệ giữa con người và vầng trăng thay đổi một cách đột ngột:
vầng trăng đã hóa thành xa lạ, con người không còn cảm nhận được vầng trăng trong đời
sống nơi đô thị. Thứ ánh sáng nhân tạo của ánh điện, cửa gương khiến con người quên mất
vẻ đẹp của ánh trăng. Con người trở nên xa lạ với quá khứ, với nghĩa tình trong quá khứ.
Mối quan hệ giữa con người và vầng trăng được đặt trong một cuộc hội ngộ bất ngờ,
khiến con người tỉnh ngộ:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn - đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn”
Tác giả đã sử dụng đảo ngữ với từ láy “thình lình” nhằm gợi tả một biến cố bất ngờ
thường thấy trong đời sống nơi đô thị; sự việc xảy ra quá nhanh chóng mà con người
không thể lường trước được: “Đèn điện tắt, phòng buyn - đinh tối om” con người phải đối
diện với một không gian tối tăm, ngột ngạt. Lúc này, con người muốn thoát khỏi không
gian chật hẹp, từ túng ấy nên “vội bật tung của sổ”, đây là một phản ứng chân thực, tự
nhiên của con người khi mất điện, thật may mắn con người đã gặp lại người bạn tri kỉ của
mình. Tác giả thành công khi sử dụng phép đảo ngữ với từ láy “đột ngột” gợi lêm một cảm
giác ngỡ ngàng khi người lính gặp lại vầng trăng. Người bạn nghĩa tình ấy lại có mặt vẫn
tròn đầy, vẹn nguyên, không phai mờ dù con người quay lưng, chối bỏ.
Để rồi đến khổ thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cảm xúc mãnh liệt của mình khi thấy lại
người bạn năm xưa, thì biết bao nhiêu kỉ niệm cũ ùa về:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Điệp từ “mặt” nhấn mạnh giây phút mặt người và mặt trăng đối diện với nhau - người
lính gặp lại cố nhân xưa, để rồi nhận ra sự đổi thay, vô tình với quá khứ gian lao, nghĩa
tình của mình. Từ láy “rưng rưng” diễn tả tinh tế trạng thái cảm xúc nghẹn ngào; đồng thời
thể hiện sự chua xót, xấu hổ và nhớ thương ân hận khi nhận ra sự bội bạc của mình với lời
tự hứa “không bao giờ quên” và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước
lòng vị tha của người bạn tri kỉ. Điệp từ “là” kết hợp với phép liệt kê “đồng, bể, sông,
rừng” thân thương, tác giả đã gợi lại những hình ảnh trong sáng, tuyệt đẹp nhất của tuổi
thơ hồn nhiên cũng như những ngày tháng hạnh phúc, gian lao khi vào lính. Từ đó cho
thấy kí ức nghĩa tình ấy, vẻ đẹp thân thương ấy không bao giờ mất đi, chỉ lặng lẽ sống
trong tâm hồn mỗi con người.
Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm
nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:

10
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình”
Tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ “tròn vành vạnh” vừa tả vẻ đẹp tròn đầy, vừa gợi sự
thủy chung trước sau như một của vầng trăng, cũng là của quê hương quá khứ nghĩa tình.
Trăng không chỉ đẹp mà còn rất bao dung, độ lượng; trước sự bội bạc của con người, trăng
không một lời trách móc “kể chi người vô tình”. Nhưng độ lượng không có nghĩa là dễ dãi,
trăng cũng rất nghiêm khắc:
“ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Ánh trăng được nhân hóa “im phăng phắc”; trăng im lặng, không một lời trách cứ; gợi
liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng. Cũng là lời cảnh tỉnh, nhắc
nhở khiến con người “ giật mình” thức tỉnh: nhận ra sự cám dỗ về vật chất khiến con người
đánh mất đi giá trị tinh thần đẹp đẽ. “Gật mình” thức tỉnh lương tâm không được phép lãng
quên quá khứ, không được bội bạc với nghĩa tình thiêng liêng, sâu nặng. Đồng thời giúp
cho con người biết trở về, nâng niu, trân trọng quá khứ. Đây cũng là bài học nghĩa tình,
thủy chung cho mọi người: “Uống nước nhớ nguồn”
Tác giả đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật kết cấu: kết hợp giữa tự sự và trữ
tình, tự sự làm cho trữ tình trở nên tự nhiên mà cũng rất sâu nặng. Sáng tạo nên hình ảnh
thơ có nhiều tầng ý nghĩa: trăng là vẻ đẹp của thiên nhiên, tự nhiên, là người bạn gắn bó
với con người; là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, cho vẻ đẹp đời sống tự nhiên, vĩnh
hằng.
3. Kết bài:
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây được nhiều xúc động đối với nhiều thế hệ độc giả bởi
cách diễn tả bình dị như những lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở chân thành. Giọng thơ
trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ. “Ánh trăng” còn mang ý nghĩa triết lí về sự
thủy chung khiến người đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp
hơn, nghĩa tình hơn. Ý kiến của Nguyễn Đình Thi có ý nghĩa với cả người sáng tác và
bạn đọc.
………………………………………………………………………………………………
Đề 4: Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, trong bài “Việt Bắc”, Tố
Hữu đã viết:
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
Những dòng thơ trên gợi cho em liên tưởng đến lời tâm sự, nhắc nhở của nhà thơ nào
trong một thi phẩm đã học thuộc chương trình Ngữ văn lớp 9? Chỉ rõ điểm đồng điệu giữa
ý thơ của Tố Hữu và tâm sự của nhà thơ đó. Hãy phân tích niềm tâm sự sâu kín của tác giả
trong bài thơ em vừa tìm được.
Bài làm
1. Mở bài:
Hòa bình tới, chiến tranh đã chấm dứt “từ thôn quê chuyển về thành thị” đời sống
sẽ thay đổi, nhưng chúng ta không muốn để cho phai nhạt mất những cái quý báu mà
11
Việt Bắc đã rèn luyện cho mỗi con người trong kháng chiến. Ta về nhưng lòng ta vẫn
ở với Việt Bắc:
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
Những dòng thơ trên gợi cho em liên tưởng đến lời tâm sự, nhắc nhở của nhà thơ
Nguyễn Duy trong bài “Ánh trăng”. Bài thơ như một lời nhắc nhở về những năm
tháng gian lao đã qua của một đời người lính gắn bó tha thiết đối với ánh trăng, với
thiên nhiên, đất nước và con người bình dị, chân thật. Đồng thời cũng gợi nhắc đến
đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” về lẽ sống thủy chung, nghĩa tình.
2. Thân bài:
Điểm đồng điệu giữa ý thơ của Tố Hữu và Nguyễn Duy chính là nhắc nhở mọi
người về đạo lý: “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa, thủy chung với quá khứ. Đến với
những dòng thơ của Tố Hữu là lời nhắc nhở với những người cán bộ kháng chiến khi
dời Việt Bắc về xuôi ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc (Khi sự
lãng quên quá khứ chưa xảy ra mà mới chỉ là dự cảm). Còn ở bài thơ “Ánh trăng” là
lời tâm sự, tự bạch, tự thú với chính mình, với mọi người khi giật mình nhận ra bản
thân đã từng có lúc lãng quên quá khứ khi được sống trong hoà bình (đã ba năm sau
kháng chiến chống Mĩ) . Có lẽ từ chiến tranh sang hoà bình, từ gian khổ sang an lạc,
có không ít người dễ lãng quên quá khứ, quên đi những người đã từng gắn bó, đùm
bọc, sẻ chia.
Cuộc kháng chiến đã khép lại ba năm, sống trong thời bình không mấy ai nhớ lại
những kỉ niệm gian khổ thời quá khứ, ánh trăng giản dị như một niềm tâm sự ân hận
sâu kín của nhà thơ. “Ánh trăng” không những là hình ảnh quen thuộc, vừa là tượng
trưng cho quá khứ nghĩa tình - có một thuở ấu thơ sống gắn bó với:
“ Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Với phép liệt kê “đồng, sông, bể” đã gợi ra một không gian mênh mông, êm đềm, trong
sáng và những kỉ niệm thuổi thơ vô cùng đẹp đẽ. Cánh đồng, sông và bể là những nơi cất
giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Lúc này vầng chăng đã chia
sẻ những niềm vui thơ ấu với tác giả. Điệp từ “ với” để nói trăng và người luôn luôn gắn
bó thân thiết trong niềm hạnh phúc. Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được! Khi lớn
lên – trở thành người lính, vầng trăng lại theo người lính vào chiến trường. Trong những
năm tháng gian lao ấy, trăng luôn sát cách bên người lính, cùng trải nghiệm sương gió,
vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Với phép nhân hóa trăng đã
trở thành “tri kỉ” của người lính: cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, người lính lại
cùng trăng tâm sự để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở người lính không được quên đi vầng trăng - người
bạn tri kỉ của mình:

12
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Với từ láy “trần trụi” nhà thơ đã diễn tả sự trong sáng, hồn nhiên trong tâm hồn người
lính và giờ đây con người thật sự chan hòa một cách tuyệt đối với thiên nhiên. Tác giả lại
thành công khi sử dụng phép so sánh “ hồn nhiên như cây cỏ” để tô đậm vẻ đẹp tâm hồn
của người lính hồn nhiên, chân thành, không hề vụ lợi, không toan tính nhỏ nhen. Từ đó
vầng trăng tri kỉ đã hóa thành vầng trăng “tình nghĩa”, trong sự biến đổi kỳ diệu ta lại thấy
biện pháp tu từ ẩn dụ được sử dụng để nói lên cái nghĩa tình của vầng trăng với con người
trong quá khứ của đồng, của sông, của bể và của người lính trong những năm tháng gian
lao. Vì thế người lính “ngỡ chẳng bao giờ quên” để khẳng định với lòng mình một nghĩa
tình thủy chung mãi mãi. Thế nhưng từ “ngỡ” như báo trước một sự thay đổi nằm ngoài dự
định, vì chuyện đời có những ngã rẽ bất ngờ mà không ai lường trước được:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
“Từ hồi về thành phố” đã khép lại những năm tháng chiến tranh gian khó và mở ra một
cuộc sống hòa bình. Cuộc sống sau chiến tranh được tái hiện qua phép ẩn dụ “ánh điện,
cửa gương” để miêu tả không gian, lối sống nơi đô thị của con người có cuộc sống đầy đủ
vật chất, tiện nghi. Với biện pháp tu từ nhân hóa “ đi qua ngõ” kết hợp so sánh “vầng trăng
như người dưng” thì mối quan hệ giữa con người và vầng trăng thay đổi một cách đột ngột:
vầng trăng đã hóa thành xa lạ, con người không còn cảm nhận được vầng trăng trong đời
sống nơi đô thị. Thứ ánh sáng nhân tạo của ánh điện, cửa gương khiến con người quên mất
vẻ đẹp của ánh trăng. Con người trở nên xa lạ với quá khứ, với nghĩa tình trong quá khứ.
Mối quan hệ giữa con người và vầng trăng được đặt trong một cuộc hội ngộ bất ngờ,
khiến con người tỉnh ngộ:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn - đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Tác giả đã sử dụng đảo ngữ với từ láy “thình lình” nhằm gợi tả một biến cố bất ngờ
thường thấy trong đời sống nơi đô thị; sự việc xảy ra quá nhanh chóng mà con người
không thể lường trước được: “Đèn điện tắt, phòng buyn - đinh tối om” con người phải đối
diện với một không gian tối tăm, ngột ngạt. Lúc này, con người muốn thoát khỏi không
gian chật hẹp, từ túng ấy nên “vội bật tung của sổ”, đây là một phản ứng chân thực, tự
nhiên của con người khi mất điện, thật may mắn con người đã gặp lại người bạn tri kỉ của
mình. Tác giả thành công khi sử dụng phép đảo ngữ với từ láy “đột ngột” gợi lêm một cảm
giác ngỡ ngàng khi người lính gặp lại vầng trăng. Người bạn nghĩa tình ấy lại có mặt vẫn
tròn đầy, vẹn nguyên, không phai mờ dù con người quay lưng, chối bỏ.

13
Để rồi đến khổ thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cảm xúc mãnh liệt của mình khi thấy lại
người bạn năm xưa, thì biết bao nhiêu kỉ niệm cũ ùa về:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Điệp từ “mặt” nhấn mạnh giây phút mặt người và mặt trăng đối diện với nhau - người
lính gặp lại cố nhân xưa, để rồi nhận ra sự đổi thay, vô tình với quá khứ gian lao, nghĩa
tình của mình. Từ láy “rưng rưng” diễn tả tinh tế trạng thái cảm xúc nghẹn ngào; đồng thời
thể hiện sự chua xót, xấu hổ và nhớ thương ân hận khi nhận ra sự bội bạc của mình với lời
tự hứa “không bao giờ quên” và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước
lòng vị tha của người bạn tri kỉ. Điệp từ “là” kết hợp với phép liệt kê “đồng, bể, sông,
rừng” thân thương, tác giả đã gợi lại những hình ảnh trong sáng, tuyệt đẹp nhất của tuổi
thơ hồn nhiên cũng như những ngày tháng hạnh phúc, gian lao khi vào lính. Từ đó cho
thấy kí ức nghĩa tình ấy, vẻ đẹp thân thương ấy không bao giờ mất đi, chỉ lặng lẽ sống
trong tâm hồn mỗi con người.
Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm
nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình”
Tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ “tròn vành vạnh” vừa tả vẻ đẹp tròn đầy, vừa gợi sự
thủy chung trước sau như một của vầng trăng, cũng là của quê hương quá khứ nghĩa tình.
Trăng không chỉ đẹp mà còn rất bao dung, độ lượng; trước sự bội bạc của con người, trăng
không một lời trách móc “kể chi người vô tình”. Nhưng độ lượng không có nghĩa là dễ dãi,
trăng cũng rất nghiêm khắc:
“ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Ánh trăng được nhân hóa “im phăng phắc”; trăng im lặng, không một lời trách cứ; gợi
liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng. Cũng là lời cảnh tỉnh, nhắc
nhở khiến con người “ giật mình” thức tỉnh: nhận ra sự cám dỗ về vật chất khiến con người
đánh mất đi giá trị tinh thần đẹp đẽ. “Gật mình” thức tỉnh lương tâm không được phép lãng
quên quá khứ, không được bội bạc với nghĩa tình thiêng liêng, sâu nặng. Đồng thời giúp
cho con người biết trở về, nâng niu, trân trọng quá khứ. Đây cũng là bài học nghĩa tình,
thủy chung cho mọi người: “Uống nước nhớ nguồn”
Tác giả đã thành công trong việc kết hợp giữa tự sự và trữ tình, tự sự làm cho trữ tình trở
nên tự nhiên mà cũng rất sâu nặng. Sáng tạo nên hình ảnh thơ có nhiều tầng ý nghĩa: trăng
là vẻ đẹp của thiên nhiên, tự nhiên, là người bạn gắn bó với con người; là biểu tượng cho
quá khứ nghĩa tình, cho vẻ đẹp đời sống tự nhiên, vĩnh hằng.
3. Kết bài:
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây được nhiều xúc động đối với nhiều thế hệ độc giả bởi
cách diễn tả bình dị như những lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở chân thành. Giọng thơ
trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ. “Ánh trăng” còn mang ý nghĩa triết lí về sự

14
thủy chung khiến người đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp
hơn, nghĩa tình hơn.
………………………………………………………………………………………………
Đề 5: Phân tích hình ảnh biểu tượng: Đầu súng trăng treo (trong bài đồng chí); trăng
trong bài (Ánh trăng). Chọn bình một khổ thơ đặc sắc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ không ít các nhà văn, nhà thơ vừa cầm bút
vừa cầm súng. Tài năng của họ được bồi đắp và trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến
trường kì chống ngoại xâm đau thương mà hào hùng của dân tộc. Bài thơ “Đồng chí” của
Chính Hữu đánh dấu sự thành công của ông khi viết về đề tài này. Bài thơ dùng nhiều nghệ
thuật, ngôn ngữ giản dị như những người dân mặc áo lính nhưng những hình ảnh thơ đẹp là
điều bất cứ một người đọc nào cũng nhận thấy trong bài thơ của ông. Đặc biệt là hình ảnh
cuối bài thơ “Đầu súng trăng treo”. Còn Nguyễn Duy với bài thơ “Ánh trăng” như một lời
tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên
nhiên, đất nước. “Trăng” là vẻ đẹp của thiên nhiên, là người bạn gắn bó với con người, là
biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, cho vẻ đẹp của đời sống tự nhiên vĩnh hằng. Tất cả
những hình ảnh trên đều mang ý nghĩa biểu tượng đặc sắc.
Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là nhiệm vụ chiến đấu
tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng. Hình ảnh trăng tạo nên con
người thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách
mạng. Hai hình ảnh tưởng là đốì lập nhau đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa hòa hợp vô cùng
độc đáo. Súng là chiến đấu gian khổ, hi sinh, là hiện thực. Còn trăng là tượng trưng cho
hòa bình, gợi lên sự đẹp đẽ thơ mộng, dịu dàng và lãng mạn. Người lính cầm súng để bảo
vệ hòa bình, khát khao hòa bình, không ngại gian khổ hi sinh. Súng và trăng: cứng rắn và
dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có người còn gọi đây là một cặp đồng chí.
Chính Hữu đã thành công với hình ảnh “đầu súng trăng treo” - một biểu tượng thơ giàu
sức gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” đã trở thành một biểu tượng đẹp của người lính cách
mạng Việt Nam hiện thực và lãng mạn, chiến sĩ mà thi sĩ.
Còn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước mà còn
gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Hình ảnh “ánh trăng” bắt đầu
gắn với cuộc sống bình thường của con người và vầng trăng thời chiến tranh, vầng trăng là
biểu tượng đẹp của những năm tháng tình nghĩa ngỡ không bao giờ quên.
Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được sống cuộc sống tiện nghi: Ở trong buyn-
đinh, quen ánh điện, cửa gương... và vầng trăng tri kỉ tình nghĩa đã bị người tri kỉ xưa lãng
quên, dửng dưng. Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, như người dưng, chẳng còn
ai nhớ, chẳng ai hay.. Bất ngờ gặp một tình huống của nhịp sống thành thị: thình lình đèn
điện tắt. Vầng trăng xưa xuất hiện, vần tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với con người.
Cả một quá khứ đẹp và tình nghĩa ùa về rưng rưng trong lòng người lính, còn trăng thì im
lặng. Người lính giật mình, cái giật mình của người lính trước sự im lặng của trăng xưa
hiện về nơi thành phố hôm nay là một biểu tượng nghệ thuật mang tính hàm nghĩa độc đáo.
Đó là sự bao dung, độ lượng, nghĩa tình, thủy chung của vầng trăng, sự trong sáng mà
không hề đòi hỏi được đền đáp.
Đây chính là phẩm chất cao đẹp của nhân dân mà tác giả muốn ngợi ca, tự hào. Cũng là
thông điệp hãy biết nhớ về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vô tình. Đó chính là ý nghĩa

15
sâu sắc của hình ảnh trăng trong bài thơ của Nguyễn Duy tự nhắn nhủ mình và muốn gửi
gắm.
Bởi vậy mới có thể thấy rằng “đầu súng trăng treo” dường như lan tỏa thứ ánh sáng dịu
nhẹ của ánh trăng xuống cánh rừng, lan vào lòng người lính sự mát dịu, trong lành nhất.
Còn “trăng” trong bài “Ánh trăng” cũng mang một thông điệp gửi gắm tới mọi người hãy
nhớ về quá khứ tốt đẹp, về người bạn luôn nghĩa tình, thủy chung.
Bình giảng khổ thơ cuối của bài “ Đồng chí”:
Bài thơ “Đồng chí” mở đầu bằng những câu thơ mộc mạc, giản dị, chân chất khi tác giả
giới thiệu về quê hương của các anh bộ đội. Các anh mỗi người một quê - những vùng quê
nghèo khó - song đã về đây để cùng tham gia kháng chiến, cùng chịu đựng gian khổ, sát
cánh bên nhau. Cuộc sống người lính vất vả biết bao nhiêu. Nào: Áo anh rách vai, quần tôi
có vài mảnh vá... Lại nữa, những đêm trời rét chỉ có một mảnh chăn mỏng hay những cơn
sốt rét rừng hành hạ... Vượt lên trên tất cả những khó khăn đó để “Thương nhau tay nắm
lấy bàn tay”. Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên ý nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của tình
đồng đội, của ý chí quyết tâm đánh giặc. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đặc sắc :
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Đêm đã về khuya, sương mối xuống dày đặc bao phủ cả không gian đất trời. Nhưng hình
ảnh những người lính thật hiên ngang vẫn đứng cạnh bên nhau trong những giây phút căng
thẳng “chờ giặc tới”. Động từ “ chờ” gợi ra một tư thế sẵn sàng, tinh thần trách nhiệm cao.
Đây là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Tình đồng chí
đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả.
Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”. Đó là một hình ảnh thật mà
bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya, đồng thời nó
còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa. “Súng”
biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực chiến đấu khắc nghiệt, cho người chiến sĩ.
“Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp hòa bình, cho ảo mộng và lãng mạn, cho người thi sĩ. Hai
hình ảnh “súng” và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người
lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà lãng mạn. Hình ảnh ấy còn gợi vẻ đẹp của tình đồng
chí sáng trong, cho vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo, lãng mạn. Đồng thời còn gợi vẻ đẹp tâm hồn
dân tộc Việt Nam – một dân tộc mà bàn tay giữ chắc cây súng để bảo vệ những khát vọng
thanh bình.
Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính.
……………………………………………………………………………………..
Đề 6: Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai bài thơ “Đồng chí” của
chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
1. Mở bài:
Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống. Và có lẽ vì thế nên mỗi bài thơ đều mang đến sự đồng
điệu giữa cảm xúc của người đọc, người nghe và tâm hồn thi sĩ của tác giả. Đặc biệt,
những bài thơ gắn liền với hình ảnh người lính trong hai thời kì kháng chiến chống Pháp và
chống Mĩ lại càng khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống chiến đấu gian khổ của dân tộc hơn.
Tuy nhiên, hình ảnh người lính mỗi thời kì lại có những nét tương đồng và khác biệt, nên

16
những bài thơ trong mỗi thời kì cũng khắc hoạ hình ảnh hai người lính khác nhau, mà tiêu
biểu là bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ tiểu đội xe không kính” của Phạm
Tiến Duật.
2. Thân bài:
Những điểm tương đồng trong lí tưởng, trong phẩm chất nhưng hình ảnh của những
người lính trong thơ của Chính Hữu và trong thơ của Phạm Tiến Duật lại mang những vẻ
đẹp tiêu biểu cho từng thời đại, thể hiện được tài năng cũng như tư tưởng sâu sắc của mỗi
nhà thơ. Điểm chung của cả hai bài thơ về hình ảnh người lính: Họ đều chiến đấu cho một
lí tưởng cao đẹp, sẵn sàng ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”
(Chính Hữu)
Ý chí lên đường của lòng yêu nước, của tình cảm cách mạng khi Tổ quốc cần thì những
người lính ấy sẵn sàng hi sinh hạnh phúc riêng tư - để lại sau lưng những gì yêu quý nhất
của quê hương “ruộng nương, gian nhà”. Từ “mặc kệ” cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của
người lính.
Họ là những con người dũng cảm bất chấp khó khăn, gian khổ, coi thường hiểm nguy,
coi thường cái chết:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
(Chính Hữu)
Người lính sẵn sàng chấp nhận khó khăn, đương đầu với thử thách, thiếu thốn về vật
chất tinh thần:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Không có kính, ừ thì ướt áo”
(Phạm Tiến Duật)
Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến
trường trong những năm tháng kháng chiến. Những yếu tố khách quan đó không hề làm
nản ý chí người lính, họ vẫn quyết tâm để hoàn thành nhiệm vụ. Họ tin tưởng con đường
phía trước, tin tưởng thắng lợi đang đến gần.
Trong điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ, thiếu thốn, thì tinh thần chiến đấu của
những người lính lại bùng lên mạnh mẽ, sục sôi khí thế. Họ không ngại nguy hiểm, khó
khăn, vẫn vững lòng cầm chắc tay súng để bảo vệ quê hương, đất nước:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu”
(Chính Hữu)
Họ cũng sát cánh bên nhau, bên những người đồng đội để cùng chiến đấu dũng cảm. Họ
là những người có trái tim dũng cảm, yêu nước nồng nàn, sôi nổi, không một sức mạnh nào
của kẻ thù ngăn nổi:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
(Phạm Tiến Duật)
17
Ở những người lính của cả hai thời kì đều có tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
(Chính Hữu)
Cái nắm tay thể hiện tình đoàn kết, truyền sức mạnh cho nhau. Cái bắt tay ấy như là sự
chia sẻ, cảm thông lẫn nhau; là lời động viên thầm lặng mà nồng hậu của người lính:
“Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
(Phạm Tiến Duật)
Dù ở thời kì nào dân tộc Việt Nam vẫn có những lớp người, những thế hệ sẵn sàng hi
sinh vì đất nước, vì dân tộc.
Còn điểm khác nhau của cả hai bài thơ thì sao? Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu ra đời
năm 1948, những năm tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, chính
quyền ta vừa thành lập còn non trẻ. Những người lính của “Đồng chí” là những người lính
chống Pháp, họ đến với kháng chiến từ màu áo nâu của người nông dân, từ cái nghèo khó
của những miền quê lam lũ:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Còn “Bài thơ về tiêu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật ra đời năm 1969, thời điểm
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang vào hồi ác liệt. Những người lính thời kì này
còn rất trẻ. Họ phần lớn vừa rời ghế nhà trường, tâm hồn còn phơi phới tuổi xuân. Đó là
những con người:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
Hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như vậy tất yếu dẫn đến sự khác nhau về ý thức giác ngộ
cách mạng của những người lính ở hai bài thơ. Nhận thức về chiến tranh của những người
lính chống Pháp còn đơn giản, chưa sâu sắc như thời kì kháng chiến chống Mĩ. Trong
“Đồng chí”, tình cảm thiêng liêng nhất được nhắc tới là tình đồng chí, đồng đội. Trong
“Bài thơ về tiêu đội xe không kính” mới thấy xuất hiện ý niệm về ý chí, tinh thần yêu
nước:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Sống giữa chiến trường với tình đồng đội thiêng liêng, người lính chống Pháp của Chính
Hữu nhớ về quê nhà với giếng nước, gốc đa, mẹ già, vợ dại, con thơ:
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Người lính kháng chiến chống Mĩ trong thơ Phạm Tiến Duật thì lại khác. Họ hiểu rằng
kháng chiến là gian khổ và còn trường kì nữa. Vậy nên xe chạy cùng con đường ra mặt trận
đã trở thành ngôi nhà chung và những người đồng đội đã trở thành gia đình, ruột thịt:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.
Và điều khác nhau cơ bản giữa hai thi phẩm chính là bút pháp thơ của hai tác giả. Chính
Hữu dùng bút pháp hiện thực - lãng mạn dựng lên hình ảnh những người lính thời kì đầu
của cuộc kháng chiến với nhiều khó khăn, thiếu tthốn:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá

18
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
“Đầu súng trăng treo”
Cảm hứng lãng mạn được lắng đọng trong cảm xúc về tình đồng chí thiêng liêng: “Đồng
chí!” cùng những hình ảnh thơ giàu sức gợi “đầu súng trăng treo”. Còn “Bài thơ về tiểu đội
xe không kính” lại được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn - hiện thực. Cái khó khăn, thiếu
thốn không bị lảng tránh:
“Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc”
“Chưa cần thay lái trăm cây số nữa”.
Nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là sự ngang tàng, tinh nghịch của những người lính trẻ lạc
quan yêu đời:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thắng”
“Không có kính ừ thì có bụi”
“Không có kính ừ thì ướt áo”
Có thế nói, trong “Đồng chí” của Chính Hữu, nhà thơ đã dựng lên hình ảnh người lính
với tình đồng đội thiêng liêng chia sẻ với nhau những khó khăn, cực nhọc của một cuộc
sống kháng chiến gian nan, thiếu thốn. Còn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm
Tiến Duật lại khắc họa tuổi trẻ, trẻ trung, yêu đời, yêu cuốc sống, tinh nghịch và đầy ước
mơ, lí tưởng của những người lính chống Mĩ.
Tuy có những sự khác nhau do hoàn cảnh lịch sử chi phối như vậy song những người
lính trong hai bài thơ vẫn mang những đặc điểm chung đáng quý của người lính quân đội
nhân dân. Đó là tấm lòng yêu nước, yêu đồng chí, đồng đội.
3. Kết bài:
Dù có những điểm giống và khác nhau rõ rệt nhưng điều đó càng khiến những người lính
Cụ Hồ hiện lên qua nhiều màu vẻ, sinh động và gần gũi. Điều đó trước hết giúp người đọc
càng hiểu rõ hơn về những người lính. Hình ảnh của họ hiện lên thật đẹp đẽ, họ chính là
biểu tượng, là niềm tin, khát vọng của nhân dân gửi gắm nơi họ. Ở các anh, người đọc
nhận thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng vô cùng. Không chỉ vậy, những
nét khác biệt còn thể hiện từng phong cách riêng của mỗi tác giả trong phương thức thể
hiện. Điều đó làm giàu, làm đẹp thêm cho vườn hoa nghệ thuật nước nhà.
………………………………………………………………………………………………
Đề 7: Trong văn bản Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi viết:
Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng
nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi
vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời
sống chung quanh.
(Sách Ngữ văn 9, tập hai, trang 12, 13 – Nhà xuất bản Giáo dục – 2010)
Bằng sự hiểu biết của mình về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, em hãy làm
sáng tỏ điều mới mẻ mà nhà thơ muốn đem góp vào đời sống.
1. Mở bài:
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận vừa là một bức tranh đẹp đẽ, vừa là một
khúc ca hào hùng về những người đánh cá trên biển cả bao la của Tổ quốc. Mỗi người dân

19
làng chài thật phấn khởi, say mê với công việc của mình trong tư thế thực sự làm chủ biển
trời, làm chủ cuộc đời mới. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Tác phẩm nghệ thuật nào
cũng xây dựng bằng chất liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không ghi lại cái đã có
rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời
nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh”.
2.Thân bài:
Tác phẩm văn học bao giờ cũng lấy chất liệu từ cuộc sống thực tại: đó là những con
người, những số phận, những cuộc đời, những mảng đời sống gia đình, xã hội được
tác giả dùng làm đề tài cho những sáng tác của mình. Văn học đã trở thành tấm
gương phản chiếu hiện thực, qua tác phẩm người đọc có thể hình dung được “cuộc
sống muôn hình vạn trạng”.
Nhưng nghệ sỹ không chỉ ghi lại những cái đã có rồi, không chỉ tái hiện cuộc sống
mà còn muốn gửi gắm những tư tưởng tình cảm, thái độ về cuộc sống. Hơn thế nữa
nhiều tác phẩm văn học có giá trị còn thể hiện những khao khát những ý tưởng mới
mẻ, những điều chiêm nghiệm và những suy ngẫm sâu sắc của nghệ sĩ về cuộc đời, về
con người. Đó chính là những điều mới mẻ nghệ sĩ muốn nói qua tác phẩm của mình.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận đã sử dụng những chất liệu của thực
tại đó là phản ánh thực tại khung cảnh lao động trên biển cả, là khúc ca lạc quan,
yêu đời. Đó còn là cảm hứng mới về thiên nhiên, đất nước, cái nhìn mới mẻ đối với
công việc lao động và người lao động trong công cuộc xây dựng đất nước.
“Đoàn thuyền đánh cá” đã phản ánh lại thực tại đời sống năm 1958, khi đất nước
đã kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và đi
vào xây dựng cuộc sống mới, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ
Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại
và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước
cuộc sống mới.
Hiện thực còn được phản ánh trong bài thơ là khung cảnh lao động trên biển cả, là
khúc ca lạc quan, yêu đời, là khí thế lao động hăng say của người lao động:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Mặt trời từ từ lặn xuống lòng biển được tác giả so sánh như “ hòn lửa” đỏ rực, làm hiện
ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây ngất lòng người.
Với nghệ thuật nhân hóa “ sóng cài then, đêm sập cửa” khiến thiên nhiên như những con
người biết hoạt động, biết nghỉ ngơi. Trong hoàn cảnh thiên nhiên đi vào nghỉ ngơi, còn
con người lại bắt tay vào lao động đây là sự đối lập giữa thiên nhiên và con người, từ đó
gợi lên cả nhịp sống thanh bình của quê hương, đất nước. Với nghệ thuật ẩn dụ“Câu hát
căng buồm” gợi lên niềm vui, sự phấn khởi, tình yêu lao động, tinh thần lạc quan của
những con người lao động mới.
“Đoàn thuyền đánh cá” thể hiện tư tưởng, quan điểm của nhà thơ về cuộc sống: Đó
là cảm hứng mới về thiên nhiên, đất nước, cái nhìn mới mẻ đối với công việc lao động
và người lao động trong công cuộc xây dựng đất nước

20
Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên
biển trong đêm trăng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Với việc sử biện pháp tu từ ẩn dụ “lái gió”, “buồm trăng” cho chúng ta hình dung cảnh
đoàn thuyền ra khơi có người cầm lái là gió và trăng làm cánh buồm; giữa biển cả bao la,
con thuyền vốn nhỏ bé giờ đây bỗng trở nên kì vĩ, khổng lồ, mang sức mạnh và vẻ đẹp của
vũ trụ. Tác giả cũng đã sử dụng rất thành công thủ pháp phóng đại “Lướt giữa mây cao với
biển bằng” để đặc tả cảnh đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường. Còn phép đối “mây
cao” với “biển bằng” cũng góp phần tạo nên nét đẹp kì vĩ của không gian; đó là không gian
bao la, rộng lớn của biển khơi, trên là “mây cao”, dưới là “biển bằng” và nổi bật giữa
không gian bao la ấy là hình ảnh đoàn thuyền, hình ảnh những con người lao động làm chủ
cuộc đời, làm chủ tương lai.
Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối
với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Ở đây tác giả dùng phép liệt kê “ cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” để làm nổi bật sự đa
dạng và giàu có của biển khơi. Với bút pháp so sánh những con cá song như ngọn đuốc đen
hồng lấp lánh lao đi trong luồng nước, cùng biện pháp tu từ ẩn dụ “đuốc đen hồng” khiến
cảnh biển trong đêm trở nên lung linh, huyền ảo, đầy sức sống. Nghệ thuật nhân hóa kết
hợp với sự phối màu sắc tài tình ta như thấy được ánh trăng in xuống mặt nước, những con
cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe trên mặt biển đã tạo nên một bức tranh
sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo. Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng
nghe tiếng sóng vỗ rì rầm: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”.
Tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh đẹp khiến công việc lao động nặng nhọc của
người đánh cá trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Với động từ “hát, gọi” đã thể hiện được tinh thần lạc quan, yêu đời của những người dân
chài. “Trăng” được nhân hóa qua từ “gõ thuyền” cho ta cảm nhận được trăng in bóng
xuống dòng nước, sóng xô bóng trăng trong nước gõ vào mạn thuyền, tạo nên nhịp trăng
gõ thuyền để lùa cá vào lưới. Thiên nhiên và con người giờ đây như cùng một nhịp lao
động, gắn bó và hài hòa với nhau. Tác giả lại thành công trong việc sử dụng nghệ thuật
nhân hóa và phép so sánh “biển” như “ lòng mẹ” để khẳng định biển cả đối với ngư dân
trở nên thật ấm áp, bao dung như người mẹ hiền chở che, nuôi nấng họ lớn lên, lại cho họ
nhiều tôm, cá... Biển không chỉ đẹp, giàu có mà còn rất ân tình.

21
Sau một đêm lao động vất vả khẩn trương, họ đã gặt hái được những thành quả lao động
xứng đáng :
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” ca ngợi vẻ đẹp khỏe khoắn
của người dân chài trong lao động; đồng thời cũng gợi tả việc được mùa cá, thành quả lao
động mĩ mãn sau chuyến ra khơi. Với cách phối màu sắc tài tình giữa màu vàng của đuôi
cá, màu bạc của vẩy cá dưới ánh rạng đông đều sáng lấp lánh, tuyệt đẹp. Việc sử dụng
phép liệt kê, hoán dụ “Vẩy bạc, đuôi vàng” đã thể hiện niềm vui tươi trong lao động của
người dân chài vì khoang thuyền đầy ắp cá. “Nắng hồng” không những khắc họa được vẻ
đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn thể hiện được lòng yêu đời, yêu thiên nhiên. Màu hồng
của một ngày mới, một cuộc đời mới đang chào đón mọi người.
Nhưng có lẽ bài ca lao động ngân vang hào hùng nhất, hay nhất ở khổ thơ cuối, diễn tả
cảnh trở về của đoàn thuyền trong khung cảnh bình minh rực rỡ, tráng lệ:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
Thời gian, không gian có khác nhưng hình ảnh vẫn thế, âm hưởng vẫn thế: hào hứng như
lúc ra đi, vẫn không khí khẩn trương ấy. Từ “hát'” lại một lần nữa xuất hiện thể hiện niềm
vui lao động đến say sưa của dân chài nhưng đây là tiếng hát mừng vui thắng lợi. “Đoàn
thuyền” được nhân hóa kết hợp với phép nói quá thể hiện khí thế, sức mạnh của đoàn
thuyền lướt sóng như chạy đua với thời gian để nhanh chóng trở về bến; đồng thời cũng
nâng cao tầm vóc con người trước vũ trụ bao la, rộng lớn. Khép lại bài thơ là cảnh bình
minh trên bãi biển và thành quả lao động của đoàn thuyền đánh cá :
“Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Hình ảnh nhân hoá “mặt trời đội biển” đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn, ánh sáng
của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang “màu mới” cho cuộc
sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Tác giả cũng thành
công trong việc sử dụng phép tu từ ẩn dụ “ đội biển” đã cho thấy sức sống mạnh mẽ, tràn
đầy nhiệt huyết của những con người nơi đây và “màu mới” muốn nói đến ý nghĩa sâu xa
hơn đó là màu của hạnh phúc, ấm no, màu của người lao động tự do làm việc trên chính
vùng trời, vùng biển của quê hương sau bao năm tháng chịu cảnh nô lệ. Đẹp nhất là hình
ảnh đặc tả “mắt cá huy hoàng”, đây là hình ảnh hoán dụ miêu tả mắt cá với những con cá
nối nhau, xếp lên nhau, trải dài trên bãi cát, mỗi mắt cá là một mặt trời nhỏ cho kết quả của
chuyến đánh cá trên biển thật bội thu. Tại sao mắt cá lại “huy hoàng” ? Phải chăng là miêu
tả ánh sáng đẹp, rạng rỡ, là biểu hiện niềm vui trong mắt người, biểu tượng cho một tương
lai, cuộc sống mới đang khởi sắc trên “muôn dặm phơi'”.
Từ công việc bình thường của một buổi đánh cá đêm trên biển Huy Cận đã nói lên
một điều mới mẻ: Cuộc sống mới tạo nên những tầm vóc mới cho con người lao động,
thiên nhiên đất nước đẹp, giàu qua cái nhìn của nghệ sĩ cách mạng. Âm hưởng của

22
bài thơ như một khúc tráng ca khoẻ khoắn, sau sưa, bay bổng, ca ngợi con người
trong lao động với tinh thần làm chủ.
3. Kết bài:
“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi
biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao
động cần cù, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của Huy Cận và nghệ
thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự. Những người lao động mới đang
kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Bởi vậy ý kiến của
Nguyễn Đình Thi thất đúng đối với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận
……………………………………………………………………………………………….
Đề 8: “Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái
đẹp”.
Hãy khám phá “xứ sở của cái đẹp” qua văn bản “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy
Cận, SGK Ngữ văn 9, tập 1.
1. Mở bài:
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận vừa là một bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ,
vừa là một khúc ca hào hùng về những người đánh cá trên biển cả bao la của Tổ quốc. Mỗi
người dân làng chài thật phấn khởi, say mê với công việc của mình trong tư thế thực sự
làm chủ biển trời, làm chủ cuộc đời mới. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Niềm vui của nhà
văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”.
2. Thân bài:
Thế nào là nhà văn chân chính? Phải chăng nhà văn chân chính là nhà văn luôn đặt
mục đích sáng tác vào con người và cuộc sống. Đem ngòi bút của mình phục vụ đời
sống và có ích cho con người.
Còn xứ sở của cái đẹp trong tác phẩm văn học lại được thể hiện ở hai phương diện
nội dung và hình thức. Vẻ đẹp nội dung là vẻ đẹp của tự nhiên và con người trong lao
động, chiến đấu,… mà nhà văn mang tới cho người đọc. Vẻ đẹp hình thức là khả
năng xây dựng được những hình tượng nghệ thuật sinh động, độc đáo, hấp dẫn. Là
khả năng kết cấu chặt chẽ, tình huống hợp lí và khả năng sử dụng ngôn từ điêu
luyện... Cả hai phương diện nội dung và hình thức không chỉ đem lại cho người đọc
những rung cảm thẩm mĩ mà còn làm cho con người yêu cuộc sống, khao khát hướng
tới những gì đẹp đẽ tốt lành cho cuộc đời.
Để người đọc cảm nhận được xứ sở của cái đẹp đó thì nhà văn chân chính là người
dẫn đường cho người đọc khám phá cảm nhận. Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc của
nhà văn.
Năm 1958, miền Bắc được hòa bình, nhân dân làm chủ cuộc đời, làm chủ đất nước, tác
giả đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh chứng kiến cuộc sống mới của người lao động.
Trước hết xứ sở của cái đẹp trong “Đoàn thuyền đánh cá” được thể hiện ở vẻ đẹp
của thiên nhiên vùng biển Hạ Long:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa”
Mặt trời từ từ lặn xuống lòng biển được tác giả ví như “ hòn lửa” đỏ rực. Với cách so
sánh này, làm hiện ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây
ngất lòng người.

23
Theo nhịp bước vận động của thời gian, của một chuyến hành trình tiến ra khơi xa
của đoàn thuyền đánh cá, mọi vẻ đẹp và sự giàu có trù phú của biển cả như dần hiện
ra:
“ Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”
Phép liệt kê “cá bạc, cá thu” cho thấy sự giàu có của biển khơi. Ý thơ càng rõ nét hơn
qua hình ảnh liên tưởng tưởng tượng và phép so sánh “như đoàn thoi”; từng đàn cá thu bơi
lội tung tăng, di chuyển nhịp nhàng, đông đúc như những con thoi đang kéo sợi để dệt nên
những tấm lưới đầy màu sắc. Ở đây ta thấy có sự độc đáo trong cách dùng phép nhân hóa
“dệt biển” và hình thức ẩn dụ “muôn luồng sáng” khiến ta hình dung những vệt nước lấp
lánh khi đàn cá bơi lội, cả những tấm lụa đầy màu sắc gợi cảnh biển thất đẹp dưới những
ánh sáng kì diệu. Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn
thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
Với việc sử biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ “lái gió”, “buồm trăng” cho chúng ta hình
dung cảnh đoàn thuyền ra khơi có người cầm lái là gió và trăng làm cánh buồm; giữa biển
cả bao la, con thuyền vốn nhỏ bé giờ đây bỗng trở nên kì vĩ, khổng lồ, mang sức mạnh và
vẻ đẹp của vũ trụ. Tác giả cũng đã sử dụng rất thành công thủ pháp phóng đại “Lướt giữa
mây cao với biển bằng” để đặc tả cảnh đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường. Còn
phép đối “mây cao” với “biển bằng” cũng góp phần tạo nên nét đẹp kì vĩ của không gian;
đó là không gian bao la, rộng lớn của biển khơi, trên là “mây cao”, dưới là “biển bằng”.
Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ
đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Ở đây tác giả dùng phép liệt kê “ cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” để làm nổi bật sự đa
dạng và giàu có của biển khơi. Với bút pháp so sánh những con cá song như ngọn đuốc đen
hồng lấp lánh lao đi trong luồng nước, cùng biện pháp tu từ ẩn dụ “đuốc đen hồng” khiến
cảnh biển trong đêm trở nên lung linh, huyền ảo, đầy sức sống. Nghệ thuật nhân hóa kết
hợp với sự phối màu sắc tài tình ta như thấy được ánh trăng in xuống mặt nước, những con
cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe trên mặt biển đã tạo nên một bức tranh
sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo. Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng
nghe tiếng sóng vỗ rì rầm: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”; câu thơ với hình ảnh nhân
hóa đẹp, đêm được miêu tả như một sinh thể sống của đại dương, tiếng thở của biển đêm
chính là ánh sao lùa sóng nước.
Xứ sở của cái đẹp còn là vẻ đẹp của cảnh bình minh tươi sáng, tinh khôi, tràn đầy sức
sống:
“Mặt trời đội biển nhô màu mới”

24
Hình ảnh nhân hoá “mặt trời đội biển” đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn, ánh sáng
của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang “màu mới” cho cuộc
sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến.
Xứ sở của cái đẹp trong “Đoàn thuyền đánh cá” còn được thể hiện ở vẻ của con
người khi ra khơi đánh cá với sự hào hứng, hăng say, phấn khởi tràn đầy hy vọng:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Hình ảnh hoán dụ “đoàn thuyền đánh cá” và phụ từ “lại” diễn tả nhịp điệu lao động của
người dân chài đã ổn định, nề nếp. Đồng thời cho ta hiểu đây là công việc, là hoạt động
hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân
vùng biển. Trong hoàn cảnh thiên nhiên đi vào nghỉ ngơi, còn con người lại bắt tay vào lao
động đây là sự đối lập giữa thiên nhiên và con người, từ đó gợi lên cả nhịp sống thanh bình
của quê hương, đất nước. Với nghệ thuật ẩn dụ“Câu hát căng buồm” gợi lên niềm vui, sự
phấn khởi, tình yêu lao động, tinh thần lạc quan của những con người lao động mới.
Xứ sở của cái đẹp trong “Đoàn thuyền đánh cá” còn được thể hiện khi đánh cá trên
biển: Con người với khí thế hăng hái, tư thế hùng dũng mạnh mẽ, với niềm vui phơi
phới, lạc quan, với lòng yêu mến, biết ơn biển, với ý chí quyết tâm và sự nỗ lực khẩn
trương:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
“Trăng” được nhân hóa qua từ “gõ thuyền” cho ta cảm nhận được trăng in bóng xuống
dòng nước, sóng xô bóng trăng trong nước gõ vào mạn thuyền, tạo nên nhịp trăng gõ
thuyền để lùa cá vào lưới. Thiên nhiên và con người giờ đây như cùng một nhịp lao động,
gắn bó và hài hòa với nhau. Tác giả lại thành công trong việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa
và phép so sánh “biển” như “ lòng mẹ” để khẳng định biển cả đối với ngư dân trở nên thật
ấm áp, bao dung như người mẹ hiền chở che, nuôi nấng họ lớn lên, lại cho họ nhiều tôm,
cá... Biển không chỉ đẹp, giàu có mà còn rất ân tình.
Cuối cùng, khi trở về con người lại tràn đầy niềm vui, niềm tự hào, với tư thế tự tin,
thắng lợi:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Thời gian, không gian có khác nhưng hình ảnh vẫn thế, âm hưởng vẫn thế: hào hứng như
lúc ra đi, vẫn không khí khẩn trương ấy. Từ “hát'” lại một lần nữa xuất hiện thể hiện niềm
vui lao động đến say sưa của dân chài nhưng đây là tiếng hát mừng vui thắng lợi. “Đoàn
thuyền” được nhân hóa kết hợp với phép nói quá thể hiện khí thế, sức mạnh của đoàn
thuyền lướt sóng như chạy đua với thời gian để nhanh chóng trở về bến; đồng thời cũng
nâng cao tầm vóc con người trước vũ trụ bao la, rộng lớn. Tác giả cũng thành công trong
việc sử dụng phép tu từ ẩn dụ “ đội biển” đã cho thấy sức sống mạnh mẽ, tràn đầy nhiệt
huyết của những con người nơi đây và “màu mới” muốn nói đến ý nghĩa sâu xa hơn đó là

25
màu của hạnh phúc, ấm no, màu của người lao động tự do làm việc trên chính vùng trời,
vùng biển của quê hương sau bao năm tháng chịu cảnh nô lệ. Tại sao mắt cá lại “huy
hoàng” ? Phải chăng là miêu tả ánh sáng đẹp, rạng rỡ, là biểu hiện niềm vui trong mắt
người, biểu tượng cho một tương lai, cuộc sống mới đang khởi sắc trên “muôn dặm phơi'”.
Xứ sở của cái đẹp trong “Đoàn thuyền đánh cá” không chỉ đẹp về nội dung mà còn
đẹp về nghệ thuật, được thể hiện: Thể thơ 7 chữ, cách gieo vần biết hóa linh hoạt. Âm
hưởng thơ khỏe khoắn sôi nổi vừa phơi phới, bay bổng vừa ngọt ngào, tha thiết. Kết
cấu đầu cuối tương ứng thể hiện trọn vẹn hành trình ra khơi đánh cá và trở về. Bút
pháp tả thực kết hợp với lãng mạn. Hình ảnh thơ kì vĩ tráng lệ, sử dụng linh hoạt các
biện pháp tu từ: liệt kê, ẩn dụ, hình ảnh so sánh, nhân hóa đẹp được sáng tạo bằng
cảm hứng lãng mạn, cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về lao động.
3. Kết bài:
Cái đẹp trong tác phẩm văn học vô cùng đa dạng, phong phú được khơi nguồn kết
tinh từ cuộc sống. Với bài thơ “Đoàn thuyền dánh cá” thì đó là vẻ đẹp của thiên
nhiên, của những con người lao động cần cù, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Yêu
cái đẹp của văn chương là chúng ta yêu tấm lòng của nhà văn. Họ là những kĩ sư tâm
hồn đốt cháy mình để có được ánh sáng, niềm vui dẫn ta đến bến bờ xứ sở của cái đẹp
trong cuộc sống.
………………………………………………………………………………………………
Đề 9: Cảm nhận của em về “Sự giao thoa giữa cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ và cảm
hứng về lao động” trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận (SGK Ngữ văn 9 ,
tập một).
1. Mở bài:
“ Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Huy Cận ( 1919 - 2005), quê ở Hà Tĩnh, là một khuôn mặt tiêu biểu của phong trào thơ
mới. Thơ ông trước cách mạng tháng tám nhân vật trữ tình thường cô đơn, nhỏ bé, lạc
lõng, bơ vơ trong vũ trụ bao la. Chính cách mạng tháng tám kì diệu và cuộc sống mới sau
cách mạng đã đem tới cho nhà thơ một cái nhìn ấm áp, tươi trẻ, tràn đầy niềm tin yêu vào
cuộc sống, vào con người. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của ông là một minh chứng về
điều đó. Bài thơ ra đời năm 1958, đó vừa là một bức tranh đẹp đẽ, vừa là một khúc ca hào
hùng về những người đánh cá trên biển cả bao la của Tổ quốc. Trong bài thơ, nhà thơ đã
làm nổi bật được sự giao thoa giữa cảm hứng thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng lao
động của con người. Tất cả được tạo nên bởi tài năng nghệ thuật của ông trong việc
miêu tả mối tương quan giữa con người và thiên nhiên.
2. Thân bài:
Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn trên biển, vừa diễm lệ huy hoàng, vừa đầy sức sống
trên biển:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền lại ra khơi

26
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Mặt trời từ từ lặn xuống lòng biển được tác giả so sánh như “ hòn lửa” đỏ rực, làm hiện
ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây ngất lòng người.
Với nghệ thuật nhân hóa “ sóng cài then, đêm sập cửa” khiến thiên nhiên như những con
người biết hoạt động, biết nghỉ ngơi. Trong hoàn cảnh thiên nhiên đi vào nghỉ ngơi, còn
con người lại bắt tay vào lao động. Với nghệ thuật ẩn dụ “Câu hát căng buồm” gợi lên
niềm vui, sự phấn khởi, tình yêu lao động, tinh thần lạc quan của những con người lao
động mới. Giờ đây niềm vui tràn ngập ấm áp giao thoa trong cảnh và người.
Sự giao thoa trong cảnh và người còn thể hiện niềm mong ước một chuyến ra khơi
đánh bắt được thật nhiều hải sản giữa sự giàu đẹp của biển khơi:
“ Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Qua hình ảnh liên tưởng tưởng tượng và phép so sánh “như đoàn thoi”; từng đàn cá thu
bơi lội tung tăng, di chuyển nhịp nhàng, đông đúc như những con thoi đang kéo sợi để dệt
nên những tấm lưới đầy màu sắc. Cụm từ “Cá ơi” được nhân hóa một cách tài tình, khéo
léo cứ như người dân chài muốn cất tiếng gọi cá đến dệt lưới, gợi lên niềm vui của người
dân chài, hứa hẹn một chuyến về bội thu.
Sự giao thoa hai nguồn cảm hứng ở 4 khổ thơ này rất rõ, cảm hứng lãng mạn và
cảm hứng vũ trụ đã tạo ra cảnh bắt cá của đoàn thuyền dưới đêm trăng tuyệt đẹp,
hùng tráng, mơ mộng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Với việc sử biện pháp tu từ ẩn dụ “lái gió”, “buồm trăng” cho chúng ta hình dung cảnh
đoàn thuyền ra khơi có người cầm lái là gió và trăng làm cánh buồm. Tác giả cũng đã sử
dụng rất thành công thủ pháp phóng đại “Lướt giữa mây cao với biển bằng” để đặc tả cảnh
đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường. Hằng đêm, người dân chài phải vượt qua bao
nhiêu dặm biển trong cảnh trời đêm, ra đậu ngoài khơi xa và phải “dò bụng biển” để có thể
tìm được các bãi cá. Sau đó những chiếc thuyền sẽ tỏa ra, thả lưới bủa vây để đánh bắt cá.
Qua đó thể hiện niềm vui phơi phới, khỏe khoắn của người lao động làm chủ công việc của
mình với sự hào hứng, hăng say.
Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối
với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Với bút pháp so sánh những con cá song như ngọn đuốc đen hồng lấp lánh lao đi trong
luồng nước, cùng biện pháp tu từ ẩn dụ “đuốc đen hồng” khiến cảnh biển trong đêm trở
nên lung linh, huyền ảo, đầy sức sống. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với sự phối màu sắc
27
tài tình ta như thấy được ánh trăng in xuống mặt nước, những con cá quẫy đuôi như quẫy
ánh trăng tan ra vàng chóe trên mặt biển đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc,
ánh sáng, lung linh huyền ảo. Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì
rầm: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh đẹp khiến công việc lao động nặng nhọc của
người đánh cá trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”
Với động từ “hát, gọi” đã thể hiện được tinh thần lạc quan, yêu đời của những người dân
chài. “Trăng” được nhân hóa qua từ “gõ thuyền” cho ta cảm nhận được thiên nhiên và con
người giờ đây như cùng một nhịp lao động, gắn bó và hài hòa với nhau.
Sau một đêm lao động vất vả khẩn trương, họ đã gặt hái được những thành quả lao động
xứng đáng :
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” ca ngợi vẻ đẹp khỏe
khoắn của người dân chài trong lao động; đồng thời cũng gợi tả việc được mùa cá, thành
quả lao động mĩ mãn sau chuyến ra khơi. Với cách phối màu sắc tài tình giữa màu vàng
của đuôi cá, màu bạc của vẩy cá dưới ánh rạng đông đều sáng lấp lánh, tuyệt đẹp. Việc sử
dụng phép liệt kê, hoán dụ “vảy cá, đuôi cá” đã thể hiện niềm vui tươi trong lao động của
người dân chài vì khoang thuyền đầy ắp cá. “Nắng hồng” không những khắc họa được vẻ
đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn thể hiện được lòng yêu đời, yêu thiên nhiên. Màu hồng
của một ngày mới, một cuộc đời mới đang chào đón mọi người.
Nhưng có lẽ sự giao thoa trong cảnh và người hào hùng nhất, hay nhất vẫn ở khổ
thơ cuối, diễn tả cảnh trở về của đoàn thuyền trong khung cảnh bình minh rực rỡ,
tráng lệ:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Thời gian, không gian có khác nhưng hình ảnh vẫn thế, âm hưởng vẫn thế: hào hứng như
lúc ra đi, vẫn không khí khẩn trương ấy. Từ “hát'” lại một lần nữa xuất hiện thể hiện niềm
vui lao động đến say sưa của dân chài nhưng đây là tiếng hát mừng vui thắng lợi. “Đoàn
thuyền” được nhân hóa kết hợp với phép nói quá thể hiện khí thế, sức mạnh của đoàn
thuyền lướt sóng như chạy đua với thời gian để nhanh chóng trở về bến; đồng thời cũng
nâng cao tầm vóc con người trước vũ trụ bao la, rộng lớn. Hình ảnh nhân hoá “mặt trời đội
biển” đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn, ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đến
màu của cảnh vật mà còn mang “màu mới” cho cuộc sống mà những người lao động đang
từng ngày, từng giờ cống hiến. Đẹp nhất là hình ảnh đặc tả “mắt cá huy hoàng”, đây là
hình ảnh hoán dụ miêu tả mắt cá với những con cá nối nhau, xếp lên nhau, trải dài trên bãi
cát, mỗi mắt cá là một mặt trời nhỏ cho kết quả của chuyến đánh cá trên biển thật bội thu.
28
Tại sao mắt cá lại “huy hoàng” ? Phải chăng là miêu tả ánh sáng đẹp, rạng rỡ, là biểu hiện
niềm vui trong mắt người, biểu tượng cho một tương lai, cuộc sống mới đang khởi sắc trên
“muôn dặm phơi'”.
Sự giao thoa giữa hai nguồn cảm hứng: vũ trụ và cảm hứng cách mạng – ca ngợi
người lao động đã tạo cho bài thơ những hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, tráng lệ, độc
đáo, thực mà mộng, biểu hiện niềm say sưa, hào hứng và những ước mơ bay bổng của
con người muốn hòa hợp với thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên.
Đây cũng là niềm vui của nhà thơ trước cuộc sống mới, con người lao động mới.
Tâm hồn Huy Cận không còn ảo não, bơ vơ trong cái tôi lẻ loi trước vũ trụ mà đã
thực sự hòa vào cái ta chung của đất nước, con người. Có thể nói đây là bài thơ hay
nhất của Huy Cận trong thời kì đó.
3. Kết bài:
Với tài năng nghệ thuật của mình, Huy Cận đã mang đến bao hấp dẫn cho người đọc
trong tác phẩm của mình. “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động vừa thể hiện được
vẻ đẹp của thiên nhiên lại vừa ca ngợi được vẻ đẹp của con người trong mối quan hệ với
thiên nhiên, vũ trụ và sự cần cù trên con đường làm giàu cho đất nước
……………………………………………………………………………………………….
Đề 10: Trăng trong thơ hiện đại
1. Mở bài
Có thể nói trăng là sự kết tinh của những gì đẹp nhất, tinh túy nhất, vẻ đẹp của nó đủ để
làm mê đắm tâm hồn thi nhân. Trăng như một người bạn hữu gắn bó bền chặt với con
người. Ánh trăng dát vàng lung linh, ánh sáng dịu nhẹ ấy tỏa lan mọi nẻo đường, nó như
chạm đến cả tâm hồn thi nhân. Bởi vậy mà trăng luôn là bến đợi, bến chờ của nhiều tác giả.
Họ đã đi sâu vào khám phá mọi khía cạnh trong vẻ đẹp của ánh trăng bằng sự cảm nhận
tinh tế và sâu sắc. Và sự khám phá ấy như được thấm nhuần qua từng câu thơ, từng trang
viết. Hình ảnh Ánh trăng đã đi vào thơ ca với vẻ đẹp vĩnh hằng, giờ đây nó như hiện hữu
bất diệt trong các bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận; “Đồng chí” của
Chính Hữu và “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Đó đều là những thi phẩm tràn ngập ánh
trăng.
2. Thân bài :
Sự khám phá ánh trăng ở những góc nhìn và cảm nhận khác biệt nhưng ba nhà thơ đều
gặp nhau ở một điểm đó là xem trăng như là người bạn gần gũi để bộc lộ tâm tư tình cảm,
người bạn chứng kiến mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Trăng trong cả ba bài thơ đều là hình
ảnh thiên nhiên đẹp, trong sáng, người bạn tri kỷ của con người trong cuộc sống lao động
và chiến đấu, trong sinh hoạt hàng ngày.
“Trăng” trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu lại hiện lên trong đêm phục kích chờ
giặc của những người lính. Trăng như một chứng nhân của tình đồng chí đồng đội giữa
những người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu gian khổ. Trăng là hình ảnh vừa hiện thực vừa
lãng mạn, là biểu tượng cho sự thanh bình của cuộc sống, là chất thơ vút lên giữa hoàn
cảnh chiến tranh khốc liệt. Trăng còn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ: lạc quan
và lãng mạn.
“ Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
29
Đầu súng trăng treo”
Người lính lại có thêm vầng trăng làm bạn, trăng xuất hiện đột ngột chính vì vậy, người
lính không chỉ được sưởi ấm bởi tình đồng đội mà còn có vầng trăng ở bên cạnh để làm
bạn khiến cho tâm hồn lính tràn ngập ánh trăng. Cuộc chiến dù có gian khổ, dù có hi sinh.
Nhưng cũng có những phút giây trong trẻo và mộng mơ.
Bài thơ “Đồng Chí” quả thực là một thi phẩm tràn ngập ánh trăng. Nó thể hiện rõ phong
cách thơ Chính Hữu. Ngôn ngữ thơ hàm sức, mộc mạc, trong từng hình ảnh, từng câu chữ
mà gợi lên nhiều ý nghĩa. Câu thơ chắc gọn bên ngoài mà ẩn chứa một tâm hồn thiết tha,
da diết bên trong. Có thể nói, nét độc đáo và đặc sắc nhất trong cách thể hiện của Chính
Hữu là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn. Nhà thơ đã
xây dựng hình ảnh mang tính biểu tượng sâu sắc “Súng” và “trăng” là gần và xa, là thực tại
và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ. Phải chăng đó là
cách thể hiện rất riêng trong thơ Chính Hữu?
Còn trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận: “Trăng” xuất hiện trong khung
cảnh lao động đánh bắt cá ngoài khơi của người ngư dân. Trăng như cánh buồm chắp cánh
cho niềm vui trong lao động, nâng bổng tinh thần hào hứng hăng say của con người. Trăng
là nét vẽ tài tình tạo nên bức tranh sơn mài của biển đêm tráng lệ, rực rỡ sắc màu.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
Trăng như soi rõ hơn cho con người phát hiện ra luồng cá, con người như hòa nhập vào
thiên nhiên bát ngát trong cái thơ mộng của “trời, biển, gió, trăng”. Với việc sử biện pháp
tu từ ẩn dụ “buồm trăng” cho chúng ta hình dung cảnh đoàn thuyền ra khơi có trăng làm
cánh buồm; giữa biển cả bao la, con thuyền vốn nhỏ bé giờ đây bỗng trở nên kì vĩ, khổng
lồ, mang sức mạnh và vẻ đẹp của vũ trụ.
“ Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”
“ Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”
Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với sự phối màu sắc tài tình qua việc sử dụng tính từ chỉ
màu sắc “vàng chóe”… ta như thấy được ánh trăng in xuống mặt nước, những con cá quẫy
đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe trên mặt biển đã tạo nên một bức tranh sơn mài
nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo. “Trăng” trong câu“ Gõ thuyền đã có “nhịp
trăng cao” được nhân hóa qua từ “gõ thuyền” cho ta cảm nhận được trăng in bóng xuống
dòng nước, sóng xô bóng trăng trong nước gõ vào mạn thuyền, tạo nên nhịp trăng gõ
thuyền để lùa cá vào lưới. Thiên nhiên và con người giờ đây như cùng một nhịp lao động,
gắn bó và hài hòa với nhau.
Huy Cận đã sáng tạo hình ảnh đẹp, độc đáo qua cách sử dụng màu sắc, sử dụng các thủ
thuật nghệ thuật như ẩn dụ, nhân hóa. Từng câu thơ đều thấm đượm bao sức sống mãnh
liệt của người dân vùng biển cũng thấm đượm ánh trăng. Đó chính là cách thể hiện rất
riêng trong thơ Huy Cận.
“Trăng” xuất hiện trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy lại gắn liền với những kỉ
niệm của cuộc đời một người lính. Trong quá khứ: gắn với tuổi thơ hồn nhiên của nhân vật
trữ tình; là “tri kỉ” của tác giả những tháng năm chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể

30
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.”
Trong hiện tại trăng là “người dưng” đột ngột gặp lại trong một đêm thành phố mất điện,
khiến nhà thơ giật mình:
“Thình lình đèn điện tắt,
đột ngột vầng trăng tròn
Sự đối lập giữa “phòng tối om” với “vầng trăng tròn” đây là không gian thực, thời điểm
thực. Điện tắt sẽ thấy trăng. Nhưng sâu xa hơn ý nghĩa của sự đối lập nằm ở chiều sâu biểu
tượng của vầng trăng tròn: trăng vẫn đầy đặn, vẫn thuỷ chung, nguyên vẹn như xưa và ánh
trăng ấy đang chiếu sáng cái tối om của căn phòng hay chính là cái tối đen của con người
Ánh trăng làm sáng lên góc tối ở con người, đánh thức sự ngủ quên, lãng quên quá khứ
trong điều kiện sống của con người hoàn toàn khác trước. Đây là bài học về đạo lí làm
người, day dứt và suy ngẫm về cách sống hiện tại của mình. Ánh trăng thức tỉnh lương
tâm, nhắc nhở con người không được lãng quên quá khứ, phải sống ân nghĩa, thuỷ chung:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Trăng vẫn là biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên. Tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để nói
trăng vẫn thủy chung, là người bạn gắn bó với con người dẫu cho bị con người lãng quên,
chối bỏ. Nghệ thuật nhân hóa “ Ánh trăng im phăng phắc”; trăng như im lặng, không nói gì
cả mà chỉ nhìn khiến cho con người giật nhắc nhở chính mình không được quên đi quá
khứ nghĩa tình, thủy chung khi xưa.
Vậy với tư cách là một độc giả đi dạo trên chuyến đò thời gian men theo dòng hoài niệm
của Nguyễn Duy, ta có thể khẳng định rằng bài thơ “Ánh trăng” là một bài thơ hay mang
đầy giá trị. Cái giá trị ấy là sự kết tinh của dòng cảm xúc sâu lắng và chất triết lí thâm trầm.
Bài thơ là sự giao nhau của tâm hồn thi sĩ với tâm sự nghĩa tình của cả một thế hệ. Chúng
hòa quyện với nhau tạo nên một tư tưởng triết lí sâu xa. Ngoài ra nguyễn Duy cũng rất
thành công khi xây dựng hình ảnh “Ánh trăng” mang ý nghĩa biểu tượng, phép nhân hóa,
ẩn dụ đầy ý nghĩa.
3. Kết bài:
Vầng trăng trong “Đồng chí”, ”Đoàn thuyền đán cá” chỉ hiện ra trong những khoảnh
khắc còn vầng trăng trong “Ánh trăng” lại gắn bó với một đời người: quá khứ, hiện tại và
có lẽ cả tương lai. Nếu như vầng trăng trong “Đồng chí”, ”Đoàn thuyền đánh cá” chỉ soi
vào phần tươi đẹp của cuộc sống con người, vào phần chính diện của cuộc đời, thì “Ánh
trăng” lại soi rọi vào góc khuất tâm hồn con người để thức tỉnh lương tri, giúp người ta biết
sống ân nghĩa, thuỷ chung. Với sự sáng tạo tài tình của ba nhà thơ, hình ảnh trăng trong ba
tác phẩm thực sự là những hình ảnh đẹp và độc đáo, để lại trong lòng độc giả những cảm
xúc dạt dào, sâu lắng.
…………………………………………………………………………………………..
Đề 11: Anh chị hãy phân tích bút pháp xây dựng hình ảnh thơ trong các bài thơ
“Đồng chí và “Ánh Trăng” và “ Đoàn thuyền đánh cá”.
1. Mở bài:

31
Nói đến thơ không chỉ nói đến nhịp điệu, vần mà còn phải nói đến hình ảnh. Thơ mà
không có hình ảnh thì không thể là thơ. Có những bài thơ hay vì xây dựng được những
hình ảnh đặc sắc tiêu biểu trong đó có bài thơ “Đồng Chí” của nhà thơ Chính Hữu, bài thơ
“Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy và bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận
2. Thân bài:
Trước hết là bút pháp xây dựng hình ảnh người đồng chí trong bài thơ “Đồng Chí”
của nhà thơ Chính Hữu. Có thể thấy nhà thơ Chính Hữu đã xây dựng hình ảnh đồng
chí bằng bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn. Từ những câu thơ đầu chúng ta
đã thấy được hình ảnh người đồng chí tả thực với những nét đẹp về quê hương xử sở,
những tình cảm gắn bó và ý chí đi lính của mình:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Với phép sóng đôi “quê anh - làng tôi”, tác giả cho thấy tình đồng chí, đồng đội bắt
nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính. Họ đều là những
người nông dân áo vải ra đi từ những miền quê nghèo khó – miền biển nước mặn, vùng đồi
núi trung du.
Trong môi trường quân đội, đơn vị thay cho mái ấm gia đinh, tình đồng đội thay cho tình
máu thịt. Cái xa lạ ban đầu nhanh chóng bị xóa đi. Sát cánh bên nhau chiến đấu, càng ngày
họ càng cảm nhận sâu sắc về sự hòa hợp, gắn bó giữa đồng đội:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
“Súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu; “đầu” biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ.
Hình ảnh sóng đôi, các điệp từ “súng, đầu, bên” tạo nên âm điệu khoẻ, chắc nhấn mạnh sự
gắn kết cùng cùng chung nhiệm vụ, chung lý tưởng, chung chiến hào chiến đấu. Họ đồng
tâm, đồng lòng, cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương. Cái khó khăn
thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải “chung chăn”. Nhưng chính sự
chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình
cảm của những người đồng đội để trở thành “đôi tri kỷ” và xưng hô với nhau vô cùng thân
thiết “Đồng chí!”
Trong bài thơ Đồng chí, hình tượng thơ có tính chất khái quát rất cao. Nhà thơ tập
trung thể hiện những nét tương đồng của nhiều người lính nông dân cầm súng để tạo
nên chân dung anh chiến sĩ Vệ quốc buổi đầu kháng chiến:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Người chiến sĩ đã phải trải qua bao khó khăn, vất vả, bệnh tật – đó là nỗi đau của những
cơn sốt rét rừng hành hạ: người nóng sốt ướt cả mồ hôi mà vẫn cứ ớn lạnh đến run người.
Với phép liệt kê “ áo rách, quần vá, chân không giày” ta thấy chân dung người lính trong
kháng chiến chống Pháp thật đơn sơ, bình dị, nghèo khổ, vất vả. Nhưng đẹp nhất là hình

32
ảnh thơ “miệng cười buốt giá”, trong cái giá rét lạnh thấu sương chỉ với manh áo mỏng, lại
còn “ chân không giày” nhưng người lính vẫn nở nụ cười thật tươi trước cuộc sống gian
khổ, thiếu thốn. Chính Hữu khép lại bài thơ bằng một hình tượng thơ tuyệt đẹp:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Đêm đã về khuya, sương mối xuống dày đặc bao phủ cả không gian đất trời. Nhưng hình
ảnh những người lính thật hiên ngang vẫn đứng cạnh bên nhau trong những giây phút căng
thẳng “chờ giặc tới”. Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”; đây là
một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa: “Súng” biểu
tượng cho chiến tranh, cho hiện thực chiến đấu khắc nghiệt, cho người chiến sĩ; “trăng”
biểu tượng cho vẻ đẹp hòa bình, cho ảo mộng và lãng mạn, cho người thi sĩ. Hai hình ảnh
“súng” và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính:
chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà lãng mạn.
Cùng với nhà thơ Chính Hữu, nhà thơ Nguyễn Duy cũng xây dựng thành công hình ảnh
ánh trăng trong bài thơ cùng tên. Bằng bút pháp tự sự kết hợp trữ tình ánh trăng mang đến
nhiều tầng nghĩa biểu tượng.
Trăng gắn liền với kỉ niệm của tuổi thơ trên quê hương yêu dấu. Trăng gắn liền với
cuộc sống chiến đấu vất vả, gian lao luôn đối mặt với kẻ thù:
“ Hồi nhỏ sống với đồng
với sông tồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Với phép liệt kê “đồng, sông, bể” đã gợi ra một không gian mênh mông, êm đềm, trong
sáng và những kỉ niệm thuổi thơ vô cùng đẹp đẽ. Khi lớn lên – trở thành người lính, vầng
trăng lại theo tác giả vào chiến trường và luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải
nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Chính vì
vậy, trăng đã trở thành “tri kỉ” của người lính.
Ta thấy người lính bước ra từ chiến tranh đã thích nghi với cuộc sống hiện đại – đầy đủ
tiện nghi, vật chất “ Ánh điện, cửa gương” con người đã quên đi vầng trăng xưa, nhưng
trăng không hề trách cứ sự thờ ơ của con người, luôn bên cạnh con người dù họ có vô tình
lãng quên nó. Tình cảm của trăng đối với người vẫn tròn đầy, vẹn nguyên không phai mờ
dù con người quay lưng, chối bỏ:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ “tròn vành vạnh” vừa tả vẻ đẹp tròn đầy, vừa gợi sự
thủy chung trước sau như một của vầng trăng, cũng là của quê hương quá khứ nghĩa tình.
Trăng không chỉ đẹp mà còn rất bao dung, độ lượng; trước sự bội bạc của con người, trăng
không một lời trách móc “kể chi người vô tình”. Nhưng độ lượng không có nghĩa là dễ dãi,
trăng cũng rất nghiêm khắc. Ánh trăng được nhân hóa “im phăng phắc”; trăng im lặng,
không một lời trách cứ; gợi liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng.

33
Cũng là lời cảnh tỉnh, nhắc nhở khiến con người “ giật mình” thức tỉnh: nhận ra sự cám dỗ
về vật chất khiến con người đánh mất đi giá trị tinh thần đẹp đẽ. “Gật mình” thức tỉnh
lương tâm không được phép lãng quên quá khứ, không được bội bạc với nghĩa tình thiêng
liêng, sâu nặng. Đồng thời giúp cho con người biết trở về, nâng niu, trân trọng quá khứ.
Đây cũng là bài học nghĩa tình, thủy chung cho mọi người: “Uống nước nhớ nguồn”
Đến với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận đã có nhiều sáng tạo trong việc
xây dựng hình ảnh đẹp bằng liên tưởng, tưởng tượng. Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng
hôn trên biển, vừa diễm lệ huy hoàng, vừa đầy sức sống:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Mặt trời từ từ lặn xuống lòng biển được tác giả so sánh như “ hòn lửa” đỏ rực, làm hiện
ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây ngất lòng người.
Với nghệ thuật nhân hóa “ sóng cài then, đêm sập cửa” khiến thiên nhiên như những con
người biết hoạt động, biết nghỉ ngơi. Hình ảnh ẩn dụ “Câu hát căng buồm” gợi lên niềm
vui, sự phấn khởi, tình yêu lao động, tinh thần lạc quan của những con người lao động mới.
Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp hình ảnh của cảnh đoàn thuyền
đánh cá trên biển trong đêm trăng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
Hình ảnh con thuyền ở đây vừa có tính hiện thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn, ta có
cảm nhận thiên nhiên cũng góp phần vào công cuộc đánh bắt cá. Trăng, sao như soi rõ hơn
cho con người phát hiện ra luồng cá, con người như hòa nhập vào thiên nhiên bát ngát
trong cái thơ mộng của “trời, biển, gió, trăng”.
Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ
đối với hình ảnh biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”
Ở đây tác giả dùng phép liệt kê “ cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” để làm nổi bật sự đa
dạng và giàu có của biển khơi. Với bút pháp so sánh những con cá song như ngọn đuốc đen
hồng lấp lánh lao đi trong luồng nước, cùng biện pháp tu từ ẩn dụ “đuốc đen hồng” khiến
cảnh biển trong đêm trở nên lung linh, huyền ảo, đầy sức sống. Nhìn bầy cá bơi lội, nhà
thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”; câu thơ với hình
ảnh nhân hóa đẹp, đêm được miêu tả như một sinh thể sống của đại dương, tiếng thở của
biển đêm chính là ánh sao lùa sóng nước.
Với cảm hứng và bút pháp lãng mạn, khổ cuối của bài thơ là bức tranh hoành tráng với
âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và ngập tràn ánh sáng:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

34
Hình ảnh nhân hoá “mặt trời đội biển” đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn, ánh sáng
của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang “màu mới” cho cuộc
sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Đẹp nhất là hình ảnh
đặc tả “mắt cá huy hoàng”, đây là hình ảnh hoán dụ miêu tả mắt cá với những con cá nối
nhau, xếp lên nhau, trải dài trên bãi cát, mỗi mắt cá là một mặt trời nhỏ cho kết quả của
chuyến đánh cá trên biển thật bội thu. Câu thơ vừa tả cảnh biển tráng lệ lúc bình minh, vừa
tả cảnh được mùa cá đẹp.
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính cách mạng và
sự gắn bó keo sơn của họ qua những chi tiết, hình ảnh ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô
đọng giàu sức biểu cảm. Còn “Đoàn thuyền đánh cá” là một khúc tráng ca lao động
hào hùng. Bằng bút pháp lãng mạn, nhịp thơ khỏe với trí tưởng tượng mới mẻ, độc
đáo Huy Cận đã ca ngợi sự giàu đẹp của biển quê hương, và đặc biệt là hình ảnh
người lao động được miêu tả với nhiều vẻ đẹp tráng lệ, khỏe khoắn. Bài thơ có nhiều
sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú độc
đáo, mang âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng và lạc quan. “Ánh trăng” là tiếng lòng,
là sự suy ngẫm riêng của Nguyễn Duy về quá khứ và hiện tại được thể hiện bằng
giọng điệu tâm tình tự nhiên, bằng hình ảnh vầng trăng giàu sức biểu cảm.
3. Kết bài:
Tóm lại cả bài thơ tuy sáng tác ở những thời kì khác nhau nhưng cùng xây dựng nên
những hình ảnh thơ đẹp về con người và thiên nhiên. Những hình tượng thơ được xây
dựng từ những ngòi bút tài tình đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể hiện sự
hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động và đời sống tinh thần đẹp đẽ, phong
phú của những con người trực tiếp cầm súng bảo vệ non sông, đất nước.
………………………………………………………………………………………
Đề 12: Trong văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” (SGK Ngữ văn 9 - tập hai), Nguyễn Đình
Thi viết: “Bắt rễ ở cuộc đời hàng ngày của con người, văn nghệ lại tạo được sự sống cho
tâm hồn người”.
Qua tác phẩm “Bếp lửa” của Bằng Việt, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
1. Mở bài:
Tác phẩm văn học là sự kết hợp giữa hiện thực đời sống và tình cảm người viết. Nhà
văn không chỉ tái hiện lại những chi tiết của đời sống mà mình mắt thấy tai nghe, mà qua
đó còn muốn gửi gắm những điều đã phản ánh ở hiện thực. Bởi vậy, Nguyễn Đình Thi viết:
“Bắt rễ ở cuộc đời hàng ngày của con người, văn nghệ lại tạo được sự sống cho tâm hồn
người”. Điều thu hút độc giả chính là sự chân thật. Sự chân thật ấy nằm ở đời sống vì độc
giả chỉ tin vào những điều có thực và gần với cuộc đời họ mà thôi. Qua tác phẩm “Bếp
lửa” của Bằng Việt ta thấy rõ điều đó, bởi những hình ảnh từ đời sống thân quen chính là
bếp lửa và người bà tần tảo, giàu đức hy sinh.
2. Thân bài:
Ý kiến của Nguyễn Đình Thi nêu lên nguồn gốc của văn nghệ - trong đó có văn học -
cũng như vai trò, ý nghĩa, tác động của văn nghệ đối với tâm hồn người tiếp nhận,
thưởng thức. Văn nghệ “bắt rễ ở cuộc đời hàng ngày của con người”: Các tác phẩm
văn học, nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực; người nghệ sĩ lấy chất liệu
sáng tác từ đời sống hàng ngày. Còn văn nghệ “tạo được sự sống cho tâm hồn người”:

35
Vì văn học, nghệ thuật giúp đời sống tinh thần của con người trở nên phong phú hơn,
làm giàu có thêm tâm hồn với những tình cảm vui - buồn, yêu thương - căm
giận….Văn nghệ góp phần nuôi dưỡng, bồi đắp thế giới tinh thần của người thưởng
thức, tiếp nhận.
Bài thơ “Bếp lửa” bắt rễ ở cuộc đời chính là cái bếp lửa bình dị, với tiếng chim tu
hú khắc khoải, cùng những khó khăn trong những năm kháng chiến người cháu cùng
bà sẻ chia những gian lao, thiếu thốn, và tình cảm của bà dành cho cháu đã trở thành
nguồn cảm hứng của Bằng Việt. Bếp lửa “tạo được sự sống cho tâm hồn” người đọc:
độc giả được cùng tác giả sống lại những năm tháng cùng bà trong tuổi ấu thơ. Bài
thơ khơi dậy trong lòng người đọc tình yêu gia đình, quê hương Việt Nam. Bắt đầu từ
hình ảnh thân thương, ấm áp:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Điệp ngữ “Một bếp lửa” là hình ảnh vô cùng bình dị, gần gũi và thân thuộc với mỗi gia
đình Việt Nam từ bao đời. Đồng thời cũng gợi bóng dáng của những người bà tần tảo thức
khuya, dậy sớm. Từ láy “chờn vờn” tả hình ảnh ngọn lửa bập bùng trong làn sương sớm,
cũng gợi lại hình bóng bà chập chờn trong kí ức tuổi thơ. “Ấp iu” tuy là một từ ghép nhưng
lại mang âm hưởng của từ láy vừa gợi tả bàn tay kiên nhẫn, khéo của bà trong công việc
nhóm lửa hằng ngày, vừa là tấm lòng đong đầy yêu thương của bà. Với phép ẩn dụ “nắng
mưa” đã gợi ra những vất vả, khó nhọc của cuộc đời bà. Từ đó, sức ấm và ánh sáng của
hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa để mở ra một chân trời đầy ắp
kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu.
Theo dòng hồi tưởng ấy, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc
nhằn ám đầy mùi khói:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Mới lên bốn tuổi nhà thơ đã phải chứng kiến một trong những thời kỳ đen tối, đói khổ
nhất của nhân dân ta do sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Điệp từ
“đói’ kết hợp với thành ngữ “đói mòn đói mỏi” gợi lên một cái đói thê lương, gieo rắc,
cuộc sống vô cùng thiếu thốn, khó khăn. Cụm từ “khô rạc ngựa gầy” gợi lại một nạn đói
mà cả động vật cũng không tìm được cái ăn, nói chi đến con người. Thế rồi cái “hun
nhèm” của làn khói ấy gợi cho ta đến một bếp lửa củi mùn, rơm rạ, của một tuổi thơ vất vả,
thiếu thốn. Bút pháp kể, tả đan xen đã đưa người đọc đến với những năm tháng đói khổ,
thiếu thốn nhưng vẫn ngập tràn yêu thương.
Và như một thước phim quay chậm, những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà ùa về:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

36
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !”
Âm thanh tiếng chim tu hú ấy như giục lúa mau chín để người nông dân mau thoát khỏi
cái đói, như khơi dậy trong bà những kỉ niệm ngày xưa ở Huế, để bắt đầu những câu
chuyện êm đềm cho tuổi thơ của cháu. Một tiếng chim đong đầy kỉ niệm đến nỗi tác giả
phải thốt lên lời cảm thán rằng “sao mà tha thiết thế !” cùng với điệp từ “tu hú” được lặp đi
lặp lại khiến lời thơ có âm điệu thật bồi hồi, tha thiết. Đồng thời còn gợi lên những nỗi nhớ
trùng điệp, vương vấn – nỗi nhớ về quá khứ càng khiến cho tác giả nhớ bà thêm thăm
thẳm, vời vợi, để dòng kỉ niệm trải dài hơn, rộng hơn, sâu hơn trong không gian xa thẳm
của nỗi nhớ thương:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
Những năm đất nước chiến tranh, bố mẹ phải đi công tác xa nhà, cháu phải sống cùng
bà. Với phép liệt kê: “Bà bảo, bà dạy, bà chăm”,…để nói trong những năm tháng ấy, bà
vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần, là cội nguồn
yêu thương của cháu. Bà không chỉ chăm lo cho cháu từng chút một mà còn là người thầy
đầu tiên dạy cho cháu bao điều về cuộc sống, những bài học của bà trở thành hành trang
cháu mang theo trong suốt quãng đời còn lại. Để rồi lời thơ như thủ thỉ một lời tâm tình
“nghĩ thương bà khó nhọc”, và một lần nữa tiếng chim tu hú lại vọng về :
“Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Câu cảm thán “Tu hú ơi !” kết hợp với câu hỏi tu từ vang lên như một lời than thở, trách
móc. Lời thơ là hỏi chim tu hú, hay là hỏi chính mình ? Phải chăng đó chính là mong ước
khôn nguôi muốn được trở lại bên bà ? Nỗi lòng của chim tu hú đâu có khác gì với nỗi
nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi
dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết.
Cũng chính chiếc thuyền đầy kỉ niệm ấy đã đưa người đọc từ dòng sông của tình bà cháu
đổ vào biển cả của lòng yêu nước, của đức hy sinh :
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh :
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”
Với động từ “cháy” được lặp lại, từ ghép “tàn rụi” được tách ra để nói chiến tranh đã gây
ra bao đau thương, mất mát, tàn phá khắp mọi nơi trên đất nước ta, cướp đi của con người
tất cả mọi thứ. Từ láy “đinh ninh” diễn tả một điều gì đó chắc chắn từ trong tâm khảm, một
lời nói nhẹ nhàng mà vẫn mạnh mẽ, trái ngược hẳn với quang cảnh “lầm lụi” xung quanh.
Dẫu túp lều tranh đã bị đốt rụi, nơi nương thân của hai bà cháu không còn, bà vẫn đứng
vững chống chọi với tất cả nghịch cảnh để dắt cháu vượt qua khó khăn. Với cách nói bình
dị, mộc mạc “ Mày, kể này, kể nọ, cứ bảo”; lời bà dặn cháu thật nôm na nhưng vô cùng

37
chân thực và cảm động – hậu phương có gian khổ, thiếu thốn, nhớ nhung, mất mát cách
mấy vẫn phải giấu đi, nén lại trong lòng cho tiền tuyến được an lòng. Bà không chỉ thương
cháu mà còn hiểu được tâm trạng của người con đang đi chiến đấu.
Vì sao mà tấm lòng người bà chứa đựng được biết bao điều như vậy ? Vì trong tấm lòng
đó luôn âm ỉ một ngọn lửa :
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Điệp từ “rồi” kết hợp với thời gian “ sớm – chiều” cho thấy cuộc đời bà luôn gắn liền
với bếp lửa; bà vẫn thức khuya, dậy sớm để nhóm lên bếp lửa yêu thương. Từ hình ảnh bếp
lửa cụ thể, tác giả đã nâng lên thành “ngọn lửa” mang ý nghĩa ẩn dụ; đó chính là ngọn lửa
của tình yêu thương, của niềm tin bất diệt và hi vọng mà bà đã gieo vào lòng cháu. Điệp
ngữ “một ngọn lửa” càng khẳng tình yêu thương ấm áp của bà dành cho cháu. Chính ngọn
lửa của lòng bà đã nhen nhóm trong lòng cháu ý chí, nghị lực và cả tình yêu cuộc sống.
Ngọn lửa ấy bà luôn “ủ sẵn” khiến ta cảm nhận được một ngọn lửa không bao giờ tắt qua
năm tháng. Từ ngọn lửa ấm nóng ấy, nhà thơ mở ra những suy ngẫm về cuộc đời bà :
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Từ láy gợi hình “lận đận” đã diễn tả cả cuộc đời vất vả của bà cùng nghệ thuật ẩn dụ “
nắng mưa” để chỉ những thăng trầm của cuộc sống càng làm đậm thêm sự hy sinh, cần
mẫn của bà. Điệp từ “nhóm” bốn lần lặp lại liên tiếp đầu mỗi câu thơ vừa nhấn mạnh công
việc nhóm bếp của bà vừa soi sáng chân dung người bà tần tảo, nhẫn nại, giàu đức hi sinh.
Bà không chỉ nhóm lên bếp lửa bằng đôi tay khéo léo để bếp lửa cháy sáng, để có nồi
khoai sắn ngọt bùi, có nồi xôi gạo mới. Từ công việc nhóm lửa hàng ngày, bà còn nhóm
lên cả những nét đẹp tâm hồn tuổi thơ cháu, bồi đắp ước mơ và tình yêu thương cho cháu.
Biện pháp tu từ hoán dụ: “khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo” gợi ra tình cảm gắn bó với
những gì giản dị, gần gũi của quê hương. Bà bồi đắp cho cháu tình đoàn kết xóm làng. Với
phép ẩn dụ: “Bếp Lửa” vừa tả thực vừa là hình ảnh biểu tượng cho lòng bà, tình yêu
thương bà dành cho cháu, trở thành kỉ vật thiêng liêng của tình bà cháu, là hành trang theo
cháu suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Phép đảo ngữ kết hợp với hình thức cảm thán thể cảm xúc sự ngỡ ngàng đến “kì lạ” khi
nghĩ về cái “bếp lửa”, một hình ảnh bình dị lại trở thành ngọn lửa trong lòng bà – ngọn lửa
của sức sống, của niền tin và lòng yêu thương. Bếp lửa đã trở thành biểu tượng cho tình
yêu thương bà, gần gũi mà “thiêng liêng. Để giờ đây, khi đang ở cách xa bà hàng nghìn
dặm, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về người bà yêu thương:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

38
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở :
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?...”
Với bút pháp liệt kê “ khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” để nhấn mạnh ở
hiện tại, người cháu đã có cuộc sống đầy đủ, ấm no hơn về vật chất cũng như tinh thần .
Thế nhưng dù ở bất cứ đâu cháu vẫn không quên được tấm lòng ấm áp, hi sinh của bà
“chẳng lúc nào quên” cho thấy sự ghi lòng tạc dạ, thủy chung son sắt với bà, với quê
hương nghèo khó, vất vả. Câu hỏi tu từ kết thúc bài thơ: “ Sớm mai này bà nhóm bếp lên
chưa ?”, khẳng định nỗi nhớ bà luôn thường trực, khắc khoải trong lòng cháu. “Bếp lửa” đã
thực sự trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng kì diệu theo nhà thơ suốt cả
cuộc đời.
Bài thơ “Bếp lửa” là minh chứng tiêu biểu cho mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc
đời, nghệ thuật và người thưởng thức văn nghệ. Bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp
lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ
về tình bà cháu, đã gieo vào lòng người những ấn tượng khó quên. Nhận định của
Nguyễn Đình Thi thật đúng đắn và có tầm khái quát cao.
3. Kết bài:
Với “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp
nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân
trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Bởi vậy, nhận
định của Nguyễn Đình Thi: “Bắt rễ ở cuộc đời hàng ngày của con người, văn nghệ lại tạo
được sự sống cho tâm hồn người”. Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt sẽ sống mãi trong lòng
mỗi chúng ta qua năm tháng.
……………………………………………………………………………………………
Đề 13: Về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, có ý kiến cho rằng: “Bài thơ chứa đựng một
triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa
sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời”.
Bằng hiểu biết về bài thơ Bếp lửa, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Bài làm:
1. Mở bài:
Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lao, trắc trở. Chính trong
những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần
vô cùng thiêng liêng và đáng quý. Những giá trị ấy, những kỉ niệm ấy sẽ tạo nên sức mạnh
nâng đỡ bước chân ta trong suốt cuộc đời dài. Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt đã soi
sáng chân lí giản đơn ấy. Bởi vậy, bàn về bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt, có ý kiến
cho rằng: “Bài thơ chứa đựng một triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của
tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài
rộng của cuộc đời”
2. Thân bài:
Đây là một ý kiến xác đáng, đã khái quát được chủ đề tư tưởng sâu sắc của bài thơ
“Bếp lửa” mà Bằng Việt muốn gửi gắm: Những gì thân thiết nhất với tuổi thơ mỗi
người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc
đời. Sức tỏa sáng ở đây là gì ? Phải chăng đây là ánh sáng của cái đẹp, của những

39
điều thiêng liêng cao đẹp, ánh sáng ấy soi rọi, cứ mãi lung linh trong tâm hồn con
người. Nó là thứ ánh sáng bất diệt. Còn “Nâng đỡ con người trong suốt hành trình
dài rộng của cuộc đời” thì sao ? Đây chính là sự nâng đỡ về tinh thần, là sự bồi đắp
tâm hồn con người. Từ ấu thơ cho tới khi trưởng thành, thậm chí đến khi con người
ta đi hết cuộc đời, những điều cao đẹp ấy vẫn nâng đỡ, là điểm tựa, là sức mạnh tinh
thần.
Bài thơ “Bếp lửa” được Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi tác giả đang học ngành
Luật ở Liên Xô. Bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà
và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu. Hình ảnh bếp lửa và
bà là cặp hình tượng nghệ thuật sóng đôi trong suốt bài thơ:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Với từ láy “chờn vờn” vừa tả từng làn khói vương vấn của bếp lửa mới nhen buổi sớm,
vừa gợi lại hình ảnh bóng bà chập chờn. “Ấp iu” tuy là một từ ghép nhưng lại mang âm
hưởng của từ láy, gợi tả bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng đong đầy yêu thương của
bà. Để rồi không cầm được cảm xúc, người cháu đã thốt lên: “Cháu thương bà biết mấy
nắng mưa”, với phép ẩn dụ “nắng mưa” đã gợi ra những vất vả, khó nhọc của cuộc đời bà.
Từ đó mở ra một chân trời đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu.
Theo dòng hồi tưởng ấy, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc
nhằn ám đầy mùi khói.
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Mới lên bốn tuổi nhà thơ đã phải chứng kiến một trong những thời kỳ đen tối, đói khổ
nhất của nhân dân ta do sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Từ “đói”
được điệp lại, từ “mòn mỏi” được tách giãn ra, gợi lên một cái đói thê lương, gieo rắc. Cái
“hun nhèm” của làn khói bếp gợi cho ta đến một bếp lửa củi mùn, rơm rạ, của một tuổi thơ
vất vả, thiếu thốn nhưng vẫn ngập tràn yêu thương.
Những năm đất nước chiến tranh, bố mẹ phải đi công tác xa nhà, cháu phải sống cùng bà:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
Với thủ pháp liệt kê: “Bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã khẳng định được bà là chỗ dựa vững
chắc về cả vật chất lẫn tinh thần. Trong những năm tháng ấy, bà vừa là cha, vừa là mẹ. Bà
không chỉ chăm lo cho cháu từng chút một mà còn là người thầy đầu tiên dạy cho cháu bao
điều về cuộc sống, những bài học của bà trở thành hành trang cháu mang theo trong suốt
quãng đời còn lại
Cùng với hình ảnh bếp lửa, hình ảnh bà tỏa sảng bởi những phẩm chất cao đẹp: bền
bỉ, kiên cường, có nghị lực vững vàng trong hoàn cảnh gian khó, có niềm tin mãnh liệt

40
vào cuộc sống; yêu thương cháu hết lòng; giàu đức hi sinh (sự hi sinh lặng thầm, cao
cả)...
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh :
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”
Câu thơ với động từ “cháy” được lặp lại, từ ghép “tàn rụi” được tách ra để nói chiến
tranh đã gây ra bao đau thương, mất mát, tàn phá khắp mọi nơi trên đất nước ta, cướp đi
của con người tất cả mọi thứ. Từ láy “đinh ninh” diễn tả một điều gì đó chắc chắn từ trong
tâm khảm, dẫu túp lều tranh đã bị đốt rụi, nơi nương thân của hai bà cháu không còn, bà
vẫn đứng vững chống chọi với tất cả nghịch cảnh để dắt cháu vượt qua khó khăn. Với cách
nói bình dị, mộc mạc “ Mày, kể này, kể nọ, cứ bảo”…Lời bà dặn cháu thật nôm na nhưng
vô cùng chân thực và cảm động – hậu phương có gian khổ, thiếu thốn, nhớ nhung, mất mát
cách mấy vẫn phải giấu đi, nén lại trong lòng cho tiền tuyến được an lòng. Bà không chỉ
cháu mà còn thương con thương cháu và sâu thẳm với một nghị lực vô cùng bền vững.
Sức tỏa sáng của hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa: Bếp lửa thật do bàn tay bà nhóm
lên, lung linh tỏa sáng, dù trong bất cứ hoàn cảnh khắc nghiệt nào. Một bếp lửa luôn
tỏa sáng trong tâm hồn, trong kí ức của cháu:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tác giả đã nâng lên thành “ngọn lửa” mang ý nghĩa khái quát,
tượng trưng; đó chính là “ngọn lửa” của niềm tin và sức sống cho đứa cháu. Điệp ngữ “một
ngọn lửa” càng khẳng định đó chính là cội nguồn của bao yêu thương, của những tần tảo
hy sinh nơi bà. Trong hình ảnh “lòng bà luôn ủ sẵn” khiến ta cảm nhận được một ngọn lửa
không bao giờ tắt qua năm tháng, một ngọn lửa bất diệt từ trong chính trái tim bà. Một lần
nữa tác giả lại thành công trong việc sử dụng nghệ thuật ẩn dụ “ngọn lửa” để khái quát lên
bà là hiện thân cho vẻ đẹp thiêng liêng của người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa. Từ
ngọn lửa ấm nóng ấy, nhà thơ mở ra những suy ngẫm về cuộc đời bà :
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Với từ láy gợi hình “lận đận” đã diễn tả cả cuộc đời vất vả của bà cùng nghệ thuật ẩn dụ
“ nắng mưa” để chỉ những thăng trầm của cuộc sống càng làm đậm thêm sự hy sinh, cần
mẫn của bà. Điệp từ “nhóm” bốn lần lặp lại liên tiếp đầu mỗi câu thơ vừa nhấn mạnh
công việc nhóm bếp của bà vừa soi sáng chân dung người bà tần tảo, nhẫn nại, giàu

41
đức hi sinh. Bà không chỉ nhóm lên bếp lửa bằng đôi tay khéo léo để bếp lửa cháy
sáng, để có nồi khoai sắn ngọt bùi, có nồi xôi gạo mới. Từ công việc nhóm lửa hàng
ngày, bà còn nhóm lên cả những nét đẹp tâm hồn tuổi thơ cháu, bồi đắp ước mơ và
tình yêu thương cho cháu. Với biện pháp tu từ hoán dụ: “khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi
gạo” gợi ra tình cảm gắn bó với những gì giản dị, gần gũi của quê hương. Bà bồi đắp
cho cháu tình đoàn kết xóm làng. Cùng với nghệ thuật ẩn dụ: “Bếp lửa” vừa tả thực
vừa là hình ảnh biểu tượng cho lòng bà, tình yêu thương bà dành cho cháu, trở thành
kỉ vật thiêng liêng của tình bà cháu, là hành trang theo cháu suốt hành trình dài rộng
của cuộc đời.
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Câu thơ với từ cảm thán “ôi” như chất chứa, dồn nén biết bao điều. Trong đó là sức mạnh
“kì lạ” đã nhóm dậy cả một chân trời kỉ niệm, cả một tuổi thơ, cả một tâm hồn. Hai tiếng
“bếp lửa”– một hình ảnh bình dị mà vô cùng cao quý, thân thuộc mà kỳ lạ. Bởi cái “bếp
lửa” đó gắn với một hình ảnh vô cùng thiêng liêng – đó chính là bà. Đến đây, ta của mới
thực sự cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của hình ảnh “bếp lửa”.
Khi cháu đã trưởng thành, đã bay cao bay xa, được tiếp xúc với những điều mới lạ,
nhưng cháu vẫn không thể quên hình ảnh bà và bếp lửa. Bà và bếp lửa vẫn là điểm tựa tinh
thần cho cháu:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở :
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?...”
Bút pháp liệt kê “ khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” như nhấn mạnh ở hiện
tại, người cháu đã có cuộc sống đầy đủ, ấm no hơn những ngày thơ ấu, đói khổ. Nhưng cho
dù có “trăm tàu, trăm nhà, trăm ngả” nhưng một niềm vui và hạnh phúc đơn sơ, nhỏ bé,
thiêng liêng về bà, về quê hương luôn chiếm vị trí quan trọng nhất trong trái tim tác giả. Bởi
vậy, cháu chẳng lúc nào quên nhắc nhở: “ Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?” Đây là
câu hỏi tu từ cùng dấu ba chấm ở cuối dòng thơ đã bộc lộ cảm xúc mãnh liệt của tác giả về
người bà kính yêu. “Bếp lửa” đã thực sự trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng
liêng kì diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.
Bài thơ “Tiếng gà trưa” cũng ghi lại những cảm xúc của người cháu khi hồi tưởng lại
những kỉ niệm tuổi thơ bên bà, với đàn gà bà nuôi:
“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng”
Hình ảnh người bà tần tảo, giàu đức hi sinh, yêu thương cháu hết mực, rồi hình ảnh những
chú gà mái, ổ trứng hồng..., tất cả đều là những hình ảnh giản dị, nhưng lại đem đến cho
cháu niềm hạnh phúc, để khi cháu trưởng thành, khi cháu đã là một người chiến sĩ thì những
hình ảnh ấy vẫn là điểm tựa tinh thần, là động lực thôi thúc cháu chiến đấu bảo vệ quê
hương đất nước...
Tác giả đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh thơ vừa cụ thể, gần gũi, vừa gợi
nhiều liên tưởng mang ý nghĩa biểu tượng. Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phù hợp

42
với giọng điệu cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả, tự sự,
nghị luận và biểu cảm.
3. Kết bài:
Với “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp
nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân
trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Bởi vậy, ý
kiến “Bài thơ chứa đựng một triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi
thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng
của cuộc đời" thật đúng với bài thơ “Bếp lửa”
………………………………………………………………………………………………
Đề 14: Văn chương gây cho ta những tình cảm không có, luyện cho ta những tình cảm sẵn
có.
Bằng hiểu biết của em về bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
1. Mở bài:
Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lao, trắc trở. Chính trong
những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần
vô cùng thiêng liêng và đáng quý. Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt thể hiện rõ điều đó,
với tình bà cháu thiêng liêng, sâu nặng. Chính điều ấy, đã gây cho ta bao kỷ niệm về
tuổi ấu thơ, khiến ta thêm yêu mến hơn những người bà, người mẹ. Bởi vậy, có ý
kiến cho rằng: “Văn chương gây cho ta những tình cảm không có, luyện cho ta những
tình cảm sẵn có”.
2. Thân bài:
Phải chăng Hoài Thanh muốn khẳng định: Văn chương gây cho ta những tình cảm
ta không có, tức là khẳng định các tác phẩm văn chương có khả năng khơi dậy những
tình cảm, rung cảm đẹp đẽ cho mỗi người khi tiếp cận tác phẩm. Ngoài ra ông còn
khẳng định: Văn chương luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có, tức là nhấn mạnh
khả năng văn chương bồi đắp tâm hồn, tình cảm của mỗi người thêm sâu sắc, thêm
đẹp đẽ, bền vững. Nhận định đã khái quát một cách sâu sắc hai vấn đề: Khái quát
quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương đều xuất phát từ tình cảm, cảm xúc của
tác giả và bạn đọc; khái quát chức năng giáo dục và thẩm mỹ của văn chương đối với
con người.
Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963, khi tác giả đang học ngành Luật ở
Liên Xô. Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm tình cảm bà cháu, tình cảm gia đình cho
mỗi người đọc qua dòng hồi tưởng của cháu về kỷ niệm tuổi thơ bên bà, bên bếp lửa -
qua tình cảm bà cháu của nhân vật trữ tình:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Với từ láy “chờn vờn” vừa tả từng làn khói vương vấn của bếp lửa mới nhen buổi sớm,
vừa gợi lại hình ảnh bóng bà chập chờn. “Ấp iu” tuy là một từ ghép nhưng lại mang âm
hưởng của từ láy, gợi tả bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng đong đầy yêu thương của
bà. Để rồi không cầm được cảm xúc, người cháu đã thốt lên: “Cháu thương bà biết mấy

43
nắng mưa”, với phép ẩn dụ “nắng mưa” đã gợi ra những vất vả, khó nhọc của cuộc đời bà.
Từ đó mở ra một chân trời đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu.
Theo dòng hồi tưởng ấy, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc
nhằn ám đầy mùi khói :
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Tuổi thơ ấu của Bằng Việt gắn bó với bà và bếp lửa. Đâu đó vọng về trong tiềm thức
người cháu bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Mới lên bốn tuổi nhà thơ đã phải
chứng kiến một trong những thời kỳ đen tối, đói khổ nhất của nhân dân ta do sự bóc lột tàn
bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Cái “hun nhèm” của làn khói ấy gợi cho ta đến
một bếp lửa củi mùn, rơm rạ, của một tuổi thơ vất vả, thiếu thốn nhưng vẫn ngập tràn yêu
thương.
Những năm tháng có chiến tranh, bố mẹ phải đi công tác xa nhà, cháu phải sống cùng bà:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
Bằng nghệ thuật liệt kê: “Bà bảo, bà dạy, bà chăm”,… đã khẳng được bà vừa là cha, vừa
là mẹ, vừa là chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần, là cội nguồn yêu thương của
cháu. Bà không chỉ chăm lo cho cháu từng chút một mà còn là người thầy đầu tiên dạy cho
cháu bao điều về cuộc sống, những bài học của bà trở thành hành trang cháu mang theo
trong suốt quãng đời còn lại.
Cũng chính chiếc thuyền đầy kỉ niệm ấy đã đưa người đọc từ dòng sông của tình bà cháu
đổ vào biển cả của lòng yêu nước, của đức hy sinh :
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh :
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”
Câu thơ với động từ “cháy” được lặp lại, từ ghép “tàn rụi” được tách ra để nói chiến
tranh đã gây ra bao đau thương, mất mát, tàn phá khắp mọi nơi trên đất nước ta, cướp đi
của con người tất cả mọi thứ. Thế nhưng với từ láy “đinh ninh” diễn tả một điều gì đó chắc
chắn từ trong tâm khảm, dẫu túp lều tranh đã bị đốt rụi, nơi nương thân của hai bà cháu
không còn , bà vẫn đứng vững chống chọi với tất cả nghịch cảnh để dắt cháu vượt qua khó
khăn. Với cách nói bình dị, mộc mạc “ Mày, kể này, kể nọ, cứ bảo”…Lời bà dặn cháu thật
nôm na nhưng vô cùng chân thực và cảm động – hậu phương có gian khổ, thiếu thốn, nhớ
nhung, mất mát cách mấy vẫn phải giấu đi, nén lại trong lòng cho tiền tuyến được an lòng.

44
Từ đó, tấm lòng người bà ấy hiện lên mênh mông, bát ngát tình thương con thương cháu
và sâu thẳm với một nghị lực vô cùng bền vững.
Vì sao mà tấm lòng người bà chứa đựng được biết bao điều như vậy ? Vì trong tấm lòng
đó luôn âm ỉ một ngọn lửa :
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tác giả đã nâng lên thành “ngọn lửa” mang ý nghĩa khái quát,
tượng trưng; đó chính là “ngọn lửa” của niềm tin và sức sống cho đứa cháu. Điệp ngữ “một
ngọn lửa” càng khẳng định đó chính là cội nguồn của bao yêu thương, của những tần tảo
hy sinh nơi bà. Trong hình ảnh “lòng bà luôn ủ sẵn” khiến ta cảm nhận được một ngọn lửa
không bao giờ tắt qua năm tháng, một ngọn lửa bất diệt từ trong chính trái tim bà. Một lần
nữa tác giả lại thành công trong việc sử dụng nghệ thuật ẩn dụ “ngọn lửa” để khái quát lên
bà là hiện thân cho vẻ đẹp thiêng liêng của người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa.
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Điệp từ “nhóm” bốn lần lặp lại liên tiếp đầu mỗi câu thơ vừa nhấn mạnh công việc nhóm
bếp của bà vừa soi sáng chân dung người bà tần tảo, nhẫn nại, giàu đức hi sinh. Bà không
chỉ nhóm lên bếp lửa bằng đôi tay khéo léo để bếp lửa cháy sáng, để có nồi khoai sắn ngọt
bùi, có nồi xôi gạo mới. Từ công việc nhóm lửa hàng ngày, bà còn nhóm lên cả những nét
đẹp tâm hồn tuổi thơ cháu, bồi đắp ước mơ và tình yêu thương cho cháu. Với biện pháp tu
từ hoán dụ: “khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo” gợi ra tình cảm gắn bó với những gì giản dị,
gần gũi của quê hương. Bà bồi đắp cho cháu tình đoàn kết xóm làng. Cùng với nghệ thuật
ẩn dụ: “Bếp lửa” vừa tả thực vừa là hình ảnh biểu tượng cho lòng bà, tình yêu thương bà
dành cho cháu, trở thành kỉ vật thiêng liêng của tình bà cháu, là hành trang theo cháu suốt
hành trình dài rộng của cuộc đời.
Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà –
người phụ nữ Việt Nam, để rồi từ đó thốt lên trong bao nhung nhớ và trân trọng :
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Câu thơ với từ cảm thán “ôi” như chất chứa, dồn nén biết bao điều. Trong đó là sức mạnh
“kì lạ” đã nhóm dậy cả một chân trời kỉ niệm, cả một tuổi thơ, cả một tâm hồn. Hai tiếng
“bếp lửa”– một hình ảnh bình dị mà vô cùng cao quý, thân thuộc mà kỳ lạ. Bởi cái “bếp
lửa” đó gắn với một hình ảnh vô cùng thiêng liêng – đó chính là bà. Đến đây, ta của mới
thực sự cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của hình ảnh “bếp lửa”. Để giờ đây, khi đang ở
cách xa bà hàng nghìn dặm, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về người bà yêu thương:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở :
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?...”
Bút pháp liệt kê “ khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” như nhấn mạnh ở hiện
tại, người cháu đã có cuộc sống đầy đủ, ấm no hơn những ngày thơ ấu, đói khổ. Nhưng cho

45
dù có “trăm tàu, trăm nhà, trăm ngả” nhưng một niềm vui và hạnh phúc đơn sơ, nhỏ bé,
thiêng liêng về bà, về quê hương luôn chiếm vị trí quan trọng nhất trong trái tim tác giả.
Bởi vậy, cháu “chẳng lúc nào quên” cho thấy sự ghi lòng tạc dạ, thủy chung son sắt với bà,
với quê hương nghèo khó, vất vả. Câu thơ cuối sử dụng câu hỏi tu từ cùng dấu ba chấm ở
cuối dòng thơ đã bộc lộ cảm xúc mãnh liệt của tác giả về người bà kính yêu: “ Sớm mai
này bà nhóm bếp lên chưa ?”. “Bếp lửa” đã thực sự trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm
tin thiêng liêng kì diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.
Với hình tượng bếp lửa và hình tượng người bà, bài thơ “Bếp lửa” đã khơi dậy
trong lòng mỗi người đọc tình cảm bà cháu đẹp đẽ, tình cảm gia đình thiêng liêng.
Tình cảm của nhân vật trữ tình, của tác giả đã làm sâu sắc, đẹp đẽ, bền vững thêm
tình cảm gia đình trong mỗi người đọc. Điều đó chứng minh nhận định của Hoài
Thanh là đúng đắn. Bài thơ nhận được sự đồng cảm của bạn đọc, bạn đọc tìm được
sự đồng điệu tâm hồn với tác giả. Bài thơ là một minh chứng cho quy luật sáng tạo và
tiếp nhận văn chương, minh chứng cho vai trò quan trọng và chức năng của văn
chương, đặc biệt là chức năng giáo dục và thẩm mỹ.
Tác giả đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh thơ vừa cụ thể, gần gũi, vừa gợi
nhiều liên tưởng mang ý nghĩa biểu tượng. Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phù hợp
với giọng điệu cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả, tự sự,
nghị luận và biểu cảm.
3. Kết bài:
Với “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp
nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân
trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt nhận
ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương.
Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta
tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài
và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì
luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim…Bởi vậy, ý kiến của Hoài Thanh: “Văn
chương gây cho ta những tình cảm không có, luyện cho ta những tình cảm sẵn có”
thật đúng với bài “Bếp lửa”.
………………………………………………………………………………………………
Đề 15: Nét đẹp ân tình, thủy chung của con người Việt Nam qua hai bài thơ “Bếp
lửa” của Bằng Việt và “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
Bài làm
1. Mở bài:
“Đừng đánh mất quá khứ vì với quá khứ, người ta xây dựng tương lai”
Thật vậy, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” đó là truyền thống
lâu đời của con người Việt Nam. Truyền thống ấy đã được nhắc đến rất nhiều trong
các tác phẩm văn học từ bao đời nay. Nổi bật là hai bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn
Duy và “Bếp lửa” của Bằng Việt. Qua hai tác phẩm, các tác giả đã kín đáo bộc lộ
những suy nghĩ, những chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thuỷ chung cao quí
trong cuộc đời mỗi con người.
2. Thân bài:

46
Bằng Việt và Nguyễn Duy đều đã từng sống, trải qua những năm tháng khó khăn,
thiếu thốn, khốc liệt của chiến tranh và được cưu mang, đùm bọc, sẻ chia. Bởi vậy,
khi viết những tác phẩm này, hai nhà thơ đã được hưởng cuộc sống hoà bình, ấm no,
hiện đại. Điều đó gợi nhắc đến đạo lí về lòng biết ơn, lối sống ân nghĩa, thuỷ chung đối
với mỗi người. Dù là lòng thương nhớ, biết ơn bà hay ân tình với nhân dân, đất nước
thì đều có chung một nét đẹp nhân văn - đạo lí uống nước nhớ nguồn.
Đến với bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt thì nét đẹp ân nghĩa, thuỷ chung đó là tình
cảm của người cháu đối với bà khi đã trưởng thành, xa nhà. Nơi đất khách nhưng
người cháu vẫn đau đáu nhớ về bà, nhớ về những năm tháng tuổi thơ xa cách cha mẹ,
gắn bó với bà:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
Bằng Việt đã khơi lại những kỉ niệm ngày ấy bằng nghệ thuật liệt kê: “Bà bảo, bà dạy, bà
chăm”,… mỗi một ký ức hiện về là thêm một lần hình ảnh bà được khắc sâu trong tâm trí
cháu. Trong những năm tháng ấy, bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là chỗ dựa vững chắc về cả
vật chất lẫn tinh thần, là cội nguồn yêu thương của cháu. Bà không chỉ chăm lo cho cháu
từng chút một mà còn là người thầy đầu tiên dạy cho cháu bao điều về cuộc sống, những
bài học của bà trở thành hành trang cháu mang theo trong suốt quãng đời còn lại.
Cháu nhớ bà, xót xa, thương cảm thấu hiểu cuộc đời của bà cơ cực, gian nan mà
giàu đức hi sinh:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Với từ láy gợi hình “lận đận” đã diễn tả cả cuộc đời vất vả của bà cùng nghệ thuật ẩn dụ
“ nắng mưa” để chỉ những thăng trầm của cuộc sống càng làm đậm thêm sự hy sinh, cần
mẫn của bà. Trải qua tất cả những khó khăn, thách thức ấy, mà hình ảnh bà vẫn chưa bao
giờ tách rời với bếp lửa. Điệp từ “nhóm” bốn lần lặp lại liên tiếp đầu mỗi câu thơ vừa
nhấn mạnh công việc nhóm bếp của bà vừa soi sáng chân dung người bà tần tảo,
nhẫn nại, giàu đức hi sinh. Bà không chỉ nhóm lên bếp lửa bằng đôi tay khéo léo để
bếp lửa cháy sáng, để có nồi khoai sắn ngọt bùi, có nồi xôi gạo mới. Từ công việc
nhóm lửa hàng ngày, bà còn nhóm lên cả những nét đẹp tâm hồn tuổi thơ cháu, bồi
đắp ước mơ và tình yêu thương cho cháu. Với biện pháp tu từ hoán dụ: “khoai sắn
ngọt bùi, nồi xôi gạo” gợi ra tình cảm gắn bó với những gì giản dị, gần gũi của quê
hương. Bà bồi đắp cho cháu tình đoàn kết xóm làng. Cùng với nghệ thuật ẩn
dụ: “Bếp lửa” vừa tả thực vừa là hình ảnh biểu tượng cho lòng bà, tình yêu thương
bà dành cho cháu, trở thành kỉ vật thiêng liêng của tình bà cháu, là hành trang theo
cháu suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Bà thì nhóm lửa còn Bằng Việt thì nhóm lên

47
biết bao hoài niệm. Hình ảnh người bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là
người truyền lửa, truyền niềm tin và sức sống cho người cháu. Người bà ấy giản dị nhưng
lại có một sức mạnh kì diệu.
Để giờ đây, khi đang ở cách xa bà hàng nghìn dặm, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình
về người bà yêu thương:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở :
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?...”
Bút pháp liệt kê “ khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” như nhấn mạnh ở hiện
tại, người cháu đã có cuộc sống đầy đủ, ấm no hơn những ngày thơ ấu, đói khổ. Nhưng cho
dù có “trăm tàu, trăm nhà, trăm ngả” nhưng một niềm vui và hạnh phúc đơn sơ, nhỏ bé,
thiêng liêng về bà, về quê hương luôn chiếm vị trí quan trọng nhất trong trái tim tác giả. Bởi
vậy, cháu “chẳng lúc nào quên” cho thấy sự ghi lòng tạc dạ, thủy chung son sắt với bà, với
quê hương nghèo khó, vất vả. Câu thơ cuối sử dụng câu hỏi tu từ cùng dấu ba chấm ở cuối
dòng thơ đã bộc lộ cảm xúc mãnh liệt của tác giả về người bà kính yêu: “ Sớm mai này bà
nhóm bếp lên chưa ?”. “Bếp lửa” đã thực sự trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin
thiêng liêng kì diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.
Tác giả đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh thơ vừa cụ thể, gần gũi, vừa gợi nhiều
liên tưởng mang ý nghĩa biểu tượng. Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phù hợp với
giọng điệu cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả, tự sự,
nghị luận và biểu cảm.
Còn nét đẹp ân nghĩa, thuỷ chung trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
được thể hiện qua lời tâm tình của nhân vật trữ tình. Với nỗi nhớ kỉ niệm tuổi thơ
đẹp đẽ gắn bó với thiên nhiên, quê hương:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Với phép liệt kê đã diễn tả tuổi thơ được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp thiên
nhiên của tác giả. Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã
theo tác giả vào chiến trường và luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương
gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Trăng chia ngọt sẻ bùi,
đồng cam cộng khổ. Người lính lại cùng trăng tâm sự để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ
nhà. Vì thế trăng đã trở thành “tri kỉ” của người lính. Dường như người lính trong bài thơ
đã hiểu được điều đó nên mới:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Điệp từ “mặt” nhấn mạnh giây phút mặt người và mặt trăng đối diện với nhau - người
lính gặp lại cố nhân của mình, đối diện một cách chua xót với quá khứ gian lao, nghĩa tình.
Từ láy “rưng rưng” thể hiện sự chua xót, xấu hổ và nhớ thương ân hận khi nhận ra sự bội

48
bạc của mình với lời tự hứa “không bao giờ quên” và dường như nước mắt đang muốn trào
ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình. Biện pháp liệt kê không
chỉ bộc lộ cảm xúc đang dâng trào mãnh liệt của tác giả mà còn làm nổi bật hình ảnh
“đồng”, “bể”, “sông”, “rừng” thân thương cho thấy tác giả đã gặp lại ánh trăng như gặp lại
tuổi thơ, gặp lại người bạn tri kỉ. Từ đó cho thấy kí ức nghĩa tình ấy, vẻ đẹp thân thương ấy
không bao giờ mất đi, chỉ lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người.
Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm
nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để nói trăng vẫn thủy chung, là người bạn gắn bó với
con người dẫu cho bị con người vô tình lãng quên, chối bỏ. Nghệ thuật nhân hóa “ Ánh
trăng im phăng phắc”; trăng như im lặng, không nói gì mà chỉ nhìn khiến cho con người
giật nhắc nhở chính mình không được quên đi quá khứ nghĩa tình, thủy chung khi xưa,
cũng là bài học nghĩa tình, thủy chung cho mọi người. Gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm về
cách sống, cách làm người.
Tác giả đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật kết cấu: kết hợp giữa tự sự và trữ
tình, tự sự làm cho trữ tình trở nên tự nhiên mà cũng rất sâu nặng. Sáng tạo nên hình ảnh
thơ có nhiều tầng ý nghĩa: trăng là vẻ đẹp của thiên nhiên, tự nhiên, là người bạn gắn bó
với con người; là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, cho vẻ đẹp đời sống tự nhiên, vĩnh
hằng.
Mỗi bài thơ là một hình ảnh, một mạch cảm xúc nhưng đều sâu lắng, thiết tha. Cả
hai bài thơ đều khẳng định: hãy sống ân tình, thuỷ chung với quê hương, với quá
khứ, với lịch sử và nhân dân. Chẳng ai hạnh phúc nếu không biết trân trọng, tri ân và
chung thuỷ với quá khứ.
3. Kết bài:
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy và “Bếp lửa” của Bằng Việt gợi lại bao suy nghĩ, chiêm
nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thủy chung cao quý trong cuộc đời. Có bao giờ ta tự hỏi
tại sao cũng chỉ là những hình ảnh quen thuộc thôi mà con người lại có thể nhìn thấy bao
điều? Nó níu giữ con người khỏi bị trôi trượt đi bởi những lo toan, tất bật hằng ngày, nó
bảo vệ con người khỏi những cám dỗ tầm thường. Và trên hết, nó luôn hướng con người
đến những giá trị bền vững của cuộc sống.
………………………………………………………………………………………………
Đề 16: Nghệ thuật ẩn dụ trong bài “ Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.
1. Mở bài:
Bài thơ “ Viếng lăng Bác” sáng tác 1976, một năm sau khi đất nước thống nhất, lăng Bác
được xây dựng xong và đồng bào miền Nam có thể thực hiện mong ước ra viếng Bác. Viễn
Phương là một trong những thế hệ đồng bào miền Nam đầu tiên được ra Hà Nội viếng
thăm Người. Bài thơ “ Viếng lăng Bác” là một bài thơ hay nhờ xây dựng được những hình
ảnh ẩn dụ tiêu biểu, đặc sắc “ Hàng tre, mặt trời, vầng trăng, tràng hoa”. Những hình ảnh

49
này góp phần quan trọng trong việc biểu hiện tình cảm, cảm xúc của nhà thơ và của mọi
người đối với Bác Hồ làm nổi bật nội dung tư tưởng tác phẩm.
2. Thân bài:
Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự
hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả vào lăng viếng Bác. Cảm hứng ấy chi phối giọng điệu
và âm hưởng chung của toàn bài. Nhà thơ đã đem hết tâm huyết của mình để quan sát,
chọn lọc và sáng tạo ra những hình ảnh có tính chất tượng trưng sâu sắc để thể hiện phẩm
chất cao quý tuyệt vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ hình ảnh quen thuộc là hàng tre xanh
xanh san sát bên nhau dọc lối vào lăng:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”
Tác giả đến lăng từ rất sớm “trong sương”, nên hình ảnh “tre” cứ hiện ra mờ mờ, ảo ảo
trong làn sương buổi sớm. Tre nhiều và bạt ngàn khiến cho tác giả phải ngạc nhiên mà cất
tiếng kêu “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”. Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để nói “Tre”
chính là dân tộc, đất nước Việt Nam kiên cường, bất khuất, bền bỉ và dũng cảm. Đến với
hình ảnh “mặt trời”, ta thấy nó vừa mang tính cụ thể, lại vừa mang ý nghĩa tượng trưng:
“ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Hai câu thơ sóng đôi nhau bởi hai hình ảnh mặt trời. Hình ảnh đầu tiên là mặt trời thực đi
qua trên lăng ngày ngày mang lại nguồn sáng lớn nhất rực rỡ và vĩnh viễn trên thế gian;
mang lại ánh sáng, sự sống cho con người. Với nghệ thuật nhân hóa bởi từ “đi”, Viễn
Phương đã thể hiện một cách sinh động hình ảnh mặt trời. Còn hình ảnh ẩn dụ là “ mặt trời
trong lăng rất đỏ”. Đó là mặt trời để chỉ Bác Hồ, Người là nguồn sưởi ấm, nguồn sáng soi
cho con đường cách mạng Việt Nam. Bác là nguồn sống, nguồn hạnh phúc cho cả dân tộc
Việt Nam. Trái tim ấy đã dành cả cuộc đời tìm ra đường đi cho dân tộc, hi sinh cả cuộc đời
mình vì hạnh phúc của nhân dân. Cách so sánh Bác như mặt trời đã thể hiện sự vĩnh hằng
của Bác trong lòng người dân Việt Nam. Bác giống như mặt trời thiên nhiên ngày ngày vẫn
soi sáng, vẫn trường tồn cùng dân tộc. Đem nguồn sáng đến cho nhân dân đồng thời cũng
thể hiện tấm lòng biết ơn, tôn kính với vị cha già kính yêu của dân tộc.
Trong khổ thơ thứ ba có một hình ảnh ẩn dụ mang một vẻ đẹp khác, một ý nghĩa
khác:
“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Câu thơ diễn tả tinh tế không khí yên tĩnh, trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ trong lăng
Bác. Hình ảnh “vầng trăng” là một ẩn dụ, gợi người đọc liên tưởng đến tâm hồn thanh
cao cùng đời sống giản dị, trong sáng, thuần khiết của Bác. Đồng thời, nó cũng gợi cho
chúng ta nhớ đến những bài thơ tràn ngập ánh trăng mà thi sĩ Hồ Chí Minh sáng tác trong
hoàn cảnh tù đày hoặc trong kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược. Suốt
đời, Bác coi trăng là bạn tri âm, tri kỉ. Giờ đây, Bác đã an giấc ngàn thu, giữa một vầng
trăng sáng dịu hiền.
Để thể hiện tâm trạng xúc động của mình, nhà thơ Viễn Phương đã mượn hình ảnh
tượng trưng có ý nghĩa sâu xa:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

50
Mà sao nghe nhói ở trong tim !”
“Trời xanh” là một ẩn dụ đẹp chỉ bác Hồ, nhà thơ luôn cho rằng Bác không bao giờ mất,
Bác chỉ đang ngủ thôi, bác mãi trường tồn, vĩnh cửu trong lòng nhân dân Việt Nam và nhất
là tác giả. Câu cảm thán kết hợp với từ “nhói” để thể hiện nỗi đau xót tột cùng của nhân
dân ta nói chung, của tác giả nói riêng vì một sự thật Bác đã không còn nữa. Bác đã hóa
thân thành trời xanh – bầu trời hòa bình, hạnh phúc – vẫn hằng ngày hiện diện trong
cuộc sống của dân tộc và nhân loại.
3. Kết bài:
Viếng lăng Bác là một bài thơ thành công cả về nội dung và nghệ thuật, đặc biệt là
nghệ thuật ẩn dụ được nhiều người yêu thích, trân trọng bởi tác giả đã nói lên tấm
lòng thành kính và biết ơn của nhân dân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Cũng với cảm xúc và suy ngẫm giống như Viễn Phương, nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Bác sống như trời đất của ta. Sự nghiệp cách mạng cùng đời sống tinh thần cao cả
của Người đã trở thành bất tử”.
………………………………………………………………………………………………
Đề 17: Nhận định về bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, SGK Ngữ Văn 9 – NXB
GD có viết: “Bài thơ có giọng điệu trang trọng, tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi
cảm. Ngôn ngữ bình dị mà cô đúc” Hãy tìm hiểu và phân tích hai khổ thơ đầu trong bài
“Viếng lăng Bác” để làm rõ nhận định trên.
1. Mở bài:
Viễn Phương là nhà thơ miền Nam trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ
giải phóng ở miền Nam. Năm 1976, lăng Bác được khánh thành, Viễn Phương được ra
miền Bắc rồi vào lăng viếng Bác. Bao cảm xúc yêu thương dồn nén, trào dâng thành những
vần thơ thành kính, trang nghiêm đã được thể hiện qua bài thơ “Viếng lăng Bác” và nhanh
chóng đi vào lòng người đọc bởi cảm xúc chân thành, tha thiết của nhà thơ đặc biệt qua hai
khổ thơ đầu của bài thơ với “giọng điệu trang trọng, tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và
gợi cảm. Ngôn ngữ bình dị mà cô đúc”
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng


Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Cảm hứng bao trùm chính là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự
hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng thăm lăng Bác. Nguồn cảm hứng
ấy chi phối cả giọng điệu của bài thơ: thành kính, suy tư, trầm lắng xen lẫn niềm đau xót,
tự hào.
2. Thân bài:

51
Ở khổ thơ đầu, nội dung chính là cảm xúc của tác giả trước cảnh bên ngoài lăng Bác. Bài
thơ mở đầu bằng lời tâm sự:
“Con ở miền nam ra thăm lăng bác”
Khi tác giả từ miền Nam ra Hà Nội thăm lăng Bác, ông đã có một lời giới thiệu thật gọn
“Con ở miền Nam ra thăm lăng bác”; tại sao Bác đã mất mà lại thăm? Phải chăng đây
chính là cách nói giảm, Bác như còn sống mãi trong lòng nhân dân miền Nam, trong lòng
tác giả. Viễn Phương đã thể hiện lòng thành kính của mình đối với Bác qua cách xưng hô
“con - Bác” mang đậm phong cách miền Nam, gợi lên sự thân mật, gắn bó của một người
con từ chiến trường miền Nam được ra viếng Bác. Đồng thời địa danh nơi tác giả sinh sống
“miềm Nam” lại càng làm nổi bật sự xúc động dạt dào của nhà thơ vì miền Nam - nơi
chiến trường xưa, nơi Bác mong muốn vào thăm khi nước nhà thống nhất. Thế nhưng điều
đó chưa kịp thực hiện thì Bác đã mãi mãi đi xa. Để bây giờ, tác giả - người con của miền
Nam lại phải lên thăm lại người cha già kính yêu.
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
( Tố Hữu)
Tác giả đã rất cẩn trọng trong việc dùng từ ngữ của mình “thăm lăng Bác”, trong lòng
nhà thơ vẫn luôn sống mãi với cuộc đời và với công lao của Người dành cho đất nước và
dân chúng.
Khi tác giả bước vào trong khuôn viên lăng, cảnh đầu tiên tác giả thấy chính là hình ảnh
hàng tre:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Tác giả đến lăng từ rất sớm “trong sương”, nên hình ảnh “tre” cứ hiện ra mờ mờ, ảo ảo
trong làn sương buổi sớm. Tre nhiều và bạt ngàn khiến cho tác giả phải ngạc nhiên mà cất
tiếng kêu “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”. Hàng tre thẳng tắp, xanh bóng lại uy nghi
và nghiêm trang, không lung lay khi “bão táp mưa sa”. Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để nói
“Tre” chính là dân tộc, đất nước Việt Nam kiên cường, bất khuất, bền bỉ và dũng cảm.
Thành ngữ “Bão táp mưa sa” để chỉ con người Việt Nam dù có trải qua bao khó khăn, gian
khổ, cay đắng thì cũng không bao giờ chịu khuất phục, vẫn cứ “đứng thẳng hàng”. Từ “
Ôi !” là từ cảm thán đứng ở đầu câu, đã biểu hiện xúc động pha lẫn niềm tự hào khôn xiết
của tác giả. Niềm tự hào về con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam đầy vĩ đại lớn lao. Về
Người cha đã làm nên lịch sử của dân tộc. Chỉ với bốn câu thơ thôi mà tác giả đã thể hiện
niềm xúc động sâu sắc của mình qua những từ ngữ thật giàu tính biểu cảm và sử dụng
những nghệ thuật thật đặc sắc như tượng trưng, ẩn dụ.
Khổ thơ thứ hai là hình ảnh đẹp vừa mang tính cụ thể, lại vừa mang ý nghĩa tượng trưng:
“ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Hai câu thơ sóng đôi nhau bởi hai hình ảnh mặt trời. Hình ảnh đầu tiên là mặt trời thực đi
qua trên lăng ngày ngày mang lại nguồn sáng lớn nhất rực rỡ và vĩnh viễn trên thế gian;
mang lại ánh sáng, sự sống cho con người. Với nghệ thuật nhân hóa bởi từ “đi”, Viễn
Phương đã thể hiện một cách sinh động hình ảnh mặt trời. Còn hình ảnh ẩn dụ là “ mặt trời

52
trong lăng rất đỏ”. Đó là mặt trời để chỉ Bác Hồ, Người là nguồn sưởi ấm, nguồn sáng soi
cho con đường cách mạng Việt Nam. Bác là nguồn sống, nguồn hạnh phúc cho cả dân tộc
Việt Nam. Trái tim ấy đã dành cả cuộc đời tìm ra đường đi cho dân tộc, hi sinh cả cuộc đời
mình vì hạnh phúc của nhân dân. Đọc câu thơ, khiến người đọc liên tưởng tới những vần
thơ của Tố Hữu:
“ Mặt trời chân lí chói qua tim”
Cách so sánh Bác như mặt trời đã thể hiện sự vĩnh hằng của Bác trong lòng người dân
Việt Nam. Bác giống như mặt trời thiên nhiên ngày ngày vẫn soi sáng, vẫn trường tồn cùng
dân tộc. Đem nguồn sáng đến cho nhân dân đồng thời cũng thể hiện tấm lòng biết ơn, tôn
kính với vị cha già kính yêu của dân tộc.
Hòa vào dòng người vô tận với tấm lòng thành kính nhà thơ ví hình ảnh dòng người vô
tận như tràng hoa đẹp đầy hương thơm và sắc thắm kính dâng lên Bác:
“ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Điệp ngữ “ ngày ngày” được lặp lại hai lần trong khổ thơ đã thể hiện sự vĩnh cửu của Bác
trong lòng người dân Việt. Ngày ngày những người con của dân tộc vẫn hướng về Người,
vẫn ghi nhớ sự hi sinh lớn lao của Người cho đất nước. Một niềm thương nhớ trong lòng
người mà đã vượt qua mọi thứ bao trùm lên cả đoạn thơ, cả không gian thời gian chan chứa
niềm thương nhớ Bác. Niềm thương nhớ ấy kết thành cả một “ tràng hoa” đầy hương và
sắc dâng lên cho Người. “Tràng hoa” là nghệ thuật ẩn dụ, ở đây không chỉ là hoa của thiên
nhiên trời đất dâng cho Người mà là cả một tràng hoa của niềm thương nhớ, biết ơn,
ngưỡng mộ, thành kính đối với Bác. Hình ảnh hoán dụ “ dâng bảy mươi chín mùa xuân “
đã cho thấy được cuộc đời Bác đẹp như chính mùa xuân, bảy mươi chín năm sống là cống
hiến bảy chín mùa xuân tươi trẻ của cuộc đời, cho sự nghiệp giải phóng nước nhà. Tràng
hoa để dâng cho “ bảy chín mùa xuân” như thấy được Bác mãi sống trong lòng của người
dân, dân tộc mãi dành cho Người sự thành kính thiêng liêng nhất.
3. Kết bài:
Tóm lại, chỉ qua hai khổ thơ, Viễn Phương đã bộc lộ được cảm xúc trào dâng của mình
khi lần đầu tiên được viếng thăm lăng Bác. Những hình ảnh trong thơ được xây dựng bằng
rung cảm thiết tha của nhà thơ. Từ đó, tác giả bộc lộ tình cảm chân thành, bình dị mà tha
thiết của mình đối với Bác. Đó cũng là tình cảm chung của nhân dân miền Nam dành cho
vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Bài thơ cũng sẽ sống mãi với thời gian bởi “giọng điệu
trang trọng, tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm. Ngôn ngữ bình dị mà cô đúc”.
………………………………………………………………………………………………
Đề 18: Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến với xứ sở
cái đẹp. Hãy khám phá xứ sở cái đẹp qua bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Bài làm
1. Mở bài:
Mùa thu luôn là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu bởi đó là mùa của
những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất, mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu
sắc nhất. Mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và
trữ tình. Ông đã gửi tới người đọc những gì đẹp đẽ nhất của vẻ đẹp thiên nhiên, đất
trời trong thời khắc giao mùa từ cuối hạ sang đầu thu. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng:

53
“Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến với xứ sở cái
đẹp”
2. Thân bài:
Trước tiên ta nên hiểu “nhà văn chân chính”: là nhà văn luôn đặt cái đích vào con
người, cuộc sống, đem ngòi bút của mình phục vụ đời sống, có ích cho con người. Còn
“xứ sở của cái đẹp” thì sao ? Phải chăng đó là cái đẹp của cả nội dung lẫn hình thức
muôn hình muôn vẻ của cuộc đời mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm, gợi những
rung cảm thẩm mĩ, làm cho con người thêm mến yêu cuộc sống, thêm khao khát
hướng tới những gì đẹp đẽ, tốt lành của cuộc đời. Bởi vậy, niềm vui của nhà văn chân
chính là được làm người dẫn đường cho bạn đọc khám phá những vẻ đẹp của cuộc
sống thông qua các sáng tác văn học. Nhận định trên đã khẳng định về vai trò của
nhà văn và tác phẩm với đời sống.
Đến với bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh thì xứ sở cái đẹp chính là vẻ đẹp của
thiên nhiên lúc sang thu:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Từ “bỗng” được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Từ bao giờ mà thu đã về?
Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng
người mà không hề báo trước. Để rồi trong giây phút ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới chợt nhận
ra “hương ổi”. Giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông nhận ra hương vị chua chua, ngòn ngọt
của những quả ổi chín vàng ươm, thứ hương thơm quê mùa, dân dã, đơn sơ, mộc mạc, rất
quen thuộc của quê hương. Bằng cảm nhận tinh tế, bằng khứu giác, thị giác, nhà thơ đã
chợt nhận ra dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu lại về.
Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua ngọn gió se mang theo hương ổi
chín. Gió se là một làn gió nhẹ, mang chút hơi lạnh, còn được gọi là gió heo mây. Ngọn
gió se se lạnh khẽ thổi vào cảnh vật, thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao
xuyến. Từ “phả” được dùng trong câu thơ mới độc đáo làm sao! “Phả” là một động tác
mạnh gợi một cái gì đó đột ngột. Nó diễn tả được tốc độ của gió, vừa góp phần thể hiện sự
bất chợt trong cảm nhận: hương ổi có sẵn mà chẳng ai nhận ra, thế mà Hữu Thỉnh đã bất
chợt nhận ra và xao xuyến trước cái hương đồng gió nội ấy.
Không chỉ có “hương ổi’ trong “gió se” mà tiết trời sang thu còn có hình ảnh:
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Một hình ảnh đầy ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận
động – một sự vận động chậm rãi. Tác giả nhân hóa làn sương nhằm diễn ta sự cố ý đi
chậm chạp của nó khi chuyển động. Nó bay qua ngõ, giăng mắc nơi đầu thôn, ngõ xóm
làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả yên
bình. Từ “hình như” không có nghĩa là không chắc chắn, mà là thể hiện cái ngỡ ngàng,
ngạc nhiên và có chút bâng khuâng. Tác giả đã dần nhận ra sự chuyển mình nhẹ nhàng
nhưng khá rõ rệt của tiết trời và thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa bằng đôi mắt tinh
tế và tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống nơi làng quê.
Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan
biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:

54
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
“Dòng sông” được nhân hóa với từ láy gợi hình “dềnh dàng” gợi con sông của mùa thu
chảy chậm chạp, thong thả, êm đềm, yên ả với trạng thái nghỉ ngơi sau một mùa hạ vất vả
với bão dông. “Cánh chim” cũng được nhân hóa qua từ láy gợi cảm “vội vã”, lúc nào gió
heo may se sắt đã tràn về cũng là lúc mùa rét đã tới, những đàn chim cũng vội vã bay về
phương Nam ấm áp để tránh rét. Với phép đối lập được tác giả sử dụng hết sức tài tình
“dềnh dàng” đối với “vội vã” làm nổi bật hai động thái thiên nhiên trái ngược nhau: sông
dềnh dàng, chim vội vã là quy luật không đồng đều của muôn loài, muôn vật ở vào thời
điểm giao mùa. Tác giả nhân hoá mây trời qua từ “vắt” rất gợi cảm, có hồn; đồng thời
cũng gợi hình ảnh đám mây mùa hạ còn sót lại trên bầu trời đang chuyển sắc sang thu,
cũng giống như con người nửa muốn bước sang mùa thu nhưng nửa còn lại lưu luyến chưa
muốn chia tay với mùa hạ. Ngoài ra tác giả sử dụng phép ẩn dụ khéo léo khiến người đọc
liên tưởng đến những con người đã bước qua thời kì giông bão, chiến tranh của tuổi trẻ thì
giờ đây họ đã trưởng thành và vững vàng hơn. Đám mây mùa hạ chứa đầy giông bão tựa
hồ những ước mơ, khát vọng, hoài bão của tuổi trẻ.
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Mở đầu khổ thơ, tác giả đã sử dụng phép đối qua hai cặp từ “ vẫn còn – vơi dần”, “nắng –
mưa” để tái hiện sự vận động trái chiều của hai hiện tượng thiên nhiên lúc sang thu. Với
những từ ngữ chỉ mức độ giảm dần “vẫn còn, vơi dần” cho thấy nắng hạ cuối vẫn còn
nhưng không còn chói chang, gay gắt; những cơn mưa ào, xối xả của một mùa đã vơi dần.
Như vậy, dấu hiệu của mùa thu đã ngày càng rõ nét hơn và đất trời đang lắng lại.
Bức tranh thiên nhiên mùa thu được thi sĩ cảm nhận tinh tế qua nhiều yếu tố, bằng
nhiều giác quan đem đến cho người đọc sự rung cảm, tình yêu với vẻ đẹp của quê
hương, đất nước.
Xứ sở cái đẹp của bài thơ “Sang thu” đó còn là những suy tư, chiêm nghiệm:
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng câu đừng tuổi”
Hình ảnh “sấm” mang một lớp nghĩa tả thực: là một hiện tượng đặc trưng của mùa hạ
trước và sau cơn mưa lớn. “Sấm” ở đây còn mang nghĩa ẩn dụ được xem là những biến
động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời và những thử thách, gian nan mà trong đời
con người ai cũng gặp phải. Còn “hàng cây đứng tuổi” theo nghĩa dễ hiểu nhất thì đó chỉ là
những cái cây lâu năm đã trải qua bao mùa nắng mưa trở nên cứng cỏi hơn. Nhưng điều
mà Hữu Thỉnh muốn gửi đến chúng ta đâu chỉ là những điều giản đơn đến thế, với phép ẩn
dụ “hàng cây đứng tuổi” để chỉ người từng trải sau bao biến động của cuộc đời sẽ trưởng
thành, hiểu biết hơn, vững vàng hơn. “ Sấm, hàng cây” được nhân hóa qua từ “ bất ngờ,
đứng tuổi” khiến thiên nhiên hiện lên sinh động, có hồn. Từ bao nỗi suy tư của mình, Hữu
Thỉnh đã góp phần làm cho cả bài thơ và khổ thơ cuối thêm nhiều ý nghĩa sâu sắc, in dấu

55
trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai mờ về một mùa thu tha thiết, nồng hậu và cả
mùa hạ sôi động của dĩ vãng nữa. Cũng chính vì lẽ đó, mà ta cảm thấy yêu thiên nhiên
hơn, yêu cái giao mùa và sự chuyển biến của đất trời trên quên hương mình, cũng
như yêu vòng tuần hoàn máu chạy khắp cơ thể qua chính con tim này
“Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Đến chút tột cùng là dòng máu chảy”
Bài thơ đã khắc họa được những hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, đặc sắc về thời điểm giao
mùa và những suy nghĩ mang tính triết lý của tác giả. Sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ
“bỗng, phả, hình như”; phép nhân hóa “sương chùng chình, sông được lúc dềnh dàng”;
phép ẩn dụ “sấm, hàng cây đứng tuổi” thật tài tình
3. Kết bài:
Cái đẹp trong tác phẩm văn học được nhà văn khơi nguồn, kết tinh từ cuộc sống
luôn có sức hấp dẫn với người đọc, bồi đắp những giá trị tốt đẹp cho con người. Xứ sở
của cái đẹp trong bài thơ “Sang thu” chính là vẻ đẹp của thiên nhiên, của tình đời làm
nên giá trị của thi phẩm và khẳng định tài năng của nhà thơ Hữu Thỉnh.
………………………………………………………………………………………
Đề 19: “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác , vừa là sợi dây truyền cho
mọi người sự sống mà nghệ sỹ mang trong lòng ”. ( “ Tiếng nói của văn nghệ ” – Nguyễn
Đình Thi – Ngữ văn 9 – tập 2 ). Hãy làm rõ điều đó trong bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” của
nhà thơ Thanh Hải ( Ngữ văn 9 – tập 2 ) .
1. Mở bài:
Đối với những người cầm bút thì trong chặng đường sáng tạo gian khổ và vinh quang của
mình, mỗi đứa con tinh thần của họ ra đời đều chính là một thành tựu nghệ thuật mang đầy
tâm huyết. Tác phẩm là nơi được lựa chọn để người nghệ sỹ thực hiện sứ mệnh gửi bức
thông điệp mà mình ấp ủ đến với cuộc đời. “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh là
tiếng lòng yêu mến và gắn bó thiết tha với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện
chân thành của nhà thơ muốn được cống hiến, đóng góp một mùa xuân nho nhỏ vào mùa
xuân lớn lao của dân tộc. Từ đó mở ra những suy nghĩ về ý nghĩa và giá trị cuộc sống của
mỗi cá nhân là sống có ích, có cống hiến cho cuộc đời chung. Đúng như nhà văn Nguyễn
Đình Thi, trong văn bản “ Tiếng nói của văn nghệ ” đã khẳng định: “Tác phẩm vừa là kết
tinh của tâm hồn người sáng tác , vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sỹ
mang trong lòng ”
2. Thân bài:
Sở dĩ ông nói “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác”, bởi vì đó là
đứa con tinh thần của nhà văn, là nơi nhà văn gửi gắm những tình cảm sâu sắc nhất,
những cảm xúc, khát vọng chân thành, mãnh liệt nhất về con người và cuộc đời.
Ta nên hiểu thế nào “Tác phẩm, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà
nghệ sỹ mang trong lòng ”? Phải chăng tác phẩm là cầu nối giữa nhà văn với bạn đọc.
Nhà văn tự quan sát thế giới hiện thực rồi từ đó tái hiện một đời sống riêng trong tác
phẩm của mình. Đến lượt mình, tác phẩm lại đưa đời sống riêng biệt ấy đến với cuộc
đời chung, với mọi người tạo ra sự đồng cảm, đồng điều, tiếng nói tri âm, tri kỉ giữa
tác giả với thế hệ bạn đọc.

56
Đối với nhà thơ Thanh Hải khi làm bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” thì đó là một
trường hợp rất đặc biệt khiến chúng ta vô cùng xúc động. Không thể ngờ rằng trong
những thời khắc cuối cùng của cuộc đời trên giường bệnh mà ông vẫn có thể làm nên
một dòng cảm xúc trữ tình trong sáng, tin yêu phơi phới một tinh thần lạc quan và
nổi bật một khát vọng hòa nhập, cống hiến đẹp đẽ đến là vậy. Bài thơ trước hết là sự
kết tinh, chắt lọc của tâm hồn thơ Thanh Hải với cách nói nhỏ nhẹ, khiêm nhường
nhưng có sức lay động, làm xao xuyến lòng người. Để rồi, từ những cảm xúc trong
sáng ấy của mình tiếng lòng của ông đã tạo nên những dư âm trong tâm hồn hàng
triệu triệu độc giả mọi thời đại.
Mở đầu bài thơ này, nhà thơ đã chăm chú quan sát, chăm chú lắng nghe để rồi phát
hiện, nâng niu trân trọng những cái đẹp thật đơn sơ, bình dị để đưa vào những vần
thơ của mình. Đó dù chỉ là một bông hoa lục bình tím biếc mọc giữa dòng sông xanh
hay chỉ là âm vang trong trẻo của một tiếng chim chiền chiện nhưng bức tranh mùa
xuân mà nhà thơ mang lại vẫn có đủ sức làm lay động lòng người. Cái đẹp đó rõ ràng
là đã kết tinh từ một tâm hồn dung dị, luôn luôn tha thiết gắn bó và khao khát hòa
nhập với cuộc đời:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiềnchiện
Hót chi mà vang trời”
Ngay hai câu thơ đầu ta đã bắt gặp phép đảo ngữ với động từ “mọc” được đưa lên đầu
câu để khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy, vươn lên của bông hoa tím trên mặt nước
xanh của dòng sông xuân; gợi cho ta cảm giác bông hoa kia tràn đầy sức xuân và sắc xuân.
Không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn hơn với hình ảnh “dòng sông xanh” chảy hiền hoà.
Bức tranh không chỉ có họa mà còn có nhạc bởi tiếng chim chiền chiện cất lên với muôn
vàn lời ca, tiếng hót reo mừng. Với từ cảm thán “ơi” được đặt ở đầu dòng thơ đã gói trọn
niềm cảm xúc dạt dào trong lòng nhà thơ, bộc lộ niềm vui, xôn xao của một trái tim yêu
thiên nhiên trước mùa xuân tươi đẹp. Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua câu
hỏi tu từ: “Hót chi mà vang trời”; thứ âm thanh ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng,
khoáng đạt, làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối mặt với những
bóng đen u ám của bệnh tật. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa
của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao
động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Chi tiết tạo hình “ giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị: nó
có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt
nắng rọi sáng bên thềm, có thể là giọt mưa xuân đang rơi…Theo mạch cảm xúc của nhà
thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm
vui rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân. Nghệ
thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác nó đâu chỉ được cảm nhận bằng thính giác ( hót vang trời)
mà còn được cảm nhận bằng thị giác (gọt long lanh) và xúc giác (đưa tay tôi hứng) để giờ

57
đây âm thanh của tiếng chim đã đọng lại thành hình khối, đang long lanh rực rỡ dưới ánh
hồng của mùa xuân.
Tác giả thể hiện niềm tin tưởng vào thành công của sự nghiệp cách mạng và gợi nhắc
đến truyền thống lịch sử của dân tộc:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Đất nước được nhân hóa qua từ “vất vả, gian lao” để nói Tổ quốc như một người mẹ tần
tảo, vất vả, gian lao đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn
ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của
những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Đặc biệt, phép tu từ so sánh
được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc: “Đất nước như vì sao”, để ngợi ca đất nước trường
tồn, tráng lệ, đất nước đang hướng về một tương lai tươi sáng. Điệp ngữ “đất nước” được
nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn toả
sáng, đi lên không gì có thể ngăn cản được.
Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và
dạt dào một khát vọng hiến dâng:
“ Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Sử dụng điệp từ “ta” và bút pháp liệt kê để thể hiện ước nguyện chân thành, thiết tha:
được làm một tiếng chim hót thánh thót góp phần làm cho mùa xuân quê hương thêm rạo
rực, sống động; Thanh Hải nguyện làm một cành hoa để tô điểm thêm hương sắc cho mùa
xuân quê hương đất nước; ông không mơ làm một nốt nhạc bổng cao vút trong bản hòa ca
của dân tộc mà chỉ khiêm nhường làm một nốt trầm xao xuyến lòng người, nốt trầm ấy có
thể là nốt nhạc phụ nhưng không thể thiếu bởi nó là yếu tố góp phần làm nên sự thành công
của bản hòa ca. Với lớp nghĩa ẩn dụ tượng trưng “con chim hót”, “một cành hoa”, “ nốt
trần xao xuyến” nó gợi liên tưởng đến mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con
người và đất nước Việt Nam. Cái “tôi”của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyển hoá
thành cái “ta” đã nhằm nhấn mạnh ước muốn không chỉ của riêng nhà thơ mà là ước
nguyện chung của mọi người
Đến khổ thơ tiếp theo Thanh Hải thể hiện rõ hơn khát vọng cống hiến của mình ở
những vần thơ sâu lắng:
“ Một mùa xuân nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
“Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc đời đáng yêu, một khát
vọng sống cao đẹp. Mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy đem tất cả những gì tốt đẹp,
tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước. Cặp từ láy
“nho nhỏ”, “lặng lẽ” kết hợp với đảo ngữ “lặng lẽ dâng” cho thấy một thái độ chân thành,
58
khiêm nhường, không khoe khoang mà chỉ lặng lẽ, âm thầm dâng hiến. Lời ước nguyện
thật thuỷ chung, son sắt được diễn tả qua hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi” chỉ tuổi trẻ và
“khi tóc bạc” để nói khi về già. Điều này đã khẳng định cả đời người phải giữ trọn lẽ sống
có ích, có ý nghĩa, cống hiến suốt cuộc đời cho Tổ quốc, cho nhân dân. Điệp ngữ “dù là”
nhắc lại hai lần làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết sâu lắng càng khắc sâu ước
nguyện chân thành, bền bỉ đáng quý. Phải chăng đây là lẽ sống đầy trách nhiệm mà Thanh
Hải muốn nhắn gởi đến chúng ta.
Từ “Mùa xuân nho nhỏ của mình”, Thanh Hải đã truyền vào trái tim độc giả một
nhiệt huyết thật sự say mê của cuộc sống . Không phải là những bài học luân lý khô
cứng mang tính giáo điều sách vở mà nhà thơ đã mang đến cho chúng ta một tiếng
nói của tâm hồn . Chỗ giao nhau giữa tác phẩm với độc giả chính là những tri âm, tri
kỉ, những đồng điệu của cảm xúc. Chính vì lẽ đó mà nó có sức mạnh hơn bất kỳ một
bài thuyết giảng nào. Từ những hình ảnh dòng sông xanh , bông hoa tím, tiếng chim
chiền chiện mà nhà thơ đã liệt kê rất chọn lọc ở phần đầu của bài thơ như càng khiến
chúng ta biết nâng niu, trân trọng hơn những cái đẹp đơn sơ trong cuộc sống của
mình. Những hình ảnh cuộc đời mộc mạc ấy nếu ta biết trân trọng, yêu thương gắn
bó thì đó sẽ mãi mãi là những mảnh tâm hồn đẹp đẽ và sẽ cùng ta đi suốt cuộc đời .
Bài thơ giản dị như tiếng lòng của Thanh Hải và cũng chính là món quà đẹp đẽ mà
ông gửi lại cho đời trước lúc đi xa. Nỗ lực phi thường ấy của nhà thơ càng cho thấy
rằng nếu không để cho tâm hồn của mình gắn bó thiết tha với cuộc đời thì làm sao
ông có thể làm nên một khúc ca đầy những vẻ đẹp trong sáng tin yêu như thế trong
một hoàn cảnh đặc biệt của mình
Nhưng có lẽ bức thông điệp đáng chú ý nhất trong “ Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh
Hải chính là quan điểm sống cống hiến vô cùng cao đẹp của nhà thơ. Điều này đã tạo
nên những tác động hết sức tích cực trong suy nghĩ cũng như hành động của chúng
ta. “ Mùa xuân nho nhỏ” vì thế đã tạo nên một sự cộng hưởng giữa nhà thơ với độc
giả. Tiếng lòng của Thanh Hải đã trở thành tiếng hát của muôn nhà, tiếng hát của lý
tưởng sống cao đẹp. Cái tôi, riêng của người nghệ sỹ rất chân thành, thiết tha ấy đã
hòa vào cái ta chung của cuộc đời làm thức dậy trong mỗi con người mà đặc biệt là
những con người trẻ tuổi ý thức về một lẽ sống đẹp. Rằng, không có gì đáng trân
trọng hơn của một đời người khi chúng ta biết thành tâm cống hiến những gì đẹp
nhất của chính bản thân cho dân tộc, cho đất nước, cho thời đại.
3. Kết bài
“Mùa xuân nho nhỏ” là sự kết tinh, chắt lọc cả tâm hồn thơ Thanh Hải, một tiếng nói
nhỏ nhẹ, khiêm nhường mà có sức lay động làm sao xuyến lòng người. Lời thơ cất lên từ
chính những cảm xúc riêng của cái : “Tôi” trữ tình đã có sức tác động mạnh mẽ đến tâm
hồn, tình cảm mỗi con người. Vậy Chỗ giao thoa kỳ diệu giữa tác phẩm với thế giới bạn
đọc chính là những vần thơ hay vẫn luôn có một sức hấp dẫn đặc biệt. Ta đến với tác phẩm
văn học như là để soi mình trong tấm gương lớn của cuộc đời để từng bước hoàn thiện
mình hơn.
………………………………………………………………………………………
Đề 20: Thiên nhiên trong hai bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải và “ Sang
thu” của Hữu Thỉnh.

59
1. Mở bài:
Từ văn học trung đại cho đến văn học hiện đại, từ thơ cổ cho đến thơ mới, vẻ đẹp thiên
nhiên bốn mùa của quê hương đã trở thành những hình ảnh khó phai mờ trong các tác
phẩm của nhà văn, nhà thơ. Chúng ta thấy hình ảnh quê hương hiện ra ở thơ ca vô cùng
thân mật, gần gũi, đáng yêu và đầy quen thuộc, gợi bao cảm xúc đẹp đẽ của con người
…Quê hương chúng ta vốn có vẻ đẹp dân dã, bình dị của sự sống mơn mởn. Quê hương -
cao cả và thiêng liêng, thân thuộc và bình dị, chúng ta có thể bắt gặp trong bài thơ “ Mùa
xuân nho nhỏ “ của Thanh Hải và “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
2. Thân bài:
Đến với hai bài thơ ta thấy có những điểm đồng điệu chung của cả hai nhà thơ đều
dành cho thiên nhiên một tình yêu nồng nhiệt, đắm say. Tình yêu thiên nhiên của hai
nhà thơ đều nhẹ nhàng, tinh tế nên cảnh sắc thiên nhiên trong bài thơ không bị hòa
lẫn vào cảnh sắc thiên nhiên của các bài thơ khác. Thiên nhiên là bạn, là người thân
yêu mến. Thiên nhiên giao hòa, thấu cảm và sẻ chia cùng con người. Thiên nhiên
thắm biếc sắc màu và không ngừng chuyển động theo niềm tâm cảm. Dù mùa xuân
hay mùa thu, lúc nào thiên nhiên cũng hiền hòa, thân thiết.
Nhưng điểm khác biệt ở hai bức tranh thiên nhiên đó là hai bức tranh của hai mùa
khác nhau. Một mùa là khởi đầu của một năm, thắm đầy sức trẻ, cây lá xanh tươi,
đất trời rộng mở. Một mùa là thời điểm trầm lắng của đất trời chuyển mình vào giấc
ngủ đâu triền miên, sự sống bắt đầu co khép lại. Thật lạ lùng thay, nhà thơ Thanh
Hải khi đang trong cơn bạo bệnh, sức sống suy kiệt lại khát khao một mùa xuân tràn
đầy, tươi trẻ, còn nhà thơ Hữu Thỉnh khi ấy chưa hẳn đã già lại tìm về với sự trầm
lắng, đầy chiêm nghiệm của mùa thu. Thật phong phú, đa dạng mà không kém phần
thú vị.
Đễn với bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, mở đầu bài thơ là đôi nét phác họa về
bức tranh của mùa xuân thiên nhiên xứ Huế:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Ngay hai câu thơ đầu ta đã bắt gặp phép đảo ngữ với động từ “mọc” được đưa lên đầu
câu để khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy, vươn lên của bông hoa tím trên mặt nước
xanh của dòng sông xuân; gợi cho ta cảm giác bông hoa kia tràn đầy sức xuân và sắc xuân.
Không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn hơn với hình ảnh “dòng sông xanh” chảy hiền hoà.
Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông hoa tạo nên một nét chấm phá nhẹ
nhàng mà sống động, đem lại một vẻ đẹp tự nhiên, hài hòa, một màu sắc đặc trưng của xứ
Huế.
Bức tranh không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếng chim chiền chiện cất lên với
muôn vàn lời ca, tiếng hót reo mừng:
“Ơi con chim chiềnchiện
Hót chi mà vang trời”
Nhà thơ gọi “ơi” nghe sao mà tha thiết thế! Lời gọi ấy không cất lên từ tiếng nói mà cất
lên từ sâu thẳm tình yêu thiên nhiên, cất lên từ tấm lòng của nhà thơ trước mùa xuân tươi
đẹp với những âm thanh rộn rã. Lời gọi ấy mới đầu nhen nhóm ở một góc trái tim, nhưng
con người nhà thơ và những cảnh sắc, âm thanh kia như đã hòa vào làm một, cảm xúc từ

60
đó mà òa ra thành lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú. Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng
thực sự qua câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang trời”. Thứ âm thanh không thể thiếu ấy làm
sống dậy cảkhông gian cao rộng, khoáng đạt, làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con
người đang phải đối mặt với những bóng đen u ám của bệnh tật, của cái chết rình rập.
Dòng sông êm trôi, bông hoa lững lờ, tiếng chim rộn rã… bức tranh mùa xuân xứ Huế bao
giờ cũng đẹp, nhẹ nhàng và mơ mộng như thế!
Trước cảm xúc dạt dào ấy nhà lặng ngắm, lặng nghe mùa xuân bằng cả trái tim xao động,
bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Chi tiết tạo hình “ giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị: nó
có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt
nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi…Theo mạch cảm xúc của nhà thơ
thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui
rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân. Nghệ
thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (Thanh Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều
giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác) và hàng động “tôi hứng” thể hiện sự nâng
niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc với xuân với cảm xúc
say sưa, ngây ngất. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống của mùa xuân, của
cuộc đời.
Khổ thơ mở đầu đã mở ra một bức tranh xứ Huế thật đẹp: có hình ảnh, có màu sắc,
âm thanh được họa lên từ những vần thơ có nhạc…Bài thơ được viết vào tháng 11
năm 1980, khi ấy đang là mùa đông giá rét. Như vậy, hình ảnh mùa xuân được miêu
tả ở đây là mùa xuân trong tâm tưởng của nhà thơ. Đối mặt với bệnh tật, thậm chí
phải đối mặt với cả cái chết, vậy mà nhà thơ vẫn hướng đến mùa xuân tươi trẻ, tràn
đầy sức sống, thể hiện một tâm hồn lạc quan yêu đời, một niềm khát khao cuộc sống
vô bờ. Đọc những vần thơ của ông, người đọc trân trọng hơn, yêu hơn một tâm hồn
nghệ sĩ, một tình yêu quê hương, đất nước đến vô ngần.
Tạm rời xa mùa xuân của Thanh Hải ta tìm đến với cái tình non sông đất nước
được khơi nguồn từ cảnh sắc thiên nhiên trong bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Từ “bỗng” được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Từ bao giờ mà thu đã về?
Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng
người mà không hề báo trước. Để rồi trong giây phút ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới chợt nhận
ra “hương ổi”. Giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông nhận ra hương vị chua chua, ngòn ngọt
của những quả ổi chín vàng ươm, thứ hương thơm quê mùa, dân dã, đơn sơ, mộc mạc, rất
quen thuộc của quê hương. Bằng cảm nhận tinh tế, bằng khứu giác, thị giác, nhà thơ đã
chợt nhận ra dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu lại về. Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn
được thể hiện qua ngọn gió se mang theo hương ổi chín. Gió se là một làn gió nhẹ, mang
chút hơi lạnh, còn được gọi là gió heo mây. Ngọn gió se se lạnh khẽ thổi vào cảnh vật, thổi
vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Từ “phả” được dùng trong câu thơ mới
độc đáo làm sao! “Phả” là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột. Nó diễn tả được

61
tốc độ của gió, vừa góp phần thể hiện sự bất chợt trong cảm nhận: hương ổi có sẵn mà
chẳng ai nhận ra, thế mà Hữu Thỉnh đã bất chợt nhận ra và xao xuyến trước cái hương
đồng gió nội ấy.
Không chỉ có “hương ổi’ trong “gió se” mà tiết trời sang thu còn có hình ảnh:
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Một hình ảnh đầy ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận
động – một sự vận động chậm rãi. Tác giả nhân hóa làn sương nhằm diễn ta sự cố ý đi
chậm chạp của nó khi chuyển động. Nó bay qua ngõ, giăng mắc nơi đầu thôn, ngõ xóm
làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả yên
bình. Từ “hình như” không có nghĩa là không chắc chắn, mà là thể hiện cái ngỡ ngàng,
ngạc nhiên và có chút bâng khuâng. Tác giả đã dần nhận ra sự chuyển mình nhẹ nhàng
nhưng khá rõ rệt của tiết trời và thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa bằng đôi mắt tinh
tế và tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống nơi làng quê.
Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan
biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
“Dòng sông” được nhân hóa với từ láy gợi hình “dềnh dàng” gợi con sông của mùa thu
chảy chậm chạp, thong thả, êm đềm, yên ả với trạng thái nghỉ ngơi sau một mùa hạ vất vả
với bão dông. “Cánh chim” cũng được nhân hóa qua từ láy gợi cảm “vội vã”, lúc nào gió
heo may se sắt đã tràn về cũng là lúc mùa rét đã tới, những đàn chim cũng vội vã bay về
phương Nam ấm áp để tránh rét. Với phép đối lập được tác giả sử dụng hết sức tài tình
“dềnh dàng” đối với “vội vã” làm nổi bật hai động thái thiên nhiên trái ngược nhau: sông
dềnh dàng, chim vội vã là quy luật không đồng đều của muôn loài, muôn vật ở vào thời
điểm giao mùa. Tác giả nhân hoá mây trời qua từ “vắt” rất gợi cảm, có hồn; đồng thời
cũng gợi hình ảnh đám mây mùa hạ còn sót lại trên bầu trời đang chuyển sắc sang thu,
cũng giống như con người nửa muốn bước sang mùa thu nhưng nửa còn lại lưu luyến chưa
muốn chia tay với mùa hạ. Ngoài ra tác giả sử dụng phép ẩn dụ khéo léo khiến người đọc
liên tưởng đến những con người đã bước qua thời kì giông bão, chiến tranh của tuổi trẻ thì
giờ đây họ đã trưởng thành và vững vàng hơn. Đám mây mùa hạ chứa đầy giông bão tựa
hồ những ước mơ, khát vọng, hoài bão của tuổi trẻ.
Từ những đam mê, say sưa trước sự chuyển mình của đất trời sang thu, thi nhân khép lại
lòng mình cái khoảnh khắc giao mùa với sự xung đột mãnh liệt mới thực sự rõ ràng nhất:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Tác giả đã sử dụng phép đối qua hai cặp từ “ vẫn còn – vơi dần”, “nắng – mưa” để tái
hiện sự vận động trái chiều của hai hiện tượng thiên nhiên lúc sang thu. Với những từ ngữ
chỉ mức độ giảm dần “vẫn còn, vơi dần” cho thấy nắng hạ cuối vẫn còn nhưng không còn

62
chói chang, gay gắt; những cơn mưa ào, xối xả của một mùa đã vơi dần. Như vậy, dấu hiệu
của mùa thu đã ngày càng rõ nét hơn và đất trời đang lắng lại. Đến đây, giọng thơ trầm
hẳn xuống. Câu thơ ngập ngừng tiếc nuối. Đó là sự suy tu, chiêm nghiệm về cuộc đời
người. Nhìn cảnh vật biến chuyển từ lức mới bắt đầu cho đến khi thực sự trở nên rõ
ràng, nhà thơ nghĩ đến cuộc đời với bao trải nghiệm sâu sắc khi đã đứng tuổi. Phải
chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với những bất
thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm
lắng, bình tâm, chín chắn…trước những chấn động của cuộc đời.
Bằng những hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung
động man mác, bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn
không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của
Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà.
3. Kết bài:
Mỗi nhà thơ có cảm nhận riêng về cảnh sắc thiên nhiên, những chiêm nghiệm,
những suy nghĩ về cuộc đời, về con người, tình người trong cuộc sống. Nhưng thật
cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ đầy xúc động với hình ảnh
thiên nhiên gợi lên thật đẹp. Hai bài thơ để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những
cảm xúc sâu lắng, khó phai mờ,và vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi
lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm
khát khao được sống, được cống hiến cho đất nước, cho dù đó là những cống hiến
giản dị, nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa.
………………………………………………………………………………………………
Đề 21: Trong văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” (SGK Ngữ văn 9 - tập hai), Nguyễn Đình
Thi viết: “Bắt rễ ở cuộc đời hàng ngày của con người, văn nghệ lại tạo được sự sống cho
tâm hồn người”.
Qua hai tác phẩm “Sang thu” của Hữu Thỉnh và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, em
hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
1. Mở bài:
Tác phẩm văn học là sự kết hợp giữa hiện thực đời sống và tình cảm người viết. Nhà văn
không chỉ tái hiện lại những chi tiết của đời sống mà mình mắt thấy tai nghe, mà qua đó
còn muốn gửi gắm những điều đó đến với người đọc nhữn gì điều đã phản ánh ở hiện thực.
Bởi vậy, Nguyễn Đình Thi viết: “Bắt rễ ở cuộc đời hàng ngày của con người, văn nghệ lại
tạo được sự sống cho tâm hồn người”. Điều thu hút độc giả chính là sự chân thật. Sự chân
thật ấy nằm ở đời sống vì độc giả chỉ tin vào những điều có thực và gần với cuộc đời họ mà
thôi. Qua hai tác phẩm “Sang thu” của Hữu Thỉnh và “Mùa xuân nho nhỏ” của
Thanh Hải ta thấy rõ điều đó, bởi những vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảnh khắc
giao mùa và cả vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời mùa xuân.
2. Thân bài:
Ý kiến của Nguyễn Đình Thi nêu lên nguồn gốc của văn nghệ - trong đó có văn học -
cũng như vai trò, ý nghĩa, tác động của văn nghệ đối với tâm hồn người tiếp nhận,
thưởng thức. Văn nghệ “bắt rễ ở cuộc đời hàng ngày của con người”: Các tác phẩm
văn học, nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực; người nghệ sĩ lấy chất liệu
sáng tác từ đời sống hàng ngày. Còn văn nghệ “tạo được sự sống cho tâm hồn người”:

63
Vì văn học, nghệ thuật giúp đời sống tinh thần của con người trở nên phong phú hơn,
làm giàu có thêm tâm hồn với những tình cảm vui - buồn, yêu thương - căm giận…
Văn nghệ góp phần nuôi dưỡng, bồi đắp thế giới tinh thần của người thưởng thức,
tiếp nhận.
Đến với “Sang thu” của Hữu Thỉnh, bài thơ “bắt rễ ở cuộc đời”: đó là khung cảnh
thiên nhiên, đất trời trong khoảnh khắc giao mùa cuối hạ đầu thu trở thành chất liệu
cho thi phẩm, trở thành nguồn cảm hứng nghệ thuật của Hữu Thỉnh. Ông đã đem
đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên. Những tín hiệu của mùa
thu với những nét phác họa tài hoa: hương ổi, ngọn gió se lạnh, sương chùng chình
giản dị mà hiện lên đầy gợi cảm đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà
thơ:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Từ “bỗng” được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Từ bao giờ mà thu đã về?
Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng
người mà không hề báo trước. Để rồi trong giây phút ngỡ ngàng ấy, giữa tiết trời cuối hạ
đầu thu nhà thơ chợt nhận ra dấu hiệu của thiên nhiên báo sang thu “hương ổi”, thứ hương
thơm quê mùa, dân dã, đơn sơ rất quen thuộc của quê hương. Dấu hiệu của sự chuyển mùa
còn được thể hiện qua “ngọn gió se” mang theo hương ổi chín thổi vào lòng người một
cảm giác mơn man, xao xuyến. Từ “phả” được dùng trong câu thơ mới độc đáo làm sao!
“Phả” là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột. Nó diễn tả được tốc độ của gió,
vừa góp phần thể hiện sự bất chợt trong cảm nhận
Tác giả nhân hóa làn sương qua từ láy “chùng chình” làm hiện lên dáng vẻ, tâm trạng của
làn sương, khiến ta cảm giác sương cũng đang cố ý đi chậm lại, quấn quýt nơi đường thôn,
ngõ xóm như lưu luyến chưa muốn bước hẳn sang mùa thu. Qua đó gợi cảnh thu sống động
trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. Từ tình thái “hình như” có nghĩa là không chắc chắn,
nó còn thể hiện cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên và có chút bâng khuâng của nhà thơ khi nhận ra
thu đã về, nhưng tất cả đều rất mơ hồ, chưa rõ rệt.
Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan
biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi :
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã”
Dòng sông được nhân hóa như con người, cứ “dềnh dàng” ra mãi, chậm chạp và thong
thả uốn lượn, con nước trôi êm ả không chút băn khoăn. Điều này thật khác với sông trong
mùa hạ. Nước lũ dâng cao như muốn dồn tất cả vào bể nước. Vậy mà giờ đãy, con sông trở
nên yên ả với trạng thái nghỉ ngơi. Nó thật giống với quy luật của cuộc sống, khi hạ - sự
cống hiến, sôi nổi nhiệt tình thì đi qua thu - trạng thái nghỉ ngơi sẽ đến. Nhưng chính điều
đó đã dẫn đến một hình ảnh khác: “chim bắt đầu vội vã”. Gió heo may se sắt đã tràn về,
sông hồn nhiên hơn cũng là lúc mùa rét đã tới. Những đàn chim di cư sẽ phải bay về
phương Nam ấm áp để tránh rét. Cả chiều thu đã sang tới bến sông, vậy thì còn đợi gì nữa
mà đàn chim chẳng vội vã đi nơi khác. Lúc này, dấu hiệu của mùa thu đã quá rõ rệt:

64
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Hình ảnh “đám mây” được miêu tả vô cùng độc đáo, nó trôi lững lờ, bồng bềnh, vắt
ngang trên bầu trời. Thậm chí ngay cả đám mây mùa hạ cũng thấy sốt ruột, phải “Vắt
nửa mình sang thu”. Phải chăng đám mây kia có hai nửa thì một nửa nằm bên mùa hạ, nửa
kia thuộc về mùa thu. Trước hết, tác giả nhân hoá mây trời qua từ “vắt” rất gợi cảm, có
hồn; đồng thời cũng gợi hình ảnh đám mây mùa hạ còn sót lại trên bầu trời đang chuyển
sắc sang thu, cũng giống như con người nửa muốn bước sang mùa thu nhưng nửa còn lại
lưu luyến chưa muốn chia tay với mùa hạ.
Bài thơ “tạo được sự sống cho tâm hồn” người đọc: độc giả được cùng tác giả khám
phá những tín hiệu ban đầu của thiên nhiên lúc sang thu; bài thơ khơi dậy trong lòng
người đọc tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh sắc quê hương Việt Nam; ở hai câu cuối:
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng câu đừng tuổi.”
“Sấm” – đơn thuần là một hiện tượng đặc trưng của mùa hạ khi trước và sau cơn mưa
lớn, “cây đứng tuổi” – theo nghĩa dễ hiểu nhất thì đó chỉ là những cái cây đã nhiều tuổi vì
sống lâu năm. Nhưng điều mà Hữu Thỉnh muốn gửi đến chúng ta đâu chỉ là những điều
giản đơn đến thế, mà “sấm” ở đây là hình ảnh ẩn dụ cũng được xem là những thăng trầm,
sóng gió của vòng đời luôn thay đổi và qua những gian nan, thử thách ấy, con người cũng
sẽ đổi thay một cách mạnh mẽ hơn và vững vàng hơn. Hình ảnh ẩn dụ “hàng cây đứng
tuổi” – tức chỉ người từng trải, những con người đã nếm được hết mùi vị ngọt ngào, cay
đắng, mặn mà hay chua chátcủa cuộc sống, và tất nhiên khi họ đã trải nghiệm qua những
khó khăn đó, thì giờ đây sẽ không phải rơi vào tình thế xao động hay lung lay trước những
biến cố của vòng xoáy cuộc đời nữa.
Với bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải thì bài thơ cũng bắt nguồn từ đời
sống: khung cảnh mùa xuân của thiên nhiên, đất trời và mùa xuân của đất nước đã in
bóng trong trang thơ của Thanh Hải; bên cạnh đó, còn có mùa xuân của lòng người:
khát vọng cống hiến cho cuộc đời chung của tác giả. Mở đầu bài thơ là đôi nét phác họa
về bức tranh của mùa xuân thiên nhiên xứ Huế:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Ngay hai câu thơ đầu ta đã bắt gặp phép đảo ngữ với động từ “mọc” được đưa lên đầu
câu để khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy, vươn lên của bông hoa tím trên mặt nước
xanh của dòng sông xuân; gợi cho ta cảm giác bông hoa kia tràn đầy sức xuân và sắc xuân.
Không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn hơn với hình ảnh “dòng sông xanh” chảy hiền hoà.
Bức tranh không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếng chim chiền chiện cất lên với
muôn vàn lời ca, tiếng hót reo mừng. Với từ cảm thán “ơi” được đặt ở đầu dòng thơ đã gói
trọn niềm cảm xúc dạt dào trong lòng nhà thơ, bộc lộ niềm vui, xôn xao của một trái tim
yêu thiên nhiên trước mùa xuân tươi đẹp. Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua
câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang trời”; thứ âm thanh ấy làm sống dậy cả không gian cao
rộng, khoáng đạt, làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối mặt với

65
những bóng đen u ám của bệnh tật. Dòng sông êm trôi, bông hoa lững lờ, tiếng chim rộn
rã… bức tranh mùa xuân xứ Huế bao giờ cũng đẹp nhẹ nhàng, bình dị và mơ mộng như
thế!
Từ mùa xuân thiên nhiên nhà thơ nghĩ về con người, trong khổ thơ này tác giả đưa ra hai
hình ảnh người lính và người nông dân để nói về mùa xuân sản xuất và chiến đấu của nhân
dân ta:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Mở đầu khổ thơ ta bắt gặp điệp từ “mùa xuân” và “lộc” đã gợi lên quang cảnh mùa xuân
tươi mới đầy trồi non, lộc biếc; đồng thời còn nói đến những thành quả trong công việc bảo
vệ và xây dựng đất nước. Tác giả đã sáng tạo hình ảnh sóng đôi: “người cầm súng”, “người
ra đồng” để biểu trưng cho hai nhiệm vụ quan trọng của dân tộc ta đó là chiến đấu và xây
dựng đất nước. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong
cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và ác liệt. Đối với người nông dân “một nắng
hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, màu mỡ,
xanh tươi, báo hiệu một mùa bội thu. Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” còn là hình ảnh ẩn dụ
tượng trưng cho tương lai, thành quả cách mạng, sức sống mãnh liệt của mùa xuân.
Bài thơ cũng “tạo được sự sống cho tâm hồn” độc giả: người đọc được cùng tác giả
khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất nước vào xuân; thêm yêu đời, yêu thiên
nhiên và khao khát sống đẹp, sống cống hiến cho đời:
“ Ta làmcon chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Sử dụng điệp từ “ta” và bút pháp liệt kê để thể hiện ước nguyện chân thành, thiết tha:
được làm một tiếng chim hót thánh thót góp phần làm cho mùa xuân quê hương thêm rạo
rực, sống động; Thanh Hải nguyện làm một cành hoa để tô điểm thêm hương sắc cho mùa
xuân quê hương đất nước; ông không mơ làm một nốt nhạc bổng cao vút trong bản hòa ca
của dân tộc mà chỉ khiêm nhường làm một nốt trầm xao xuyến lòng người, nốt trầm ấy có
thể là nốt nhạc phụ nhưng không thể thiếu bởi nó là yếu tố góp phần làm nên sự thành công
của bản hòa ca. Với lớp nghĩa ẩn dụ tượng trưng “con chim hót”, “một cành hoa”, “ nốt
trần xao xuyến” nó gợi liên tưởng đến mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con
người và đất nước Việt Nam. Cái “tôi”của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyển hoá
thành cái “ta” đã nhằm nhấn mạnh ước muốn không chỉ của riêng nhà thơ mà là ước
nguyện chung của mọi người
Hai bài thơ “Sang thu” và “Mùa xuân nho nhỏ” là tác phẩm của những tác giả khác
nhau, ra đời trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng chúng đều là minh chứng tiêu
biểu cho mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, nghệ thuật và người thưởng thức
văn nghệ. Nhận định của Nguyễn Đình Thi đúng đắn và có tầm khái quát cao.
3. Kết bài:

66
Mỗi nhà thơ có cảm nhận riêng về cảnh sắc thiên nhiên, những chiêm nghiệm,
những suy nghĩ về cuộc đời, về con người, tình người trong cuộc sống. Nhưng thật
cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ đầy xúc động với hình ảnh
thiên nhiên gợi lên thật đẹp. Hai bài thơ để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những
cảm xúc sâu lắng, khó phai mờ, và vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi
lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm
khát khao được sống, được cống hiến cho đất nước, cho dù đó là những cống hiến
giản dị, nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa. Bởi vậy, nhận định của Nguyễn Đình Thi: “Bắt rễ
ở cuộc đời hàng ngày của con người, văn nghệ lại tạo được sự sống cho tâm hồn
người”. Hai bài thơ “Sang thu” và “Mùa xuân nho nhỏ” sẽ sống mãi trong lòng mỗi
chúng ta qua năm tháng.
………………………………………………………………………………………………
Đề 22: So sánh ước nguyện của Thanh Hải trong “Mùa xuân nho nhỏ” và ước nguyện của
Viễn Phương trong Viếng lăng Bác
1. Mở bài:
Ai cũng có những ước muốn của riêng mình, ước muốn ấy có thể bình thường, giản dị
nhưng cũng có thể là khao khát nguyện vọng thực hiện được khi thoát khỏi cái tôi cá nhân
hóa thân, hòa nhập vào cộng đồng. Đứng trước thiên nhiên tươi đẹp của mùa xuân xứ Huế,
Thanh Hải đã thể hiện khát vọng dâng hiến mùa xuân của mình vào mùa xuân chung đất
nước qua bài thơ “Mùa Xuân nho nhỏ”. Hay đó là niềm thành kính, nỗi xúc động chân
thành của Viễn Phương lần đầu ra thăm lăng Bác được bộc lộ qua bài thơ “Viếng lăng
Bác”.
2. Thân bài:
Điểm chung của cả hai đoạn thơ đều nói về ước nguyện sống đẹp, sống cống hiến cho
cuộc đời, cho đất nước, nhân dân… Ước nguyện khiêm nhường, bình dị muốn được góp
phần dù nhỏ bé vào cuộc đời chung. Các nhà thơ đều dùng những hình ảnh đẹp của thiên
nhiên là biểu tượng thể hiện ước nguyện của mình. Còn về nghệ thuật, cả hai tác giả đã sử
dụng những hình ảnh mộc mạc, giản dị trong thiên nhiên và nâng chúng lên thành những
khát vọng cống hiến cao đẹp. Không chỉ thế, cả hai đoạn thơ còn sử dụng những hình ảnh
ẩn dụ, liệt kê, điệp ngữ mới mẻ, sáng tạo độc đáo, làm chúng trở nên thật lôi cuốn, gây
nhiều cảm xúc cho ngưòi đọc.
Nhưng chúng cũng có những điểm khác nhau rõ nét về nội dung, sự khác nhau ấy
chính là cảm hứng, hoàn cảnh sáng tác bài thơ. Thanh Hải đã sáng tác “Mùa xuân nho nhỏ”
lúc đang lâm bệnh, không còn sống được lâu nữa nhưng vẫn rất muốn cống hiến một thứ gì
đó cho đời. Còn bài “Viếng lăng Bác” được Viễn Phương sáng tác sau khi vào Hà Nội
thăm lăng Bác, thể hiện cảm xúc, tâm tư của ông sau chuyến đi ấy. Về nghệ thuật, khổ bốn,
năm “Mùa xuân nho nhỏ” được viết theo thể thơ năm chữ, giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết,
tâm tình, bộc lộ tấm chân tình của tác giả. Trong khi khổ bốn của “Viếng lăng Bác” được
viết theo thể thơ tám chữ, giọng thơ trang nghiêm, thành kính, nhịp thơ dồn dập gây cho
người đọc nhiều cảm xúc về Bác Hồ.
Đến với “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, nếu khổ một miêu tả hàng tre bên lăng Bác,
khổ hai miêu tả mặt trời và đoàn người đến viếng lăng Bác, khổ ba miêu tả cảnh Bác nằm

67
trong giấc ngủ bình yên thì khổ bốn thể hiện ước nguyện của tác giả qua việc miêu tả cảnh
vật xung quanh lăng:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. ”
Bằng việc liệt kê các hình ảnh chọn lọc “con chim”, “đoá hoa”, “cây tre”, điệp ngữ
“Muốn làm” và nhịp thơ nhanh, đoạn thơ đã thể hiện ước nguyện cống hiến của tác
giả. Những hình“con chim”, “đoá hoa”, “cây tre” là ẩn dụ đẹp thể hiện ước nguyện
của nhà thơ muốn làm “con chim” góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác; một
đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác; muốn làm cây tre bên lăng Bác
để bảo vệ lăng và đóng góp phần nhỏ bé của mình cho người cha già kính yêu. Với hình
ảnh nhân hóa “cây tre trung hiếu” để nói lên khát vọng ở lại bên lăng để canh giấc ngủ cho
người, còn để tác giả bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc.
Đồng thời cũng thể hiện lòng kính yêu và ước nguyện thủy chung tiếp tục đi theo con
đường lý tưởng cách mạng mà Bác đã chọn cho dân tộc. Bài thơ khép lại bằng hình ảnh
“cây tre” với kết cấu đầu cuối tương ứng để bày tỏ khát vọng và tấm lòng dành cho Bác.
Còn ở bài “Mùa xuân nho nhỏ”, nếu khổ một miêu tả cảm xúc của nhà thơ về mùa
xuân thiên nhiên xứ Huế, khổ hai, ba nói về cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của
đất nước thì ở khổ bốn, tác giả đã nói lên ước nguyện chân thành:
“ Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Sử dụng điệp từ “ta” và bút pháp liệt kê để thể hiện ước nguyện chân thành, thiết tha:
được làm một tiếng chim hót thánh thót góp phần làm cho mùa xuân quê hương thêm rạo
rực, sống động; Thanh Hải nguyện làm một cành hoa để tô điểm thêm hương sắc cho mùa
xuân quê hương đất nước; ông không mơ làm một nốt nhạc bổng cao vút trong bản hòa ca
của dân tộc mà chỉ khiêm nhường làm một nốt trầm xao xuyến lòng người, nốt trầm ấy có
thể là nốt nhạc phụ nhưng không thể thiếu bởi nó là yếu tố góp phần làm nên sự thành công
của bản hòa ca. Với lớp nghĩa ẩn dụ tượng trưng “con chim hót”, “một cành hoa”, “ nốt
trần xao xuyến” nó gợi liên tưởng đến mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con
người và đất nước Việt Nam. Cái “tôi”của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyển hoá
thành cái “ta” đã nhằm nhấn mạnh ước muốn không chỉ của riêng nhà thơ mà là ước
nguyện chung của mọi người
Đến khổ thơ tiếp theo Thanh Hải thể hiện rõ hơn khát vọng cống hiến của mình ở
những vần thơ sâu lắng:
“ Một mùa xuân nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
“Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc đời đáng yêu, một khát
vọng sống cao đẹp. Mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy đem tất cả những gì tốt đẹp,
tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước. Cặp từ láy
68
“nho nhỏ”, “lặng lẽ” kết hợp với đảo ngữ “lặng lẽ dâng” cho thấy một thái độ chân thành,
khiêm nhường, không khoe khoang mà chỉ lặng lẽ, âm thầm dâng hiến. Lời ước nguyện
thật thuỷ chung, son sắt được diễn tả qua hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi” chỉ tuổi trẻ và
“khi tóc bạc” để nói khi về già. Điều này đã khẳng định cả đời người phải giữ trọn lẽ sống
có ích, có ý nghĩa, cống hiến suốt cuộc đời cho Tổ quốc, cho nhân dân. Điệp ngữ “dù là”
nhắc lại hai lần làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết sâu lắng càng khắc sâu ước
nguyện chân thành, bền bỉ đáng quý. Phải chăng đây là lẽ sống đầy trách nhiệm mà Thanh
Hải muốn nhắn gởi đến chúng ta.
Với tất cả những sự giống nhau và khác nhau đó, mỗi đoạn thơ đều có những âm hưởng
riêng, phong cách riêng đã đem lại cái hay, cái đặc sắc riêng của từng bài khiến cho ta vô
cùng xúc động trước ước nguyện cống hiến của tác giả và lối sống đẹp đẽ, đầy trách nhiệm
của họ, và cũng là lối sống của con người Việt Nam, như Tố Hữu đã từng viết:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình ”
3. Kết bài:
Dù ngày Viễn Phương ra viếng lăng Bác đã rất xa, Thanh Hải thì không còn nhìn thấy
mùa xuân quê hương mình nữa. Nhưng mỗi nhà thơ đều để lại những dòng thơ chan chứa,
ấm áp về tình người, tình cảm sâu nặng với quê hương, xứ sở.
…………………………………………………………………………………………….
Đề 23: Trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, Thanh Hải viết:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa”.
Kết thúc bài Viếng lăng Bác, Viễn Phương viết:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác.
Hai bài thơ, hai tác giả viết đề tài khác nhau nhưng có chung chủ đề, hãy chỉ ra tư
tưởng chung đó. Chọn bình một khổ thơ đặc sắc.
1. Mở bài:
Ai cũng có những ước muốn của riêng mình, ước muốn ấy có thể bình thường, giản dị
nhưng cũng có thể là khao khát nguyện vọng thực hiện được khi thoát khỏi cái tôi cá nhân
hóa thân, hòa nhập vào cộng đồng. Thanh Hải đã thể hiện khát vọng được làm một tiếng
chim hót thánh thót góp phần làm cho mùa xuân quê hương thêm rạo rực, sống động;
nguyện làm một cành hoa để tô điểm thêm hương sắc cho mùa xuân quê hương đất nước
qua bài thơ “Mùa Xuân nho nhỏ”. Hay đó là niềm thành kính, nỗi xúc động chân thành của
Viễn Phương trước khi rời lăng cũng thể hiện ước nguyện của mình: muốn làm “con chim”
góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.
2. Thân bài:
Bởi vậy, những câu thơ trên đều có những điểm khác nhau khá rõ nét: Thanh Hải viết về
đề tài thiên nhiên đất nước và khát vọng hoà nhập, dâng hiến cho cuộc đời. Còn Viễn
Phương viết về đề tài lãnh tụ, thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng tha thiết thành
kính khi tác giả từ Miền nam vừa được giải phóng ra viếng lăng Bác.
69
Tuy vậy, những câu thơ trên của hai nhà thơ vẫn có điểm giống nhau: Cả hai đoạn thơ đều
thể hiện ước nguyện chân thành, tha thiết được hoà nhập, cống hiến cho cuộc đời, cho đất
nước, nhân dân… Ước nguyện khiêm nhường, bình dị muốn được góp phần dù nhỏ bé vào
cuộc đời chung. Các nhà thơ đều dùng những hình ảnh đẹp của thiên nhiên là biểu tượng
thể hiện ước nguyện của mình.
3. Kết bài:
Dù ngày Viễn Phương ra viếng lăng Bác đã rất xa, Thanh Hải thì không còn nhìn thấy
mùa xuân quê hương mình nữa. Nhưng mỗi nhà thơ đều để lại những dòng thơ chan chứa,
ấm áp về tình người, tình cảm sâu nặng với quê hương, xứ sở.
…………………………………………………………
Đề 24. Đọc thơ Y Phương người ta dễ bị hút hồn bởi bản sắc vùng cao rất riêng và đậm đà.
Hãy làm rõ “bản sắc vùng cao” ấy trong bài thơ “Nói với con” (Ngữ văn 9 - tập 2).
Bài làm
1. Mở bài:
Y Phương sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Trùng Khánh – Cao Bằng. Thấm
nhuần những tinh hoa, cái đẹp của của dân tộc Tày, có lẽ đó cũng là một trong những
nguyên nhân để bài thơ “Nói với con” dù viết về những vấn hết sức quen thuộc nhưng
hoàn toàn có một lối đi riêng, một giai điệu mới. Mượn lời của người cha nói với đứa
con yêu dấu, bài thơ thể hiện tình cảm gia đình đầm ấm, nghĩa tình quê hương tha
thiết ngọt ngào, là tiếng hát ngợi ca truyền thống, sức sống bền bỉ của dân tộc mình.
Qua đó thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy hình ảnh
của người miền núi. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: Đọc bài thơ “Nói với con” của Y
Phương người ta dễ bị hút hồn bởi bản sắc vùng cao rất riêng và đậm đà.
2. Thân bài:
Trước tiên ta phải hiểu: “Bản sắc vùng cao” trong thơ Y Phương đó là những gì rất
riêng, rất đặc trưng được thể hiện qua ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu, cảm xúc, cách nghĩ.
Đúng vậy, bởi đó là một thứ ngôn ngữ quá tự nhiên, quá mộc mạc, như hơi thở, như
cuộc sống, như dòng máu của người Tày chảy qua đầu ngọn bút mà thành thơ vậy.
Bài thơ “Nói với con” được viết vào năm 1980 đã giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ
đẹp tâm hồn của con người miền núi, gợi tả tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê
hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Đến với bài thơ, ta thấy điều đầu tiên Y Phương muốn nói với con chính là cội nguồn
sinh dưỡng mỗi con người – tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho con:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếngnói
Hai bước tới tiếngcười”
Bốn câu thơ mở đầu có nhịp cấu trúc đối xứng cùng thủ pháp liệt kê: “chân phải – chân
trái, một bước – hai bước, tiếng nói – tiếng cười” giúp người đọc hình dung cảnh một em
bé đang chập chững bước đi những bước đầu tiên, đang bi bô tập nói, lúc thì sa vào lòng
mẹ, lúc thì níu lấy tay cha. Qua đó gợi lên khung cảnh gia đình tràn đầy niềm vui, hạnh
phúc. Tác giả lại sử dụng phép liệt kê “ tới cha, tới mẹ” cho thấy sự quan tâm, chăm chút

70
với ánh mắt dõi theo, vòng tay đón đợi của cha mẹ. Con được sinh ra và lớn lên trong tình
yêu thương, nâng đón của cha mẹ.
Cha còn nói cho con biết: con lớn lên trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ
mộng và nghĩa tình của quê hương:
“Người đồng mình yêulắm, con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”.
Qua câu cảm thán “người đồng mình yêu lắm con ơi !” gợi sự yêu thương, tha thiết cũng
là lời giới thiệu ân cần, giản dị về hình ảnh “người đồng mình”; nhà thơ như đang giới
thiệu đây là những người bản mình, người vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân
thương. Trong câu thơ tiếp theo “Đan lờ cài nan hoa” ta bắt gặp hình ảnh tả thực, đồng thời
còn gợi đôi bàn tay cần cù, khéo léo, tài hoa của người đồng mình. Ở “Vách nhà ken câu
hát” cũng vậy, nó tả thực một lối sinh hoạt của người đồng mình, ngoài ra còn gợi một thế
giới tâm hồn tinh tế, phong phú, tràn đầy lạc quan của người miền cao bởi vách nhà được
ken đầy những câu hát. Các động từ “cài”, “ken” giúp chúng ta thấy được cách miêu tả
chính xác động tác tỉ mỉ, khéo léo trong lao động. “Người đồng mình” vất vả với công
việc nhưng cuộc sống của họ không nhàm chán, ngược lại, họ rất yêu cuộc sống, yêu lao
động bởi họ biết dùng câu hát để khơi dậy tinh thần lạc quan của mình. Tiếng hát giúp
cuộc sống của họ có thêm nhiều màu sắc và giúp tâm hồn họ trở nên phong phú hơn.
Quê hương với những con người tài hoa, tâm hồn lãng mạn, cũng là quê hương với thiên
nhiên thơ mộng, nghĩa tình:
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”.
“Rừng” được nhân hóa qua từ “cho” đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của
thiên nhiên, cũng là niềm vui, nguồn hạnh phúc mà thiên nhiên ban tặng; đồng thời còn ca
ngợi sự giàu có và hào phóng của thiên nhiên quê hương. Qua phép tu từ nhân hóa “con
đường” bằng từ “cho”, tác giả đã gợi được tình cảm gắn bó keo sơn, thắm thiết của người
đồng mình với căn nhà, làng bản; đồng thời còn gợi những bàn chân, những tấm lòng trở
về. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình của quê hương: đem đến cho con người những thứ
cần để lớn, dành tặng cho con người những gì đẹp đẽ nhất. Quê hương đã che chở, nuôi
dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống. Ngoài ra tác gải còn thành công trong việc sử
dụng thủ pháp ẩn dụ “cho hoa, cho những tấm lòng”; hình ảnh này là một tín hiệu thẩm
mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê
hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó và cả những tấm lòng nhân
hậu, bao dung, chở che, là vẻ đẹp của tình người. Đó cũng là hình tượng thiêng liêng, cao
đẹp của làng quê.
Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với
con về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình:
“Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chi lớn”.
Người đồng mình “thương lắm con ơi”– đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con
người quê hương. Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về những gian truân,

71
thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua. Bằng cách tư duy độc đáo của người
miền núi, Y Phương đã lấy cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo
ý chí con người. Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy những
khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ. Có thể nói, cuộc sống của
người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề, thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất
cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc.
Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê
hương, cội nguồn:
“ Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
Phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói” đã gợi lên cuộc
sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc của người đồng mình. Vận dụng thành ngữ dân gian
“Lên thác xuống ghềnh”, ý thơ gợi bao nỗi vất vả, lam lũ. Những câu thơ dài ngắn, cùng
những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc trở, gian nan, đói nghèo của quê hương.
Điệp ngữ “sống”, “không chê” đã nhấn mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu
thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí và sự quyết tâm. Người đồng mình chấp nhận
và thủy chung gắn bó cùng quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả. Và phải chăng
chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu
quê hương sẽ tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả. Phép so sánh “Sống như sông như
suối” gợi lối sống hồn nhiên, trong sáng, mạnh mẽ và ý chí, niềm tin của người đồng mình
vào cuộc sống.
Phẩm chất của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập
tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
Cụm từ “thô sơ da thịt” là cách nói ẩn dụ để ngợi ca những con người mộc mạc, giản dị,
nhỏ bé về vóc dáng, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó. Cụm từ “chẳng nhỏ bé”
khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin. Sự đối lập này đã tôn
lên tầm vóc của người đồng mình: họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, nghị lực và niềm tin;
Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí, về mong ước xây
dựng quê hương:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.
Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực để chỉ
truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc:
người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng sức lao động đã xây dựng và làm
đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương.
Khép lại đoạn thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với biết bao niềm tin hi
vọng của người cha đặt vào đứa con yêu:

72
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”
Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ trước
đó càng trở nên da diết, khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp của “người
đồng mình”. Nhưng hai tiếng “Lên đường” cho thấy người con đã lớn khôn và tạm biệt gia
đình, quê hương để bước vào một trang đời mới. Trong hành trang của người con mang
theo khi “lên đường” có một thứ quí giá hơn mọi thứ trên đời, đó là ý chí, nghị lực, truyền
thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng
lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền
thống và làm vẻ vang quê hương.
Bài thơ “Nói với con” của Y Phương có giọng điệu thủ thỉ, tâm tình tha thiết, trìu
mến. Đồng thời lại xây dựng những hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa mang tính khái
quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ. Tất cả làm nên sức hấp dẫn của bài thơ.
3. Kết bài:
“Nói với con” là sản phẩm lối tư duy, cách biểu cảm của người miền núi. Phải là
một người được sinh ra, lớn lên, được nuôi dưỡng bằng chính nguồn mạch của núi
rừng mới cất lên tiếng nói gan ruột, mang đầy âm hưởng của cuộc sống vùng cao. Bài
thơ là những cảm xúc chân thật của một tâm hồn mạnh mẽ, trong sáng và cách tư
duy giàu hình ảnh. Ẩn sâu trong lớp ngôn từ giản dị, hình ảnh vừa gần gũi vừa mới lạ
là những tư tưởng lớn lao đầy tính nhân văn. Chính vì vậy, bài thơ không chỉ đơn
thuần là những lời tâm sự của người cha với con, mà nó vượt ra khỏi phạm vi gia đình
để trở thành tiếng hát của tình yêu và niềm tự hào về quê hương, về dân tộc mình. Bởi
vậy, đọc thơ Y Phương người ta dễ bị hút hồn bởi bản sắc vùng cao rất riêng và đậm đà ấy.
......................................................................................................................................................
Đề 25: Có ý kiến cho rằng, đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy
tình người trong đó. Từ cảm nhận về bài thơ “Nói với con” của Y Phương, em hãy làm
sáng tỏ ý kiến trên
1. Mở bài:
Ca dao từng có câu: “Công cha như núi Thái Sơn”. Có phải vì vậy mà người cha
luôn khao khát những đứa con có được sự vững vàng, rắn rỏi mạnh mẽ trên đường
đời. Qua bài thơ “Nói với con” của Y Phương, người đọc nhận thấy tình cảm và mong
ước của một người cha như vậy dành cho con, một thứ tình cảm nồng ấm và thiêng
liêng, giản dị. Bài thơ đồng thời cũng gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về
trách nhiệm của người làm con. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “đọc một câu thơ hay,
người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó”.
2. Thân bài:
Câu thơ hay là câu thơ thế nào? Phải chăng chính là sản phẩm lao động sáng tạo
của nhà thơ, kết tinh từ những tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ muốn gửi gắm qua
hình thức phù hợp. Đọc là hình thức tiếp nhận của độc giả. Còn tình người thì sao?
Đó chính là tư tưởng, tình cảm, cảm xúc tạo nên giá trị nội dung thơ
73
Quan niệm trên muốn nhấn mạnh giá trị của thơ là những tư tưởng, tình cảm được
biểu hiện trong thơ. Tình cảm, cảm xúc cành sâu sắc, mãnh liệt, lớn lao càng khiến
thơ lay động lòng người.
Đối tượng của thơ là thế giới tâm hồn, tình cảm của con người. Câu thơ, bài thơ bao
giờ cũng biểu đạt tình cảm, tư tưởng của người nghệ sĩ. Cảm xúc càng mãnh liệt, càng
thăng hoa thì thơ càng có nhiều khả năng chinh phục, ám ảnh trái tim người đọc. Đối
với người đọc, đến với bài thơ là để trải nghiệm một tâm trạng, một cảm xúc và kiếm
tìm sự đồng điệu của tâm hồn. Tuy nhiên nói “không thấy câu thơ” không có nghĩa là
câu thơ không tồn tại mà hình thức biểu hiện đó đã đồng nhất với nội dung tình cảm
của tác phẩm.
Đến với bài thơ “Nói với con” thì tình người thể hiện qua lời cha nói với con về cuội
nguồn sinh dưỡng:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Bốn câu thơ mở đầu có nhịp cấu trúc đối xứng cùng thủ pháp liệt kê: “chân phải – chân
trái, một bước – hai bước, tiếng nói – tiếng cười” giúp người đọc hình dung cảnh một em
bé đang chập chững bước đi những bước đầu tiên, đang bi bô tập nói, lúc thì sa vào lòng
mẹ, lúc thì níu lấy tay cha. Qua đó gợi lên khung cảnh gia đình tràn đầy niềm vui, hạnh
phúc. Tác giả lại sử dụng phép liệt kê “ tới cha, tới mẹ” cho thấy sự quan tâm, chăm chút
với ánh mắt dõi theo, vòng tay đón đợi của cha mẹ. Con được sinh ra và lớn lên trong tình
yêu thương, nâng đón của cha mẹ.
Cha còn nói cho con biết: con lớn lên trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ
mộng và nghĩa tình của quê hương:
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”.
“Rừng” được nhân hóa qua từ “cho” đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của
thiên nhiên, cũng là niềm vui, nguồn hạnh phúc mà thiên nhiên ban tặng; đồng thời còn ca
ngợi sự giàu có và hào phóng của thiên nhiên quê hương. Qua phép tu từ nhân hóa “con
đường” bằng từ “cho”, tác giả đã gợi được tình cảm gắn bó keo sơn, thắm thiết của người
đồng mình với căn nhà, làng bản; đồng thời còn gợi những bàn chân, những tấm lòng trở
về. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình của quê hương: đem đến cho con người những thứ
cần để lớn, dành tặng cho con người những gì đẹp đẽ nhất. Quê hương đã che chở, nuôi
dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống. Ngoài ra tác gải còn thành công trong việc sử
dụng thủ pháp ẩn dụ “cho hoa, cho những tấm lòng”; hình ảnh này là một tín hiệu thẩm
mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê
hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó và cả những tấm lòng nhân
hậu, bao dung, chở che, là vẻ đẹp của tình người. Đó cũng là hình tượng thiêng liêng, cao
đẹp của làng quê.
Tình người trong bài thơ còn thể hiện qua lời cha nói với con về những đức tính cao
đẹp của người đồng mình:
“Người đồng mình thương lắm con ơi!

74
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chi lớn”.
Người đồng mình “thương lắm con ơi”– đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con
người quê hương. Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về những gian truân,
thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua. Bằng cách tư duy độc đáo của người
miền núi, Y Phương đã lấy cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo
ý chí con người. Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy những
khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ. Có thể nói, cuộc sống của
người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề, thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất
cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc.
Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê
hương, cội nguồn:
“ Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
Phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói” đã gợi lên cuộc
sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc của người đồng mình. Vận dụng thành ngữ dân gian
“Lên thác xuống ghềnh”, ý thơ gợi bao nỗi vất vả, lam lũ. Những câu thơ dài ngắn, cùng
những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc trở, gian nan, đói nghèo của quê hương.
Điệp ngữ “sống”, “không chê” đã nhấn mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu
thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí và sự quyết tâm. Người đồng mình chấp nhận
và thủy chung gắn bó cùng quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả. Và phải chăng
chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu
quê hương sẽ tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả. Phép so sánh “Sống như sông như
suối” gợi lối sống hồn nhiên, trong sáng, mạnh mẽ và ý chí, niềm tin của người đồng mình
vào cuộc sống. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt
như hình ảnh đại ngàn của sông núi.
Phẩm chất của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập
tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
Cụm từ “thô sơ da thịt” là cách nói ẩn dụ để ngợi ca những con người mộc mạc, giản dị,
nhỏ bé về vóc dáng, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó. Cụm từ “chẳng nhỏ bé”
khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin. Sự đối lập này đã tôn
lên tầm vóc của người đồng mình: họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, nghị lực và niềm tin;
Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí, về mong ước xây
dựng quê hương:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.

75
Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực để chỉ
truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc:
người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng sức lao động đã xây dựng và làm
đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương. Còn quê hương là điểm tựa
tinh thần với phong tục tập quán nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin. Câu thơ
đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền
thống quê hương tốt đẹp của người đồng mình.
Khép lại đoạn thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với biết bao niềm tin hi
vọng của người cha đặt vào đứa con yêu:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”
Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ trước
đó càng trở nên da diết, khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp của “người
đồng mình”. Nhưng hai tiếng “Lên đường” cho thấy người con đã lớn khôn và tạm biệt gia
đình, quê hương để bước vào một trang đời mới. Trong hành trang của người con mang
theo khi “lên đường” có một thứ quí giá hơn mọi thứ trên đời, đó là ý chí, nghị lực, truyền
thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng
lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền
thống và làm vẻ vang quê hương. Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa
tình yêu thương vô bờ bến của cha dành cho con. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian
khó và vươn lên bằng ý chí của mình.
Người cha muốn con hiểu và cảm thông với cuộc sống khó khăn của quê hương, tự hào
về truyền thống quê hương, tự hào về dân tộc để vững bước trên con đường đời, để tự tin
trong cuộc sống.
Với thể thơ tự do, giọng thơ thiết tha, trìu mến nhưng lại trang nghiêm. Các hình
ảnh thơ cụ thể mà có tính khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ. Đoạn thơ chứa
chan ý nghĩa, mộc mạc, đằm thắm mà sâu sắc. Các biện pháp nghệ thuật đặc sắc như:
Điệp từ, điệp cấu trúc, so sánh, ẩn dụ....Tất cả tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm
vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ là hành trang đi theo con suốt cuộc đời và có
lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ - bài học về niềm tin, nghị lực, ý chí vươn
lên.
3. Kết bài:
Bài thơ đã thể hiện được điều tâm huyết nhất mà người cha muốn truyền lại cho con. Đó
chính là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống tốt đẹp của quê hương
và niềm tin vững chắc khi bước vào đời. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được tình người
hay tình cảm thắm thiết của cha mẹ đối với con cái nói chung và tình yêu quê hương sâu
nặng của nhà thơ Y Phương nói riêng. Bởi vậy, ý kiến cho rằng: “đọc một câu thơ hay,
người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người trong đó” là hoàn toàn đúng với
bài thơ này.
...........................................................................................................................................

76
Đề 26: Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả
muôn vật, muôn loài…
(Hoài Thanh, Ý nghĩa văn chương, SGK Ngữ văn 7, T2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011,
Tr.60)
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua tác phẩm “Chuyện người con gái
Nam Xương” (Trích Truyền kỳ mạn lục) của Nguyễn Dữ và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng
Bích” (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du.
Gợi ý
1. Mở bài:
Vấn đề trung tâm của văn chương là vấn đề con người và nguồn gốc cốt yếu của văn
chương chính là lòng thương người. Lòng thương người hay nói rộng ra là giá trị
nhân đạo là phẩm chất cốt lõi, là tiêu chuẩn cho một tác phẩm văn học chân chính.
Giá trị nhân đạo – lòng thương người ấy được Nguyễn Dữ thể hiện rõ qua tác phẩm “
Chuyện người con gái Nam Xương” và Nguyễn Du ở đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng
Bích”.
2. Thân bài:
Hoài Thanh đã đưa ra vấn đề quan trọng, được coi là nguồn gốc cốt yếu của văn
chương: Lòng thương người mà rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. Văn
chương: Chỉ các tác phẩm thơ văn. Đối tượng phản ánh của tác phẩm văn chương là
con người và vạn vật. Nhà văn sáng tác tác phẩm, một mặt phản ánh hiện thực, mặt
khác bày tỏ tình cảm với con người và vạn vật. Tác phẩm là tiếng nói của tâm hồn,
cảm xúc của người sáng tác, được hình thành, nảy nở từ tình cảm của tác giả đối với
cuộc sống, con người, quan trọng nhất là tình thương. Tình thương người, thương cả
muôn vật, muôn loài: Là lòng nhân ái – một tình cảm rộng lớn, cao cả, mang tầm
nhân loại. Tình cảm ấy không chỉ là cội nguồn của văn chương mà còn là thước đo giá
trị của tác phẩm văn chương chân chính. Đó chính là giá trị nhân đạo, là những ý
nghĩa nhân văn sâu sắc mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.
Nói đến giá trị nhân đạo, đến ý nghĩa nhân văn là nói đến vấn đề con người, vấn đề
nhân sinh đặt ra trong tác phẩm. Ở đó, con người luôn được đặt ở vị trí hàng đầu,
trong mối quan tâm thường trực của các nhà văn. Ý kiến của Hoài Thanh là một
nhận định về giá trị tư tưởng của tác phẩm văn chương, khẳng định “nguồn gốc cốt
yếu” của các tác phẩm văn chương chính là “giá trị nhân đạo”. Biểu hiện của giá trị
nhân đạo trong tác phẩm rất đa dạng song thường tập trung vào những mặt cụ thể
sau: lòng thương yêu, sự cảm thông, xót xa trước những hoàn cảnh, những số phận
bất hạnh; lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người;
ngợi ca, đề cao những vẻ đẹp, phẩm giá cao quý; trân trọng, nâng niu khát vọng sống,
khát vọng tình yêu và hạnh phúc của con người. “Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” của Nguyễn Du là
minh chứng rõ nhất cho quan điểm: nguồn gốc cốt yếu của văn chương chính là lòng
thương người.
Tấm lòng yêu thương, đồng cảm, xót xa cho những số phận người phụ nữ tài sắc mà
bất hạnh, gặp nhiều bi kịch trong cuộc đời: số phận của Kiểu bị ném vào nhà chứa,
rồi giam lỏng trong lầu Ngưng Bích với nỗi cô đơn, buồn tủi, thương thân, xót phận.

77
Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh “Êm đềm trước rủ màn che”. Kiều đã trở
thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ nàng đang sống trong
cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
Hai chữ “khóa xuân” muốn nói Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, thể hiện tình cảnh
đáng thương của nàng. Đồng thời nó còn hàm chứa sự xót xa, mỉa mai cho thân phận của
Thúy Kiều. Khung cảnh thiên nhiên ở đây thật vắng lặng, không có một chút âm thanh,
một bóng người như càng cô lập Kiều trong sự cô đơn đến rợp người. Thông qua cảnh vật
để nói lên sự cô đơn, lẻ loi đến cùng cực của Kiều. Vì nàng chỉ có một mình, bầu bạn với
Kiều lại là “ non xa, trăng gần, mây sớm, đèn khuya” những sự vật vô tri, vô giác. Kiều
cảm thấy ngổn ngang trăm mối, day dứt lo âu. Từ “ xa trông” gợi sự trông ngóng, hướng
về sự sống – dấu hiệu ấm áp nào đó của thiên nhiên, nhưng Kiều không thể tìm được. Lối
liệt kê hình ảnh “ cát vàng, bụi hồng, mây sớm, đèn khuya” cũng gợi bao nỗi ngổn ngang
trong lòng Thúy Kiều. Rồi từ láy “ bẽ bàng” lại nói lên tâm trạng chán ngán, buồn tủi, xấu
hổ, mặc cảm và tủi nhục cho thân phận mình. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian
tuần hoàn, khép kín: sớm thì làm bạn với mây, khuya lại trò chuyện với đèn. Trước nỗi
buồn Kiều muốn chia tấm lòng mình thành hai nửa: một nửa theo khung cảnh trống trải
của cảnh vật, nửa ở lại với mảnh tình đơn côi. Nàng bị đày đọa trong một không gian vô
cùng, một thời gian vô tận trong nỗi cô đơn cùng cực và trước mắt nàng là một tương lai
mờ mịt.
Từ những nỗi niềm buồn thương đó, Nguyễn Du đã khéo léo tô thêm màu xám trên ánh
nhìn xa xăm của Kiều, đầy sầu não lên thành đỉnh điểm, qua tám câu khép lại đoạn trích:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Hai câu thơ gợi ra không gian rộng trên mặt biển ba la vào lúc chiều tà. Với hình ảnh ẩn
dụ “cánh buồm” để nói nỗi cô đơn, lẻ lo, bé nhỏ. Thời gian “chiều hôm”: khiến cho nỗi
buồn thân phận càng trở nên thấm thía. Từ láy “ thấp thoáng, xa xa” không chỉ gợi hình mà
còn nói lên tình cảnh lênh đênh, thân phận bơ vơ của Kiều. Trong không gian vắng lặng
Kiều nhìn về xa xa với nỗi nhớ nhà, nhớ gia đình, nhớ người thân, với ước mong được trở
về đoàn tụ, sum họp.
“Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!”
Hình ảnh ẩn dụ “Hoa trôi” nói lên thân phận lênh đênh, nổi trôi, vô định của người con
gái trước sóng gió cuộc đời. Sử dụng câu hỏi tu từ “biết là về đâu” diễn tả tâm trạng xót xa,
hoang mang, lo sợ của Kiều, khiến cô không khỏi băn khoăn, lo lắng, nghĩ ngợi.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
Hình ảnh: “Nội cỏ, chân mây, mặt đất” là nét vẽ không gian rộng lớn. Từ láy: “rầu rầu”

78
vẽ lên cả một vùng cỏ tàn héo; “xanh xanh” gợi sắc xanh nhạt nhòa, xa cách, nhạt phai.
Biện pháp nhân hóa “nội cỏ rầu rầu” gợi nỗi sầu thương, cô lẻ của Kiều. Sự lẻ loi, nhỏ nhoi
và nỗi cơ đơn cùng cực của thân phận. Với phép ẩn dụ “ Chân mây” đã gợi ra một nỗi
buồn mênh mông, dàn trải. Khung cảnh ảm đạm ấy khiến cho Kiều buồn thêm buồn, cái
cảm giác sao mà tẻ nhạt, sao mà chán ngán, vô vọng thế.
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Từ láy “ầm ầm” và phép đảo ngữ gợi nỗi lo âu, sợ hãi. Hình ảnh ẩn dụ “gió cuốn, tiếng
sóng” để nói đến những biến cố kinh hoàng sắp ập đến, con sóng của số phận sắp sửa chôn
vùi cuộc đời nàng, dự báo một tương lai đầy sóng gió, đầy phong ba bão táp đang ập xuống
thân phận nhỏ bé, yếu đuối của nàng trong một xã hội phong kiến đầy cổ hủ, bất công. Nó
dồn nàng vào một vực thẳm của nỗi sợ hãi, cùng tâm trạng tuyệt vọng đã đi đến tột cùng.
Tám câu cuối được miêu tả theo trình tự từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm
thanh từ tĩnh đến động; sử dụng điệp ngữ “buồn trông” để tô đậm nỗi buồn man mác, lo âu
của Thúy Kiều không thể vơi, cảnh nào cũng buồn, cũng gợi thân phận con người trong
cuộc đời vô định. Nó tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
Qua đoạn trích ta cũng thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà thơ. Nguyễn Du đã
xót thương cho một người con gái tài hoa mà bạc mệnh như nàng Kiều. Thương cảm
trước những đau khổ, bi kịch, tâm trạng đau buồn, tủi nhục của Thúy Kiều khi bị
giam lỏng ở “Llầu Ngưng Bích”.
Là tình cảnh nghiệt ngã của Vũ Nương, đến mức nàng phải dùng cái chết để chứng tỏ tấm
lòng trong trắng, tiết hạnh của mình. Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có
tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến
thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ
hiền thục, nết na đúng mực! Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra
binh biến, chồng phải đi lính đánh giặc Chiêm, Vũ Nương ở nhà phụng dưỡng mẹ già, nuôi
dạy con trẻ, đạo dâu con, nghĩa vợ chồng, tình mẹ con, nàng giữ trọn vẹn, chu tất. Khi mẹ
chồng già yếu qua đời, một mình nàng lo việc tang ma, phận dâu con giữ tròn đạo hiếu. Có
thể nói Vũ Nương là một người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp, đáng được trân trọng, ngợi
ca. Ước mơ của nàng rất bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng không hề mơ tưởng “đeo ấn
phong hẩu”, chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về “được hai chữ bình yên”. Cũng như số
đông người phụ nữ ngày xưa, cuộc đời của Vũ Nương là những trang buồn đầy nước mắt.
Năm tháng trôi qua, giặc tan, Trương Sinh trở về, con thơ vừa học nói. Tưởng rằng hạnh
phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi chuyện “cái bóng” từ miệng đứa con thơ
đã làm cho Trương Sinh ngờ vực, “đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không
có gì gỡ ra được”. Vốn tính hay ghen, lại gia trưởng, vũ phu, không được học hành,
Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã
“mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Vợ phân trần, không tin; hàng xóm khuyên can cũng
chẳng ăn thua gì! Chính chồng và con - những người thân yêu nhất của Vũ Nương đã xô
đẩy nàng đến bên bờ vực thẳm. Thời chiến tranh loạn lạc, nàng đã trải qua những năm
tháng cô đơn, giờ đây đứng trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng... Vũ
Nương chỉ có một con đường để bảo toàn danh tiết: nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.
Vũ Nương đã được các nàng tiên trong thủy cung của Linh Phi cứu sống. Thế nhưng, hạnh

79
phúc của nàng ở trần thế bị tan vỡ “trâm gãy bình rơi’. Nàng tuy được hầu hạ Linh Phi,
nhưng quyền làm mẹ, làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn nữa. Đó là nỗi đau đớn lớn
nhất của một người phụ nữ. Gần ngàn năm đã trôi qua, miếu vợ chàng Trương vẫn còn đó,
đêm ngày “nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương” (Lê Thánh Tông), nhưng lời nguyền về
cái chết của Vũ Nương vẫn còn để lại nhiều ám ảnh, nỗi xót thương trong lòng người.
Nguyễn Dữ đã ghi lại câu chuyện cảm động thương tâm này với tất cả tấm lòng nhân đạo.
Cái chết đau thương của Vũ Nương còn có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Nó lên án chiến
tranh phong kiến đã làm cho lứa đôi phải ly biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn; lên án lễ
giáo phong kiến khắt khe với tục lệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan
vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó mà “Chuyện người con gái Nam Xương” có giá trị nhân bản sâu
sắc.
Qua bi kịch thân phận của Kiều và Vũ Nương, cả hai nhà văn gián tiếp lên án, tố
cáo xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đã tước đi quyền sống, chà đạp lên con người.
Đó là chiến tranh phi nghĩa, là chế độ nam quyền (Chuyện người con gái Nam
Xương), là bọn quan lại tham lam, là lũ buôn thịt bán người dồn đẩy con người vào
cảnh ngộ đau thương (Truyện Kiều).
Khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của người phụ nữ, dù cuộc đời của
họ bất hạnh, khổ đau, oan trái, truân chuyên. Đó là lòng chung thủy, sự hiếu hạnh,
giàu tình yêu thương, luôn sống vì người khác, nghĩ cho người khác của Kiều và Vũ
Nương. Trân trọng, đề cao những khát vọng nhân văn của người phụ nữ: khát vọng
về tình yêu, hạnh phúc, về một mái ấm gia đình bình dị, sum vầy.
3. kết bài:
Ý kiến của Hoài Thanh về nguồn gốc, phẩm chất của văn chương là ý kiến đúng
đắn, bởi nó đã nói lên đặc trưng, thuộc tính quan trọng nhất của văn học: Văn học là
tiếng nói của tâm hồn, cảm xúc; văn học mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc “Văn học là
nhân học”. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” (Trích Truyền kỳ mạn
lục) của Nguyễn Dữ và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Trích Truyện Kiều) của
Nguyễn Du đã thể hiện rõ nét quan niệm văn học của Hoài Thanh. Bởi cả hai đều là
những tác phẩm mang giá trị nhân đạo cao cả, hướng tới con người, vì con người.
………………………………………………………………………………………………
Đề 27: Có ý kiến cho rằng: “Cảnh vật và tâm trạng nhân vật trong thơ Nguyễn Du bao giờ
cũng vận động chứ không tĩnh tại”. (Sách Nâng cao – Ngữ văn 9).
Qua văn bản “Cảnh ngày xuân” và “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Ngữ văn 9 – Tập 1), em hãy
làm sáng tỏ.
1. Mở bài:
Đọc “Truyện Kiều”, chúng ta không chỉ thấy được chủ nghĩa nhân đạo thắm thiết
của Nguyễn Du qua những thân phận con người mà còn được chiêm ngưỡng những
nét đẹp của con người, cuộc sống, thiên nhiên tạo vật. Và thiên nhiên trong “Truyện
Kiều” vừa là đối tượng miêu tả vừa là phương tiện biểu hiện. Nguyễn Du rất tinh tế
khi tả cảnh thiên nhiên. Cảnh và tình luôn gắn bó, hòa quyện. Nhà thơ luôn nhìn
cảnh vật trong sự vận động theo thời gian và tâm trạng nhân vật. Đó có thể là “cảnh
ngày xuân” tươi sáng, trong trẻo, tinh khôi, mới mẻ và tràn đầy sức sống và một bức

80
tranh với cảnh lạnh lẽo, vắng vẻ, mênh mông, rợn ngợp, đượm buồn, cũng mang một
tâm trạng đầy xúc động qua đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích”
2. Thân bài:
Thiên nhiên - một thế giới tuyệt đẹp hiện lên trong “Truyện Kiều”, được nhìn qua
tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, thấm đượm yêu thương của Nguyễn Du. Nguyễn Du xây
dựng thiên nhiên không chỉ là cái bình phong, là hình thức để ông ngụ tình. Thiên
nhiên trong “Truyện Kiều” còn là đối tượng có vẻ đẹp hiện lên chân thực, có hồn.
Qua đó Nguyễn Du đã thể hiện tình yêu thắm thiết với thiên nhiên, tạo vật và qua
thiên nhiên, thể hiện tình yêu thắm thiết với cuộc sống, con người. Bởi vậy cảnh vật
trong thơ Nguyễn Du luôn luôn vận động chứ không tĩnh tại. Khi miêu tả cảnh
Nguyễn Du có khả năng miêu tả khá độc đáo, luôn nhìn cảnh vật trong sự vận động
theo thời gian và tâm trạng của nhân vật, cảnh luôn gắn bó với con người
Nguyễn Du đã hoạ bằng thơ cái thần của thiên nhiên trong sáng tác của mình. Đó là cảnh
sắc phới phới sức xuân trong “ Cảnh ngày xuân”:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Cảnh ngày xuân - Truyện Kiều)
Đây là bức tranh đầy sức sống được thể hiện qua cái nhìn của nhân vật trước ngưỡng
cửa tình yêu. Bức tranh thiên nhiên ngày xuân tươi đẹp và trong sáng, cảnh xuân mang
một vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, sống động, có hồn, đầy sức sống, khoáng đạt, trong trẻo,
nhẹ nhàng thanh khiết. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại
như đưa thoi. Cách nói dân gian “Thời gian thấm thoắt thoi đưa” đã nhập hồn vào thơ ca
Nguyễn Du sáng tạo nên một câu thơ vừa miêu tả không gian, vừa gợi tả thời gian. Mùa
xuân những cánh én chao liệng như “thoi đưa” ấy đã gợi lên một bầu trời bao la, thoáng
đãng đầy sức xuân. Hai chữ “đưa thoi” rất gợi hình, gợi cảm vút qua vút lại chao liệng để
diễn tả thời gian trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh. Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân
“Thiều Quang” của mùa xuân chín chục đã ngoài sáu mươi. “Thiều quang” nghĩa là ánh
sáng đẹp, ánh sáng ấm áp của mùa xuân, cũng là ẩn dụ để chỉ ngày xuân. Cách tính thời
gian như thế thật là ý vị và nên thơ: tiết trời trong sáng, đẹp đẽ của chín mươi ngày xuân
nay “đã ngoài sáu mươi” rồi, tức là đã sang đầu tháng ba rồi. Từ “đã ngoài” ở đây kết hợp
với từ “đưa thoi” ở trên đã gợi lên trong lòng người đọc một sự tiếc nuối rằng mùa xuân
sao đi qua nhanh thế.
Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân đã được vẽ nên bằng những nét phác họa, chấm phá tài
tình của văn thơ cổ. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ gợi hình, gợi cảm để vẽ nên bức
tranh ấy: “non” là sự mới mẻ, đổi thay của đất trời, “xanh” sự sống đâm chồi nảy lộc,
“trắng” tinh khôi, trong sáng, dịu dàng… Những từ ngữ ấy vừa đem khí xuân đến tràn đầy
trong từng lời thơ, vừa giàu chất tạo hình tới nỗi ta có cảm tưởng như trong thơ có họa
Vẫn là cảnh thiên nhiên ngày xuân nhưng chiều về lại có sự thay đổi theo thời gian, theo
tâm trạng của con người: Cảnh chiều xuân mênh mang, nhạt dần
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về ”.

81
Nhịp thơ chậm rãi, diễn tả cuộc sống như ngừng trôi. Tâm tình của chị em Thuý Kiều
thơ thẩn, cử chỉ thì dang tay, nhịp chân thì bước dần, không gian thì yên tĩnh, lắng lại.
Công việc lúc hoàng hôn hiện lên trong mắt nhìn của chị em Thuý Kiều càng trở nên nhỏ
bé:
“Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảch có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.
Khe suối chỉ là “ngọn tiểu khê ”, phong cảnh thanh thanh, dòng nước “nao nao uốn
quanh”, “dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”. Nhà thơ đã rất khéo léo sử dụng hàng
loạt các từ láy để gợi tả những cảnh vật nhỏ bé, êm đềm. Phải chăng sự nao nao của dòng
nước uốn quanh không chỉ thể hiện sự nhẹ nhàng, êm đềm của dòng nước đang chảy mà
còn diễn tả tâm trạng bâng khuâng, nuối tiếc, sự rung động của tâm hồn giai nhân khi hội
tan, ngày tàn.
Hay bức tranh trước lầu Ngưng Bích là nét nên thơ nhưng bao la buồn vắng cô đơn như
cảnh ngộ nàng Kiều:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung,
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
(Kiều ở lầu Ngưng Bích - Truyện Kiều)
Đây là bức tranh buồn bã lạnh lẽo được thể hiện qua cái nhìn của nhân vật trước số phận
phong ba. Ngoại cảnh phản chiếu tâm trạng suy nghĩ của nàng Kiều khi bị Tú Bà giam
lỏng ở lầu Ngưng Bích. Hai từ “khóa xuân” mang đầy vẻ mỉa mai, trách móc, vì Kiều bị
đem ra lầu Ngưng Bích giam lỏng. Trong cảnh ngộ cô đơn éo le ấy, nàng chỉ còn biết trải
lòng mình lên cảnh vật, gửi gắm tâm hồn vào thiên nhiên, lắng nghe tiếng thổn thức phát ra
từ tận đáy con tim. Cảnh tượng nơi lầu Ngưng Bích này thật đẹp: có núi non xa, vầng trăng
gần đều được thu nhận chung vào tầm mắt. Người đọc chỉ thấy cảnh thiên nhiên trước
mặt nàng, phía xa xa kia là núi. Trên đầu nàng là tấm trăng lạnh lẽo. Từ láy “bát ngát” gợi
cho người đọc hình dung thấy, không gian nơi lầu Ngưng Bích mênh mông, rộng lớn,
phẳng lặng không một bóng người. Phải chăng những cảnh vật tĩnh lặng này càng làm nổi
bật nỗi cô đơn của Kiều. Nhìn xa nhìn gần là ngổn ngang những cồn cát vàng trải dài vô
tận, là những dặm bụi hồng xa xôi ngút ngàn. Phải chăng sự ngổn ngang của cảch vật cũng
chính là sự ngổn ngang của lòng nàng Kiều. Các vế câu đối xứng nhau cùng những cặp từ
“nọ - kia, xa - gần” như đợt sóng dồi tầng tầng lớp lớp trong tâm trí, xô đẩy thêm nữa cái
tâm trạng lộn xộn của người con gái. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của tác giả thật vô cùng
đặc sắc, diễn tả thật cảm động nỗi buồn và tình cảnh éo le của Kiều. Tình cảnh nàng Kiều
lúc này thật chẳng khác gì sống trong địa ngục: thân xác bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích,
tâm hồn bị giam cầm trong vòng xoay khép kín của thời gian sớm - tối, và tình cảm thì bị
giam hãm trong mớ tơ lòng rối bời. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng:
“nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có
hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.

82
Vẫn thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích nhưng trong tám câu cuối ta thấy có sự vận
động theo dòng tâm trạng của con người khá tinh tế:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.”
Hai câu thơ gợi ra không gian rộng trên mặt biển bao la vào lúc chiều tà. Với hình ảnh ẩn
dụ “cánh buồm” để nói nỗi cô đơn, lẻ loi, bé nhỏ. Thời gian “chiều hôm”: khiến cho nỗi
buồn thân phận càng trở nên thấm thía. Từ láy “ thấp thoáng, xa xa” không chỉ gợi hình mà
còn nói lên tình cảnh lênh đênh, thân phận bơ vơ của Kiều. Trong không gian vắng lặng
Kiều nhìn về xa xa với nỗi nhớ nhà, nhớ gia đình, nhớ người thân, với ước mong được trở
về đoàn tụ, sum họp.
“Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!”
Hình ảnh ẩn dụ “Hoa trôi” nói lên thân phận lênh đênh, nổi trôi, vô định của người con
gái trước sóng gió cuộc đời. Sử dụng câu hỏi tu từ “biết là về đâu” diễn tả tâm trạng xót xa,
hoang mang, lo sợ của Kiều, khiến cô không khỏi băn khoăn, lo lắng, nghĩ ngợi.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
Hình ảnh: “nội cỏ, chân mây, mặt đất” là nét vẽ không gian rộng lớn. Từ láy: “rầu rầu”
vẽ lên cả một vùng cỏ tàn héo; “xanh xanh” gợi sắc xanh nhạt nhòa, xa cách, nhạt phai.
Biện pháp nhân hóa “nội cỏ” gợi nỗi sầu thương, cô lẻ của Kiều. Sự lẻ loi, nhỏ nhoi và nỗi
cơ đơn cùng cực của thân phận. Với phép ẩn dụ “ Chân mây” đã gợi ra một nỗi buồn mênh
mông, dàn trải. Khung cảnh ảm đạm ấy khiến cho Kiều buồn thêm buồn, cái cảm giác sao
mà tẻ nhạt, sao mà chán ngán, vô vọng thế.
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Từ láy “ầm ầm” và phép đảo ngữ gợi nỗi lo âu, sợ hãi. Hình ảnh ẩn dụ “gió cuốn, tiếng
sóng” để nói đến những biến cố kinh hoàng sắp ập đến, con sóng của số phận sắp sửa chôn
vùi cuộc đời nàng, dự báo một tương lai đầy sóng gió, đầy phong ba bão táp đang ập xuống
thân phận nhỏ bé, yếu đuối của nàng trong một xã hội phong kiến đầy cổ hủ, bất công. Nó
dồn nàng vào một vực thẳm của nỗi sợ hãi, cùng tâm trạng tuyệt vọng đã đi đến tột cùng.
Tám câu cuối được miêu tả theo trình tự từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm
thanh từ tĩnh đến động; sử dụng điệp ngữ “buồn trông” để tô đậm nỗi buồn man mác, lo âu
của Thúy Kiều không thể vơi, cảnh nào cũng buồn, cũng gợi thân phận con người trong
cuộc đời vô định. Nó tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
3. Kết bài:
Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật là muôn hình vạn trạng. Nghệ
thuật ấy chẳng khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mặc, nhiều khi chỉ một
mảnh trời, một ánh trăng, một cánh hoa, một dòng nước hay một áng mây hoàng
hôn. Chỉ thế thôi, nhưng chữ dùng về màu sắc và cách sắp đặt cảnh gần xa thật tài
tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc, như để cùng chung hòa vào cảnh vật. Một
điều không thể chối cãi được là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã ban cho
cảnh thiên nhiên một “hồn người”- luôn luôn vận động. Còn tâm trạng con người
trong hai đoạn trích cũng vậy lúc vui, lúc buồn. Khi lại cô đơn, đau khổ rồi sợ hãi; nó

83
cứ luôn thay đổi không ngừng. Giá trị văn chương tả cảnh, tâm trạng của Nguyễn Du
đã đạt tới mức tinh diệu đã làm cho “Truyện Kiều” xứng đáng là một tác phẩm
truyện thơ nôm hay nhất trong kho tàng văn học của nước ta.
………………………………………………………………………………………………
Đề 28: Phân tích vẻ đẹp và số phận đầy bi kịch của Thúy Kiều qua các đoạn trích
“Truyện Kiều” và Vũ Nương qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ.
1. Mở bài:
Khi noùi veà hình aûnh ngöôøi phuï nöõ chuùng ta khoâng theå queân ñöôïc nhaân vaät
Vuõ Nöông trong truyeän“ Ngöôøi con gaùi Nam Xöông” cuûa Nguyeãn Döõ, Thuùy
Kieàu trong “ Truyeän Kieàu ” cuûa Nguyeãn Du; họ đều là nhöõng ngöôøi phuï nöõ coù
veû ñeïp hoøan haûo veà nhan saéc, taøi naêng ñöùc haïnh vaø taâm hoàn. Hoï mang veû
ñeïp truyeàn thoáng cuûa ngöôøi phuï nö õcoâng – dung – ngoân – haïnh, nhöng soá phaän
cuûa họ lại ñaày bi thöông.
2. Thân bài:
Người phụ nữ Việt Nam muôn đời nay được ca ngợi bởi vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo và
tâm hồn đôn hậu, bao dung. Cả hai nàng Vũ Nương và Thuý Kiều đều là mẫu mực
của người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, thông minh tháo vát, sắt son, hiếu thảo. Thế
nhưng trong xã hội phong kiến thời kì suy sụp, thối nát, cái đẹp thường đi liền với nỗi
bất hạnh và những tai hoạ khôn lường. Bởi vậy, khi viết về họ, các tác giả thường thể
hiện tấm lòng nhân đạo của mình.
Trước hết, ta cảm thương cho thân phân Vũ Nương và dễ dàng nhận thấy được nàng là
người phụ nữ nết na, đức hạnh; đối xử với chồng và mẹ chồng rất phải đạo; là người vợ
đảm đam, giàu đức hy sinh. Không những vậy nàng còn có tư dung tốt đẹp; trong cuộc sống
gia đình nàng là người vợ hiền, luôn giữ gìn khôn phép “ chẳng lúc nào vợ chồng phải đến
thất hòa”. Cho dù Trương Sinh – chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú nhưng lai không
có học; luôn mang trong mình tính đa nghi, đối với vợ lại “ phòng ngừa quá sức ”. Nhưng
chính sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương đã tạo nên sự đầm ấm của gia đình. Tính
cách cao đẹp của Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt
với chồng. Khi Trương Sinh đi lính, Vũ Nương chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng lúc
đau yếu, làm ma chay tế lễ chu đáo khi mẹ chồng qua đời “ phàm là việc ma chay tế lễ, lo
liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Nàng đã giữ trọn đạo hiếu với mẹ chồng, nghĩa tình
với chồng. Nét đẹp của Vũ Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt
những tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm
bọc, gắn bó với nhau. Cậu Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình
trên tường gọi là cha - đó là một cách dỗ dành con, nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra
cái tội thậtt vô tình. Nỗi hàm oan không được quyền nói ra là bởi con người độc đoán, lại
kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng đi lính trở về nghe lời đứa con thơ dại: “ Ô hay!
Thế ra ông cũng là cha tôi ư ?” đã gây nên nỗi oan khuất cho Vũ Nương. Bị chồng ghen
tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà
con nhưng Trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư”, mối nghi ngờ càng ngày
càng tăng cao không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ rồi “đánh
đuổi đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trong trắng, đức hạnh vẹn

84
toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan
khuất từ đâu mà ra. Nàng cũng dùng những lời lẽ để khẳng định tấm lòng thủy chung:
“Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia
phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã
nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”; nhưng Trương Sinh vẫn không tin lời
nàng. Thất vọng khi chồng đối xử bất công, nàng bày tỏ nỗi đau đớn: “ Nay đã bình rơi
châm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió...”. Đây là những hình ảnh
mang tính ước lệ để diễn tả sự tan vỡ hạnh phúc gia đình, cả nỗi đau khổ bởi hạnh phúc
“nghi gia nghi thất” không còn nữ. Chính vì vậy, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan
cho mình, Vũ Nương mượn dòng nước của con sông Hoàng Giang để bày tỏ nỗi oan khuất,
sự trong sạch của mình. Vũ Nương chết oan ức nhưng Trương Sinh không ân hận day
dứt, không hề bị xã hội lên án. Trương Sinh coi như việc đã qua rồi. Như vậy, chuyện
danh dự, sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người đàn ông không
có đạo lí, dư luận xã hội bảo vệ, che chở. Vũ Nương còn là nạn nhân của xã hội đồng
tiền đen bạc, nàng có một cuộc hôn nhân không bình đẳng ( Trương Sinh xin mẹ trăm
lạng vàng cưới Vũ Nương về làm vợ, chính vì cảnh giàu - nghèo khiến Vũ Nương luôn
mặc cảm. Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội
tình gì. Chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho giáo nuôi
dưỡng, dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán. Cái chết của Vũ Nương là số
phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói nghen tuông ích kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông -
người chồng vô học, đa nghi như Trương Sinh - là lời tố cáo luật lệ phong kiến hà khắc
dung túng cho sự độc ác, bất công- “chế độ nam quyền” dưới thời phong kiến ngự trị.
Beân caïnh ñoù, chuùng ta khoâng theå queân ñöôïc hình aûnh Thuùy Kieàu trong
“ Truyeän Kieàu” cuûa Nguyeãn Du. Nàng có moät saéc ñeïp ñeán möùc:
“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một mai nghiêng nước nghiêng thành”
Tác giả làm nổi bật dung nhan đằm thắm của Kiều khiến hoa phải ghen, dáng trẻ
trung đầy sức sống khiến liễu phải hờn. Nàng có vẻ đẹp làm say đắm, chinh phục lòng
người “nghieâng nöôùc, nghieâng thaønh”. Naøng quaû laø moät tuyeät theá giai
nhaân hoäi tuï ñaày ñuû nhöõng phaåm chaát cao ñeïp cuûa ngöôøi phuï nöõ phong
kieán. Naøng laø moät ngöôøi con gaùi coù taøi, coù saéc, laø moät ngöôøi con raát
möïc hieáu thaûo, coù trí thoâng minh vaø naêng khieáu ngheä thuaät, moät ngöôøi
tình raát möïc thuûy chung vaø coù taám loøng vò tha cao caû. Khi gia ñình gaëp tai
bieán, naøng ñaõ hi sinh moái tình ñaàu ñeïp ñeõ, trong saùng, quyeát ñònh baùn
mình cöùu gia ñình. Soá phaän cuûa naøng bò ñaåy vaøo taän cuøng khoå ñau vaø
tuûi nhuïc nhöng luùc naøo naøng cuõng nhôù thöông, xoùt xa khi cha meï ñaõ giaø
yeáu maø mình vaãn khoâng ôû beân caïnh phuïng döôõng, chaêm soùc cha mẹ:
“ Xoùt ngöôøi töïa cöûa hoâm mai
Quïat noàng aáp laïnh nhöõng ai ñoù giôø ? ”
Naøng khoâng nguoâi noãi nhôù chaøng Kim Troïng vaø khaúng ñònh taám loøng
thuûy chung son saét cuûa naøng daønh cho chaøng maõi khoâng bao giôø phai
nhaït:
“ Töôûng ngöôøi duôùi nguyeät cheùn ñoàng”

85
Tin söông luoáng nhöõng raøy troâng mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.ø
Thuùy Kieàu laø moät ngöôøi phuï nöõ taøi saéc veïn toøan, nhöng cuoäc ñôøi cuûa
naøng laïi laø moät chuoãi nhöõng khoå ñau, tuûi nhuïc, baát haïnh, ñau ñôùn vaø
ñaéng cay. Trong suoát 15 naêm löu laïc, naøng ñaõ phaûi trải qua nhöõng ñaéng cay
tuûi nhuïc cuûa kieáp ngöôøi. Tình ñaàu tan vôõ, bò löøa ñaûo, laøm nhuïc, bò bieán
thaønh một moùn haøng ñeå boïn buoân: caân, ñong taøi saéc, coø keø traû giaù “
Ñaén ño caân saéc caân taøi....Coø keø bôùt moät theâm hai”. Naøng phaûi laøm
gaùi laàu xanh, sau nhöõng laàn phaûi haàu khaùch, coøn laïi Thuùy Kieàu moät
mình ñoái dieän vôùi mình vaø ñau ñôùn:
“Khi tænh röôïu luùc taøn canh....
Gìô sao tan taùc nhö hoa giöõa ñöôøng”
Soá phaän bi thöông cuûa nhöõng ngöôøi phuï nöõ nhö Vuõ Nöông, Thuùy Kieàu
laø nhöõng soá phaän chung cuûangöôøi phuï nöõ soáng trong xaõ hoäi phong kieán.
Nhöng hoï vẫn có veû ñeïp truyeàn thoáng: coâng – dung – ngoân – haïnh, laø söï keát
hôïp giöõa nhan saéc, taøi naêng vaø taâm hoàn maø nhaân daân ta ñaõ töøng vieát:
“ Ñau ñôùn thay phaän ñaøn baø
Lôøi raèng baïc meänh cuõng laø lôøi chung”
Veû ñeïp ngöôøi phuï nöõ Vuõ Nöông, Thuùy Kieàu laø söï keát hôïp giöõa nhan
saéc, taøi naêng vaø taâm hoàn nhöng coù chung moät soá phaän ñaày ñau khoå vaø
bi thöông. Người phụ nữ trong hai tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và
“Truyện Kiều” hội tụ những vẻ đẹp đáng quý nhất nhưng cũng mang những gì đau
khổ, tủi nhục nhất của con người. Họ là đại diện tiêu biểu của hình ảnh người phụ nữ
Việt Nam trong xã hội cũ. Bởi vậy, viết về người phụ nữ, các nhà văn, nhà thơ đã
đứng trên lập trường nhân sinh để bênh vực cho họ, đồng thời lên tiếng tố cáo gay gắt
với các thể lực đã gây ra nỗi đau khổ cho họ. Ngaøy nay chuùng ta ñöôïc soáng trong
moät thôøi bình, ngöôøi phuï nöõ ñöôïc phaùp luaät coâng nhaän quyeàn bình ñaúng.
Hoï ñang daàn khaúng ñònh vai troø, vò trí cuûa mình trong gia đình và xã hội
3. Kết bài:
Vũ Nương và Thúy Kiều thật đáng thương! Họ dường như đại diện cho tầng lớp
phụ nữ ngày xưa. Họ không được hưởng bất cứ một thứ quyền lợi, không được hưởng
một chút tự do. Thật bất công! Những hủ tục phong kiến thối nát đã tạo nên khổ đau
cho người phụ nữ. Số phận của họ không thoát khỏi nanh vuốt của xã hội vô lí đó.
Nhưng tất cả những vẻ đẹp từ hình thức đến tâm hồn của họ thì luôn luôn đáng ca
ngợi, đáng trân trọng và nâng niu.
……………………………………………………………………………………………......
Đề 29: Bút pháp ước lệ tượng trưng trong truyện Kiều
1. Mởbài:
Là nhà thơ thiên tài của dân tộc, Nguyễn Du là người chiụ ảnh hưởng rất lớn thi pháp cổ
điển về khắc hoạ, xây dựng hình tượng nhân vật. Vì thế ngôn từ ước lệ tượng trưng được
sử dụng nhiều trong “Truyện Kiều”. Cũng giống như người xưa, nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của
thiên nhiên như: Mai, trăng, hoa, mây, tuyết, thu thuỷ , xuân sơn, hoa, liễu làm chuẩn mực,

86
làm thước đo giá trị vẻ đẹp của con người. Với những hình ảnh ước lệ tượng trưng
quen thuộc nhưng Nguyễn Du đã chọn lọc một cách tài tình miêu tả được những
bức chân dung với nhiều vẻ đẹp khác nhau để lại một ấn tượng sâu sắc trong
lòng người đọc.
2. Thân bài :
Trong ®o¹n trÝch “chị em Thuý KiÒu”, tríc khi miªu t¶ vÎ ®Ñp cña tõng ngêi, NguyÔn
Du ®em ®Õn cho chóng ta nh÷ng c¶m nhËn chung vÒ vÎ ®Ñp cña hai chÞ em Kiều. §óng
lµ nh÷ng trang tuyÖt s¾c giai nh©n:
“§Çu lßng hai ¶ tè nga,
Thuý KiÒu lµ chÞ em lµ Thuý V©n.
Mai cèt c¸ch tuyÕt tinh thÇn,
Mçi ngêi mét vÎ mêi ph©n vÑn mêi”.
Tác giả đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ, ước lệ tượng trưng “Mai cốt cách tuyết tinh thần” để
miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều - họ mang vóc dáng thanh cao, mảnh dẻ, yểu diệu,
mềm mại như cây mai; tình cảm, tâm hồn trắng trong như tuyết. Cả hai đều đẹp qua thành
ngữ “mười phân vẹn mười”, mỗi người mang một vẻ đẹp riêng và đều đẹp một cách toàn
diện, hoàn mĩ. Tiếp theo tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoang trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Vẫn bằng nhiều hình ảnh ước lệ tượng trưng với những hình ảnh quen
thuộc :“khuôn trăng”, “nét ngài” hay “ngọc”, “mây”, “tuyết” ta không kể hết được tỉ
mỉ nhan sắc Thuý Vân nhưng ta biết được nhan sắc ấy rất tuyệt trần. Vẻ đẹp “trang
trọng, dầy đặn” “nở nang, đoan trang”, “mây thua, tuyết nhường” luôn tạo cho mọi
người xung quanh một tình cảm yêu mến, độ lượng . Vân hiện lên với chân dung một
cô gái đoan trang, phúc hậu của nàng, đồng thời như dự báo được cuộc sống sau này
rất bình lặng của nàng
Còn Kiều lại hiện lên như một trang tuyệt thế giai nhân. Điều đó chứng tỏ nhà thơ
đã dành cho nhân vật chính của mình một tình cảm hết sức đặc biệt:
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”.
Tác giả vẫn dùng những hình ảnh ước lệ tượng trưng, phép ẩn dụ “làn thu thuỷ nét
xuân sơn” gợi đôi mắt trong sáng, long lanh như làn nước mùa thu; hàng lông mày thanh
tú, đẹp như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều hội tụ ở đôi mắt – cửa sổ tâm hồn thể
hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Bằng hình ảnh nhân hoá “hoa ghen, liễu hờn”,
tác giả làm nổi bật dung nhan đằm thắm của Kiều khiến hoa phải ghen, dáng trẻ trung đầy
sức sống khiến liễu phải hờn. Nhà thơ đã cho thấy nhan sắc Thuý Kiều thuộc loại
nhan sắc độc đáo kì lạ, vượt lên sự bình thường. Vẻ đẹp của nàng làm cho tạo hoá
phải ghen ghét vẻ đẹp của nàng “hoa ghen liễu hờn” nên số phận của nàng sẽ éo le
đau khổ.
Chân dung của Từ Hải, dưới ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du hiện lên là một
người anh hùng thật oai nghiêm:
87
“Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”.
Cách nói ước lệ “râu hùm”, “hàm én”, “mày ngài” để miêu tả vẻ đẹp
đường bệ, uy nghi, phi thường của một nhân vật anh hùng, hiệp sĩ
Nguyễn Du đã sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ với nhiều biện pháp linh hoạt sáng tạo nên
không sáo mòn, người đọc không thấy nhàm. Nói tới nỗi buồn của người đẹp, nhà thơ gắn
với những thềm hoa, lệ hoa, rồi nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. Nói chung, qua việc
sử dụng những thi liệu cổ nhà thơ đã tạo ra những từ ngữ rất riêng, rất Nguyễn Du, nhưng
vẫn là ngôn ngữ dân tộc.
3. Kết bài:
Ước lệ tượng trưng là một đặc điểm của nghệ thuật thơ văn cổ. Đó là cách
diễn đạt theo qui ước, khuôn mẫu có sẵn làm cho lời thơ, lời văn thêm tao nhã,
thâm thuý. Các nhà thơ cổ đặc biệt là Nguyễn Du là người đã có nhiều sáng tạo
trong thủ pháp này.
.................................................................................................................................................
Đề 30: Qua các đoạn trích “Chị em Thúy Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Mã Giám
Sinh mua Kiều, Thúy Kiều báo ân báo oán”. Hãy phân tích giá trị nhân đạo trong
Truyện Kiều.
1. Mở bài
Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ “Truyện Kiều”. Đó là
tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người như tài sắc, lòng hiếu
nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu... Đó còn là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với
những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lý; là sự đồng cảm, xót
thương với bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, trở thành món hàng, nhất là đối với
người phụ nữ “bạc mệnh” trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của
Nguyễn Du là cảm hứng trân trọng và thương yêu con người bị áp bức, bị chà đạp.
2. Thân bài:
Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều, trước hết là tiếng nói ngợi ca những giá trị,
phẩm chất tốt đẹp của con người. Tấm lòng nhân đạo ấy được thể hiện qua việc ca
ngợi vẻ đẹp, tài năng của hai chị em Kiều:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoang trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Vẫn bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, mượn vẻ đẹp của thiên nhiên với những hình ảnh
quen thuộc “ trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết” để nói về vẻ đẹp của Thúy Vân, nàng được so
sánh với những gì đẹp nhất trên đời. Nguyễn Du đã thành công khi sử dụng phép tu từ liệt
kê, nhân hóa, ẩn dụ “khuôn trăng, nét ngài, hoa cười, ngọc thốt, mây thua, tuyết nhường”
để làm nổi bật riêng vẻ đẹp của Thúy Vân. Nàng có khuôn mặt đầy đặn, toả sáng như trăng
rằm; lông mày cong, sắc nét, đẹp; nụ cuời tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc; mái tóc
óng ả hơn mây; da trắng mịn hơn tuyết, tính cách nghiêm trang đứng đắn. Qua đó, Thuý
Vân hiện lên là cô gái đoan trang, phúc hậu. Vẻ đẹp của Thuý Vân tạo sự hoà hợp, êm đềm
với xung quanh qua thủ pháp so sánh “mây thua, tuyết nhường” nên nàng sẽ có một cuộc

88
đời bình lặng, suôn sẻ, hạnh phúc. Sau khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân tác giả miêu tả vẻ
đẹp của Thuý Kiều:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nết xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một mai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”
Cũng như lúc tả Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật. Kiều sắc sảo về trí tuệ,
mặn mà về tâm hồn. Gợi tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả vẫn dùng những hình ảnh ước lệ tượng
trưng, phép ẩn dụ “làn thu thuỷ nét xuân sơn” gợi đôi mắt trong sáng, long lanh như làn
nước mùa thu; hàng lông mày thanh tú, đẹp như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều hội
tụ ở đôi mắt – cửa sổ tâm hồn thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Bằng hình ảnh
nhân hoá “hoa ghen, liễu hờn”, tác giả làm nổi bật dung nhan đằm thắm của Kiều khiến
hoa phải ghen, dáng trẻ trung đầy sức sống khiến liễu phải hờn. Nàng có vẻ đẹp làm say
đắm, chinh phục lòng người qua thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành”
Tiến bộ hơn các nhà thơ thời trung đại, Nguyễn Du còn đề cao người phụ nữ ở
phương diện tài năng, ông đã xây dựng một nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào
cũng xuất sắc:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”
Nàng thông minh bẩm sinh, có tài làm thơ, vẽ “pha nghề ca hát đủ mùi”, tài đàn “ăn đứt”,
âm luật giỏi đến mức “làu bậc”, còn sáng tác nhạc “một thiên bạc mệnh”- chính là sự ghi
lại tiếng lòng của một trái tim đa sắc đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp giữa sắc, tài và
tình. Chân dung Thuý Kiều cũng là chân dung mang tính cách số phận, vẻ đẹp của nàng
làm cho tạo hoá phải ghen ghét “hoa ghen, liễu hờn” nên số phận của nàng sẽ éo le, đau
khổ.
Nguyễn Du còn đau xót cho cảnh ngộ côi cút, đơn độc nơi lầu Ngưng Bích:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bồn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của
thi hào Nguyễn Du với đức tính thủy chung của Kiều:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.

89
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.”
Nghệ thuật ẩn dụ nói lên Kiều tưởng như đang nhìn thấy trước mắt mình cảnh dưới trăng
đêm nào, nàng cùng chàng Kim uống chén rượu thề nguyền. Rồi nàng băn khoăn tự hỏi
lòng mình: giờ đây nàng bị đẩy đến nơi góc bể chân trời. Tuy vậy tấm lòng son sắc, thủy
chung của nàng không bao giờ thay đổi dù trải qua biến chuyển của thời gian.
Đọc Truyện Kiều, lần theo con đường khổ ải của Kiều, ta lại thấy Nguyễn Du thể
hiện tấm lòng nhân đạo cho một người con hiếu thảo:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh có ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Bây giờ gốc tử đã vừa người ôm”
Nàng xót xa vì biết cha mẹ đang ngày đêm tựa cửa mong chờ tin con. Thành ngữ “Quạt
nồng ấp lạnh” nói lên sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ, nhằm ca
ngợi tình yêu thương sự hiếu thảo của Thúy Kiều. Nàng tưởng tượng ở nơi quê nhà, tất cả
đã đổi thay “gốc tử đã vừa người ôm”, cha mẹ đã ngày một già yếu, cần bàn tay chăm sóc
của nàng. Nhớ cha mẹ, Kiều luôn ân hận, day dứt vì mình đã phụ công sinh thành, nuôi
dưỡng của cha mẹ.
Nguyễn Du nhập thân vào nhân vật để cảm nhận hết nỗi đau của nhân vật, tác
phẩm viết ra như có “máu chảy trên đầu ngọn bút”, thương cảm cho tương lai bất
định, nhiều bất an của Kiều nơi lầu Ngưng Bích:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Hai câu thơ gợi ra không gian rộng trên mặt biển ba la vào lúc chiều tà. Với hình ảnh ẩn
dụ “cánh buồm” để nói nỗi cô đơn, lẻ lo, bé nhỏ. Thời gian “chiều hôm”: khiến cho nỗi
buồn thân phận càng trở nên thấm thía. Từ láy “ thấp thoáng, xa xa” không chỉ gợi hình mà
còn nói lên tình cảnh lênh đênh, thân phận bơ vơ của Kiều. Trong không gian vắng lặng
Kiều nhìn về xa xa với nỗi nhớ nhà, nhớ gia đình, nhớ người thân, với ước mong được trở
về đoàn tụ, sum họp.
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu”
Hình ảnh ẩn dụ “ngọn nước, hoa trôi” nói lên thân phận lênh đênh, nổi trôi, vô định của
người con gái trước sóng gió cuộc đời. Sử dụng câu hỏi tu từ “biết là về đâu” diễn tả tâm
trạng xót xa, hoang mang, lo sợ của Kiều, khiến cô không khỏi băn khoăn, lo lắng, nghĩ
ngợi.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Hình ảnh: “nội cỏ, chân mây, mặt đất” là nét vẽ không gian rộng lớn. Từ láy: “rầu rầu”
vẽ lên cả một vùng cỏ tàn héo; “xanh xanh” gợi sắc xanh nhạt nhòa, xa cách, nhạt phai.
Biện pháp nhân hóa “nội cỏ” gợi nỗi sầu thương, cô lẻ của Kiều. Sự lẻ loi, nhỏ nhoi và nỗi
cơ đơn cùng cực của thân phận. Với phép ẩn dụ “ Chân mây” đã gợi ra một nỗi buồn mênh
mông, dàn trải. Khung cảnh ảm đạm ấy khiến cho Kiều buồn thêm buồn, cái cảm giác sao
mà tẻ nhạt, sao mà chán ngán, vô vọng thế.

90
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Từ láy “ầm ầm” và phép đảo ngữ gợi nỗi lo âu, sợ hãi. Hình ảnh ẩn dụ “gió cuốn, tiếng
sóng” để nói đến những biến cố kinh hoàng sắp ập đến, con sóng của số phận sắp sửa chôn
vùi cuộc đời nàng, dự báo một tương lai đầy sóng gió, đầy phong ba bão táp đang ập xuống
thân phận nhỏ bé, yếu đuối của nàng trong một xã hội phong kiến đầy cổ hủ, bất công. Nó
dồn nàng vào một vực thẳm của nỗi sợ hãi, cùng tâm trạng tuyệt vọng đã đi đến tột cùng.
Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vạch trần bản chất xấu xa của những
kẻ bất nhân trong xã hội xưa, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm sống trên thân
xác của những cô gái vô tội, tiêu biểu là Mã Giám Sinh. Tác giả đã vạch trần bản chất
của tên họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày rầu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Tác giả còn xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món
hàng để cân đo, đong đếm:
“Cò kè bớt một, thêm hai
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm”
Ngoài ra, Thúy Kiều còn có tấm lòng trọng ân nghĩa, khi trả ơn Thúc Sinh, nàng nói:
Nàng rằng: “nghĩa nặng nghìn non”,
Lâm tri người cũ chàng còn nhớ không ?
Sâm thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân ?
Có thể nói rằng nàng rất trọng tấm lòng và giúp đỡ mà Thúc Sinh dành cho nàng trong
cơn hoạn nạn. Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục.
Cùng với chàng Thúc, Kiều có những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình. Nàng
gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”.
Và một tấm lòng bao dung, độ lượng khi tha thứ cho Hoạn Thư:
“Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã lòng tri quá thì nên”
Nàng có răn đe Hoạn Thư nhưng rồi lại khoan dung độ lượng “đã lòng tri quá thì nên”.
Hoạn Thư đã biết lỗi, đã xin tha thì Kiều cũng cư xử theo quan điểm triết lý dân gian “đánh
người chạy đi chứ không đánh người chạy lại”!
Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện tấm lòng nhân đạo với một ước mơ cao cả:
ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị
trừng phạt, phải trả giá. Nhân vật Từ Hải là đấng anh hùng trượng nghĩa, là người thực

91
hiện ước mơ công lý của Nguyễn Du. Chính Từ Hải là người giải thoát Kiều khỏi chốn lầu
xanh, cho Kiều cơ hội đổi đời, và cho Kiều cơ hội báo ân, báo oán. Đây là uớc mơ tốt đẹp,
đáng trân trọng. Vì thế trong đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” thái độ của Kiều rất
rõ ràng: Với người có ân, một mực trân trọng và báo ân cho Thúc Sinh:
“Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”
Còn với kẻ có tội, nghiêm khắc, công bằng, trừng phạt đúng người đúng tội, bởi vậy
Kiều nói lời vô cùng đanh thép để vạch tội Hoạn Thư:
“Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”
Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của
Truyện Kiều. Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp
của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con
người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam.
3. Kết bài
Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương.
Nhân vật Thúy Kiều là nhân vật Nguyễn Du gửi gắm tâm sự. Chủ nghĩa nhân đạo của
Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ: Coi vẻ đẹp con người cao hơn thiên nhiên;
tôn vinh cái tài của con người. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du hòa vào dòng chảy chủ
nghĩa nhân đạo truyền thống của dân tộc, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống, góp
một tiếng nói bảo vệ, nâng niu con người đầy giá trị.
********************************************************
Đề 31: Giáo sư Đặng Thanh Lê có viết: “Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu
từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ”. Hãy phân tích một số câu, một số đoạn trong
“Truyện Kiều” để làm sáng tỏ nhận xét trên
Bài làm
1. Mở bài:
“Truyện Kiều” của thi hào dân tộc Nguyễn Du là kiệt tác trong nền văn học cổ Việt
Nam. Tuy mượn đề tài, cốt truyện từ “KimVân Kiều truyện” của Thanh Tâm tài nhân
(Trung Quốc) nhưng áng thơ dài 3254 câu thơ lục bát này đậm đà bản sắc đân tộc, chứa
chan một tình nhân ái bao la “rung động đất trời” (Tố Hữu). Đọc “Truyện Kiều”, ta cảm
nhận một cách sâu sắc “Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học
dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ” mà giáo sư Đặng Thanh Lê đã nhận xét. Khi tả cảnh cũng như
lúc tả người, tả tình, với cá tính sáng tạo của một thiên tài, Nguyễn Du đã vận dụng nhiều
biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt tả ẩn dụ làm cho câu thơ, đoạn thơ đầy hình
tượng và biểu cảm.
2. Thân bài:
Trước hết Nguyễn Du có biệt tài về vận dụng biện pháp tu từ của văn học dân tộc.
Đến với “Cảnh ngày xuân” ta bắt gặp một mùa xuân về tưng bừng trong ngày hội “Đạp
Thanh” của tuổi trẻ khi chị em Kiều “sắm sửa bộ hành chơi xuân”. Khắp các ngả đường,
dòng người đi trẩy hội kéo dài vô tận:
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”

92
Bằng biện pháp tu từ hoán dụ “ngựa xe, áo quần”, so sánh “ ... như nước ... như nêm”
nhà thơ đã tái hiện cảnh đi trẩy hội mùa xuân tấp nập, đông vui, rộn ràng của giai nhân, tài
tử. Tiếp theo ta bắt gặp hai câu tỏ tình của chàng Kim:
“Tiện đây xin một hai điều
Đài sen soi đến dấu bèo cho chăng?”
Với phép ẩn dụ “Dấu bèo” để chỉ kẻ tầm thường, thấp hèn. Nhưng ở đây là Kim Trọng
nói một cách khiêm tốn, nhún mình. “Đài sen” cũng là cách nói ẩn dụ chỉ con người cao
quý, được trân trọng. “Đài sen soi đến ...” lại được nhân hóa nhấn mạnh lời tỏ tình tế nhị
của chàng Kim. Phải nói rằng Kim Trọng hào hoa, đa tình biểu lộ một tâm tình say đắm
người đẹp, bày tỏ một tấm lòng khao khát yêu đương. Cách tỏ tình vừa hoa mỹ vừa truyền
cảm.
Đến với đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong
“Truyện Kiều”
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Tác giả vận dụng tài tình các biên pháp tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ, ... để viết nên
những vần thơ tuyệt diệu. Điệp ngữ “Buồn trông” đứng ở đầu câu sáu, láy lại bốn lần liên
tiếp, khơi gợi nỗi sầu thương nặng trĩu, triển miên, day dứt trong lòng Kiều. Cửa bể chiều
hôm hoang vắng, xa lạ, mịt mờ với con thuyền và cánh buồm, ngọn nước mới sa và hoa
trôi man mác, nội cỏ rầu rầu và chân mây, mặt đất, ... gió cuốn và ầm ầm tiếng sóng – là
những hình ảnh ẩn dụ và hoán dụ đặc tả một kiếp người lưu lạc đang lênh đênh, trôi dạt
trên dòng đời vô định đầy bão tố, với tâm trạng sợ hãi, cô đơn và tuyệt vọng. Ngoại cảnh
hòa hợp với tâm cảnh.
Nguyễn Du có biệt tài ... đặc biệt là ẩn dụ. Như ta đã biết ẩn dụ là lối ví ngầm. Xưa
nay, đoạn thơ tả tài sắc hai chị em Kiều vẫn được nhiều người tán thưởng. Bức chân dung
“hai ả tố nga” vô cùng xinh đẹp, một vẻ đẹp tuyệt mĩ:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Tác giả đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ: “Mai cốt cách tuyết tinh thần” để miêu tả vẻ đẹp của
chị em Thuý Kiều - họ mang vóc dáng thanh cao, mảnh dẻ, yểu diệu, mềm mại như cây
mai; tình cảm, tâm hồn trắng trong như tuyết. Cả hai đều đẹp qua thành ngữ “mười phân
vẹn mười”, mỗi người mang một vẻ đẹp riêng và đều đẹp một cách toàn diện, hoàn mĩ.
“Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”
Tiếp đó tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân bằng các hình ảnh chọn lọc, từ ngữ tiêu
biểu:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

93
Hoa cười ngọc thốt đoang trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Câu thơ mở đầu giới thiệu khái quát nhân vật bằng bốn chữ “trang trọng khác vời”, nói
lên vẻ đẹp đoan trang, nghiêm chỉnh, cao sang, quí phái của Thuý Vân. Vẫn bằng bút pháp
ẩn dụ mượn vẻ đẹp của thiên nhiên với những hình ảnh quen thuộc “ trăng, hoa, ngọc, mây,
tuyết” để nói về vẻ đẹp của Thúy Vân, nàng được so sánh với những gì đẹp nhất trên đời.
Nguyễn Du đã thành công khi sử dụng phép tu từ liệt kê, nhân hóa: “khuôn trăng, nét ngài,
hoa cười, ngọc thốt, mây thua, tuyết nhường” để làm nổi bật riêng vẻ đẹp của Thúy Vân.
Nàng có khuôn mặt đầy đặn, toả sáng như trăng rằm; lông mày cong, sắc nét, đẹp; nụ cuời
tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc; mái tóc óng ả hơn mây; da trắng mịn hơn tuyết,
tính cách nghiêm trang đứng đắn. Qua đó, Thuý Vân hiện lên là cô gái đoan trang, phúc
hậu. Vẻ đẹp của Thuý Vân tạo sự hoà hợp, êm đềm với xung quanh qua thủ pháp so sánh
“mây thua, tuyết nhường” nên nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ, hạnh phúc.
Nếu Vân là một giai nhân thì Kiều là một giai nhân tuyệt thế, mặn mà, sắc sảo vẹn toàn.
Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp ẩn dụ – nhân hóa gợi tả vẻ đẹp trẻ trung của Thúy Kiều.
Mắt nàng trong như nước mùa thu. Lông mày xinh xắn như dáng núi mùa xuân ... Sắc đẹp
ấy làm cho hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”:
“ Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”
Tác giả dùng phép ẩn dụ “làn thu thuỷ nét xuân sơn” gợi đôi mắt trong sáng, long lanh
như làn nước mùa thu; hàng lông mày thanh tú, đẹp như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của
Kiều hội tụ ở đôi mắt – cửa sổ tâm hồn thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Bằng
hình ảnh nhân hoá “hoa ghen, liễu hờn”, tác giả làm nổi bật dung nhan đằm thắm của Kiều
khiến hoa phải ghen, dáng trẻ trung đầy sức sống khiến liễu phải hờn. Nàng có vẻ đẹp làm
say đắm, chinh phục lòng người qua thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành”. Kiều là một
trang tuyệt thế giai nhân.
Nguyễn Du không những đã tiếp thu thi liệu, điển tích của văn học Trung Hoa mà còn
học tập dân ca, ca dao, học lời ăn tiếng nói của người trồng dâu, trồng gai nơi đồng nội để
sáng tạo nên vần thơ đặc sắc.
“Hạt mưa” là hình ảnh so sánh ẩn dụ trong ca dao, dân ca nói về thân phận, số phận của
người con gái ngày xưa: “Thân em như hạt mưa sa, hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày” ... .
Trước cảnh gia biến, nàng Kiều nghĩ và hành động:
“Hạt mưa sá nghĩ phận hèn
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân”
“Hạt mưa, tấc cỏ, ba xuân” là những hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trưng, nói ít
mà gợi nhiều, hàm súc, hình tượng và truyền cảm. Kiều là một thiếu nữ giàu đức hi sinh,
hiếu thảo, quyết bán mình chuộc cha khỏi vòng tù tội.
Nghệ thuật của “Truyện Kiêu” là đa dạng, phong phú, đặc sắc và độc đáo. Những câu
trong “Truyện Kiều” vừa trích dẫn ở trên đã khẳng định nhận xét của giáo sư Đặng Thanh
Lê: “Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là
ẩn dụ” là đúng đắn.

94
Ứớc lệ và tượng trưng là đặc điểm của thi pháp cổ. Lúc tả cảnh, tả người, tả tình ...
Nguyễn Du cũng sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng nhưng với cá tính sáng tạo của một
nghệ sĩ thiên tài, câu thơ Kiều đầy nhạc điệu, hình ảnh “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm
thêu”, rất sống động và tinh tế. Đặc biệt là những câu Kiều mang hình ảnh ẩn dụ đã in sâu
vào tâm trí mỗi chúng ta: “Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày ...” (Tố Hữu)
3. Kết bài:
Với ngôn ngữ cô đọng, hàm súc kết hợp với các biện pháp tu từ biệt là nghệ thuật ẩn dụ,
Nguyễn Du đã làm cho tác phẩm của mình giàu sức sống, hàm ẩn nhiều ý nghĩa để bạn
đọc các thế hệ cùng khám phá. các biện pháp tu từ và nghệ thuật ẩn dụ trong tác
phẩm “Truyện Kiều” đã đạt đến độ bậc thầy, truyền tải giá trị tư tưởng nhân văn của thi
hào Nguyễn Du. “Truyện Kiều” đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam. Tên tuổi thi hào
dân tộc Nguyễn Du sống mãi trong tâm hồn của nhân dân ta với bao tình cảm kính phục,
tự hào.
……………………………………
Đề 32: Phân tích nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.
1. Mở bài:
Nguyễn Du là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam, ông đã để lại cho nền văn
học dân tộc nhiều áng thơ văn có giá trị cao không chỉ về nội dung mà còn mang đậm
giá trị thẩm mĩ, giá trị nghệ thuật. Tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Du có thể kể đến, đó chính là “Truyện Kiều”. Ở trong tác phẩm này, Nguyễn
Du đạt tới đỉnh cao về giá trị nội dung tư tưởng, mặt khác cũng thể hiện được tài
năng bậc thầy của Nguyễn Du về mặt nghệ thuật, cụ thể hơn đó chính là nghệ thuật tả
cảnh
2. Thân bài:
Bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du cũng vẫn theo truyền thống có sẵn trong văn
chương như ước lệ hoặc tả cảnh ngụ tình. Cảnh xen vào tâm trạng con người là để
làm nổi bật tâm trạng. Nhiều khi tác giả không trực tiếp tả tâm trạng nhân vật mà
thông qua miêu tả cảnh vật để gợi lên tâm trạng.
Cảnh vật trong “Truyện Kiều” cũng là một “nhân – vật” luôn luôn hiện diện, một nhân
vật im lặng nhưng thấu hiểu tâm trạng con người. Chúng ta hãy lấy đoạn trích “Cảnh ngày
xuân” làm ví dụ để chứng minh rằng nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt đến trình độ
điêu luyện. Mở đầu, Nguyễn Du đã phác họa một bức tranh mùa xuân thật ấn tượng.
Không gian, thời gian hiện ra trong hai dòng thơ khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Hai câu thơ đầu vừa gợi không gian, vừa gợi thời gian. Nhưng không gian ấy không
tĩnh mà rất sống động bởi hình ảnh “con én đưa thoi”. Trước hết đây là một hình ảnh tả
thực, trong tháng cuối cùng của mùa xuân những cánh én vẫn rộn ràng chao đi chao lại
giữa bầu trời trong sáng, đây là hình ảnh vô cùng quen thuộc, gần gũi. Nhưng đồng thời nó
còn ngụ ý chỉ thời gian ngày xuân đang trôi nhanh, gợi ra một không gian cao rộng trên
bầu trời và không khí mùa xuân ấm áp. Sau hình ảnh “con én đưa thoi” là “thiều quang
chín chục đã ngoài sáu mươi”; “ thiều quang” tức là tả ánh sáng đẹp của ngày xuân, nó còn
gợi một không gian đầy nắng ấm. Nhưng ý cả câu lại để chỉ chín mươi ngày xuân mà nay
95
đã ngoài sáu mươi, tức là đã qua tháng giêng, tháng hai và bước sang tháng ba – tháng cuối
cùng của mùa xuân. Đồng thời cũng nói lên tâm trạng có chút tiếc nuối của chị em Kiều
khi ngày xuân trôi qua nhanh. Hai câu thơ sau là một bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân với
hai sắc màu xanh và trắng:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Nguyễn Du đã vận dụng một cách sáng tạo câu thơ cổ của trung quốc “Cỏ thơm liền với
trời xanh – trên cành lê trắng có mấy bông hoa”, thay vì dùng từ “cỏ thơm” Nguyễn Du đã
dùng từ “cỏ non” để tô đậm màu sắc – màu xanh của cỏ non; chữ “tận” mở ra một không
gian bát ngát, thảm cỏ non trải rộng đến tận chân trời làm nền cho bức tranh mùa xuân.
Trên thảm cỏ xanh ấy, điểm xuyến một vài bông hoa lê trắng. Từ “trắng” được đảo lên
trước gây ấn tượng mạnh, tuy chỉ là một vài chấm trắng nhỏ nhưng lại là điểm nhấn nổi bật
tỏa sáng trên toàn cảnh. Như vậy, màu sắc có sức hài hòa đến tuyệt mĩ. Tất cả đều gợi lên
vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt trong trẻo nhẹ
nhàng, thanh khiết. Chữ “điểm” làm cho bức tranh xuân thêm sống động, có hồn chứ
không tĩnh tại.
Với bút pháp chấm phá tài tình, tác giả đã rất thành công khi phác họa một bức tranh
ngày xuân khoáng đạt, đầy sức sống. Qua đó, nhà thơ cũng gợi lên được bao cảm xúc, tâm
trạng của chị em Thúy Kiều.
Nhưng ánh thiều quang rực rỡ của ngày xuân nhanh chóng lụi tàn, nhường chỗ cho
bóng tà dương:
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
Khung cảnh chị em Kiều du xuân trở về được bắt đầu bằng một câu thơ tả sự chuyển đổi
của thời gian “Tà tà bóng ngả về tây”; buổi chiều tà thường gợi về cái gì đó thật buồn, bởi
nó báo hiệu ánh nắng ngày đang tắt, không gian mờ tối dần. Đang vui vẻ, nô nức là thế,
bây giờ đã kết thúc sao tránh khỏi tâm trạng “ thơ thẩn” đầy tiếc nuối trong lòng hai nàng
Kiều. Cảnh hoàng hôn còn được thể hiện trong hình ảnh “ ngọn tiểu khê, dịp cầu nho nhỏ”
nó khiến cho không gian lắng vào chiều sâu, gợi khung cảnh nhỏ bé, thân thuộc. Cảnh mùa
xuân ở những câu cuối được cảm nhận qua một hệ thống những từ láy “ tà tà, thanh thanh,
nao nao, nho nhỏ” không chỉ diễn tả sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng của chị em
Kiều tràn đầy lưu luyến, tiếc nuối, trầm lắng, suy tư. Qua thủ pháp nhân hóa trong câu:
“Nao nao dòng nước uốn quanh”, ta còn thấy những bồi hồi, xao xuyến trong tâm hồn nhân
vật. Cảnh này nó vừa có sự lắng đọng của cảm xúc cảm xúc trong ngày, vừa là một dấu
hiệu để mở ra cuộc gặp gỡ tình cờ mà như có sự sắp đặt của số phận. Vậy sáu câu thơ cuối
rất tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du
Nguyễn Du tả cảnh thường ngụ tình. Cảnh buồn hay vui là tùy thuộc vào tâm trạng
con người. Dù tả thực hay ước lệ, Nguyễn Du cũng vẫn giữ vững nguyên tắc mà ông

96
đã đúc kết trong nhận định: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”. Bởi vậy, cảnh
vật cũng phải nhuốm màu tâm trạng trước nỗi cô đơn của Kiều:
“ Trước lầu ngưng bích khóa xuân”
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.”
Khung cảnh thiên nhiên ở đây được vẽ ra bằng khung cảnh nội tâm nhân vật. Cảnh vắng
lặng, tuyệt đối không có một chút âm thanh, một bóng người như càng được cô lập Kiều
trong sự cô đơn đến rợp người. Bởi vậy, dù có cả “vẻ non xa” lẫn “tấm trăng gần” nhưng
cảnh vật ấy chẳng thể nào gợi lên một chút tươi vui hay ấm áp. Nhà thơ đã dùng hai chữ “ở
chung” thật khéo. Kiều trông thấy tất cả những thứ đó nhưng với nàng, chúng chẳng khác
gì nhau và càng không có gì đặc biệt. Hai yếu tố trái ngược “non xa - trăng gần” tưởng như
phi lí nhưng thực ra đã diễn tả rất chính xác sự trống trải của cảnh vật qua con mắt của
Kiều. Khung cảnh “bốn bề bát ngát” chỉ càng khiến cho lòng người thêm gợi nhớ:
“Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”
Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều.
Một người bình thường đứng trước không gian ấy cũng khó ngăn được nỗi buồn. Với Kiều,
không gian rộng rãi, trống trải ấy chỉ càng khiến nàng suy nghĩ về cuộc đời mình:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Đó là một khung cảnh thiên nhiên rộng mênh mông, vắng lặng không một bóng người.
Cái vắng lặng của thiên nhiên và cái mênh mông của đất trời đã khắc sâu vào trong lòng
người cảm giác cô đơn. Trong tâm hồn Thúy Kiều và dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua
xót đau thương. Chỉ sáu câu thơ, bằng nét bút chấm phá tài hoa, bức tranh thiên nhiên luôn
làm nền cho hoạt động nội tâm của Kiều. Cảnh tình như hòa hợp làm một: cảnh buồn, tình
buồn, ngổn ngang tâm trạng buồn tủi, cô đơn của Kiều thể hiện sâu lắng. Qua đó chúng ta
thấy được sự thành công của Nguyễn Du trong việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Vẫn thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích nhưng trong tám câu cuối ta thấy có sự vận
động theo dòng tâm trạng của con người khá tinh tế. Ngòi bút điêu luyện của Nguyễn
Du đã thể hiện khá sinh động bức tranh thiên nhiên với những cảnh vật cụ thể:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.”
Hai câu thơ gợi ra không gian rộng trên mặt biển bao la vào lúc chiều tà. Với hình ảnh ẩn
dụ “cánh buồm” để nói nỗi cô đơn, lẻ lo, bé nhỏ. Thời gian “chiều hôm”: khiến cho nỗi
buồn thân phận càng trở nên thấm thía. Từ láy “ thấp thoáng, xa xa” không chỉ gợi hình mà
còn nói lên tình cảnh lênh đênh, thân phận bơ vơ của Kiều. Trong không gian vắng lặng
Kiều nhìn về xa xa với nỗi nhớ nhà, nhớ gia đình, nhớ người thân, với ước mong được trở
về đoàn tụ, sum họp.
“Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!”
Hình ảnh ẩn dụ “Hoa trôi” nói lên thân phận lênh đênh, nổi trôi, vô định của người con
gái trước sóng gió cuộc đời. Sử dụng câu hỏi tu từ “biết là về đâu” diễn tả tâm trạng xót xa,
hoang mang, lo sợ của Kiều, khiến cô không khỏi băn khoăn, lo lắng, nghĩ ngợi.

97
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
Hình ảnh: “nội cỏ, chân mây, mặt đất” là nét vẽ không gian rộng lớn. Từ láy: “rầu rầu”
vẽ lên cả một vùng cỏ tàn héo; “xanh xanh” gợi sắc xanh nhạt nhòa, xa cách, nhạt phai.
Biện pháp nhân hóa “nội cỏ” gợi nỗi sầu thương, cô lẻ của Kiều. Sự lẻ loi, nhỏ nhoi và nỗi
cơ đơn cùng cực của thân phận. Với phép ẩn dụ “ Chân mây” đã gợi ra một nỗi buồn mênh
mông, dàn trải. Khung cảnh ảm đạm ấy khiến cho Kiều buồn thêm buồn, cái cảm giác sao
mà tẻ nhạt, sao mà chán ngán, vô vọng thế.
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Từ láy “ầm ầm” và phép đảo ngữ gợi nỗi lo âu, sợ hãi. Hình ảnh ẩn dụ “gió cuốn, tiếng
sóng” để nói đến những biến cố kinh hoàng sắp ập đến, con sóng của số phận sắp sửa chôn
vùi cuộc đời nàng, dự báo một tương lai đầy sóng gió, đầy phong ba bão táp đang ập xuống
thân phận nhỏ bé, yếu đuối của nàng trong một xã hội phong kiến đầy cổ hủ, bất công. Nó
dồn nàng vào một vực thẳm của nỗi sợ hãi, cùng tâm trạng tuyệt vọng đã đi đến tột cùng.
Tám câu cuối được miêu tả theo trình tự từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm
thanh từ tĩnh đến động; sử dụng điệp ngữ “buồn trông” để tô đậm nỗi buồn man mác, lo âu
của Thúy Kiều không thể vơi, cảnh nào cũng buồn, cũng gợi thân phận con người trong
cuộc đời vô định. Nó tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật là muôn hình vạn trạng. Thiên nhiên đã đi
vào những vần thơ trong Truyện Kiều; đi vào tâm hồn đại thi hào dân tộc Nguyễn Du
lặng lẽ, nhẹ nhàng nhưng đã tạo nên cái nền cho tác phẩm cũng như mang tâm trạng,
nỗi lòng của nhân vật. Giá trị văn chương tả cảnh, tả người của Nguyễn Du đã đạt tới
mức tinh diệu đã làm cho “Truyện Kiều” xứng đáng là một tác phẩm truyện thơ
nôm hay nhất trong kho tàng văn học của nước ta.
3. Kết bài:
Qua “Truyện Kiều” chúng ta thấy được sự tinh tế của Nguyễn Du khi miêu tả về
thiên nhiên. Với những nét chấm phá đơn sơ, Nguyễn Du đã thổi hồn vào cảnh vật,
để thiên nhiên cũng mang tâm trạng của con người. Chính vì thế mà “Truyện Kiều”
sống mãi với thời gian phần lớn cũng là do những thành tựu nghệ thuật này.
******************************************************
Đề 33: Phân tích nghệ thuật tả người của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.
1. Mở bài:
Nguyễn Du là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam, ông đã để lại cho nền văn
học dân tộc nhiều áng thơ văn có giá trị cao không chỉ về nội dung mà còn mang đậm
giá trị thẩm mĩ, giá trị nghệ thuật. Tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Du có thể kể đến, đó chính là “Truyện Kiều”. Ở trong tác phẩm này, Nguyễn
Du đạt tới đỉnh cao về giá trị nội dung tư tưởng, mặt khác cũng thể hiện được tài
năng bậc thầy của Nguyễn Du về mặt nghệ thuật, cụ thể hơn đó chính là nghệ thuật tả
người.
2. Thân bài:
Trong Truyện Kiểu, thành công lớn nhất của Nguyễn Du vẫn là sự sáng tạo nên
những hình tượng nhân vật điển hình thực hơn cả những con người thực ngoài đời.
98
Mỗi nhân vật, Nguyễn Du chỉ vẽ bằng một vài nét mà người nào ra người nấy, bên
ngoài và bên trong phù hợp làm cho tính cách nổi bật. Cách tả người của Nguyễn Du
thật đặc biệt. Có khi là dáng vẻ bề ngoài, có khi là một vài hành động, lời nói, có khi
là nhận xét về tính cách… nhưng đã thể hiện được những đặc điểm điển hình, tiêu
biểu cho một loại người, một giai cấp cụ thể trong xã hội.
Đến với Mã Giám Sinh chân tướng hắn dần dần bộc lộ qua cách Nguyễn Du miêu tả
ngoại hình của y:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
“Trạc ngoại tứ tuần” là đã ngoài bốn mươi tuổi. Thời bấy giờ là ở vào tuổi không
còn trẻ nữa, thế mà y vẫn “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Tác giả cố ý làm
nổi bật mâu thuẫn giữa tuổi tác và cách tỉa tót, chải chuốt, cách ăn diện quá mức của
y. Những từ láy “nhẵn nhụi', “bảnh bao” không chỉ thể hiện được vẻ kệch cỡm của
Mã Giám Sinh mà còn kín đáo bộc lộ thái độ châm biếm của Nguyễn Du. Qua đó phơi
bày chân tướng của một tên vô học, thô lỗ, bản chất của một kẻ buôn người của hắn.
Chân dung của Từ Hải, dưới ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du hiện lên là một
người anh hùng thật oai nghiêm:
“Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”.
Cách nói ước lệ “râu hùm”, “hàm én”, “mày ngài” để miêu tả vẻ đẹp
đường bệ, uy nghi, phi thường của một nhân vật anh hùng, hiệp sĩ.
Còn Tú bà là một mụ chủ thanh lâu tham lam, độc ác nên: “Nhác trông nhờn nhợt
màu da, ăn gì to béo đẫy đà làm sao”. Hoạn Thư là một tiểu thư con quan, chuyên cậy
quyền, cậy thế để hại người thì: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm
giết người không dao”.
Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, Nguyễn Du đã khai thác triệt để ưu thế của nghệ
thuật miêu tả. Điều đó thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng của ông đối với Thúy Kiều,
Thúy Vân - hai cô gái xinh đẹp:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Đầu tiên tác giả giới thiệu gia đình họ Vương có hai cô con gái đầu lòng Thuý Kiều là
chị, Thuý Vân là em và cả hai đều là những cô gái đẹp qua từ “Tố nga”. Tác giả đã sử
dụng hình ảnh ẩn dụ, ước lệ tượng trưng “Mai cốt cách tuyết tinh thần” để miêu tả vẻ đẹp
của chị em Thuý Kiều - họ mang vóc dáng thanh cao, mảnh dẻ, yểu diệu, mềm mại như
cây mai; tình cảm, tâm hồn trắng trong như tuyết. Cả hai đều đẹp qua thành ngữ “mười
phân vẹn mười”, mỗi người mang một vẻ đẹp riêng và đều đẹp một cách toàn diện, hoàn
mĩ. Tiếp đó tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân bằng các hình ảnh chọn lọc, từ ngữ tiêu
biểu:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

99
Hoa cười ngọc thốt đoang trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Câu thơ mở đầu giới thiệu khái quát nhân vật bằng bốn chữ “trang trọng khác vời”, nói
lên vẻ đẹp đoan trang, nghiêm chỉnh, cao sang, quí phái của Thuý Vân. Vẫn bằng bút pháp
ước lệ tượng trưng, mượn vẻ đẹp của thiên nhiên với những hình ảnh quen thuộc “ trăng,
hoa, ngọc, mây, tuyết” để nói về vẻ đẹp của Thúy Vân, nàng được so sánh với những gì
đẹp nhất trên đời. Nguyễn Du đã thành công khi sử dụng phép tu từ liệt kê, nhân hóa, ẩn dụ
“khuôn trăng, nét ngài, hoa cười, ngọc thốt, mây thua, tuyết nhường” để làm nổi bật riêng
vẻ đẹp của Thúy Vân. Nàng có khuôn mặt đầy đặn, toả sáng như trăng rằm; lông mày
cong, sắc nét, đẹp; nụ cuời tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc; mái tóc óng ả hơn mây;
da trắng mịn hơn tuyết, tính cách nghiêm trang đứng đắn. Qua đó, Thuý Vân hiện lên là cô
gái đoan trang, phúc hậu. Vẻ đẹp của Thuý Vân tạo sự hoà hợp, êm đềm với xung quanh
qua thủ pháp so sánh “mây thua, tuyết nhường” nên nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng,
suôn sẻ, hạnh phúc.
Sau khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều. Nếu Thuý
Vân được giới thiệu qua bốn câu với vẻ đẹp cộng phẩm chất thì Thuý Kiều được miêu tả
qua mười hai câu. Đây là nghệ thuật đòn bẩy làm nổi bật nhân vật chính của tác giả:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật: Kiều sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
Một sự so sánh khái quát nhưng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều hơn hẳn em cả tài lẫn
sắc. Tả vẻ đẹp của Kiều, Nguyễn Du chỉ tập trung vào đôi mắt:
“ Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”
Tác giả vẫn dùng những hình ảnh ước lệ tượng trưng, phép ẩn dụ “làn thu thuỷ nét xuân
sơn” gợi đôi mắt trong sáng, long lanh như làn nước mùa thu; hàng lông mày thanh tú, đẹp
như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều hội tụ ở đôi mắt – cửa sổ tâm hồn thể hiện phần
tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Bằng hình ảnh nhân hoá “hoa ghen, liễu hờn”, tác giả làm
nổi bật dung nhan đằm thắm của Kiều khiến hoa phải ghen, dáng trẻ trung đầy sức sống
khiến liễu phải hờn. Nàng có vẻ đẹp làm say đắm, chinh phục lòng người qua thành ngữ
“nghiêng nước nghiêng thành”. Kiều là một trang tuyệt thế giai nhân nhưng nàng không
chỉ đẹp mà còn rất đa tài:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng lão nhân”
Nàng thông minh bẩm sinh, có tài làm thơ, vẽ “pha nghề thi họa”, tài đàn “ăn đứt”, âm
luật giỏi đến mức “làu bậc”, còn sáng tác nhạc “một thiên bạc mệnh”- chính là sự ghi lại
tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp giữa sắc, tài và

100
tình. Vẻ đẹp của nàng làm cho tạo hoá phải ghen ghét, đố kị nên số phận của nàng sẽ éo le,
đau khổ.
Nghệ thuật tả người của Nguyễn Du thật là muôn hình vạn trạng. Khi tả nhân vật
ông chọn những nét tiêu biểu nhất, đắt giá nhất để làm bật lên tính cách, số phận, bản
chất, nội tâm nhân vật: yêu thương những con người tốt đẹp, trung nghĩa, hiếu thảo,
thủy chung… Căm ghét, phê phán những kẻ xấu xa, chà đạp lên nhân phẩm con
người. Giá trị văn chương tả cảnh, tả người của Nguyễn Du đã đạt tới mức tinh diệu
đã làm cho “Truyện Kiều” xứng đáng là một tác phẩm truyện thơ nôm hay nhất
trong kho tàng văn học của nước ta.
3. Kết bài:
Qua “Truyện Kiều” chúng ta thấy được sự tinh tế của Nguyễn Du khi miêu tả về
con người. Đến với mỗi nhân vật ông miêu tả dù tốt hay xấu, dù chính diện hay phản
diện cũng để biểu hiện được bản chất tâm hồn bên trong qua hình dáng bên
ngoài. Chính vì thế mà “Truyện Kiều” sống mãi với thời gian phần lớn cũng là do
những thành tựu nghệ thuật này.
………………………………………………………………………………………………
Đề 34: Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến với xứ sở cái
đẹp. Hãy khám phá xứ sở cái đẹp qua tác phẩm “Lặng lẽ Sapa” của Nguyễn Thành Long.
1. Mở bài:
Nguyễn Thành Long là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và bút kí. Các tác phẩm
của ông là sự chắt lọc hiện thực của cuộc sống. Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn đặc
sắc, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Truyện được viết sau chuyến đi thực tế ở Sa Pa, một
vùng núi đẹp nổi tiếng. Nguyễn Thành Long không chỉ gửi đến người đọc vẻ đẹp độc
đáo của thiên nhiên Sa Pa mà còn nêu lên vẻ đẹp của những con người ở chốn Sa Pa
lặng lẽ đó. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Niềm vui của nhà văn chân chính là được
làm người dẫn đường đến với xứ sở cái đẹp”.
2. Thân bài:
Trước tiên ta nên hiểu “nhà văn chân chính”: là nhà văn luôn đặt cái đích vào con
người, cuộc sống, đem ngòi bút của mình phục vụ đời sống, có ích cho con người. Còn
“xứ sở của cái đẹp” thì sao ? Phải chăng đó là cái đẹp của cả nội dung lẫn hình thức
muôn hình muôn vẻ của cuộc đời mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm, gợi những
rung cảm thẩm mĩ, làm cho con người thêm mến yêu cuộc sống, thêm khao khát
hướng tới những gì đẹp đẽ, tốt lành của cuộc đời. Bởi vậy, niềm vui của nhà văn chân
chính là được làm người dẫn đường cho bạn đọc khám phá những vẻ đẹp của cuộc
sống thông qua các sáng tác văn học. Nhận định trên đã khẳng định về vai trò của
nhà văn và tác phẩm với đời sống.
Đến với tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long thì xứ sở cái đẹp chính
là bức tranh thiên nhiên núi rừng rộng lớn vùng Tây Bắc. Dưới ngòi bút của Nguyễn
Thành Long thiên nhiên Sa Pa thật thơ mộng, lung linh, kì ảo, trữ tình. Sa Pa xuất hiện
đầu tiên với hình ảnh “những rặng đào” và “những đàn bò lang cổ có đeo chuông ở các
đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường”. Đúng là sa pa rồi! Bạn có nhận ra chưa? Còn
người hoạ sĩ thì đã nhận ra cảnh quan ấy để rồi tơ tưởng đến một ngày được về ở hẳn nơi
ấy. Chỉ một ước muốn ấy thôi cũng cho thấy bức tranh thiên nhiên có sức hấp dẫn lòng
101
người. Đẹp nhất vẫn là lúc nắng lên. Dưới ánh nắng, dường như mọi vật đều trở nên sinh
động. Ánh nắng làm cho bức tranh trở nên đầy màu sắc, khiến con người họa sĩ và cô kĩ sư
cũng nín bặt vì vẻ đẹp lạ kì của cảnh: “Nắng bây giờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây.
Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái
nhìn bao che của cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu hình hoa cà lên trên màu xanh của
rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên vòm lá ướt sương, rơi xuống đường
cái, luồn vào cả gầm xe”. Rõ ràng tác giả đang nhìn từ trên cao nhìn xuống. Không gian
bao quát, có cả mây, có cả rừng. Ta cứ tuởng tượng, người hoạ sĩ đang ngồi trên xe và xe
thì đang nằm ngang với mây trời Tây Bắc. Chính vì lẽ đó mà có những đụn mây vón cục
xen vào những tán lá rừng. Vì lẽ đó mới thấy được những giọt sương len trên vòm lá, cùng
lúc với những tia nắng mặt trời chiếu trên đỉnh những chòm thông. Thiên nhiên đuợc nhân
hoá trở nên sống động lạ kì “ Nắng len tới”; chòm thông rung tít với “những ngón” tay
bằng bạc; cây tử kinh với cái “ Nhìn bao che” “nhô dầu” ; “ mây xua nắng đi”...Bức tranh
hiện lên với nhiều màu sắc tươi sáng, màu xanh của những cánh rừng bạc ngàn, màu tím
của những cây tử kinh, màu trắng của những đụn mây trời và màu vàng tươi của sắc
nắng...Khung cảnh bồng bềnh, sương khói, lãng đãng mây trời và ngập tràn ánh sáng ấy
chính là khung nền cho một cuộc gặp gỡ cũng thấm đẫm chất trữ tình nên thơ.
Xứ sở của cái đẹp trong “Lặng lẽ Sa Pa” còn được thể hiện ở vẻ đẹp hấp dẫn của
những con người làm việc quên mình cho đất nước. Trước hết là anh thanh niên làm
công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Anh thanh niên mang trong mình đầy đủ
những phẩm chất tốt đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề ở tinh thần trách nhiệm với
công việc. Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt
đất….” rồi ghi chép lại và báo về trung tâm, dựa vào việc báo trước thời tiết hàng ngày,
phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Chỉ quanh quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn thôi
nhưng lại quan trọng vô cùng, ấy thế nên anh đã sống hết mình vì nó. Vẻ đẹp nơi anh bắt
đầu từ chính công việc mà anh đã chọn – là con đường lao động. Qua đó, anh có thể hoàn
thành nghĩa vụ và ước mơ cống hiến cho Tổ quốc của mình. Anh lựa chọn cho mình làm
công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, dù công việc này có lắm khó khăn, đòi hỏi tính tỉ mỉ
chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao nhưng anh lại tìm thấy niềm vui ở nó “ khi ta
làm việc ta với công việc là đôi”. Đẹp nhất ở anh là tư tưởng sống “không chỉ cho bản thân
mà là cho đất nước, cho dân tộc”, chính lí tưởng đó đã hướng anh đi theo con đường lao
động đúng đắn và có ích. Anh cũng như bao người bình thường khác, trong suy nghĩ cũng
từng có những ngại ngần và tâm lí sợ sự cô đơn trước con đường đời đã chọn. Nhưng tuổi
trẻ và lí tưởng cao đẹp nơi anh đã lấp đầy khoảng trống ấy bằng tấm lòng yêu nghề, sự say
mê lao động của mình: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến
chết mất”. Từ trải nghiệm về công việc, anh yên tâm đón nhận con đường mình đang tiến
tới bằng lý tưởng cao đẹp về công việc lao động của mình. Trong môi trường sống và lao
động khắc nghiệt của thời tiết núi rừng Sa Pa “Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở
bên ngoài chỉ trực đợi mình ra là ào ào xô tới”; ngay cả những khổ cực khi phải thức dậy
vào lúc “Bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối lại một giờ sáng”…Thế nhưng anh vẫn vượt
qua và hoàn thành tốt công việc của mình. Phải nói anh thanh niên ấy là một con người say
mê công việc, biết vươn lên những khó khăn, tự giác hoàn thành nhiệm vụ và đã rèn luyện
cho mình một trái tim thấm đượm lòng yêu nghề.

102
Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn
nắp: “một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”.
Cuộc sống riêng của anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con,một chiếc bàn
học, một giá sách”. Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống của
mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần. Cuộc sống của anh không cô đơn,
buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò
chuyện, để thanh lọc tâm hồn. Sách là nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài.
Cảnh sống của anh như một người đang sống và làm việc giữa xã hội chứ không phải mình
anh, đúng là một cách sống đẹp đẽ mọi người nhìn thấy cái đẹp bắt đầu từ tâm hồn.
Những người như ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa hằng ngày ngồi trong vườn chăm chú quan
sát cách lấy mật của ong, rồi tự tay thụ phấn cho hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra
tốt hơn, anh cán bộ nghiên cứu đã mười một năm ròng túc trực chờ sét để lập bản đồ sét
tìm tài nguyên cho đất nước. Họ tạo thành cái thế giới những con người như anh thanh niên
ở trạm khí tượng, những con người miệt mài lao động khoa học lặng lẽ mà khẩn trương vì
lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của con người.
Tất cả đã tạo nên xứ sở của cái đẹp là sự cống hiến âm thầm và lặng lẽ hết mình cho
đất nước. Xứ sở của cái đẹp trong “Lặng lẽ Sa Pa không chỉ đẹp về nội dung mà còn
đẹp về nghệ thuật, với nhan đề “Lặng lẽ Sa Pa” thấm đẫm chất thơ. Cốt truyện, tình
huống giản đơn, chỉ là cuộc gặp gỡ tình cờ giữa các nhân vật nhưng nhà văn đã dựng lên
mối quan hệ chung - riêng thật đẹp. Hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, chất
tạo hình, âm điệu nhẹ nhàng, êm ái, giàu chất thơ. Ngôn ngữ chắp cánh những vần thơ,
nâng tâm hồn người đọc vươn tới những cảm xúc sâu xa, thấm thía.
3. Kết bài:
Tóm lại cái đẹp trong tác phẩm văn học thật đa dạng, phong phú được khơi nguồn,
kết tinh từ cuộc sống. Đời sống tự nhiên ấy được làm nên từ quá trình lao động cực
nhọc, sáng tạo, mê say của nhà văn để có được sức hấp dẫn, những giá trị đẹp của con
người, làm cho con người sống tốt hơn. Yêu cái đẹp của văn chương là chúng ta yêu
tấm lòng của nhà văn. Họ là những kĩ sư tâm hồn đốt cháy mình để có được ánh sáng,
niềm vui dẫn ta đến bến bờ xứ sở của cái đẹp trong cuộc sống. Nhà văn Nguyễn
Thành Long đã đem đến cho chúng ta với xứ sở cái đẹp là niềm cảm hứng dạt dào về
vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi Sa Pa.
**************************************************
Đề 35: “Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng...”
(Nguyễn Đình Thi, Tiếng nói của văn nghệ).
Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy nói về “ánh sáng riêng” mà truyện ngắn “Lặng
lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long đã “rọi vào” tâm hồn em.
1. Mở bài:
Nguyễn Thành Long ( 1925-1991) ông bắt đầu viết văn vào thời kỳ kháng chiến
chống Pháp. Ông là cây bút chuyên viết về truyện ngắn. Vẻ đẹp trong sáng tác của
ông không nằm ở những phát hiện sắc sảo mà nằm ở việc tạo dựng một chất thơ
trong trẻo, nhẹ nhàng, thể hiện khả năng cảm nhận cuộc sống tinh tế. Bởi vậy mà
Nguyễn Đình Thi có nói: “Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh
sáng riêng...”. “Lặng lẽ Sa Pa” cũng vậy, nó rọi vào trong chúng ta cái “ánh sáng”

103
của vẻ đẹp thiên nơi núi rừng Sa Pa và những con người dũng cảm, tuyệt đẹp đang
cống hiến một cách thầm lặng, cao cả cho Tổ quốc.
2. Thân bài:
Thế nào là “Tác phẩm lớn” ? Phải chăng tác phẩm mang dấu ấn của từng giai đoạn,
từng thời kì, mở ra trước mắt người đọc những hiểu biết phong phú về cuộc sống xã
hội con người, hướng con người đến những điều tốt đẹp. Vẻ đẹp thẩm mĩ của tác phẩm
làm lay động bao trái tim người đọc và có sức sống lâu bền với thời gian. Ta nên hiểu
“Ánh sáng” của tác phẩm như thế nào? Đó là cảm xúc, tâm sự, tấm lòng, tinh thần của
thời đại mà nhà văn đã chuyển hoá vào trong tác phẩm. Còn “rọi vào bên trong” thì
sao? Là khả năng kì diệu trong việc tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của ta,
chiếu, toả, soi , rọi vào sâu thẳm tâm trí ta, làm thay đổi mắt ta nhìn, óc ta nghĩ…
Mỗi tác phẩm mang một ánh sáng riêng in đậm dấu ấn, phong cách riêng của nhà
văn, từ cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề, bày tỏ quan điểm, cách nhìn cuộc sống đều
mang nét riêng độc đáo. “Lặng lẽ Sa Pa” là một truyện ngắn nhẹ nhàng, trong trẻo,
giàu chất thơ của Nguyễn Thành Long. Đây là một tác phẩm đẹp từ nội dung đến
hình thức nghệ thuật. Trong tác phẩm nhà văn đã xây dựng được những hình tượng
nhân vật độc đáo, giàu lí tưởng tiêu biểu cho phẩm chất của con người
Việt Nam trong công cuộc lao động xây dựng quê hương đất nước.
Thứ “ánh sáng” đặc biệt của Lặng lẽ Sa Pa mà người đọc cảm nhận được toả ra từ
chất thơ bàng bạc xuyên suốt tác phẩm. Chất thơ trong cốt truyện, chất thơ thấm
đượm trong bức tranh phong cảnh thiên nhiên. Mỗi câu mỗi chữ khắc hoạ bức tranh
thiên nhiên đều giàu sức tạo hình, rực rỡ sắc màu, nhịp điệu êm ái như một bài thơ.
Cảm xúc trước cảnh mới lạ ấy truyền cho người đọc những rung động thẩm mĩ về vẻ
đẹp của tác phẩm. Sa Pa xuất hiện đầu tiên với hình ảnh “những rặng đào” và “những đàn
bò lang cổ có đeo chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường”. Đúng là sa pa
rồi! Bạn có nhận ra chưa? Còn người hoạ sĩ thì đã nhận ra cảnh quan ấy để rồi tơ tưởng
đến một ngày được về ở hẳn nơi ấy. Chỉ một ước muốn ấy thôi cũng cho thấy bức tranh
thiên nhiên có sức hấp dẫn lòng người. Đẹp nhất vẫn là lúc nắng lên. Dưới ánh nắng,
dường như mọi vật đều trở nên sinh động. Ánh nắng làm cho bức tranh trở nên đầy màu
sắc, khiến con người họa sĩ và cô kĩ sư cũng nín bặt vì vẻ đẹp lạ kì của cảnh: “Nắng bây
giờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong
nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái
đầu hình hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn
trên vòm lá ướt sương...”. Rõ ràng tác giả đang nhìn từ trên cao nhìn xuống. Không gian
bao quát, có cả mây, có cả rừng. Ta cứ tuởng tượng, người hoạ sĩ đang ngồi trên xe và xe
thì đang nằm ngang với mây trời Tây Bắc. Chính vì lẽ đó mà có những đụn mây vón cục
xen vào những tán lá rừng. Vì lẽ đó mới thấy được những giọt sương len trên vòm lá, cùng
lúc với những tia nắng mặt trời chiếu trên đỉnh những chòm thông. Thiên nhiên đuợc nhân
hoá trở nên sống động lạ kì “ Nắng len tới”; chòm thông rung tít với “những ngón” tay
bằng bạc; cây tử kinh với cái “ Nhìn bao che” “nhô dầu” ; “ mây xua nắng đi”...Bức tranh
hiện lên với nhiều màu sắc tươi sáng, màu xanh của những cánh rừng bạc ngàn, màu tím
của những cây tử kinh, màu trắng của những đụn mây trời và màu vàng tươi của sắc

104
nắng...Khung cảnh bồng bềnh, sương khói, lãng đãng mây trời và ngập tràn ánh sáng ấy
chính là khung nền cho một cuộc gặp gỡ cũng thấm đẫm chất trữ tình nên thơ.
Còn về giá trị nội dung, có thể xem tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách
sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người
của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật trong sáng đẹp
đẽ. Trước hết, “ánh sáng” người đọc đón nhận từ tác phẩm là âm vang của cuộc gặp
gỡ giữa ông hoạ sĩ, cô kĩ sư nông nghiệp và anh thanh niên khí tượng. Làm một công
việc âm thầm, lặng lẽ, trên đỉnh núi cao 2600 mét, giữa mênh mông đất trời, sương
tuyết, anh thanh niên mang trong mình đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp ở tấm lòng yêu
đời, yêu nghề ở tinh thần trách nhiệm với công việc. Công việc của anh là “đo gió, đo mưa,
đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất….” rồi ghi chép lại và báo về trung tâm, dựa vào
việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Chỉ quanh quẩn ở
mấy chiếc máy ngoài vườn thôi nhưng lại quan trọng vô cùng, ấy thế nên anh đã sống hết
mình vì nó. Vẻ đẹp nơi anh bắt đầu từ chính công việc mà anh đã chọn – là con đường lao
động. Qua đó, anh có thể hoàn thành nghĩa vụ và ước mơ cống hiến cho Tổ quốc của mình.
Anh lựa chọn cho mình làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, dù công việc này có
lắm khó khăn, đòi hỏi tính tỉ mỉ chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao nhưng anh lại
tìm thấy niềm vui ở nó “ khi ta làm việc ta với công việc là đôi”. Đẹp nhất ở anh là tư
tưởng sống “không chỉ cho bản thân mà là cho đất nước, cho dân tộc”, chính lí tưởng đó đã
hướng anh đi theo con đường lao động đúng đắn và có ích. Anh thanh niên đáng yêu ấy
còn thể hiện nét đẹp ở sức sống mãnh liệt và sự lạc quan yêu đời. Trong môi trường sống
và lao động khắc nghiệt của thời tiết núi rừng Sa Pa, ngay cả những khổ cực khi phải thức
dậy vào lúc “Bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối lại một giờ sáng”…Thế nhưng anh vẫn
vượt qua và hoàn thành tốt công việc của mình. Phải nói anh thanh niên ấy là một con
người say mê công việc, biết vươn lên những khó khăn, tự giác hoàn thành nhiệm vụ và đã
rèn luyện cho mình một trái tim thấm đượm lòng yêu nghề. Không chỉ vậy người thanh
niên này còn thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng hiếu khách, sự quan tâm đến người
khác một cách chu đáo. Tình thân với bác lái xe, thái độ ân cần chu đáo, tặng củ tam thất
cho vợ bác vừa mới ốm dậy. Vui sướng khi có khách đến thăm nhà. Anh đón tiếp khách
nồng nhiệt, ân cần chu đáo, hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái chưa hề
quen biết: “Anh con trai, rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã
cắt cho người con gái,và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy”, pha nước chè cho ông họa sĩ. Anh
trò chuyện cởi mở với ông họa sĩ và cô kĩ sư về công việc, cuộc sống của mình, của bạn bè
nơi Sa Pa lặng lẽ. Đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu. Lưu
luyến với khách khi chia tay, xúc động đến nỗi phải “quay mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ
già làn trứng làm quà, không dám tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ “ốp”. Tất cả không chỉ
chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người thanh niên mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành,
nhiệt tình đáng quí. Công việc vất vả có những đóng góp quan trọng như thế cho đất nước
nhưng người thanh niên vẫn hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn, anh cảm thấy
những đóng góp của mình chỉ bình thường nhỏ bé so với bao người khác, vì thế anh đã từ
chối ông họa sĩ vẽ bức chân dung của mình, con người khiêm tốn ấy còn hào hứng giới
thiệu với ông họa sĩ những người mà anh cho là đáng vẽ hơn: đó là ông kỹ sư ở vườn rau
Sa Pa, là anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, có thể nói dù còn trẻ tuổi, nhưng anh đã thấm

105
thía cái nghĩa cái tình của mảnh đất Sa Pa, thấm thía sự hi sinh thầm lặng của những con
người ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
Dù không phải là nhân vật chính nhưng ông hoạ sĩ - là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy
cảm. Ngay từ những lời giới thiệu của bác lái xe về anh thanh niên, ông hoạ sĩ đã xúc động
mạnh khi nhìn thấy “người con trai tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước
mặt chạy lại chỗ xe đỗ”. Sau đó ông lại ngạc nhiên khi thấy anh thanh niên đang hái hoa,
cảm động và bị cuốn hút trước sự cởi mở chân thành của anh. Bằng sự từng trải nghề
nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ sáng tạo đi tìm đối tượng của nghệ thuật, ông
biết mình đang xúc động và bối rối vì đã “bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được
biết, một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là
giá trị một chuyến đi dài”. Cảm hứng được khơi gợi đã thôi thúc người hoạ sĩ sáng tác.
Ông muốn làm một bức phác họa chân dung về anh thanh niên nhưng làm thế nào cho
người xem hiểu được anh ta, mà không phải hiểu như một ngôi sao xa? Và làm thế nào đặt
được chính tấm lòng của nhà hoạ sĩ vào giữa bức tranh đó? Ông chấp nhận những thử
thách của quá trình sáng tác, đã bắt cảm hứng của mình hiện lên trang giấy: “cũng may mà
bằng mấy nét, hoạ sĩ đã ghi xong lần đầu gương mặt của người thanh niên”. Người con trai
ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông “nhọc quá”. Còn đây nữa, cô kỹ sư - là cô gái đã rời
Hà Nội, bỏ lại sau lưng “mối tình đầu nhạt nhẽo” để lên công tác ở miền cao Tây Bắc.
Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những điều anh nói, câu chuyện anh kể về những
người khác đã khiến cô “bàng hoàng”, cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt
đẹp của người thanh niên, về cái thế giới những con người như anh mà anh kể, và về con
đường cô đang đi tới ? Giờ đây, cô đã nhận ra mối tình của mình bấy lâu nay nhạt nhẽo
biết bao, cuộc sống của mình lâu nay tầm thường biết bao, thế giới của mình lâu nay nhỏ
bé biết bao! Khoảnh khắc bàng hoàng ấy chính là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao,
cao đẹp khi người ta bắt gặp được những ánh sáng đẹp đẽ toả ra từ cuộc sống, từ tâm hồn
người khác. Cùng với sự bàng hoàng ấy là “một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng
cô gái. Không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì
một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh dành
cho thêm cô”.
Có thể nói, cuộc gặp gỡ của ba nhân vật giữa mịt mờ sương tuyết mà vẫn nồng ấm
tình người. Chỉ tiếp xúc trong ba mươi phút, họ đủ hiểu nhau, toả sáng cho nhau,
khơi gợi trong nhau biết bao điều bổ ích. Điều bổ ích lớn lao nhất cho cả ba con người
thuộc hai thế hệ khác nhau là sự ý thức về vị trí, trách nhiệm mỗi con người trong
công cuộc xây dựng đất nước. Dù họ chia tay nhau, điều bổ ích ấy vẫn vang trong họ
và từ họ, vang âm sang người đọc chúng ta.
Tác phẩm rọi vào trong lòng người đọc những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống,
của những con người lao động tự giác. Cuộc sống của mỗi người chỉ thật sự có ý nghĩa
khi mọi việc làm của họ đều xuất phát từ tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu mến
tự hào về mảnh đất mình đang sống. Con người cần phải biết sống có lý tưởng, say
mê với công việc, hiểu được ý nghĩa công việc mình làm. Vẻ đẹp của con người lao
động chính là mảnh đất màu mỡ để người nghệ sĩ ươm mầm.
Chất thơ trong nét đẹp tâm hồn của nhân vật, trong ngôn ngữ và giọng điệu kể
chuyện nhẹ nhàng trong sáng. Ngôn ngữ truyện như dòng nước mát trôi vào tâm trí

106
người đọc, khơi gợi bao khao khát về một vùng đất lặng lẽ mà thơ mộng. Truyện đã
thành công trong cách xây dựng tình huống hợp lí, tự nhiên mà hết sức bất ngờ, trong cách
kể chuyện giản dị, trong cách miêu tả con người, cảnh vật dưới nhiều điểm nhìn.
3. Kết bài:
“Ánh sáng” toả ra từ “Lặng lẽ Sa Pa” là một thứ ánh sáng rất riêng. Nó đem lại cho
người đọc những cảm nhận mới mẻ thâm trầm, sâu sắc: Lặng lẽ Sa Pa - mới đọc tên,
ngỡ nhà văn nói về một điều gì… im ắng, hắt hiu, giá lạnh; nhưng kì diệu thay trong
cái lặng lẽ của Sa Pa vẫn ngân lên những âm thanh trong sáng, vẫn ánh lên những sắc
màu lung linh, lan toả hơi ấm tình người và sự sống. Từ đó làm cho người đọc thấy
tin yêu cuộc sống, bồi đắp lí tưởng sống cao đẹp - sống cống hiến dựng xây quê hương
đất nước. Tác phẩm lớn sẽ chiếu tỏa, soi rọi; có khả năng giáo dục, cảm hóa sâu sắc
tới nhận thức và hành động của bạn đọc nhiều thế hệ
………………………………………………………………………………………
Đề 36: Vẻ đẹp thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ qua hai nhân vật anh
thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” và Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi”.
1. Mở bài:
Yêu biết mấy hình ảnh người thanh niên thời kỳ chống Mỹ: cần cù trong lao động,
anh hùng trong chiến đấu. Văn thơ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ đã dựng lại cả một
thời kỳ máu lửa, đi sâu tìm tòi khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của thế hệ thanh niên trong
chiến đấu cũng như trong lao động. Tôi nhớ mãi Phương Định trong “Những ngôi sao
xa xôi” của Lê Minh Khuê; anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn
Thành. Họ là hiện thân của vẻ đẹp con người Việt Nam, của sức sống dân tộc. Năm
tháng trôi đi và lịch sử đã bước sang trang mới nhưng những con người ấy vẫn sáng
ngời lên nhắc nhở ta về một quãng đường đầy gian khổ, đau thương, lại rất đỗi anh
hùng mà đất nước mình đã đi qua. Để rồi mỗi lần đọc lại tôi không khỏi ngỡ ngàng vì
người dân mình đẹp quá, dũng cảm; và lòng tôi được như sống lại những ngày còn
chiến tranh bom đạn ấy.
2. Thân bài:
Ở cả hai nhân vật Phương Định và anh thanh niên đều tiêu biểu cho: Tuổi trẻ Việt
Nam trong cuộc kháng chiến anh hùng chống đế quốc Mĩ cứu nước; giàu nhiệt huyết,
niềm tin và ước vọng; tự nguyện cống hiến và hi sinh cho đất nước. Họ đại diện cho
tuổi trẻ Việt Nam đầy sức thanh xuân; dũng cảm trong chiến đấu, hăng say trong lao
động; giàu mộng mơ, hồn nhiên, lạc quan, yêu đời, gắn bó với tập thể…
Còn vẻ đẹp riêng ở mỗi con người họ thì sao ? Đến với anh thanh niên trong “Lặng
lẽ SaPa” làm công tác khí tượng trên đỉnh núi cao ở Sa Pa, tiêu biểu cho lớp trẻ xây
dựng Tổ quốc.
Anh thanh niên mang trong mình đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp ở tấm lòng yêu
đời, yêu nghề ở tinh thần trách nhiệm với công việc. Nói về hoàn cảnh sống và công
việc của anh. Theo lời bác lái xe thì anh là người “cô độc nhất thế gian”, công việc của anh
là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất….” rồi ghi chép lại và báo về
trung tâm, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.
Chỉ quanh quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn thôi nhưng lại quan trọng vô cùng, ấy thế
nên anh đã sống hết mình vì nó. Vẻ đẹp nơi anh bắt đầu từ chính công việc mà anh đã chọn

107
– là con đường lao động. Qua đó, anh có thể hoàn thành nghĩa vụ và ước mơ cống hiến cho
Tổ quốc của mình. Anh lựa chọn cho mình làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, dù
công việc này có lắm khó khăn, đòi hỏi tính tỉ mỉ chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao
nhưng anh lại tìm thấy niềm vui ở nó “ khi ta làm việc ta với công việc là đôi”. Đẹp nhất ở
anh là tư tưởng sống “không chỉ cho bản thân mà là cho đất nước, cho dân tộc”, chính lí
tưởng đó đã hướng anh đi theo con đường lao động đúng đắn và có ích. Anh cũng như bao
người bình thường khác, trong suy nghĩ cũng từng có những ngại ngần và tâm lí sợ sự cô
đơn trước con đường đời đã chọn. Nhưng tuổi trẻ và lí tưởng cao đẹp nơi anh đã lấp đầy
khoảng trống ấy bằng tấm lòng yêu nghề, sự say mê lao động của mình: “Công việc của
cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Từ trải nghiệm về công
việc, anh yên tâm đón nhận con đường mình đang tiến tới bằng lý tưởng cao đẹp về công
việc lao động của mình.
Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn
nắp: “Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”.
Cuộc sống riêng của anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc
bàn học, một giá sách”. Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống
của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần. Cuộc sống của anh không cô đơn,
buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò
chuyện, để thanh lọc tâm hồn. Sách là nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài.
Cảnh sống của anh như một người đang sống và làm việc giữa xã hội chứ không phải mình
anh, đúng là một cách sống đẹp đẽ mọi người nhìn thấy cái đẹp bắt đầu từ tâm hồn.
Không chỉ vậy người thanh niên này còn thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng
hiếu khách, sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Tình thân với bác lái xe,
thái độ ân cần chu đáo, tặng củ tam thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy. Vui sướng khi có
khách đến thăm nhà. Anh đón tiếp khách nồng nhiệt, ân cần chu đáo, hái một bó hoa rực
rỡ sắc màu tặng người con gái chưa hề quen biết: “Anh con trai, rất tự nhiên như với một
người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái và cũng rất tự nhiên, cô đỡ
lấy”, pha nước chè cho ông họa sĩ. Anh trò chuyện cởi mở với ông họa sĩ và cô kĩ sư về
công việc, cuộc sống của mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ. Đếm từng phút vì sợ hết mất
ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu. Lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến nỗi
phải “quay mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ già làn trứng làm quà, không dám tiễn khách
ra xe dù chưa đến giờ “ốp”. Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người
thanh niên mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí.
Công việc vất vả có những đóng góp quan trọng như thế cho đất nước nhưng người
thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn. Anh cảm thấy những đóng góp
của mình chỉ bình thường, nhỏ bé so với bao người khác, vì thế anh đã từ chối ông họa sĩ
vẽ bức chân dung của mình, con người khiêm tốn ấy còn hào hứng giới thiệu với ông họa
sĩ những người mà anh cho là đáng vẽ hơn: “Ơ bác vẽ cháu đấy ư ? Không, không, đừng vẽ
cháu, để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn”, đó là ông kỹ sư
ở vườn rau Sa Pa, là anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, có thể nói dù còn trẻ tuổi, nhưng
anh đã thấm thía cái nghĩa cái tình của mảnh đất Sa Pa, thấm thía sự hi sinh thầm lặng của
những con người ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.

108
Chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc của truyện,
nhưng tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về tinh thần,
tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc. Anh thanh
niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là chân dung con người lao động
mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Còn với Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi” là cô gái thanh niên xung
phong làm nhiệm vụ trinh sát trên tuyến đường Trường Sơn. Tiêu biểu cho tuổi trẻ
Việt Nam trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Phương Định được giới thiệu là cô gái Hà Nội lãng mạn và mơ mộng xung phong vào
chiến trường, cô sống cùng đồng đội là chị Thao, Nho trên cao điểm giữa vùng trọng điểm
ở tuyến đường Trường Sơn, họ sống trong một cái hang dưới chân cao điểm, công việc của
họ là đo khối lượng đất đá cần san lấp vào hố bom, đánh dấu những quả bom chưa nổ và
nếu cần thì phá bom. Công việc vất vả và nguy hiểm phải đổi mặt với thần chết từng phút,
từng giờ, nhiệm vụ quan trọng đầy gian khổ, hi sinh của họ đã phần nào cho ta thấy hiện
thực của cuộc chiến tranh đầy ác liệt và tinh thần yêu nước của các cô gái thanh niên xung
phong.
Đối với Phương Định ấn tượng đầu tiên về cô là vẻ đẹp bề ngoài đáng yêu, trẻ trung,
xinh xắn và đầy sức sống. Cô thích ngắm mình trong gương và làm điệu hoặc kiêu kỳ một
cách đáng yêu khi thấy đồng đội của mình tiếp xúc với một anh bộ đội nói giỏi nào đó.
Phương Định vừa bước qua tuổi học trò hồn nhiên vô tư, cô mang theo vào chiến trường
đầy ác liệt cả những nét đáng yêu của một cô gái mới lớn, mang theo cả một tâm hồn mơ
mộng yêu đời, cô mê hát, sống trong cảnh ác liệt của chiến tranh cô vẫn không bỏ đi sở
thích của mình: “ Thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng”, “Những bài hành khúc bộ đội
hay hát trên những ngả đường mặt trận”, “Thích ca - chiu - sa của hồng quân Liên Xô”;
tiếng hát ấy đã át tiếng bom để động viên đồng đội, cũng chính là động viên bản thân mình.
Phương Định luôn sống với những kỉ niệm của người thiếu nữ vô tư, chỉ gặp một trận
mưa đá ở cô lập tức toát lên niềm vui con trẻ. Cô nhặt những viên mưa đá rồi bâng khuâng
ngơ ngác khi thấy nó tan biến bất ngờ, cũng nhanh như khi nó ập đến, cô nhớ đến tuổi thơ
của mình, những kỉ niệm đó làm dịu mát tâm hồn cô trong hoàn cảnh khốc liệt trong cái
không khí “nóng bỏng” của chiến tranh.
Cũng như bao cô gái thanh niên xung phong khác, ở Phương Định nổi bật tinh thần
gan dạ, dũng cảm, thái độ bình tĩnh vượt lên mọi nguy hiểm. Điều đó được thể hiện cụ
thể qua một lần phá bom trên cao điểm. Sau những đợt thả bom của giặc, cô cùng đồng đội
chạy lên cao điểm để làm nhiệm vụ, nơi còn có nhiều quả bom chưa nổ, không gian lúc đó
vắng lặng đến đáng sợ. Nhưng với tinh thần dũng cảm Phương Định phải suy nghĩ và làm
như thế nào để hoàn thành tốt nhiệm vụ ? Chiến thắng thần chết. Lẽ ra Phương Định phải
đi khom người nhưng sợ các anh cao xạ có cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt
nhìn thấy từng hành động cử chỉ của mình nên Phương Định cứ: “Đàng hoàng mà bước
tới” và thế là lòng dũng cảm của cô đã được kích thích bằng sự tự trọng. Khi đến gần quả
bom, từng cảm giác của cô cũng trở nên sắc nhọn hơn và cũng có sự lo sợ: “Thỉnh thoảng
lưỡi xẻng chạm vào vỏ bom một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng
mình và bỗng thấy mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu
chẳng lành”; thế nhưng Phương Định vẫn không hề run tay, vẫn tiếp tục công việc “Tôi

109
cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi. Dây mìn dài, cong mềm. Tôi
khỏa đất rồi chạy vào chỗ ẩn nấp của mình”, cuối cùng là cảm giác căng thẳng chờ đợi
tiếng nổ của quả bom. Điều đáng chú ý là công việc khủng khiếp không chỉ diễn ra một lần
trong ngày mà nó diễn ra thường xuyên “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm
lần. Ngày nào ít: Ba lần”. Những lúc phá bom Phương Định có nghĩ đến cái chết nhưng đó
chỉ là một cái chết mờ nhạt không cụ thể cái chính là bom có nổ hay không. Đó chính là
tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, là lòng dũng cảm đã giúp Phương Định thực
hiện tốt công việc của mình.
Ngoài sự dũng cảm trong công việc Phương Định còn cho ta thấy tình cảm đồng đội,
đồng chí gắn bó. Cô luôn yêu thương trìu mến đồng đội, lo lắng cho chị Thao lên cao
điểm chưa về đến nỗi “Nói như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình, rồi khi Nho
bị thương cô chăm sóc tận tình như một cô ý tá, chính sự chăm sóc ấy của phương Định đã
làm cho Nho nhanh chóng khỏe lại, cô dành tình cảm yêu mến của mình với những người
chiến sĩ đang trực tiếp chiến đấu, tình đồng đội thật thiêng liêng, đáng quý, nó đã tiếp thêm
sức mạnh để cô hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Nhân vật Phương Định đã để lại dấu ấn không phai mờ trong lòng bạn đọc là nhờ nghệ
thuật xây dựng nhân vật độc đáo của Lê Minh Khuê. Ở đây chuyện được kể theo ngôi thứ
nhất, cũng là nhân vật chính nên đã tạo điều kiện để tác giả tập trung miêu tả thành công
thế giới nội tâm của nhân vật, nó làm cho câu truyện diễn tả một cách chân thực, tự nhiên.
“Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê ; “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành
Long là những tượng đài lộng lẫy về vẻ đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ thử thách mà rất đỗi anh hùng.
Hai nhân vật trong hai tác phẩm tuy có những khía cạnh khác nhau của đời sống thời
kì chống Mỹ về khung cảnh, hoàn cảnh và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc
đáo, cá biệt nhưng đều góp phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói phám phá
ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu
nước.
3. Kết bài:
Lê Minh Khuê và Nguyễn thành Long là những người trực tiếp tham gia vào cuộc
chiến đấu vĩ đại của dân tộc, họ thấu hiểu và trân trọng những phẩm chất của con
người Việt Nam. Hình ảnh những con người một lòng “Quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh” mãi mãi khắc tạc vào lịch sử, trở thành tấm gương sáng ngời về ý chí, lý tưởng
sống và đức hi sinh cho mọi thế hệ mai sau noi theo.
………………………………………………………………………………………….……
Đề 37: So sánh ước nguyện của Thanh Hải trong khổ 4, 5 của bài “Mùa xuân nho
nhỏ” và ước nguyện của Viễn Phương trong khổ 4 của bài “Viếng lăng Bác”
1. Mở bài:
Ai cũng có những ước muốn của riêng mình, ước muốn ấy có thể bình thường, giản dị
nhưng cũng có thể là khao khát nguyện vọng thực hiện được khi thoát khỏi cái tôi cá nhân
hóa thân, hòa nhập vào cộng đồng. Đứng trước thiên nhiên tươi đẹp của mùa xuân xứ Huế,
Thanh Hải đã thể hiện khát vọng dâng hiến mùa xuân của mình vào mùa xuân chung đất
nước qua bài thơ “Mùa Xuân nho nhỏ”. Hay đó là niềm thành kính, nỗi xúc động chân

110
thành của Viễn Phương lần đầu ra thăm lăng Bác được bộc lộ qua bài thơ “Viếng lăng
Bác”.
2. Thân bài:
Ở “Viếng lăng Bác, nếu khổ một miêu tả hàng tre bên lăng Bác, khổ hai miêu tả mặt trời
và đoàn người đến viếng lăng Bác, khổ ba miêu tả cảnh Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
thì khổ bốn thể hiện ước nguyện của tác giả. Cuối cùng dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng
đến lúc phải rời lăng Bác để ra về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt và những ước nguyện
đầy xúc động:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một tiếng “thương của miền Nam” lại vang lên, gợi về
miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong trái tim Người. Một tiếng
“thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là
tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác. Thương Bác lắm, nước mắt trào ra, thật đúng là
tình thương của người Việt Nam vô bến bờ. Tình cảm ấy đã chắp cánh cho ước mơ được
hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật ở lăng Bác:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Bằng việc liệt kê các hình ảnh chọn lọc “con chim”, “đoá hoa”, “cây tre” và điệp
ngữ “Muốn làm” đã giúp nhà thơ tô đậm mức độ thiết tha, mãnh liệt của niềm mong ước.
Những hình ảnh “con chim”, “đoá hoa”, “cây tre” là ẩn dụ đẹp thể hiện ước nguyện
của nhà thơ muốn làm “con chim” góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác; một
đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác; muốn làm cây tre bên lăng Bác
để bảo vệ lăng và đóng góp phần nhỏ bé của mình cho người cha già kính yêu. Với hình
ảnh nhân hóa “cây tre trung hiếu” để nói lên khát vọng ở lại bên lăng để canh giấc ngủ cho
người, còn để tác giả bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc.
Đồng thời cũng thể hiện lòng kính yêu và ước nguyện thủy chung tiếp tục đi theo con
đường lý tưởng cách mạng mà Bác đã chọn cho dân tộc.
Còn ở bài “Mùa xuân nho nhỏ”, nếu khổ một miêu tả cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân
thiên nhiên xứ Huế; khổ hai, ba nói về cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước
thì ở khổ bốn tác giả đã nói lên ước nguyện chân thành:
“ Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Sử dụng điệp từ “ta” và bút pháp liệt kê để thể hiện ước nguyện chân thành, thiết tha:
được làm một tiếng chim hót thánh thót góp phần làm cho mùa xuân quê hương thêm rạo
rực, sống động; Thanh Hải nguyện làm một cành hoa để tô điểm thêm hương sắc cho mùa
xuân quê hương đất nước; ông không mơ làm một nốt nhạc bổng cao vút trong bản hòa ca
của dân tộc mà chỉ khiêm nhường làm một nốt trầm xao xuyến lòng người, nốt trầm ấy có
thể là nốt nhạc phụ nhưng không thể thiếu bởi nó là yếu tố góp phần làm nên sự thành công
của bản hòa ca. Với lớp nghĩa ẩn dụ tượng trưng “con chim hót”, “một cành hoa”, “ nốt
trần xao xuyến” nó gợi liên tưởng đến mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con

111
người và đất nước Việt Nam. Cái “tôi”của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyển hoá
thành cái “ta” đã nhằm nhấn mạnh ước muốn không chỉ của riêng nhà thơ mà là ước
nguyện chung của mọi người
Đến khổ thơ tiếp theo Thanh Hải thể hiện rõ hơn khát vọng cống hiến của mình ở
những vần thơ sâu lắng:
“ Một mùa xuân nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
“Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc đời đáng yêu, một khát
vọng sống cao đẹp. Mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy đem tất cả những gì tốt đẹp,
tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước. Cặp từ láy
“nho nhỏ”, “lặng lẽ” kết hợp với đảo ngữ “lặng lẽ dâng” cho thấy một thái độ chân thành,
khiêm nhường, không khoe khoang mà chỉ lặng lẽ, âm thầm dâng hiến. Lời ước nguyện
thật thuỷ chung, son sắt được diễn tả qua hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi” chỉ tuổi trẻ và
“khi tóc bạc” để nói khi về già. Điều này đã khẳng định cả đời người phải giữ trọn lẽ sống
có ích, có ý nghĩa, cống hiến suốt cuộc đời cho Tổ quốc, cho nhân dân. Điệp ngữ “dù là”
nhắc lại hai lần làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết sâu lắng càng khắc sâu ước
nguyện chân thành, bền bỉ đáng quý. Phải chăng đây là lẽ sống đầy trách nhiệm mà Thanh
Hải muốn nhắn gởi đến chúng ta.
Điểm giống nhau ở hai đoạn thơ 4, 5 trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” và khổ 4 trong
bài thơ “Viếng lăng Bác là đều nói về ước nguyện sống đẹp, sống cống hiến của Viễn
Phương và Thanh. Hơn nữa, chúng đều xuất phát từ những cảm xúc chân thành nhất của
hai tác giả và tình yêu của họ đối với cuộc sống, đất nước với vị lãnh tụ kính yêu. về nghệ
thuật, cả hai tác giả đã sử dụng những hình ảnh mộc mạc, giản dị trong thiên nhiên và nâng
chúng lên thành những khát vọng cống hiến cao đẹp. Không chỉ thế, cả hai đoạn thơ còn sử
dụng những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ mới mẻ, sáng tạo độc đáo, làm chúng trở nên thật lôi
cuốn, gây nhiều cảm xúc cho người đọc.
Tuy nhiên, hai đoạn thơ cũng có sự khác nhau về nội dung và nghệ thuật. Về nội dung,
sự khác nhau ấy chính là cảm hứng, hoàn cảnh sáng tác bài thơ. Thanh Hải đã sáng tác
“Mùa xuân nho nhỏ” vào tháng 11/1980 lúc đang lâm bệnh, không còn sống được lâu nữa
nhưng vẫn rất muốn cống hiến một thứ gì đó cho đời. Còn bài “Viếng lăng Bác” được Viễn
Phương sáng tác năm 1976, sau khi vào Hà Nội thăm lăng Bác, thể hiện cảm xúc, tâm tư
của ông sau chuyến đi ấy. Về nghệ thuật, khổ bốn, năm trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”
được viết theo thể thơ năm chữ, giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, tâm tình, bộc lộ tấm chân
tình của tác giả. Trong khi khổ bốn của “Viếng lăng Bác” được viết theo thể thơ tám chữ,
giọng thơ trang nghiêm, thành kính, nhịp thơ dồn dập gây cho người đọc nhiều cảm xúc về
Bác Hồ.
3. Kết bài:
Với tất cả những sự giống nhau và khác nhau đó, mỗi đoạn thơ đều có những âm hưởng
riêng, phong cách riêng đã đem lại cái hay, cái đặc sắc riêng của từng bài khiến cho ta vô
cùng xúc động trước ước nguyện cống hiến của cả hai tác giả và lối sống đẹp đẽ, đầy trách
nhiệm của họ, cũng là lối sống của con người Việt Nam, như Tố Hữu đã từng viết:

112
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình ”
Là học sinh, tôi sẽ cố gắng rèn luyện cho mình lối sống đẹp và có trách nhiệm, cố gắng
cống hiến những gì tốt đẹp nhất của mình cho quê hương, đất nước.
……………………………………………………………………………………………….
Đề 38: Trong văn bản “Tiếng nói văn nghệ”, Nguyễn Đình thi có viết: “Nghệ thuật
không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta,
khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy”. Qua văn bản “Lặng lẽ sapa” của Nguyễn
Thành Long, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
Bài làm
1. Mở bài:
Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết về
truyện ngắn. Hòa mình vào “Lặng lẽ Sa Pa”, ta như sống lại những tháng năm lịch sử của
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa mới, của những con người cần cù trong lao động, anh
hùng trong chiến đấu. Bởi vậy, Nguyễn Đình thi có viết: “Nghệ thuật không đứng ngoài
trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự
phải bước lên đường ấy”. “Lặng lẽ Sa Pa” đã tác động đến mỗi người chúng ta đó là sự
khắc hoạ thành công hình ảnh những người lao động bình thường mà tiêu biểu là anh thanh
niên làm công tác khí tượng ở một mình trên đỉnh Yên Sơn. Qua đó, truyện khẳng định vẻ
đẹp của con người lao động thầm lặng. Họ là hiện thân của vẻ đẹp con người Việt Nam,
ngày ngày lặng thầm góp công xây đựng đất nước không chỉ bằng những trang sử chống
Mỹ mà còn bằng những thành tích lao động quên mình.
2. Thân bài:
Nghệ thuật là một loại hình độc đáo thể hiện cuộc sống qua các hình tượng, nét vẽ, màu
sắc, hình khối, âm thanh .... Nghệ thuật được tác giả nói ở đây nên hiểu là nghệ thuật văn
chương.
Còn nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta là gì? Phải chăng là nghệ thuật khác với
những bài thuyết giảng đạo lí, mà các tác phẩm nghệ thuật là con đẻ của người nghệ sĩ,
trong đó các nhà văn gửi gắm những suy tư, ước vọng của mình đến với độc giả. Tư tưởng
trong tác phẩm nghệ thuật là thứ tư tưởng náu mình.
Nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta thì sao? Có phải chính các tác phẩm văn
chương tác động vào nhận thức, tâm tư, tình cảm của người đọc, giúp người đọc hiểu được
hiện thực cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm và qua sự rung động mà tác phẩm đem
lại người tiếp nhận sẽ nhận thức rõ cái đẹp, cái đúng, cái sai trong thực tế cuộc sống, từ đó
có những tình cảm yêu cái tốt đẹp, ghét cái xấu xa sai trái...
Khiến chúng ta tự phải bước đi lên đường ấy: Từ những tình cảm tốt đẹp mà tác phẩm
nghệ thuật đem lại, người đọc sẽ có hành động phù hợp như kế thừa, phát huy, noi theo
những điều tốt đẹp, đấu tranh, phê phán cái xấu xa, lỗi thời, hèn kém...
Đến với “Lặng lẽ Sa Pa” ý kiến trên giúp cho người đọc thấy nghị lực phi thường và
những phẩm chất cao đẹp của các nhân vật trong truyện mà tiêu biểu là nhân vật anh thanh
niên đã giúp người đọc thấy rõ những phẩm chất cao đẹp của người lao động mới trong

113
thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam mà thêm trân
trọng, yêu mến những con người đó.
Một con người có nghị lực phi thường: trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống
anh vẫn vượt lên để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Vì anh thanh niên mang trong mình
đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề ở tinh thần trách
nhiệm với công việc. Nói về hoàn cảnh sống và công việc của anh. Theo lời bác lái xe thì
anh là người “cô độc nhất thế gian”, công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính
mây, đo chấn động mặt đất….” rồi ghi chép lại và báo về trung tâm, dự vào việc báo trước
thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Chỉ quanh quẩn ở mấy chiếc máy
ngoài vườn thôi nhưng lại quan trọng vô cùng, ấy thế nên anh đã sống hết mình vì nó. Vẻ
đẹp nơi anh bắt đầu từ chính công việc mà anh đã chọn – là con đường lao động. Qua đó,
anh có thể hoàn thành nghĩa vụ và ước mơ cống hiến cho Tổ quốc của mình. Anh lựa chọn
cho mình làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, dù công việc này có lắm khó khăn,
đòi hỏi tính tỉ mỉ chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao nhưng anh lại tìm thấy niềm
vui ở nó “ khi ta làm việc ta với công việc là đôi”. Đẹp nhất ở anh là tư tưởng sống “không
chỉ cho bản thân mà là cho đất nước, cho dân tộc”, chính lí tưởng đó đã hướng anh đi theo
con đường lao động đúng đắn và có ích. Anh cũng như bao người bình thường khác, trong
suy nghĩ cũng từng có những ngại ngần và tâm lí sợ sự cô đơn trước con đường đời đã
chọn. Nhưng tuổi trẻ và lí tưởng cao đẹp nơi anh đã lấp đầy khoảng trống ấy bằng tấm lòng
yêu nghề, sự say mê lao động của mình: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó
đi, cháu buồn đến chết mất”. Từ trải nghiệm về công việc, anh yên tâm đón nhận con
đường mình đang tiến tới bằng lý tưởng cao đẹp về công việc lao động của mình. Trong
môi trường sống và lao động khắc nghiệt của thời tiết núi rừng Sa Pa “Xách đèn ra vườn,
gió tuyết và lặng im ở bên ngoài chỉ trực đợi mình ra là ào ào xô tới”; ngay cả những khổ
cực khi phải thức dậy vào lúc “bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối lại một giờ sáng”…Thế
nhưng anh vẫn vượt qua và hoàn thành tốt công việc của mình. Phải nói anh thanh niên ấy
là một con người say mê công việc, biết vươn lên những khó khăn, tự giác hoàn thành
nhiệm vụ và đã rèn luyện cho mình một trái tim thấm đượm lòng yêu nghề. Chính anh đã
đánh thức niềm say mê lao động, say mê cống hiến nơi người họa sĩ già để đem lại nguồn
cảm hứng dạt dào trong tâm hồn con người ấy.
Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn
nắp: “Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”.
Cuộc sống riêng của anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc
bàn học, một giá sách”. Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống
của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần. Cuộc sống của anh không cô đơn,
buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò
chuyện, để thanh lọc tâm hồn. Sách là nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài.
Cảnh sống của anh như một người đang sống và làm việc giữa xã hội chứ không phải mình
anh, đúng là một cách sống đẹp đẽ mọi người nhìn thấy cái đẹp bắt đầu từ tâm hồn.
Không chỉ vậy người thanh niên này còn thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng hiếu
khách, sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Tình thân với bác lái xe, thái độ
ân cần chu đáo, tặng củ tam thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy. Vui sướng khi có khách đến
thăm nhà. Anh đón tiếp khách nồng nhiệt, ân cần chu đáo, hái một bó hoa rực rỡ sắc màu

114
tặng người con gái chưa hề quen biết: “Anh con trai, rất tự nhiên như với một người bạn đã
quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy”, pha nước
chè cho ông họa sĩ. Anh trò chuyện cởi mở với ông họa sĩ và cô kĩ sư về công việc, cuộc
sống của mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ. Đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút
gặp gỡ vô cùng quý báu. Lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến nỗi phải “quay
mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ già làn trứng làm quà, không dám tiễn khách ra xe dù
chưa đến giờ “ốp”. Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người thanh niên
mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí.
Công việc vất vả có những đóng góp quan trọng như thế cho đất nước nhưng người
thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn. Anh cảm thấy những đóng góp
của mình chỉ bình thường, nhỏ bé so với bao người khác, vì thế anh đã từ chối ông họa sĩ
vẽ bức chân dung của mình, con người khiêm tốn ấy còn hào hứng giới thiệu với ông họa
sĩ những người mà anh cho là đáng vẽ hơn: “Ơ bác vẽ cháu đấy ư ? Không, không, đừng vẽ
cháu, để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn”, đó là ông kỹ sư
ở vườn rau Sa Pa, là anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, có thể nói dù còn trẻ tuổi, nhưng
anh đã thấm thía cái nghĩa cái tình của mảnh đất Sa Pa, thấm thía sự hi sinh thầm lặng của
những con người ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
Vẻ đẹp anh thanh niên đã có sức lan tỏa đến cô kĩ sư, ông họa sĩ. Cuộc gặp gỡ bất ngờ
của cô kĩ sư với anh thanh niên, những điều anh nói, câu chuyện anh kể về những người
khác đã khiến cô “bàng hoàng”, cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của
người thanh niên, về cái thế giới những con người như anh mà anh kể, và về con đường cô
đang đi tới ? Giờ đây, cô đã nhận ra mối tình của mình bấy lâu nay nhạt nhẽo biết bao,
cuộc sống của mình lâu nay tầm thường biết bao, thế giới của mình lâu nay nhỏ bé biết
bao! Khoảnh khắc bàng hoàng ấy chính là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao, cao
đẹp khi người ta bắt gặp được những ánh sáng đẹp đẽ toả ra từ cuộc sống, từ tâm hồn
người khác. Cùng với sự bàng hoàng ấy là “một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng
cô gái. Không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì
một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh dành
cho thêm cô”. Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và suy nghĩ
mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Qua tâm tư của cô gái, ta nhận ra vẻ đẹp và
sức ảnh hưởng của nhân vật anh thanh niên. Còn ông họa sĩ lại cảm giác “mình bối rối” khi
gặp nghe anh thanh niên kể về công việc. Bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao khát
của người nghệ sĩ sáng tạo đi tìm đối tượng của nghệ thuật, ông biết mình đang xúc động
và bối rối vì đã “bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, một nét thôi đủ khẳng
định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài”.
Cảm hứng được khơi gợi đã thôi thúc người hoạ sĩ sáng tác. Ông họa sĩ hứa mười ngày nữa
trở lại, còn bây giờ ông muốn dành trọn vẹn hai mươi phút ngắn ngủi để hiểu thật kĩ về
người thanh niên, về đối tượng mà ông đang định thể hiện trong bức tranh của mình. Ông
muốn làm một bức phác họa chân dung về anh thanh niên nhưng làm thế nào “cho người
xem hiểu được anh ta, mà không phải hiểu như một ngôi sao xa? Và làm thế nào đặt được
chính tấm lòng của nhà hoạ sĩ vào giữa bức tranh đó? Chao ôi, bắt gặp một con người như
anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng
đường dài. Cũng may mà bằng mấy nét, hoạ sĩ đã ghi xong gương mặt của người thanh

115
niên”. Người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông “nhọc quá”. Những cảm xúc và
suy tư của ông hoạ sĩ về anh thanh niên và về những vấn đề của nghệ thuật, của đời sống
được gợi lên từ câu chuyện của anh thanh niên đã làm cho chân dung nhân vật chính thêm
sáng đẹp và tạo nên chiều sâu tư tưởng.
Những người như ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa hằng ngày ngồi trong vườn chăm chú quan
sát cách lấy mật của ong, rồi tự tay thụ phấn cho hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra
tốt hơn. Anh cán bộ nghiên cứu đã mười một năm ròng túc trực chờ sét để lập bản đồ sét
tìm tài nguyên cho đất nước. Họ tạo thành cái thế giới những con người như anh thanh niên
ở trạm khí tượng, những con người miệt mài lao động khoa học lặng lẽ mà khẩn trương vì
lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của con người.
Qua nhân vật anh thanh niên người đọc thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn của anh, thấy được ý thức
công dân của mình trong cuộc sống. Chúng ta khâm phục những đức tính cao đẹp của anh
thanh niên để từ đó học tập noi gương, có hành động đúng trong công cuộc xây dựng đất
nước ngày nay...
3. Kết bài:
Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” đã góp phần cổ vũ, động viện nhân dân ta trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc đồng thời cũng là bức thông điệp gửi đến mọi người ý thức công dân
trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Thổi bùng trong ta lòng yêu đất nước và ý thức
cống hiến những gì tốt đẹp nhất cho đất nước. Ý kiến của Nguyễn Đình Thi là hoàn toàn
đúng đắn có ý nghĩa khẳng định sức mạnh của nghệ thuật nói chung, của văn chương nói
riêng.
…………………………………………………………………….
Đề 39: “Tác phẩm văn học là một công trình sáng tạo nghệ thuật bởi lao động của
người nghệ sĩ đúng là lao động sáng tạo”. Phân tích “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” để thấy được những đóng góp sáng tạo của Phạm Tiến Duật với thơ ca Việt
Nam
Bài làm
1. Mở bài:
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ.
Những sáng tác của ông lôi cuốn người đọc không phải bằng ngôn từ hoa lệ, trau
chuốt mà bằng sự sáng tạo độc đáo, mới lạ. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” đã thể hiện được sự sáng tạo của Phạm Tiến Duật qua hình ảnh những chiếc xe
không kính, vẻ đẹp hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống
Mỹ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy
hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Tác
phẩm văn học là một công trình sáng tạo nghệ thuật bởi lao động của người nghệ sĩ
đúng là lao động sáng tạo”.
2. Thân bài
Tại sao nói “Tác phẩm văn học là một công trình sáng tạo nghệ thuật” ? Phải chăng
tác phẩm văn học ra đời là kết quả của một quá trình tìm tòi, sang tạo ra cái mới có
giá trị. Còn “Lao động của người nghệ sĩ đúng là lao động sáng tạo” thì sao? Đó
chính là người nghệ sĩ luôn phải tìm tòi, nghiên cứu, có những khám phá riêng về

116
hình thức và nội dung đề mang đến cái mới cho văn học. Nhận định đã đề cao vai trò
sáng tạo của người nghệ sĩ trong sáng tác nghệ thuật.
Chúng ta đã biết bản thân nghệ thuật là sáng tạo, làm nghệ thuật tức là làm công
việc tìm tòi, sáng tạo không ngừng để tìm ra phong cách. Sáng tác văn học cũng là
một hoạt động nghệ thuật. Vì vậy, nó đòi hỏi mỗi nhà văn luôn phải có sự sáng tạo
“khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Mỗi tác phẩm là một
phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung. Nói cách khác, tác phẩm văn
học là một công trình sáng tạo cả về hình thức và nội dung.
Sáng tạo là thôi thúc bên trong một lí tưởng, lẽ sống, một nhu cầu tự thân của
người nghệ sĩ. Sáng tạo như một nguyên lý bất thành văn, một cam kết vô tư, thầm
lặng, tự nguyện của người nghệ sĩ. Bởi vậy, lao động của người nghệ sĩ đúng là lao
động sáng tạo.
Người đọc tìm đến tác phẩm văn học là để thỏa mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp
và những sáng tạo của người nghệ sĩ. Đồng thời sáng tạo trong văn học đánh dấu
bước phát triển của lịch sử văn học
Đến với “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật được viết năm 1969
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, rút từ tập “Vầng trăng quầng lửa”. Bài thơ được sáng
tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Với âm điệu
hào hung, khỏe khoắn bài thơ đã trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời
chống Mĩ. Thi phẩm thể hiện rõ những đóng góp sáng tạo của Phạm Tiến Duật đối với thơ
ca Việt Nam cả về phương diện nội dung và hình thức.
Ngay cách đặt nhan đề cho bài thơ ta đã thấy được sự mới lạ, độc đáo, khác lạ của
phạm Tiến Duật: Nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng chính nhan đề ấy lại thu
hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Tác giả thêm vào nhan đề hai chữ “Bài thơ” gợi
chất thơ của cuộc sống nơi chiến trường. Còn “ Tiểu đội xe không kính” nói lên hiện thực
chiến tranh vô cùng ác liệt, vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, kiên
cường. Nhan đề mới lạ, độc đáo tô đậm chất thơ của cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy
sinh.
Phạm tiến Duật còn sáng tạo trong hình ảnh những chiếc xe không kính. Xưa nay, hình
ảnh tàu, xe…đưa vào trong thơ thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa”. Ở bài thơ này,
tác giả lại đưa vào hình ảnh những chiếc xe không kính rất trần trụi, bình dị, không nguyên
vẹn:
“ Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Ở hai câu thơ này, tác giả đã sử dụng điệp từ “không”, điệp ngữ “không có” để giới thiệu
cho chúng ta về những chiếc xe rất đặc biệt “không có kính”. Điệp từ “ bom” kết hợp với
các động từ mạnh “giật, rung”, hình ảnh chân thực, giọng thơ tinh nghịch để nhấn mạnh
bom đạn kẻ thù, những con đường ra trận đã làm cho những chiếc xe này biến dạng “không
có kính”.
Những mất mát, khó khăn do quân địch, do đường trường gây ra làm những chiếc xe bị
hư hỏng nhiều hơn:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”

117
Điệp ngữ “không có” gợi lên hình ảnh những chiếc xe không vẹn toàn, thiếu đi đủ thứ.
Phép liệt kê “ không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước” để khẳng định những
gian khổ, khó khăn, nguy hiểm ngày càng tăng, càng ác liệt. Qua đó phản ánh hiện thực
khốc liệt của chiến tranh.
Phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàng như Phạm Tiến Duật
mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca
thời chống Mĩ
Tác giả lại sáng tạo trong cách nhìn, cách cảm nhận về vẻ đẹp hình tượng của
những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng”
Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” gợi lên sự điềm tĩnh, bình thản, lạc quan, yêu
đời của những người lính lái xe; họ vẫn tiếp tục công việc của mình dù cho xung quanh có
xảy ra những điều dữ dội, đau thương, mất mát. Điệp từ “nhìn” kết hợp với thủ pháp liệt
kê “đất, trời, thẳng” để nói lên những người lính không hề né tránh hiện thực gian khổ, hy
sinh; họ sẵn sàng đối mặt với gian nan, thử thách – một bản lĩnh vô cùng vững vàng.
Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp
xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Tác giả sử dụng điệp ngữ “ nhìn thấy ” có giá trị gợi tả những nỗi vất vả, cực khổ mà
người lính lái xe đã trải qua, đồng thời khắc sâu vẻ đẹp tỏa ra từ cách nhìn của người chiến
sĩ. Hình ảnh “ gió ” là sự vật vô hình không thể nhìn thấy, lại được nhân hóa với bàn tay
mềm mại “xoa” vào đôi mắt vốn cay xè vị bụi đường, vì thiếu ngủ. Với bút pháp ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng” gợi lên những chiếc xe không kính
phóng băng băng làm cho mắt người lính bị cay xè; qua đó những người chiến sĩ nhìn
những thử thách, gian nan với một thái độ bình tĩnh và tự tin. Nhưng sau đó hình ảnh miêu
tả thể hiện ý nghĩa ẩn dụ “con đường chạy thẳng vào tim”, đó là con đường ra mặt trận, con
đường cách mạng giải phóng dân tộc, con đường tiến vào miền Nam yêu thương.
Bằng biện pháp liệt kê “sao trời, cánh chim” cho ta hiểu thêm những người chiến sĩ lái xe
Trường Sơn lên đường bất kể ngày đêm. Với phép so sánh để ta thấy được thế giới bên
ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt, tạo những cảm giác đột ngột cho người lái.
Giờ đây người lính như giao hòa với thiên thiên, biểu hiện thái độ bình tĩnh, thản nhiên
trước những nguy hiểm của chiến tranh và niềm vui, lạc quan, yêu đời của những người
lính trẻ.
Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là
tinh thần lạc quan, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

118
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”
Cấu trúc: “không có kính, ừ thì”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại; dùng khẩu ngữ “ừ thì,
cười ha ha, phì phèo” khiến cho những câu thơ giản dị như lời nói thường, đồng thời cũng
diễn tả thái độ chấp nhận khó khăn, vất vả ấy là đương nhiên khi lái những chiếc xe không
kính. Cái tài của Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực
nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn
cảnh của người lính lái xe trong chiến tranh ác liệt. Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng
như người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo”, “mưa tuôn, mưa xối như
ngoài trời” là lẽ tất nhiên. Tác giả đã dùng bút pháp so sánh nhằm nhấn mạnh trước mọi
khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần bận tâm, lo lắng, các anh sẵn sàng
chấp nhận thử thách, gian lao. Với giọng điệu thản nhiên, ngang tàng, hóm hỉnh làm nổi
bật niềm vui, tiếng cười của người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy
của cuộc chiến đấu. Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của
người lính ngoài chiến trường trong những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ
trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời. Thật
đáng đáng tự hào biết bao!
Và trong cuộc chiến tranh gian lao, thử thách như thế này tình cảm đồng chí, đồng đội
luôn được đề cao và khẳng định:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua của kính vỡ rồi”
“Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong chiến trường, từ trong ác liệt trở về. “Những
chiếc xe không kính” được nhân hóa qua cụm từ “Họp thành tiểu đội” để nói những chiếc
xe này đã vượt qua bom đạn kẻ thù và bỗng tụ hội lại nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú
vị. Cái “bắt tay” chân thành qua cửa kính vỡ đã bộc lộ vẻ đẹp của tình đồng đội đơn sơ,
giản dị nhưng vô cùng sâu nặng. Cái bắt tay ấy như là sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau; là
lời động viên thầm lặng mà nồng hậu của người lính Trường Sơn. Đó còn là sự mừng vui,
là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến
thắng.
Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút
sinh hoạt của họ:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Câu thơ thứ nhất thật khoáng đạt, mạnh mẽ với cụm từ “dựng giữa trời”, một lần nữa cho
thấy sự hiên ngang, bất khuất của người lính. Tình đồng đội còn được thể hiện qua sự gắn
bó đầm ấm, thân thương “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”, đây là những giây phút
119
bình yên hiếm hoi trong cuộc đời người lính. Bữa cơm thời chiến vội vã đã xóa đi mọi
khoảng cách, giúp họ có cảm giác gần gũi, thân thương như ruột thịt. Với từ láy “chông
chênh” gợi ra con đường gập ghềnh, khó khăn ở phía trước, giấc ngủ của người lính không
được trọn vẹn mà luôn lắc lư theo nhịp chiếc xe. Điệp ngữ “lại đi” diễn tả nhịp bước hành
quân của người chiến sĩ lái đầy lạc quan, yêu đời. Nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh thêm” để
nói lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến; “trời xanh
thêm” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng.
Hai câu thơ cuối đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí chiến
đấu giải phòng miền Nam:
“Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Vẻ đẹp của người lính cách mạng được thể hiện qua câu “Xe vẫn chạy vì miền nam phía
trước” cho thấy ý chí quyết tâm của người lính, cũng là lời khẳng định về một ngày mai
chiến thắng. Biện pháp hoán dụ “trái tim” để chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm
xưa; cũng là ý chí, tâm huyết, sức lực mà người lính dành trọn cho đất nước. “Trái tim”
còn là một ẩn dụ cho tinh thần, trách nhiệm, cho ý chí chiến đấu. Có thể coi câu thơ cuối là
câu thơ hay nhất của bài vì chỉ cần có “một trái tim”, một trái tim yêu nước, một lòng khao
khát giải phóng miền Nam thì tất cả những thiếu thốn kia đâu có hề gì.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” còn được Phạm Tiến Duật sáng tạo trong cách
thể hiện để khẳng định tiếng nói cảm xúc của cái tôi cá nhân trong việc lựa chọn chi
tiết độc đáo, có tính chất phát hiện, hình ảnh đậm chất hiện thực. Sử dụng ngôn ngữ của
đời sống, tạo nhịp điệu linh hoạt thể hiện giọng điệu ngang tàng, tinh nghịch.
3. Kết bài:
Về đóng góp sáng tạo của Phạm Tiến Duật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” trên cơ sở kế thừa những nét đẹp truyền thống của hình tượng người lính trong
văn học, với quan niệm “chủ yếu đi tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của
cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đã đưa tất cả những chất liệu hiện thực của cuộc sống
chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến
Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
Như vậy, bản thân người nghệ sĩ phải dám sáng tạo, dẫu đôi khi sáng tạo là sự dấn
thân vào những cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm bởi đó là thiên chức cao quý của người
cầm bút. Sáng tạo trên cơ sở kế thừa và phát huy. Sự sáng tạo góp phần làm nên
gương mặt tinh thần riêng của mỗi nhà văn, diện mạo của nền văn học, thúc đẩy sự
phát triển của nghệ thuật. Bởi vậy ý kiến trên hoàn toàn đúng khi nói về “Bài thơ về
tiểu đội xe không kính”. Còn đối với mỗi người chúng ta, khi thưởng thức tác phẩm
của Phạm Tiến Duật cần biết trân trọng những sáng tạo nghệ thuật trong “Bài thơ về
tiểu đội xe không kính” của ông
……….…………………………………………………………….
Đề 40: Có ý kiến cho rằng: “Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là truyện thuộc
loại đọc thời nào cũng hay vì nó không phải là truyện của một thời mà là của muôn
thời - chuyện tình cảm, tình nghĩa của con người”.
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang
Sáng, em hãy làm rõ điều đó

120
1. Mở bài:
Tôi đã từng rơi nước mắt trước những tình cảm cha con thật cảm động và cao thượng.
Người cha, với biết bao gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng, với bao nhiêu công ơn lớn
lao mà mây trời lồng lộng cũng không phủ kín. Đừng bao giờ nghĩ rằng tình phụ tử không
thiêng liêng và cao cả, không ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử, nếu ai có những suy nghĩ
đó thì chắc chắn sẽ có một cách nhìn khác về tình cha con qua truyện ngắn “Chiếc lược
ngà”, được nhà văn Nguyễn Quang Sáng khắc họa thành công nhân vật bé Thu thật ấn
tượng và tinh tế, nổi bật hơn là tình cảm cha con hết sức sâu nặng, thiêng liêng và cao đẹp
dù là trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh khắc nghiệt. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng:
“Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là truyện thuộc loại đọc thời nào cũng hay
vì nó không phải là truyện của một thời mà là của muôn thời - chuyện tình cảm, tình
nghĩa của con người”.
2. Thân bài:
Lời nhận xét: “Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là truyện thuộc loại đọc
thời nào cũng hay vì nó không phải là truyện của một thời mà là của muôn thời -
chuyện tình cảm, tình nghĩa của con người” đã khái quát được cơ bản giá trị của
truyện ngắn “Đọc thời nào cũng hay”: có giá trị vượt thời gian và đây “Không phải
chuyện của một thời” - thời chiến “Mà là chuyện muôn thời” - cả thời chiến lẫn thời
bình. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ là câu chuyện đơn thuần viết về tình
cảnh éo le, những mất mát của con người trong chiến tranh. “Chiếc lược ngà” đã trở
thành câu chuyện muôn thời - chuyện tình cảm, tình nghĩa của con người vì nó là câu
chuyện cảm động về tình cha con cao đẹp, sâu nặng, tình đồng đội thắm thiết. Câu
chuyện đã khẳng định một chân lí vĩnh hằng: tình cảm gia đình, tình cha con, tình
mẫu tử là tình cảm thiêng liêng, sâu nặng nhất vượt lên trên trở ngại, thậm chí cả
chiến tranh….Thông điệp này mãi còn có giá trị muôn đời
“Chiếc lược ngà” là câu chuyện cảm động về tình cha con mà trước tiên là tình cảm
của bé Thu dành cho ba. Bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc
họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh. Bé Thu gây ấn
tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình
huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “ba”. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây
dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất
ngờ là sự nhất quán trong tính cách của em. Bé Thu là con gái đầu lòng cũng là đứa con
duy nhất của ông Sáu. Em sống thiếu vắng người cha từ khi chưa đầy một tuổi. Sau hơn
bảy năm xa cách, ba con mới được gặp lại thế nhưng dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là
bị dồn vào thế bí, dù là bị ông Sáu đánh nhưng bé Thu luôn bộc lộ là một con người kiên
quyết, mạnh mẽ. Chính thái độ ngang ngạnh đó là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con
dành cho người ba yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người
ba “chụp chung trong bức ảnh với má”. Người ba ấy không giống ông Sáu, không phải bởi
thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo - dấu tích của chiến tranh
đã làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu. Qua đó phần nào bộc lộ tính cách cứng cỏi, kiên
cường của cô giao liên giải phóng sau này.
Sự nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo
dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như

121
người lớn”. Bởi thế, ở đoạn cuối đến lúc ông Sáu phải đi, con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày
hôm nào lại như thể bị bỏ rơi “lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người
vây quanh ba nó”, dường như nó thèm khát sự ấm áp của tình cảm gia đình, nó cũng muốn
chạy lại và ôm hôn ba nó lắm chứ, nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ
đứng nguyên ở đấy, ước mong ba sẽ nhận ra sự có mặt của nó. Trước khi đi, ông Sáu
chào tạm biệt con, lúc này mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng, tình cha
con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay, giờ trỗi dậy. Nó không nén nổi tình cảm và bỗng
kêu thét lên: “Ba...a...a...ba!”. Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng, xé cả
ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu
năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó. Tiếng kêu “ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,
tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi mà
ba nó tha thiết được nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước, khao khát như muốn vỡ òa ra
trong một tiếng gọi “ba”. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang
một giá trị thiêng liêng với nó. Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của
một đứa con có ba. Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giàu tình cảm, có cá tính
mạnh mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây thơ – đó chính là bé Thu.
Còn ông Sáu - được giới thiệu là người lính chiến tranh, vì nhiệm vụ cao cả mà anh phải
tham gia chiến đấu, bỏ lại gia đình, quê hương và đặc biệt là đứa con yêu tha thiết. Sau bao
năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng là được gặp
con và nghe con gọi một tiếng ba. Bởi vậy, ông nôn nao muốn được gặp con, khi thuyền
chưa cập bến “ anh nhún chân nhảy thót lên”. Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh
một nỗi éo le là bé Thu không chịu nhận ông là ba. Trong ba ngày nghỉ phép ở nhà ông Sáu
muốn gần gũi để bù đắp cho con, nhưng bé vẫn lạnh lùng, bướng bỉnh. Chính điều ấy, đã
làm tổn thương những tình cảm da diết nhất trong lòng ông. Có thể coi việc bé Thu hất cái
trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những đau khổ mà bấy lâu nay ông dồn
nén, chứa chất trong lòng, chính vì thế ông đã đánh con. Nhưng khi bé Thu cất tiếng gọi
“Ba”, tiếng gọi muộn màng nhưng lại có ý nghĩa đẹp đẽ! Ai có thể ngờ được một người
lính dày dạn nơi chiến trường, quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước
con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất
vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của tình cha con thực sự!
“Không ghìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm
con, một tay rút khăn lau nước mắt”. Mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây
phút cha con từ biệt nhau: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”; nhưng đối với
ông Sáu thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất, cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông.
Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt hơn biết bao
khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con: “Ông ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng
tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc ”. Bụi ngà mỗi ngày rơi một nhiều làm người đồng đội
cũng cảm thấy vui cho ông. Trên sống lưng cây lược, ông đã tẩn mẩn khắc một dòng chữ
nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”, dòng chữ nhỏ mà chứa bao tình cảm lớn lao. Việc
làm chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa tâm trạng mong nhớ, ân hận vừa là cách gửi vào đó
những yêu thương khao khát cháy bỏng dành cho đứa con gái yêu của mình. “Chiếc lược
ngà” giờ đây đã trở thành một vật quí giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân
hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của của người cha

122
đối với đứa con xa cách. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân -
nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Ông gửi vào đó bao lời nhắn
nhủ thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi nhớ mong con. Làm được cây lược cho con, ông Sáu
mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc cho con. Nhưng rồi, một tình cảnh đau
thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị
một viên đạn bắn vào ngực và ông đã hi sinh. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức
trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực
cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người
bạn – là bác Ba và nhìn Bác một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì,
chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ thực
hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con. Tình cảm của ông sáu khiến ta thấy ấm lòng và
cảm động sâu sắc.
“Chiếc lược ngà” còn thể hiện tình cảm đồng đội chân thành sâu nặng của những
người lính trong chiến tranh thể hiện qua tình cảm giữa bác Ba và ông Sáu. Là người
bạn thân thiết của Anh Sáu, bác Ba không chỉ là người chứng kiến toàn bộ câu chuyện mà
còn luôn bày tỏ sự xúc động, đồng cảm, chia sẻ với cha con anh Sáu. Hoàn thành tâm
niệm của anh Sáu là trao lại cây lược cho Thu và tình cảm giống như tình cha con đã được
nảy nở giữa bác Ba với bé Thu.
Đó là những tình cảm cao đẹp, thiêng liêng của mọi thời nhưng đặt trong cảnh ngộ
éo le của chiến tranh, tình cảm ấy càng sáng ngời. Cảm hứng nhân văn sâu sắc đã tạo
nên sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm. Để diễn tả chuyện của muôn thời – chuyện tình
cảm, tình nghĩa con người, Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng tình huống truyện bất
ngờ, hợp lý, tâm lý nhân vật được thể hiện sâu sắc, chân thực và tự nhiên, ngôn ngữ
nhân vật đậm chất Nam Bộ.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một tác phẩm có giá trị muôn thời còn bởi từ khi
ra đời cho đến nay các thế hệ độc giả vẫn không thôi hành trình đồng hành với nhà
văn. Tác phẩm đã góp phần không nhỏ trong việc nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ và
đánh thức ở nhiều thế hệ học sinh những phẩm chất, tình cảm cao đẹp.
3. Kết bài:
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” thể hiện tình cha con cao đẹp, sâu nặng, tình đồng
đội thắm thiết của con người Việt Nam trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Tác
phẩm ra đời vào năm 1966, thời điểm cuộc chiến tranh chống Mĩ đang diễn ra ác liệt
có mất mát, đau đớn, yêu thương, nhưng toàn bộ câu chuyện thấm đẫm tình người
cao đẹp. Cảm hứng nhân văn sâu sắc của nhà văn đã tạo nên sức hấp dẫn riêng cho
tác phẩm. Người đọc không chỉ thấm thía những mất mát hi sinh lặng thầm của
người lính mà còn trân trọng những con người xông pha nơi trận mạc tâm hồn vẫn
chan chứa yêu thương. Câu chuyện hướng người đọc đến những tình cảm cao đẹp,
biết căm ghét chiến tranh, biết sống hết mình vì những gì tốt lành đang hiện hữu. Bởi
vậy, ý kiến “Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là truyện thuộc loại đọc thời
nào cũng hay vì nó không phải là truyện của một thời mà là của muôn thời - chuyện
tình cảm, tình nghĩa của con người” là hoàn toàn đúng.
.................................................................................

123
Đề 41: Có ý kiến cho rằng bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một bức trang tráng lệ,
cao cả và thiêng liêng về người chiến sĩ trong những năm đầu của người chiến sĩ trong
những năm đầu của cuộc kháng chiến chống pháp . Em hiểu điều đó như thế nào ? Hãy
phân tích để làm sáng tỏ.
1. Mở bài:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Dấu chân nát đá muôn tàn lửa bay”.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi mãi là hình ảnh
cao quý nhất, đẹp đẽ nhất. Hình tượng người lính đã đi vào lòng người và văn chương với
tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất, tiêu
biểu và thành công nhất viết về tình cảm của những người lính Cụ Hồ là “Đồng chí” của
Chính Hữu được ông sáng tác năm 1948. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng “Bài thơ Đồng chí
của Chính Hữu là một bức trang tráng lệ, cao cả và thiêng liêng về người chiến sĩ
trong những năm đầu của người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến
chống pháp”. Bằng những rung động mới mẻ và sâu lắng, bằng chính sự trải nghiệm của
người trong cuộc, qua bài thơ “Đồng chí” Chính Hữu đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí
gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
2. Thân bài:
Lời nhận định trên đã đánh giá chính xác sự thành công của bài thơ “Đồng chí ”.
Bởi lẽ, nói tới bức tượng đài tráng lệ là nói tới hình ảnh của một người nào đó được
khắc hoạ để bền vững với núi sông, trường tồn với thời gian. Còn nói tới sự tráng lệ
là nói tới vẻ đẹp rực rỡ, lộng lẫy.
Như vậy, lời nhận định trên đã khẳng định rằng, nhà thơ chính Hữu đã xây dựng
được hình ảnh người chiến sĩ hiện lên trong bài thơ với vẻ đẹp rực rỡ, cao cả, thiêng
liêng. Hình tượng nghệ thuật ấy được xây dựng bằng ngôn từ sống mãi với thời gian,
sống mãi trong tâm trí bạn đọc.
Trước hết chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp rực rỡ, cao cả, thiêng liêng của người
chiến sĩ là tình đồng chí xuất phát từ cở của sự hình thành tình đồng chí.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Với phép sóng đôi “quê anh - làng tôi”, tác giả cho thấy tình đồng chí, đồng đội bắt nguồn
từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính. Thành ngữ “nước mặn
đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lời kể chuyện, để nói họ
đều là những người lính nông dân áo vải ra đi từ những miền quê nghèo khó – miền biển
nước mặn, vùng đồi núi trung du. Đồng thời hai câu thơ còn gợi lên không khí cách mạng
của thời đại và cuộc đổi đời vĩ đại của giai cấp nông dân. Lần đầu tiên trong lịch sử họ
đứng lên làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mình.
Tình yêu quê hương, gia đình, nghĩa vụ công dân thúc giục họ lên đường chiến đấu. Bởi
thế nên từ những phương trời xa lạ:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

124
Họ còn chung nhau về lí tưởng cách mạng, về lòng yêu nước đã thôi thúc họ lên đường
nhập ngũ. Bởi vậy, từ sự xa lạ hoàn toàn những người lính đã trở nên gắn kết.
Trong môi trường quân đội, đơn vị thay cho mái ấm gia đình, tình đồng đội thay cho tình
máu thịt. Họ lại sát cánh bên nhau chiến đấu:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
“Súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu; “đầu” biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ.
Hình ảnh sóng đôi, các điệp từ “súng, đầu, bên” tạo nên âm điệu khoẻ, chắc nhấn mạnh sự
gắn kết cùng cùng chung nhiệm vụ, chung lý tưởng, chung chiến hào chiến đấu. Họ đồng
tâm, đồng lòng, cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương, giữ gìn nền
độc lập, tự do, sự sống còn của dân tộc – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Và họ lại
cùng sẻ chia mọi gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính: “Đêm rét chung chăn thành
đôi tri kỉ”, cái khó khăn thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải “chung
chăn”. Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành
niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành “đôi tri kỷ”.
Đến đây, nhà thơ hạ xuống một giọng thơ thật đặc biệt với hai tiếng: “Đồng chí!” câu thơ
ngắn, cùng với hình thức cảm thán thể hiện được cảm xúc dồn nén chân thành, mãnh liệt.
Hai tiếng “đồng chí” vang lên thật thiêng liêng, sâu lắng, nói lên một tình cảm lớn lao, mới
mẻ của thời đại.
Vẻ đẹp rực rỡ, cao cả, thiêng liêng của người chiến sĩ còn được thể hiện ở tình đồng
chí gắn bó với nhau trong cuộc sống gian lao:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Người chiến sĩ đã phải trải qua bao khó khăn, vất vả, bệnh tật của những cơn sốt rét rừng
hành hạ: người nóng sốt ướt cả mồ hôi mà vẫn cứ ớn lạnh đến run người. Với phép liệt kê “
áo rách, quần vá, chân không giày” ta thấy chân dung người lính trong kháng chiến chống
Pháp thật đơn sơ, bình dị, nghèo khổ, vất vả. Nhưng đẹp nhất là hình ảnh thơ “miệng cười
buốt giá”, trong cái giá rét lạnh thấu sương chỉ với manh áo mỏng, lại còn “ chân không
giày” nhưng người lính vẫn nở nụ cười thật tươi trước cuộc sống gian khổ, thiếu thốn. Điều
đó làm ta càng thêm chân trọng và yêu quý anh bộ đội Cụ Hồ.
Những người chiến sĩ ấy đã quên mình đi để động viên nhau, truyền cho nhau hơi ấm:
“ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Niềm yêu thương, sự gắn bó được thể hiện qua hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay”, đây là
một cử chỉ vô cùng cảm động, chứa chan tình cảm yêu thương, trìu mến chân thành. Nó
không phải là cái bắt tay thông thường mà là hai bàn tay tự tìm đến với nhau truyền cho
nhau hơi ấm để vượt qua buốt giá. Sẵn sàng chia sẻ với nhau nọi khó khăn, nó còn chứa
đựng bao khát khao được ở bên đồng đội thân yêu. Điều đó đã trở thành kỷ niệm không
bao giờ quên của những anh bộ đội Cụ Hồ.

125
Đặc biệt vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng của tình đồng chí còn được thể hiện thật lãng
mạn, thơ mộng khi họ sát cánh bên nhau trong chiến hào chờ giặc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Đêm đã về khuya, sương mối xuống dày đặc bao phủ cả không gian đất trời. Nhưng hình
ảnh những người lính thật hiên ngang - vẫn đứng cạnh bên nhau trong những giây phút
căng thẳng “chờ giặc tới”. Động từ “ chờ” gợi ra một tư thế sẵn sàng, tinh thần trách nhiệm
cao. Đây là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Tình đồng
chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả.
Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”. Đó là một hình ảnh thật mà
bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya, đồng thời nó
còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa. “Súng”
biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực chiến đấu khắc nghiệt, cho người chiến sĩ.
“Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp hòa bình, cho ảo mộng và lãng mạn, cho người thi sĩ. Hai
hình ảnh “súng” và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người
lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà lãng mạn. Hình ảnh ấy còn gợi vẻ đẹp của tình đồng
chí sáng trong, cho vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo, lãng mạn. Đồng thời còn gợi vẻ đẹp tâm hồn
dân tộc Việt Nam – một dân tộc mà bàn tay giữ chắc cây súng để bảo vệ những khát vọng
thanh bình. Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người
lính.
Đề tài dễ khô khan nhưng được Chính Hữu biểu hiện một cách cảm động, sâu lắng
nhờ biết khai thác chất thơ từ những cái bình dị của đời thường. Đây là một sự cách
tân so với thơ thời kì kháng chiến cống Pháp viết về người lính. Viết về bộ đội mà
không tiếng súng nhưng tình cảm của người lính, sự hi sinh của người lính vẫn cao
cả, hào hùng...
3. Kết bài:
Như vậy, ý kiến “Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu là một bức trang tráng lệ, cao cả
và thiêng liêng về người chiến sĩ trong những năm đầu của người chiến sĩ trong
những năm đầu của cuộc kháng chiến chống pháp” là hoàn toàn đúng. Bởi khi đọc
bài thơ “Đồng chí” trong mỗi chúng ta đều lắng lại những cảm xúc dạt dào. Chúng ta đã
cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời thơ nhẹ nhàng, tha thiết như bài
hát tâm tình của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi vẻ vang, trang sử
vàng đã qua bao nhiêu giai đoạn mới, thế nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ “Đồng chí” ta như
thấy rõ hình ảnh của anh bộ đội Cụ Hồ hiện lên sáng rực, thật cao đẹp, tráng lệ và thiêng
liêng trong những lời thơ của Chính Hữu.
............................................................................................................
Đề 42: Trong tác phẩm “Lòng yêu nước”, nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua có viết:
“Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở
trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua chát của trái lê mùa thu
hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh (...). Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào
dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu
miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.”

126
(Ngữ văn 6, Tập hai, trang 106 - 107).
Em hiểu như thế nào về điều nhà văn nói ở trên? Qua nhân vật ông Hai trong truyện
“Làng” của Kim Lân và nhân vật anh thanh niên trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn
Thành Long, em hãy làm sáng tỏ điều đó.
1. Mở bài:
I-li-a Ê-ren-bua là nhà văn lớn của Liên Xô, ở đoạn văn này, tác giả giải thích về ngọn
nguồn của lòng yêu nước. Nhận định của nhà văn được rút ra từ thực tiễn: “Lòng yêu
nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà,
yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua chát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ
thảo nguyên có hơi rượu mạnh (...). Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường
giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê
trở nên lòng yêu Tổ quốc.” Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường
nhất. Còn đối với các nhà văn nước ta cũng thể hiện rất rõ lòng yêu nước qua nhân vật ông
Hai trong truyện “Làng” của Kim Lân và anh thanh niên trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của
Nguyễn Thành Long.
2. Thân bài:
Yêu nước là một khái niệm trừu tượng nhưng đã được nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-
bua diễn tả bằng những hình ảnh hết sức cụ thể và sinh động. Yêu nước bắt đầu từ
những tình cảm chân thực, bắt đầu từ tình yêu những vật “tầm thường”, cụ thể, gần
gũi và gắn bó sâu sắc với con người: “yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ
đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua chát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có
hơi rượu mạnh”. Lòng yêu nước được diễn tả vừa cụ thể, vừa đa dạng. Lòng yêu nhà,
yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
Trước tiên là lòng yêu nước được thể hiện qua nhân vật ông Hai trong truyện
“Làng”. Trước hết, điều mà người đọc cảm nhận được ở nhân vật ông Hai đó là tình yêu
làng da diết. Tình yêu làng của ông được thể hiện ở cái tính hay khoe về làng của mình.
Trước cách mạng tháng tám, khi nhắc đến làng ông Hai nói một cách say sưa mà không
cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông khoe làng mình có nhà ngói san sát, sầm uất.
Không những thế ông còn lấy làm hãnh diện về “con đường làng trải toàn đá xanh. Trời
mưa, trời gió bùn không dính đến gót chân”. Ông còn tự hào, vinh dự vì làng mình có cái
nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Biết bao tình cảm đã gắn bó với cảnh vật, với con người nơi
mảnh đất yêu dấu ấy. Thế nhưng từ sau cách mạng tháng tám trở đi, khi khoe làng, ông chỉ
nhắc đến cái chòi thông tin cao ráo; những ngày cùng anh em, đồng chí “đào đường, đắp ụ,
xẻ hào, khuân đá”…. Rõ ràng trong ông đã có sự thay đổi lớn về nhận thức. Trước đây ông
chỉ chú trọng những thứ hào nhoáng, xa hoa, bóng bẩy bên ngoài. Giờ đây ông cảm thấy
vui, tự hào vì những điều đơn giản nhưng có lợi ích cho làng, cho nước. Chỉ qua những chi
tiết nhỏ bé đó thôi, ta cũng đủ thấy rõ tình yêu làng da diết, mãnh liệt, sâu sắc mà ông đã
đặt trọn niềm tin dành cho làng.
Nhưng chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng -
xa làng ông mang theo tất cả nỗi niền thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day
dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của
làng. Tự hào và yêu nơi “ chôn nhau cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm
lý chung của mọi người nông dân thời bấy giờ. Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt

127
ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng Chợ Dầu, về kháng chiến. Hôm nay, ở phòng
thông tin ông nghe được rất nhiều tin chiến thắng từ trẻ con đến những người phụ nữ, điều
này “làm ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”
Những tưởng sẽ không bao giờ có điều gì có thể làm lung lay tình yêu của ông dành cho
làng, thế nhưng một tình huống hết sức éo le, trớ trêu lại ập đến với ông. Đó là khi ông hay
tin “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”, tin từ một người đàn bà đi tản cư. Đây thật sự là
một cú sốc tinh thần quá lớn đối với ông Hai, nó chẳng những làm mất hết niềm tin, sụp đổ
niềm tự hào về làng của ông mà còn khiến ông tủi khổ, nhục nhã vì đã khoe bao điều hay
về nó. Vừa nghe tin sét đánh ấy “ cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”,
ông lặng đi tưởng chừng như đến không thở được; ông đang ở trong một trạng thái bất ngờ,
đột ngột và vô cùng xấu hổ. Vừa về đến nhà, ông nằm vật ra giường “nước mắt cứ giàn
ra”, ông tức giận nguyền rủa bọn theo Tây. Ông kiểm điểm từng người trụ tại làng, họ toàn
là những người có tinh thần cách mạng cả mà. Nhưng thằng Chánh Bệu thì đích thị là
người làng ông rồi khiến tâm trạng ông rối bời, phân vân, nửa tin nửa ngờ. Qua đây, tác giả
đã thể hiện rõ thái độ, tâm trạng đau đớn, tức giận của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu
theo giặc bằng bút pháp miêu tả.
Cũng chính từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe
ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo không cho gia đình ông ở nữa. Ông thấy tuyệt
đường sinh sống và nảy ra ý định: “Hay là quay về làng ?” điều khổ tâm, day dứt ấy chứng
tỏ tận sâu thẳm trong tim ông làng vẫn thiêng liêng, tình cảm ông dành cho làng vẫn
nguyên vẹn. Thật khiến cho người đọc cảm thấy tội nghiệp, xót xa thay cho nỗi lòng của
ông Hai. Nhưng có vẻ như qua sự thử thách trên, ta mới dần nhận thấy tình yêu của ông
không chỉ dừng ở góc độ làng xóm mà được nâng dần lên thành tình yêu nước. Đúng như
I-li-a.Ê-ren-bua đã từng nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu
Tổ quốc”. Điều đó được khẳng định qua câu nói chắc nịch của ông “làng thì yêu thật
nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đối với một người yêu làng da diết như ông để
có thể đi đến quyết định ông đã phải đau đớn, dằn vặt bản thân rất khổ sở. Với ông, làng là
máu thịt là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi ông bà tổ tiên bao đời đã làm ăn sinh sống. Vì vậy
làng có một ý nghĩa rất thiêng liêng, quyết định không quay về làng nữa cho thấy sự kiên
quyết trong cách nghĩ và cách sống của ông Hai. Nỗi đau ấy, ông Hai không biết bày tỏ
cùng ai, chỉ thủ thỉ cùng đứa con trai “ nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ!”.
Những lời tâm sự ấy thực chất là để tự nhủ chính mình, khẳng định lập trường, luôn vững
tin vào cách mạng, vào Cụ Hồ, mặc dù ông đang phải sống trong hoàn cảnh tủi nhục như
thế. Đến đây, tác giả đã đặt nhân vật vào một tình huống gay gắt để bộc lộ sâu sắc lòng yêu
làng, yêu nước của ông Hai.
Trong nỗi tuyệt vọng, bế tắc ông chủ tịch xã đã lên tận khu tản cư cải chính rằng: làng
ông không theo giặc. Giờ đây mọi nỗi lo âu, xấu hổ tan biến thay vào đó là tâm trạng vui
mừng, sung sướng: “ Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng vui tươi rạng rỡ hẳn lên”, sự cải
chính tin đồn đó thật quan trọng, đúng lúc, nó xoá đi sự tuyệt vọng trong lòng người dân
Chợ Dầu, đem lại niềm vui sướng cho ông Hai. Sau đó ông Hai đi từ đầu làng đến cuối
xóm khoe cái tin làng mình không theo giặc, khoe cả việc nhà mình bị đốt cháy một cách
hả hê, sung sướng: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới
lên đây cải chính…”, “Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”. Qua lời kheo của ông

128
Hai, điều làm ta cảm động đó là ông không hề tiếc hay buồn khi ngôi nhà của mình bị đốt
cháy. Niềm vui vì làng không theo giặc đã choáng ngợp hết tâm trí của ông. Đây chính là
nét đẹp trong tâm hồn và tính cách của ông Hai. Tình cảm đặc biệt của ông Hai cũng là
tình cảm chung của nhân dân ta lúc bấy giờ, họ sẵn sàng hi sinh tất cả tài sản, tính mạng
cho cách mạng, cho Tổ quốc.
Lòng yêu làng, yêu kháng chiến, niềm tin vào Đảng, Bác Hồ, lòng yêu nước của ông
Hai mộc mạc, hồn nhiên mà rất sâu sắc, điển hình cho bao tâm hồn người nông dân
Việt Nam trước cách mạng.
Lòng yêu nước được thể hiện qua nhân vật anh thanh niên trong truyện “Lặng lẽ
Sa Pa”. Nói về hoàn cảnh sống và công việc của anh. Theo lời bác lái xe thì anh là người
“cô độc nhất thế gian”, công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn
động mặt đất….” rồi ghi chép lại và báo về trung tâm, dự vào việc báo trước thời tiết hằng
ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Chỉ quanh quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn
thôi nhưng lại quan trọng vô cùng, ấy thế nên anh đã sống hết mình vì nó. Vẻ đẹp nơi anh
bắt đầu từ chính công việc mà anh đã chọn – là con đường lao động. Qua đó, anh có thể
hoàn thành nghĩa vụ và ước mơ cống hiến cho Tổ quốc của mình. Anh lựa chọn cho mình
làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, dù công việc này có lắm khó khăn, đòi hỏi tính
tỉ mỉ chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao nhưng anh lại tìm thấy niềm vui ở nó “ khi
ta làm việc ta với công việc là đôi”. Đẹp nhất ở anh là tư tưởng sống “không chỉ cho bản
thân mà là cho đất nước, cho dân tộc”, chính lí tưởng đó đã hướng anh đi theo con đường
lao động đúng đắn và có ích. Anh cũng như bao người bình thường khác, trong suy nghĩ
cũng từng có những ngại ngần và tâm lí sợ sự cô đơn trước con đường đời đã chọn. Nhưng
tuổi trẻ và lí tưởng cao đẹp nơi anh đã lấp đầy khoảng trống ấy bằng tấm lòng yêu nghề, sự
say mê lao động của mình: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn
đến chết mất”. Từ trải nghiệm về công việc, anh yên tâm đón nhận con đường mình đang
tiến tới bằng lý tưởng cao đẹp về công việc lao động của mình. Trong môi trường sống và
lao động khắc nghiệt của thời tiết núi rừng Sa Pa “Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở
bên ngoài chỉ trực đợi mình ra là ào ào xô tới”; ngay cả những khổ cực khi phải thức dậy
vào lúc “bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối lại một giờ sáng”…Thế nhưng anh vẫn vượt
qua và hoàn thành tốt công việc của mình. Phải nói anh thanh niên ấy là một con người say
mê công việc, biết vươn lên những khó khăn, tự giác hoàn thành nhiệm vụ và đã rèn luyện
cho mình một trái tim thấm đượm lòng yêu nghề. Chính anh đã đánh thức niềm say mê lao
động, say mê cống hiến nơi người họa sĩ già để đem lại nguồn cảm hứng dạt dào trong tâm
hồn con người ấy.
Anh yêu nghề, ý thức được công việc thầm nặng của mình có mối quan hệ sâu sắc
tới đời sống nói chung: các em nhỏ tới trường, người nông dân trên cánh đồng, người
lính trên đường hành quân. Anh nhận thấy công việc của mình có ích cho cuộc sống,
cho mọi người, cho kháng chiến: một lần do phát hiện kịp thời một đám mây khô mà
anh góp phần vào chiến thắng của không quân ta bắn rơi máy bay Mĩ trên bầu trời
Hàm Rồng, anh thấy mình “thật hạnh phúc”.
Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn
nắp: “Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”.
Cuộc sống riêng của anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc

129
bàn học, một giá sách”. Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống
của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần. Cuộc sống của anh không cô đơn,
buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò
chuyện, để thanh lọc tâm hồn. Sách là nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài.
Cảnh sống của anh như một người đang sống và làm việc giữa xã hội chứ không phải mình
anh, đúng là một cách sống đẹp đẽ mọi người nhìn thấy cái đẹp bắt đầu từ tâm hồn.
Hình ảnh người thanh niên giữa cái lặng lẽ của Sa Pa tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt
Nam trong những năm đầu miền Bắc vừa sản xuất vừa chống chiến tranh phá hoại
của Mĩ: những con người sống và làm việc trong cái lặng lẽ mà không hề cô độc bởi
sự gắn bó với quê hương đất nước, với mọi người, đó chính bởi họ có lòng yêu công
việc, yêu người, yêu quê hương đất nước.
3. Kết bài:
Tóm lại đến với “Làng” của Kim Lân, ta thấy rõ được tình yêu làng, yêu nước, hòa
quyện trong tâm hồn người nông dân mộc mạc, chất phác thật đẹp biết bao. “Làng” của
Kim Lân là một khúc ca về tình yêu quê hương đất nước mà ông Hai là nhân vật điển hình.
Còn qua “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long ta bắt gặp anh thanh niên là hiện thân
cho vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng để cống hiến
cho quê hương, đất nước. Qua đó bộc lộ được những tình cảm cao đẹp của con người Việt
Nam đối với quê hương, đất nước. Nhận định về lòng yêu nước của nhà văn Nga I-li-a
Ê-ren-bua thật sâu sắc và có ý nghĩa giáo dục cao đối với mọi người, đặc biệt là thế hệ
trẻ đã và đang đóng góp trí lực của mình trong sự nghiệp bảo vệ, dựng xây đất nước
thời kì đổi mới.
............................................................................................................
Đề 43: Trình bày cảm nhận của em về hai câu thơ sau
a. Miệng cười buốt giá.
(Chính Hữu)
b. Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
(Phạm Tiến Duật)
Đến với hai câu thơ “Miệng cười buốt giá” của chính Hữu và “Nhìn nhau mặt lấm cười
ha ha” của Phạm Tiến Duật ta thấy điểm giống nhau giữa chúng: Đều cùng miêu tả âm
vang tiếng cười của người chiến sĩ. Ý nghĩa tiếng cười biểu hiện niềm lạc quan vượt mọi
khó khăn nguy hiểm, là nét đẹp phẩm chất của người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến.
Còn điểm khác nhau: Trong câu thơ “Miệng cười buốt giá” của Chính Hữu, ta thấy từ
“buốt giá” gợi cho người đọc cảm nhận được thời tiết khắc nghiệt, tiếng cười của người
chiến sĩ đã sưởi ấm không gian, thể hiện tình đồng chí đồng đội gắn bó. Trong câu thơ
“Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” của Phạm Tiến Duật, ta thấy “cười ha ha” là tiếng cười to,
sảng khoái, trẻ trung, lấy khó khăn vất vả “mặt lấm” để vui đùa. Đây là nét riêng trong thơ
Phạm Tiến Duật
Cả hai nhà thơ đã tạo nên được nét trẻ trung sôi nổi lạc quan yêu đời của người chiến sĩ
qua tiếng cười, đó chính là sức mạnh làm nên chiến thắng.
.....................................................................................................
Đề 44: Nhận xét về văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, có ý kiến
viết:

130
Văn học của ta đã xây dựng và thể hiện sinh động hình ảnh của thế hệ trẻ “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước” với ý thức ngày càng sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ
trước dân tộc và nhân dân, trước Tổ quốc và lịch sử.
Qua một số tác phẩm đã học, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
1. Mở bài:
Yêu biết mấy hình ảnh người thanh niên thời kỳ chống Mỹ: cần cù trong lao động, anh
hùng trong chiến đấu. Văn thơ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ đã dựng lại cả một thời kỳ
máu lửa, đi sâu tìm tòi khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của thế hệ thanh niên trong chiến đấu
cũng như trong lao động. Tôi nhớ mãi hình ảnh những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn hiên
ngang, dũng cảm trong “Bài thơ tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật; Phương
Định trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê; anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa
Pa” của Nguyễn Thành Long. Họ là hiện thân của vẻ đẹp con người Việt Nam, của sức
sống dân tộc. Năm tháng trôi đi và lịch sử đã bước sang trang mới nhưng những con người
ấy vẫn sáng ngời lên nhắc nhở ta về một quãng đường đầy gian khổ, đau thương, lại rất đỗi
anh hùng mà đất nước mình đã đi qua. Để rồi mỗi lần đọc lại tôi không khỏi ngỡ ngàng vì
người dân mình đẹp quá, dũng cảm; và lòng tôi được như sống lại những ngày còn chiến
tranh bom đạn ấy. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: Văn học của ta đã xây dựng và thể hiện
sinh động hình ảnh của thế hệ trẻ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” với ý thức ngày
càng sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ trước dân tộc và nhân dân, trước Tổ quốc và
lịch sử.
2. Thân bài:
Nhắc đến hoàn cảnh lịch sử: Hai mươi năm dân tộc Việt Nam tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nước. Đó là cuộc chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt và hi sinh. Hình ảnh
trung tâm của thời đại, niềm tự hào của dân tộc và cũng là hình ảnh trung tâm của văn học
kháng chiến chống Mĩ đó là hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam - thế hệ đóng góp lớn công sức
và xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và dựng xây đất nước:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Bởi vậy văn học giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhiều tác phẩm thơ ca
cũng như văn xuôi của các tác giả đã khắc họa sinh động hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam
trong kháng chiến chống Mĩ: Họ là những người lính lái xe Trường Sơn; những cô gái
thanh niên xung phong trên chiến trường; những con người ngày đêm miệt mài lao động
cống hiến cho đất nước...Họ đều là những thanh niên sống có lý tưởng cao đẹp, họ nguyện
đem sức trẻ, tinh thần, trí tuệ…cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy
nhiệm vụ khác nhau nhưng họ cùng chung mục đích, lý tưởng là bảo vệ và xây dựng đất
nước nên ở họ đều tỏa sáng những phẩm chất cao đẹp tuyệt vời.
Đó là lớp thanh niên trẻ có lý tưởng cách mạng cao đẹp, có hoài bão ước mơ, sẵn
sàng cống hiến sức trẻ cho đất nước. Lý tưởng cao đẹp của những người lính lái xe
Trường Sơn: Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)

131
Nhân vật anh thanh niên dù tuổi đời còn rất trẻ nhưng anh đã ý thức được một cách sâu
sắc về trách nhiệm của mình (một công dân) đối với quê hương đất nước, mà cao hơn là lý
tưởng sống, lý tưởng cách mạng: “ Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm
việc?”
(Lặng lẽ Sa Pa)
Họ là những con người dũng cảm, gan dạ, đầy tinh thần trách nhiệm, coi thường
hiểm nguy, vượt qua mọi gian khổ sẵn sàng hi sinh để hoàn thành nhiệm vụ. Những
người lính lái xe Trường Sơn với tinh thần dũng cảm và ý chí kiên cường vì sự nghiệp giải
phóng đất nước đã giúp họ vượt qua sự nguy hiểm của bom đạn, sự ác liệt trên tuyến
đường Trường Sơn thời chống Mĩ:
“ Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi…”
Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là
tinh thần lạc quan, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo


Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”
Anh thanh niên với lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm đã giúp anh vượt qua nỗi cô
đơn, vượt qua mọi gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ: “ Cháu ở đây có nhiệm vụ đo nắng,
đo mưa….xong việc trở vào là không thể nào ngủ lại được”.
Ở họ có tình đồng chí, đồng đội gắn bó thân thiết, sẵn sàng chia sẻ với nhau trong
cuộc sống thiếu thốn, gian khổ và hiểm nguy. Những người lính lái xe Trường Sơn từ sự
cùng chung nhiệm vụ, lý tưởng họ đã trở thành đồng đội của nhau, sẻ chia với nhau những
gian khổ ở chiến trường, tình đồng đội đã tiếp thêm cho họ sức mạnh để vượt qua bom đạn
hiểm nguy:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua của kính vỡ rồi”
“Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong chiến trường, từ trong ác liệt trở về. “Những
chiếc xe không kính” được nhân hóa qua cụm từ “Họp thành tiểu đội” để nói những chiếc
xe này đã vượt qua bom đạn kẻ thù và bỗng tụ hội lại nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú
vị. Cái “bắt tay” chân thành qua cửa kính vỡ đã bộc lộ vẻ đẹp của tình đồng đội đơn sơ,
giản dị nhưng vô cùng sâu nặng. Cái bắt tay ấy như là sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau; là
lời động viên thầm lặng mà nồng hậu của người lính Trường Sơn. Đó còn là sự mừng vui,
là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến
thắng. Có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”: “Thương nhau tay

132
nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ
ca trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút
sinh hoạt của họ:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Câu thơ thứ nhất thật khoáng đạt, mạnh mẽ với cụm từ “dựng giữa trời”, một lần nữa cho
thấy sự hiên ngang, bất khuất của người lính. Tình đồng đội còn được thể hiện qua sự gắn
bó đầm ấm, thân thương “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”, đây là những giây phút
bình yên hiếm hoi trong cuộc đời người lính. Bữa cơm thời chiến vội vã đã xóa đi mọi
khoảng cách, giúp họ có cảm giác gần gũi, thân thương như ruột thịt. Với từ láy “chông
chênh” gợi ra con đường gập ghềnh, khó khăn ở phía trước, giấc ngủ của người lính không
được trọn vẹn mà luôn lắc lư theo nhịp chiếc xe. Điệp ngữ “lại đi” diễn tả nhịp bước hành
quân của người chiến sĩ lái đầy lạc quan, yêu đời. Nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh thêm” để
nói lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến; “trời xanh
thêm” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng.
Anh thanh niên có thể vượt qua nỗi cô đơn, vượt qua mọi sự gian khổ để hoàn thành
nhiệm vụ là vì anh luôn suy nghĩ anh không cô đơn mà luôn có đồng đội tiếp sức cho anh:
“ Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia”.Vì
đồng đội mà anh luôn cố gắng trong công việc bởi anh luôn thấy những đóng góp của mình
cho đất nước còn quá nhỏ bé so với họ (anh bạn trên đỉnh Phan-xi-păng, anh cán bộ nghiên
cứu bản đồ sét, ông kĩ sư vườn rau Sa Pa).
Giữa những khó khăn ác liệt của cuộc sống họ vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan, sự
trẻ trung, lãng mạn của tuổi trẻ. Sự trẻ trung, ngang tàng, sôi nổi đậm chất lính của
những chiến sĩ lái xe Trường Sơn giữa chiến trường ác liệt. Thái độ bất chấp những gian
khổ hiểm nguy:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng”
Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” gợi lên sự điềm tĩnh, bình thản, lạc quan, yêu
đời của những người lính lái xe; họ vẫn tiếp tục công việc của mình dù cho xung quanh có
xảy ra những điều dữ dội, đau thương, mất mát. Điệp từ “nhìn” kết hợp với thủ pháp liệt
kê “đất, trời, thẳng” để nói lên những người lính không hề né tránh hiện thực gian khổ, hy
sinh; họ sẵn sàng đối mặt với gian nan, thử thách – một bản lĩnh vô cùng vững vàng.
Anh thanh niên, qua những lời anh tâm sự với ông họa sĩ và cô kĩ sư về cuộc sống một
mình của anh, về công việc của anh ta thấy được ý chí nghị lực phi thường ở anh “ …Nếu
là nỗi nhớ phồn hoa đô hội thì xoàng…”. Không chỉ vậy, ngoài giờ làm việc còn trồng hoa,
nuôi gà và đặc biệt là dành thời gian để đọc sách mở mang hiểu biết.
Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ hiện lên chân thực, sinh
động trên các trang văn của các tác giả đã có sức thuyết phục với người đọc. Hình
ảnh ấy không chỉ cho thấy tài năng của các tác giả mà còn cho chúng ta thấy sự am
hiểu, trải nghiệm cuộc sống trong những năm kháng chiến ác liệtcủa các nhà văn, nhà

133
thơ. Qua đó, chúng ta có thể hiểu thêm về lịch sử dân tộc, thêm tự hào và tiếp bước
truyền thống các thế hệ cha anh.
3. Kết bài
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính ” của Phạm Tiến Duật; “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn
Thành Long là những tượng đài lộng lẫy về vẻ đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ, thử thách mà rất đỗi anh hùng. Hai
nhân vật trong hai tác phẩm tuy có những khía cạnh khác nhau của đời sống thời kì chống
Mỹ về khung cảnh, hoàn cảnh và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc đáo, riêng biệt
nhưng đều góp phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói khám phá ngợi ca vẻ đẹp
của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Phạm Tiến Duật
và Nguyễn thành Long là những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu vĩ đại của
dân tộc, họ thấu hiểu và trân trọng những phẩm chất của con người Việt Nam. Hình ảnh
những con người một lòng “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” mãi mãi khắc tạc vào lịch sử,
trở thành tấm gương sáng ngời về ý chí, lý tưởng sống và đức hi sinh cho mọi thế hệ mai
sau noi theo.
............................................................................................................
Đề 45: Nhà thơ Pháp Andre Chanien từng nói: “Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái
tim mới làm nên thi sĩ”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua “Mùa xuân nho nhỏ” của
nhà thơ Thanh Hải, Ngữ văn 9, tập hai, NXB Giáo dục, 2004.
1. Mở bài:
Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Thơ thường chú trọng đến cái đẹp, đến
hình thức thể hiện mang dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo. Bởi thế không tự nhiên mà
người xưa cho rằng “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc”. Tuy nhiên, thơ trước hết là
cuộc đời, sau mới là nghệ thuật. Một bài thơ hay không chỉ có hình thức nghệ thuật đặc sắc
mà quan trọng, phải là những tình cảm, những rung cảm mãnh liệt, chân thành của người
nghệ sĩ. Bởi vậy, nhà thơ Pháp Andre Chanien từng nói: “Nghệ thuật chỉ làm nên câu
thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ”. Đến với bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” ta thấy được sự
thành công cả về nghệ thuật lẫn tiếng lòng yêu mến và gắn bó thiết tha với đất nước, với
cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ muốn được cống hiến, đóng góp một
mùa xuân nho nhỏ vào mùa xuân lớn lao của dân tộc.
2. Thân bài:
Trước hết ta phải hiểu nghệ thuật là những đặc sắc về hình thức (ngôn ngữ, hình ảnh,
giọng điệu...). Còn trái tim là thế giới của đời sống tâm hồn, tình cảm, tâm nguyện... với
những rung động thẩm mĩ nhạy cảm thể hiện thiên chức của người nghệ sĩ.
Để có những bài thơ hay đòi hỏi người nghệ sĩ vừa phải có tài, vừa phải có tâm. Đây là ý
kiến nhằm khẳng định, đề cao thiên chức của nhà văn và quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Những đặc sắc về nghệ thuật trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải chính là
thể thơ năm tiếng nhẹ nhàng, tha thiết, mang âm hưởng gần gũi với dân ca. Kết hợp hài
hòa giữa những hình ảnh thơ tự nhiên, giản dị với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng,
khái quát. Sử dụng ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc với các
ẩn dụ, điệp từ, diệp ngữ, sử dụng từ xưng hô...

134
“Trái tim” của thi sĩ Thanh Hải thì sao? Phải chăng là tiếng lòng tha thiết yêu mến và
gắn bó với thiên nhiên, đất nước, với cuộc đời; ước nguyện chân thành được cống hiến,
được góp một “Mùa xuân nho nhỏ” vào mùa xuân lớn của dân tộc mặc dù ông đang phải
sống trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời trên giường bệnh. Bởi vậy, ngay m ở
đầu bài thơ là đôi nét phác họa về bức tranh của mùa xuân thiên nhiên xứ Huế đẹp vô
cùng:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Ngay hai câu thơ đầu ta đã bắt gặp phép đảo ngữ với động từ “mọc” được đưa lên đầu
câu để khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy, vươn lên của bông hoa tím trên mặt nước
xanh của dòng sông xuân; gợi cho ta cảm giác bông hoa kia tràn đầy sức xuân và sắc xuân.
Không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn hơn với hình ảnh “dòng sông xanh” chảy hiền hoà.
Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu
xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào. Nổi bật trên nền xanh lơ của
dòng sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được
với sắc màu tím của xứ Huế thân thương - vốn là nét đặc trưng của những cô gái đất kinh
kỳ với sông Hương, núi Ngự. Bức tranh không chỉ có họa mà còn có nhạc bởi tiếng chim
chiền chiện cất lên với muôn vàn lời ca, tiếng hót reo mừng:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Với từ cảm thán “ơi” được đặt ở đầu dòng thơ đã gói trọn niềm cảm xúc dạt dào trong
lòng nhà thơ, bộc lộ niềm vui, xôn xao của một trái tim yêu thiên nhiên trước mùa xuân
tươi đẹp. Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang
trời”; thứ âm thanh ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng đạt, làm sống dậy,
vực dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối mặt với những bóng đen u ám của bệnh
tật. Dòng sông êm trôi, bông hoa lững lờ, tiếng chim rộn rã… bức tranh mùa xuân xứ Huế
bao giờ cũng đẹp nhẹ nhàng, bình dị và mơ mộng như thế!
Trước cảm xúc dạt dào ấy nhà lặng ngắm, lặng nghe mùa xuân bằng cả trái tim xao động,
bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Chi tiết tạo hình “ giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị: nó có
thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng
rọi sáng bên thềm, có thể là giọt mưa xuân đang rơi…Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì
có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui rơi
xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân. Nghệ thuật ẩn
dụ chuyển đổi cảm giác nó đâu chỉ được cảm nhận bằng thính giác ( hót vang trời) mà còn
được cảm nhận bằng thị giác (gọt long lanh) và xúc giác (đưa tay tôi hứng) để giờ đây âm
thanh của tiếng chim đã đọng lại thành hình khối, đang long lanh rực rỡ dưới ánh hồng của
mùa xuân. Đại từ “tôi” được lặp lại hai lần tạo ra phép điệp từ đi liền với hành động
“hứng” đã thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng và tấm lòng đang rạo rực tình xuân của
Thanh Hải. Hai câu thơ này đã bộc lộ được niềm say sưa, ngây ngất của tác trước vẻ đẹp
của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân.

135
Từ vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên nhà thơ nghĩ về mùa xuân của đất nước, nghĩ về con
người:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Mở đầu khổ thơ ta bắt gặp điệp từ “mùa xuân” và “lộc” đã gợi lên quang cảnh mùa xuân
tươi mới đầy trồi non, lộc biếc; đồng thời còn nói đến những thành quả trong công việc bảo
vệ và xây dựng đất nước. Tác giả đã sáng tạo hình ảnh sóng đôi: “người cầm súng”, “người
ra đồng” để biểu trưng cho hai nhiệm vụ quan trọng của dân tộc ta đó là chiến đấu và xây
dựng đất nước. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong
cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và ác liệt. Đối với người nông dân “một nắng
hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, màu mỡ,
xanh tươi, báo hiệu một mùa bội thu. Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” còn là hình ảnh ẩn dụ
tượng trưng cho tương lai, thành quả cách mạng, sức sống mãnh liệt của mùa xuân.
Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát: cả dân tộc bước vào mùa xuân
với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
“Hối hả” nghĩa là vội vả, gấp gáp, khẩn trương của những con người Việt Nam trong
giai đoạn mới. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh xen lẫn vào nhau đồng thời cũng bộc lộ
tâm trạng náo nức, rộn ràng. Các từ láy cùng điệp ngữ “tất cả” làm cho câu thơ vang lên
nhịp điệu vui tươi, mạnh mẽ khác thường. Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân
nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả mang lại
nhịp sống sôi động, tưng bừng trong mùa xuân tươi đẹp của đất nước.
Tác giả thể hiện niềm tin tưởng vào thành công của sự nghiệp cách mạng và gợi nhắc đến
truyền thống lịch sử của dân tộc:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Đất nước được nhân hóa qua từ “vất vả, gian lao” để nói Tổ quốc như một người mẹ tần
tảo, vất vả, gian lao đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn
ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của
những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Đặc biệt, phép tu từ so sánh
được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc: “Đất nước như vì sao”, để ngợi ca đất nước trường
tồn, tráng lệ, đất nước đang hướng về một tương lai tươi sáng. Điệp ngữ “đất nước” được
nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn toả
sáng, đi lên không gì có thể ngăn cản được.
Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và
dạt dào một khát vọng hiến dâng:
“ Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa

136
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Sử dụng điệp từ “ta” và bút pháp liệt kê để thể hiện ước nguyện chân thành, thiết tha:
được làm một tiếng chim hót thánh thót góp phần làm cho mùa xuân quê hương thêm rạo
rực, sống động; Thanh Hải nguyện làm một cành hoa để tô điểm thêm hương sắc cho mùa
xuân quê hương đất nước; ông không mơ làm một nốt nhạc bổng cao vút trong bản hòa ca
của dân tộc mà chỉ khiêm nhường làm một nốt trầm xao xuyến lòng người, nốt trầm ấy có
thể là nốt nhạc phụ nhưng không thể thiếu bởi nó là yếu tố góp phần làm nên sự thành công
của bản hòa ca. Với lớp nghĩa ẩn dụ tượng trưng “con chim hót”, “một cành hoa”, “ nốt
trần xao xuyến” nó gợi liên tưởng đến mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con
người và đất nước Việt Nam. Cái “tôi”của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyển hoá
thành cái “ta” đã nhằm nhấn mạnh ước muốn không chỉ của riêng nhà thơ mà là ước
nguyện chung của mọi người
Đến khổ thơ tiếp theo Thanh Hải thể hiện rõ hơn khát vọng cống hiến của mình ở
những vần thơ sâu lắng:
“ Một mùa xuân nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
“Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc đời đáng yêu, một khát
vọng sống cao đẹp. Mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy đem tất cả những gì tốt đẹp,
tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước. Cặp từ láy
“nho nhỏ”, “lặng lẽ” kết hợp với đảo ngữ “lặng lẽ dâng” cho thấy một thái độ chân thành,
khiêm nhường, không khoe khoang mà chỉ lặng lẽ, âm thầm dâng hiến. Lời ước nguyện
thật thuỷ chung, son sắt được diễn tả qua hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi” chỉ tuổi trẻ và
“khi tóc bạc” để nói khi về già. Điều này đã khẳng định cả đời người phải giữ trọn lẽ sống
có ích, có ý nghĩa, cống hiến suốt cuộc đời cho Tổ quốc, cho nhân dân. Điệp ngữ “dù là”
nhắc lại hai lần làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết sâu lắng càng khắc sâu ước
nguyện chân thành, bền bỉ đáng quý. Phải chăng đây là lẽ sống đầy trách nhiệm mà Thanh
Hải muốn nhắn gởi đến chúng ta.
Mùa xuân nho nhỏ là một bài thơ vừa đặc sắc về nghệ thuật, vừa tiêu biểu cho “trái
tim” của nhà thơ. Ý kiến của Andre Chenien: “Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái
tim mới làm nên thi sĩ” giúp ta cảm nhận sâu sắc và trân trọng tài năng, trái tim của
người nghệ sĩ...
3. Kết bài:
Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất
nước và khát vọng cống hiến đã được Thanh Hải gửi gắm qua bài thơ “Mùa xuân nho
nhỏ”. Bài thơ đã để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai
mờ. Và bài thơ vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi
nhắc cho những thế hệ trẻ một cách sống đẹp: góp một “Mùa xuân nho nhỏ” của mình vào
mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Đồng thời, ta
cũng thấy được tài năng của nhà thơ Thanh Hải
............................................................................................................
137
Đề 46: Nhà thơ Sóng Hồng từng nói: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một
cách cao đẹp”.
Từ bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu (SGK Ngữ văn 9, tập một) hãy làm sáng tỏ
nhận định trên
1. Mở bài:
Bài thơ “Đồng chí” sáng tác năm 1948 với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ
cười vượt qua gian khó của các chiến sĩ làm lay động biết bao trái tim con người. Tình
đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai
hay mãi mãi về sau. Bởi vậy, Chính Hữu đã lấy con người và thời đại trong chiến tranh để
bộc lộ sâu sắc tình đồng chí, đồng đội của những người lính cách mạng. Cũng như nhà thơ
Sóng Hồng từng nói: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”.
2. Thân bài:
Trước hết ta nên hiểu “thơ” chính là thể loại văn học để bộc lộ cảm xúc, tình cảm.
Còn “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì sao? Ý kiến này
bàn về mối quan hệ giữa thơ với con người và cuộc sống thời đại đã sản sinh ra nó.
Nhưng không phải miêu tả điều đó đơn giản, máy móc mà thể hiện một cách cao đẹp,
nghĩa là ca ngợi, tự hào, yêu mến… bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo. Hai
yếu tố con người và thời đại không tách rời nhau mà gắn bó mật thiết trong cảm xúc
hình tượng thơ.
Đi vào hình ảnh “Con người” trong bài thơ “Đồng chí” ta thấy đó là những người nông
dân mặc áo lính ra trận tham gia đánh Pháp bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được, họ
mang vẻ đẹp cao cả của lí tưởng yêu nước, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ nền độc lập: “Đứng
cạnh bên nhau chờ giặc tới” và luôn lạc quan, tin tưởng “Miệng cười buốt giá”.
Tình đồng chí là một biểu hiện cao đẹp của người lính: cùng chan hòa, sẻ chia gian lao,
niềm vui để gắn bó keo sơn. Họ lại sát cánh bên nhau chiến đấu:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
“Súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu; “đầu” biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ.
Hình ảnh sóng đôi, các điệp từ “súng, đầu, bên” tạo nên âm điệu khoẻ, chắc nhấn mạnh sự
gắn kết cùng cùng chung nhiệm vụ, chung lý tưởng, chung chiến hào chiến đấu. Họ đồng
tâm, đồng lòng, cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương, giữ gìn nền
độc lập, tự do, sự sống còn của dân tộc – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Và họ lại
cùng sẻ chia mọi gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính: “Đêm rét chung chăn thành
đôi tri kỉ”, cái khó khăn thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải “chung
chăn”. Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành
niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành “đôi tri kỷ”.
Đến đây, nhà thơ hạ xuống một giọng thơ thật đặc biệt với hai tiếng: “Đồng chí!” câu thơ
ngắn, cùng với hình thức cảm thán thể hiện được cảm xúc dồn nén chân thành, mãnh liệt.
Hai tiếng “đồng chí” vang lên thật thiêng liêng, sâu lắng, nói lên một tình cảm lớn lao, mới
mẻ của thời đại.
Không chỉ dừng lại ở tình đồng chí, đồng đội mà tác giả còn nói về sự thấu hiểu, chia sẻ
những tâm tư, nỗi lòng của cuộc đời người lính:

138
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Ý chí lên đường của lòng yêu nước, của tình cảm cách mạng khi Tổ quốc cần thì những
người lính ấy sẵn sàng hi sinh hạnh phúc riêng tư - để lại sau lưng những gì yêu quý nhất
của quê hương “ruộng nương, gian nhà”. Từ “mặc kệ” cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của
người lính. Thế nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương: “Giếng nước, gốc
đa” mang ý nghĩa ẩn dụ, đó là biểu tượng của làng quê Việt Nam. Phép nhân hóa qua động
từ “nhớ” diễn tả sự khắng khít của người lính nơi làng quê. “Giếng nước, gốc đa” còn là
hai hình ảnh hoán dụ nói về quê hương, về người thân nơi hậu phương của người lính. Vậy
câu thơ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” nói về quê hương nhớ người lính mà thực
chất là người lính nhớ nhà, nỗi nhớ hai chiều ngày càng da diết. Vậy là người lính đã chia
sẻ với nhau mọi tâm tư, nỗi niềm. Họ cùng nhau sống trong những kỷ niệm, trong nỗi nhớ.
Không chỉ cùng nhau chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn hay các câu chuyện nơi quê nhà
mà họ còn chia sẻ những khó khăn, thiếu thốn của cuộc đời người lính:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Người chiến sĩ đã phải trải qua bao khó khăn, vất vả, bệnh tật của những cơn sốt rét rừng
hành hạ: người nóng sốt ướt cả mồ hôi mà vẫn cứ ớn lạnh đến run người. Với phép liệt kê “
áo rách, quần vá, chân không giày” ta thấy chân dung người lính trong kháng chiến chống
Pháp thật đơn sơ, bình dị, nghèo khổ, vất vả. Nhưng đẹp nhất là hình ảnh thơ “miệng cười
buốt giá”, trong cái giá rét lạnh thấu sương chỉ với manh áo mỏng, lại còn “ chân không
giày” nhưng người lính vẫn nở nụ cười thật tươi trước cuộc sống gian khổ, thiếu thốn. Điều
đó làm ta càng thêm chân trọng và yêu quý anh bộ đội Cụ Hồ.
Những người chiến sĩ ấy đã quên mình đi để động viên nhau, truyền cho nhau hơi ấm:
“ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Niềm yêu thương, sự gắn bó được thể hiện qua hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay”, đây là
một cử chỉ vô cùng cảm động, chứa chan tình cảm yêu thương, trìu mến chân thành. Nó
không phải là cái bắt tay thông thường mà là hai bàn tay tự tìm đến với nhau truyền cho
nhau hơi ấm để vượt qua buốt giá. Sẵn sàng chia sẻ với nhau nọi khó khăn, nó còn chứa
đựng bao khát khao được ở bên đồng đội thân yêu. Điều đó đã trở thành kỷ niệm không
bao giờ quên của những anh bộ đội Cụ Hồ.
Nổi bật trong bài thơ thể hiện một cách cao đẹp tình đồng chí chính là hình ảnh “Đầu
súng trăng treo”. Đây là một hình ảnh thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những
đêm phục kích giữa rừng khuya, đồng thời nó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi
nhiều liên tưởng phong phú sâu xa. “Súng” biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực chiến
đấu khắc nghiệt, cho người chiến sĩ. “Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp hòa bình, cho ảo mộng
và lãng mạn, cho người thi sĩ. Hai hình ảnh “súng” và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên
một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà lãng mạn. Hình

139
ảnh ấy còn gợi vẻ đẹp của tình đồng chí sáng trong, cho vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo, lãng
mạn. Đồng thời còn gợi vẻ đẹp tâm hồn dân tộc Việt Nam – một dân tộc mà bàn tay giữ
chắc cây súng để bảo vệ những khát vọng thanh bình. Đoạn kết bài thơ là một bức tranh
đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính.
Đến với “Thời đại” trong bài thơ “Đồng chí” đó là vẻ đẹp của tình đoàn kết giai cấp,
hình ảnh làng quê, ruộng đồng, cái nghèo… là chi tiết cuộc sống rất chân thực những
năm 1948 khi tác giả viết bài thơ này:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Với phép sóng đôi “quê anh - làng tôi”, tác giả cho thấy tình đồng chí, đồng đội bắt nguồn
từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính. Thành ngữ “nước mặn
đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lời kể chuyện, để nói họ
đều là những người lính nông dân áo vải ra đi từ những miền quê nghèo khó – miền biển
nước mặn, vùng đồi núi trung du. Đồng thời hai câu thơ còn gợi lên không khí cách mạng
của thời đại và cuộc đổi đời vĩ đại của giai cấp nông dân. Lần đầu tiên trong lịch sử họ
đứng lên làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mình.
Trong bài thơ, người lính xuất hiện trên cái nền của hiện thực khốc liệt những ngày
đầu kháng chiến trường kì (Súng bên súng, rừng hoang sương muối, chờ giặc tới…)
đã thể hiện vẻ đẹp lí tưởng anh hùng của thời đại cách mạng Hồ Chí Minh.
Còn nghệ thuật thể hiện con người và thời đại của bài “Đồng chí” chính là việc sử
dụng ngôn ngữ bình dị, thấm đượm chất dân gian, thể hiện tình cảm chân thành. Sử dụng
bút pháp tả thực kết hợp với lãng mạn một cách hài hòa, tạo nên hình ảnh thơ đẹp mang ý
nghĩa biểu tượng.
3. Kết bài:
Ý kiến của nhà thơ Sóng Hồng “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách
cao đẹp” rất đúng , vì thơ luôn lấy con người và thời đại làm cảm hứng sáng tạo. Con
người chính là linh hồn của thời đại, thời đại đã tạo ra vẻ đẹp cho con người. Phải nói
“Đồng chí” là bài thơ độc đáo viết về anh bộ đội cụ Hồ, những người nông dân mặc
áo lính, anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh, một tượng đài tráng lệ mộc
mạc, bình dị mà cao cả thiêng liêng về con người Việt Nam trong cuộc chiến tranh
thần thánh, trường kì chống Pháp. Qua đó, cảm hóa ý thức sâu sắc tuổi trẻ hôm nay
về lòng yêu nước và tự hào dân tộc.
............................................................................................................
47: Tô Hoài có nhận xét như sau về truyện ngắn của Nguyễn Thành Long : “Mỗi
truyện ngắn của Nguyễn Thành Long tương tự một trang đời, một mảng, một nét của
cuộc sống chắt ra. Ta thường gặp ở Nguyễn Thành Long những nhận xét nho nhỏ,
như nhắc khẽ người đọc”.
Theo em, nhận xét trên có đúng với truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn
Thành Long không ? Hãy phân tích truyện ngắn này để làm rõ ý kiến của em.
1. Mở bài:
Nguyễn Thành Long ( 1925-1991) ông bắt đầu viết văn vào thời kỳ kháng chiến chống
Pháp. Ông là cây bút chuyên viết về truyện ngắn. Nhận xét về truyện ngắn của Nguyễn
Thành Long, Tô Hoài có ý kiến như sau “Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Long tương

140
tự một trang đời, một mảng, một nét của cuộc sống chắt ra. Ta thường gặp ở Nguyễn
Thành Long những nhận xét nho nhỏ, như nhắc khẽ người đọc”. Ý kiến nhận xét trên cũng
rất đúng với truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, một truyện ngắn hay, giàu chất thơ của Nguyễn
Thành Long, được viết năm 1970, trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống
chiến tranh phá hoại của giặc Mĩ trên miền Bắc.
2. Thân bài
Đến với giá trị hiện thực thì “Lặng lẽ Sa Pa” tương tự một trang đời, một mảng,
một nét của cuộc sống chắt lọc ra. Trong truyện, ta bắt gặp một trang đời, một mảng
hoặc một nét của cuộc sống của miền Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội
và chống chiến tranh phá hoại của giặc Mĩ.
Trước hết là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Anh thanh niên
mang trong mình đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề ở tinh thần
trách nhiệm với công việc. Nói về hoàn cảnh sống và công việc của anh. Theo lời bác lái
xe thì anh là người “cô độc nhất thế gian”, công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng,
tính mây, đo chấn động mặt đất….” rồi ghi chép lại và báo về trung tâm, dự vào việc báo
trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Chỉ quanh quẩn ở mấy
chiếc máy ngoài vườn thôi nhưng lại quan trọng vô cùng, ấy thế nên anh đã sống hết mình
vì nó. Vẻ đẹp nơi anh bắt đầu từ chính công việc mà anh đã chọn – là con đường lao động.
Qua đó, anh có thể hoàn thành nghĩa vụ và ước mơ cống hiến cho Tổ quốc của mình. Anh
lựa chọn cho mình làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, dù công việc này có lắm khó
khăn, đòi hỏi tính tỉ mỉ chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao nhưng anh lại tìm thấy
niềm vui ở nó “ khi ta làm việc ta với công việc là đôi”. Đẹp nhất ở anh là tư tưởng sống
“không chỉ cho bản thân mà là cho đất nước, cho dân tộc”, chính lí tưởng đó đã hướng anh
đi theo con đường lao động đúng đắn và có ích. Anh cũng như bao người bình thường
khác, trong suy nghĩ cũng từng có những ngại ngần và tâm lí sợ sự cô đơn trước con đường
đời đã chọn. Nhưng tuổi trẻ và lí tưởng cao đẹp nơi anh đã lấp đầy khoảng trống ấy bằng
tấm lòng yêu nghề, sự say mê lao động của mình: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy,
chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Từ trải nghiệm về công việc, anh yên tâm đón
nhận con đường mình đang tiến tới bằng lý tưởng cao đẹp về công việc lao động của mình.
Trong môi trường sống và lao động khắc nghiệt của thời tiết núi rừng Sa Pa “Xách đèn ra
vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài chỉ trực đợi mình ra là ào ào xô tới”; ngay cả
những khổ cực khi phải thức dậy vào lúc “bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối lại một giờ
sáng”…Thế nhưng anh vẫn vượt qua và hoàn thành tốt công việc của mình. Phải nói anh
thanh niên ấy là một con người say mê công việc, biết vươn lên những khó khăn, tự giác
hoàn thành nhiệm vụ và đã rèn luyện cho mình một trái tim thấm đượm lòng yêu nghề.
Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn
nắp. Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống của mình thêm thi vị,
phong phú về vật chất và tinh thần. Cuộc sống của anh không cô đơn, buồn tẻ vì anh có
một nguồn vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò chuyện, để thanh lọc
tâm hồn. Sách là nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài. Không chỉ vậy người
thanh niên này còn thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng hiếu khách, sự quan tâm đến
người khác một cách chu đáo. Tình thân với bác lái xe, thái độ ân cần chu đáo, tặng củ tam
thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy. Vui sướng khi có khách đến thăm nhà. Anh đón tiếp

141
khách nồng nhiệt, ân cần chu đáo, hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái chưa
hề quen biết. Anh trò chuyện cởi mở với ông họa sĩ và cô kĩ sư về công việc, cuộc sống
của mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ. Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của
người thanh niên mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí. Công việc
vất vả có những đóng góp quan trọng như thế cho đất nước nhưng người thanh niên
hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn. Anh cảm thấy những đóng góp của mình chỉ
bình thường nhỏ bé so với bao người khác, vì thế anh đã từ chối ông họa sĩ vẽ bức chân
dung của mình, con người khiêm tốn ấy còn hào hứng giới thiệu với ông họa sĩ những
người mà anh cho là đáng vẽ hơn: “Ơ bác vẽ cháu đấy ư ? Không, không, đừng vẽ cháu, để
cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn”, đó là ông kỹ sư ở vườn
rau Sa Pa, là anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, có thể nói dù còn trẻ tuổi, nhưng anh đã
thấm thía cái nghĩa cái tình của mảnh đất Sa Pa, thấm thía sự hi sinh thầm lặng của những
con người ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
Dù không phải là nhân vật chính nhưng ông hoạ sĩ có vai trò rất quan trọng trong truyện.
Ông là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm. Ngay từ những lời giới thiệu của bác lái xe về
anh thanh niên, ông hoạ sĩ đã xúc động mạnh khi nhìn thấy “người con trai tầm vóc bé nhỏ,
nét mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ”. Sau đó ông lại ngạc nhiên
khi thấy anh thanh niên đang hái hoa, cảm động và bị cuốn hút trước sự cởi mở, chân thành
của anh. Rồi ông lại cảm giác “mình bối rối” khi nghe anh thanh niên kể về công việc.
Bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ sáng tạo đi tìm đối
tượng của nghệ thuật, ông biết mình đang xúc động và bối rối vì đã “bắt gặp một điều thật
ra ông vẫn ao ước được biết, một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng
tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài”. Cảm hứng được khơi gợi đã thôi thúc
người hoạ sĩ sáng tác.
Còn đây nữa, cô kỹ sư - là cô gái dám rời Hà Nội, bỏ lại sau lưng “mối tình đầu nhạt
nhẽo” để lên công tác ở miền cao Tây Bắc. Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những
điều anh nói, câu chuyện anh kể về những người khác đã khiến cô “bàng hoàng”, cô hiểu
thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới những
con người như anh mà anh kể, và về con đường cô đang đi tới ? Giờ đây, cô đã nhận ra mối
tình của mình bấy lâu nay nhạt nhẽo biết bao, cuộc sống của mình lâu nay tầm thường biết
bao, thế giới của mình lâu nay nhỏ bé biết bao! Khoảnh khắc bàng hoàng ấy chính là sự
bừng dậy của những tình cảm lớn lao, cao đẹp về con người, về cuộc sống.
Những người như ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa hằng ngày ngồi trong vườn chăm chú quan
sát cách lấy mật của ong, rồi tự tay thụ phấn cho hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra
tốt hơn. Anh cán bộ nghiên cứu đã mười một năm ròng túc trực chờ sét để lập bản đồ sét
tìm tài nguyên cho đất nước. Họ tạo thành cái thế giới những con người như anh thanh niên
ở trạm khí tượng, những con người miệt mài lao động khoa học lặng lẽ mà khẩn trương vì
lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của con người.
Tất cả đều được chắt lọc từ cuộc sống, vừa tinh tế vừa đẹp. Những nhân vật trên có
tâm hồn của những con người thật đáng trân trọng.
Giá trị hiện thực trong “Lặng lẽ Sa Pa” còn là một vài nét chấm phá của cảnh sắc
thiên nhiên. Sa Pa xuất hiện đầu tiên với hình ảnh “những rặng đào” và “những đàn bò
lang cổ có đeo chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường”. Đúng là Sa Pa rồi!

142
Bạn có nhận ra chưa? Còn người hoạ sĩ thì đã nhận ra cảnh quan ấy để rồi nghĩ đến một
ngày được về ở hẳn nơi này. Chỉ một ước muốn ấy thôi cũng cho thấy bức tranh thiên
nhiên có sức hấp dẫn lòng người. Đẹp nhất vẫn là lúc nắng lên. Dưới ánh nắng, dường như
mọi vật đều trở nên sinh động. Ánh nắng làm cho bức tranh trở nên đầy màu sắc, khiến con
người họa sĩ và cô kĩ sư cũng nín bặt vì vẻ đẹp lạ kì của cảnh: “Nắng bây giờ bắt đầu len
tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón
tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu hình hoa cà
lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên vòm lá ướt
sương, rơi xuống đường cái, luồn vào cả gầm xe”. Rõ ràng tác giả đang nhìn từ trên cao
nhìn xuống. Không gian bao quát, có cả mây, có cả rừng. Thiên nhiên đuợc nhân hoá trở
nên sống động lạ kì “ nắng len tới”; chòm thông rung tít với “những ngón” tay bằng bạc;
cây tử kinh với cái “ nhìn bao che” “nhô đầu” ; “ mây xua nắng đi”...Bức tranh hiện lên với
nhiều màu sắc tươi sáng, màu xanh của những cánh rừng bạt ngàn, màu tím của những cây
tử kinh, màu trắng của những đụn mây trời và màu vàng tươi của sắc nắng...Khung cảnh
bồng bềnh, sương khói, lãng đãng mây trời và ngập tràn ánh sáng.
Tác dụng giáo dục của “Lặng lẽ Sa Pa” có những nhận xét nho nhỏ, như nhắc khẽ
người đọc. Đó là những nhận xét nho nhỏ rút ra từ những sự việc, những cảnh đời đã trải
qua. Như lời hoạ sĩ nói với cô kĩ sư: “Đối với người nghệ sĩ trong cuộc đời, có hai hồi thích
nhất: đó là hồi mình còn trẻ và hồi này của tôi. Mình có thể năng nổ đi vẽ như thời thanh
niên. Mình có thêm sự chính chắn hồi ấy mình chưa có”. Hay cô kĩ sư: “ Đối với một
người khao khát trời rộng, sự dứt bỏ tình yêu nhiều khi lại nhẹ nhàng”. Ông hoạ sĩ già còn
tự nhủ: “ Thanh niên bây giờ lạ thật, các anh chị cứ như con bướm...”. Còn lời của anh
thanh niên khi công tác trên đỉnh Yên Sơn: “ ... Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như
bị chặt ra từng khúc, mà gió thì giống như những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném
vứt lung tung... Những lúc im lặng lạnh cứng mà hừng hực cháy”, hay khi tâm sự với ông
họa sĩ “ Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ vứt nó đi cháu buồn chết mất con người
thì ai mà chả thèm hở bác? Cháu bỗng dưng tự hỏi: cái nhớ xe nhớ người ấy thật ra là cái
gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng” hoặc “ Khi ta làm việc ta với công việc
là đôi...”. Còn khi nói về người khác anh lại cảm mến vô cùng “ Ông kĩ sư làm cháu thấy
cuộc đời đẹp quá”. Bởi vậy, cô kĩ sư khi gặp anh thanh niên cô cảm thấy “ Một ấn tượng
hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng cô gái. không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong
chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì một bó hoa khác nữa, bó hoa của những háo hức mơ màng
ngẫu nhiên anh cho thêm cô”.
Tất cả những nhận xét trên nhắc nhở người đọc hãy tự nhìn lại mình để sống tốt
đẹp hơn, hãy nhìn vào mọi người để thấy hết những cái đẹp mà mình vô tình bỏ qua,
mình sẽ làm gì có ích hơn để người khác được vui hơn, hạnh phúc hơn. Cuộc sống
này thật nhiều điều tốt đẹp...
3. Kết bài:
Nguyễn Thành Long đã chắt lọc từ cuộc sống bao điều để tạo nên những trang viết với
một vài trang đời, một mảng, nét của cuộc sống đẹp một cách tinh tế và thơ mộng. Qua
những trang truyện của “Lặng lẽ Sa Pa”, người đọc thú vị và thấm thía trước “những nhận
xét nho nhỏ” của nhà văn. Mỗi người đọc tự rút ra cho mình một vài lời khuyên lí thú và
bổ ích. Thực ra, một vài trang đời, mảng, nét của cuộc sống cùng với “những nhận xét nho

143
nhỏ, như nhắc khẽ người đọc” ấy, tuy nhẹ nhàng mà sâu sắc, tuy nhỏ mà không nhỏ một
chút nào cả. Từ những “trang đời” đẹp và thơ mộng, “Lặng lẽ Sa Pa” đã nâng cao và mở
rộng tâm hồn người đọc, hãy yêu thương và sống đẹp hơn.
............................................................................................................
48: Đại văn hào Andersen có câu nói nổi tiếng: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp
bằng câu chuyện do chính cuộc sống viết ra”. Và chúng ta thấy rằng tác phẩm “Chiếc
lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng chính là một câu chuyện cổ tích giữa đời thường,
một truyện cổ tích hiện đại.
Qua câu nói của Andersen và “Chiếc lược ngà”, hãy viết bài văn phân tích và nêu
lên suy nghĩ của bản thân về câu hiểu biết về tác phẩm chuyện cổ tích từ hiện thực
cuộc đời ấy.
1. Mở bài:
Không chỉ là một nhà văn được độc giả mến mộ, Nguyễn Quang Sáng còn là một người
có cống hiến to lớn cho nền văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông luôn hiện lên một
cách chân thực, bình dị nhất nhưng không kém phần độc đáo, súc tích. Đến với truyện
ngắn “Chiếc lược ngà”, ta như phần nào thấu hiểu về một triết lí sống sâu sắc qua tình cảm
cha con hết sức sâu nặng, thiêng liêng và cao đẹp dù là trong cảnh ngộ éo le của chiến
tranh khắc nghiệt. Bởi vậy, đại văn hào Andersen đã nói: “Không có câu chuyện cổ tích
nào đẹp bằng câu chuyện do chính cuộc sống viết ra”. Và chúng ta thấy rằng tác phẩm
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng chính là một câu chuyện cổ tích giữa đời
thường, một truyện cổ tích hiện đại.
2. Thân bài:
Trước tiên ta nên hiểu câu nói của Andersen: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng
câu chuyện do chính cuộc sống viết ra” như thế nào ? Phải chăng chính cuộc sống đã thử
thách cũng như tiếp thêm, làm tăng thêm tình yêu của những con người trong chính cuộc
sống ấy, đó là những tình cảm cao quý: tình phụ tử, tình mẫu tử, tình bà cháu,…hay tác
phẩm “Chiếc lược ngà” chính là tình cha con cảm động.
Còn những câu chuyện “cổ tích” trong cuộc sống đẹp có phải vì có sự xuất hiện của hình
ảnh ông bụt, bà tiên, phép màu nhiệm,… như trong truyện cổ tích không ? Không phải vậy,
mà nó đẹp nhờ những tình cảm thật sự giữa con người với con người, từ đó nuôi dưỡng
trong tâm hồn mỗi con người ta những vẻ đẹp, những vẻ đẹp rất riêng và vô cùng thiêng
liêng, cao quý.
Đến với “ Chiếc lược ngà” ta bắt gặp tình cảm của cha con ông Sáu đẹp như bức
tranh cổ tích trong sự thử thách của chiến tranh. Chiến tranh đã chia cắt gia đình ông
Sáu. Bé Thu lớn lên trong sự yêu thương của má, nhưng em chưa từng gặp ba, em chỉ biết
ba qua tấm hình chụp chung với má. Bởi vậy, Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một
cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết
không gọi tiếng “ba”. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử
thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong
tính cách của em, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị ông Sáu
đánh nhưng bé Thu luôn bộc lộ là một con người kiên quyết, mạnh mẽ. Chính thái độ
ngang ngạnh đó là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người ba yêu quý. Trong
tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người ba “chụp chung trong bức ảnh với

144
má”. Người ba ấy không giống ông Sáu, không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi
mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo - dấu tích của chiến tranh đã làm biến dạng khuôn mặt
ông Sáu. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng
yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ, thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy. Khi
bị ba đánh, bé Thu không khóc mà “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ
đứng dậy, bước ra khỏi mâm”. Sau đó bé bỏ sang nhà bà ngoại và khóc ở bên ấy. Sự
nghi ngờ về ba của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo
dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như
người lớn”. Bởi thế, ở đoạn cuối đến lúc ông Sáu phải đi, con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày
hôm nào lại như thể bị bỏ rơi “lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người
vây quanh ba nó”, dường như nó thèm khát sự ấm áp của tình cảm gia đình, nó cũng muốn
chạy lại và ôm hôn ba nó lắm chứ, nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ
đứng nguyên ở đấy, ước mong ba sẽ nhận ra sự có mặt của nó. Trước khi đi, ông Sáu
chào tạm biệt con, lúc này mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng, tình cha
con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay, giờ trỗi dậy. Nó không nén nổi tình cảm và bỗng
kêu thét lên: “Ba...a...a...ba!”. Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng, xé cả
ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu
năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó. Tiếng kêu “ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,
tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi mà
ba nó tha thiết được nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước, khao khát như muốn vỡ òa ra
trong một tiếng gọi “ba”. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang
một giá trị thiêng liêng với nó. Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của
một đứa con có ba. Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giàu tình cảm, có cá tính
mạnh mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây thơ – đó chính là bé Thu.
Bên cạnh hình ảnh bé Thu là hình ảnh ông Sáu - được giới thiệu là người lính chiến
tranh, vì nhiệm vụ cao cả mà anh phải tham gia chiến đấu, bỏ lại gia đình, quê hương và
đặc biệt là đứa con yêu tha thiết. Sau bao năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn
nung nấu khao khát cháy bỏng là được gặp con và nghe con gọi một tiếng ba. Bởi vậy, ông
nôn nao muốn được gặp con, khi thuyền chưa cập bến “ anh nhún chân nhảy thót lên”.
Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không chịu nhận ông là
ba. Trong ba ngày nghỉ phép ở nhà ông Sáu muốn gần gũi để bù đắp cho con, nhưng bé
vẫn lạnh lùng, bướng bỉnh. Chính điều ấy, đã làm tổn thương những tình cảm da diết nhất
trong lòng ông. Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm
bùng lên những đau khổ mà bấy lâu nay ông dồn nén, chứa chất trong lòng, chính vì thế
ông đã đánh con. Nhưng khi bé Thu cất tiếng gọi “Ba”, tiếng gọi muộn màng nhưng lại có
ý nghĩa đẹp đẽ! Ai có thể ngờ được một người lính dày dạn nơi chiến trường, quen với cái
chết cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm
hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm
nhận được sự ấm áp của tình cha con thực sự! “Không ghìm được xúc động và không
muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”.
Mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt nhau: “Ba về! Ba
mua cho con một cây lược nghe ba!”; nhưng đối với ông Sáu thì đó là mơ ước đầu tiên và
duy nhất, cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông. Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở

145
nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho
con: “Ông ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc ”.
Bụi ngà mỗi ngày rơi một nhiều làm người đồng đội cũng cảm thấy vui cho ông. Trên sống
lưng cây lược, ông đã tẩn mẩn khắc một dòng chữ nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”,
dòng chữ nhỏ mà chứa bao tình cảm lớn lao. Việc làm chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa
tâm trạng mong nhớ, ân hận vừa là cách gửi vào đó những yêu thương khao khát cháy
bỏng dành cho đứa con gái yêu của mình. “Chiếc lược ngà” giờ đây đã trở thành một vật
quí giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình
cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của của người cha đối với đứa con xa cách. Lòng yêu
con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác
phẩm duy nhất trong đời. Ông gửi vào đó bao lời nhắn nhủ thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi
nhớ mong con. Làm được cây lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay
chải mái tóc cho con. Nhưng rồi, một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu:
trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực và ông
đã hi sinh. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ
có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một
việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn – là bác Ba và nhìn Bác một hồi
lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì, chỉ có một ánh mắt với niềm ước
nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình
với con. Tình cảm của ông sáu khiến ta thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc.
Chiến tranh chính là hiện thực đã góp phần tạo nên và nâng cao tình phụ tử thiêng
liêng, cao quý của ông Sáu và bé Thu.
Câu chuyện cổ tích về tình cha con được miêu tả cảm động ở hai phía: người cha, người
cán bộ cách mạng và đứa con gái nhỏ. Đó là một tình cảm muôn thuở, có tính nhân bản và
bền vững thể hiện trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh và trong cuộc sống nhiều gian
khổ, hi sinh của người cán bộ cách mạng.
3. Kết bài:
Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại, nhưng từ chính trong gian khổ khốc liệt,
có những thứ tình cảm đẹp vẫn nảy nở: tình đồng chí, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình,
và cả tình của một người cha với con gái. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn
bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và
đẹp đẽ như nhân vật bé Thu – ông Sáu. Bởi vậy, ý kiến của Andersen: “Không có câu
chuyện cổ tích nào đẹp bằng câu chuyện do chính cuộc sống viết ra” hoàn toàn đúng đắn”
với Nguyễn Quang Sáng trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà”
............................................................................................................
49: Trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 mét, có một anh cán bộ khí tượng kiêm vật lý địa cầu
sống một mình, bốn bề chỉ có cây cỏ mây mù lạnh lẽo và một số máy móc khoa học.
Nhưng khi gặp ông họa sĩ già anh vẫn khẳng định: “Cháu sống thật hạnh phúc”.
( Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long)
Ngoài biển khơi xa, trong đêm tối, có những con người vẫn háo hức ra đi trong tiếng hát.
Họ “ Ra đậu dặm xa dò bụng biển/ Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
( Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)

146
Núi cao biển xa, chân trời góc bể nhưng những người lao động ấy vẫn nhiệt tình, âm
thầm mang sức lao động của mình cống hiến cho Tổ quốc. Dựa vào hai tác phẩm trên, em
hãy làm sáng tỏ vẻ đẹp của người lao động mới?
1. Mở bài:
Trong hai tác phẩm: “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận và “Lặng lẽ Sa Pa” của
Nguyễn Thành Long đều hiện lên những con người có trái tim yêu lao động, yêu quê
hương đất nước. Ở họ tràn đầy niền lạc quan, niềm tin yêu cuộc sống, đang âm thầm lặng
lẽ đem hết tài năng và sức lực của mình cống hiến cho công cuộc xây dựng đất nước trên
bước đường đi lên chủ nghĩa XH ở miền Bắc lúc bấy giờ. Bởi vậy anh thanh niên trong
“Lặng lẽ Sa Pa” luôn cống hiến hết sức lao động của mình, mặc dù trong hoàn cảnh thật cô
đơn và khó khăn trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 mét, có một anh cán bộ khí tượng kiêm
vật lý địa cầu sống một mình, bốn bề chỉ có cây cỏ, mây mù lạnh lẽo và một số máy móc
khoa học. Nhưng khi gặp ông họa sĩ già anh vẫn khẳng định: “Cháu sống thật hạnh
phúc”. Còn trong “Đoàn thuyền đánh cá” những người ngư dân phải trải qua bao khó khăn
“Núi cao biển xa, chân trời góc bể nhưng những người lao động ấy vẫn nhiệt tình, âm
thầm mang sức lao động của mình cống hiến cho Tổ quốc”; nhưng họ vẫn ra khơi với
câu hát căng buồm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển/ Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
2. Thân bài:
Sau chiến thắng chống thực dân Pháp, miền Bắc nước ta bắt tay ngay vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa XH. Một không khí phấn khởi, hăng say lao động, kiến thiết đất nước dấy
lên khắp mọi nơi. “Đoàn thuyền đánh cá” - Huy Cận (1958), “Lặng lẽ Sa Pa” - Nguyễn
Thành Long (1970) đều là kết quả của những chuyến đi thực tế mà các tác giả sống trực
tiếp cùng với những con người lao động. Hình tượng người lao động đã được khắc họa rõ
nét trong hai tác phẩm. Họ thuộc đủ mọi lớp người, mọi lứa tuổi, với những nghề nghiệp
khác nhau, làm việc ở những vùng khác nhau nhưng đều có chung những phẩm chất cao
đẹp.
Công việc, điều kiện làm việc của họ đầy gian khó, thử thách. Người ngư dân trong
bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ra khơi khi thiên nhiên, vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Đánh cá trên biển là một công việc rất vất vả và nguy hiểm. Nhưng những người ngư dân
đã hòa nhập với thiên nhiên bao la và trở thành hình ảnh sáng đẹp.
Trong “Lặng lẽ Sa Pa”: Anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao
2600 mét. Anh sống một mình, xung quanh anh chỉ có cây cỏ, mây mù lạnh lẽo và một số
máy móc khoa học. Cái gian khổ nhất với anh là sự cô độc. Công việc của anh là “đo gió,
đo mưa..dự báo thời tiết”. Công việc ấy đồi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác. Mỗi ngày anh đo và
báo số liệu về trạm bốn lần. Nửa đêm, đúng giờ “ốp” dù mưa tuyết, gió rét thế nào thì vẫn
phải trở dậy làm việc.
Trong điều kiện khắc nghiệt như vậy nhưng những người lao động ấy vẫn nhiệt tình,
hăng say, mang hết sức lực của mình để cống hiến cho Tổ quốc. Những người ngư dân là
những con người lao động tập thể. Họ hăm hở:

147
“ Ra đậu dăm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Bên cạnh cái ung dung và say sưa của những người dân làng chài, ta vẫn cảm nhận được
cái vất vả của họ. Công việc thật sự là một trận đánh được diễn tả bằng rất nhiều động từ
mạnh, thể hiện tư thế làm chủ thiên nhiên, tư thế sẵn sàng lao động hết mình của những
con người mới. Hằng đêm, họ phải vượt qua bao nhiêu dặm biển trong cảnh trời đêm, ra
đậu ngoài khơi xa mới có thể đánh bắt được nhiều cá. Không chỉ thế họ còn phải “dò bụng
biển” mới có thể tìm được các bãi cá, “dàn đan thế trận” để bủa lưới bắt cá. Chính nhờ sự
am hiểu sâu sắc về nghề nghiệp và có niềm cảm thông sâu sắc với những người dân chài
tác giả mới có thể vẽ nên bức tranh đầy hiện thực nhưng không kém phần lãng mạn ấy. Họ
– những người dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi để phá thế
giới bí ẩn của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao dộng như
một chiến sĩ. Họ làm việc nhiệt tình, hăng say trong câu hát.
Anh thanh niên có những suy nghĩ đúng đắn, sâu sắc về công việc. Anh hiểu việc mình
làm có ý nghĩa quan trọng “ phục vụ sản xuất…”. Công việc tuy lặp lại đơn điệu song anh
vẫn rất nhiệt tình, say mê, gắn bó với nó. Anh nói: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi,
sao gọi là một mình được?”. Đọc lời tâm sự này, ta càng thấy đó là suy nghĩ và lối sống
cao đẹp của anh, ta càng thấy mến yêu, quý trọng những con người như thế, biết làm chủ
bản thân, ý thức sâu sắc được mục đích làm việc. Anh quả là con người mới, tiêu biểu cho
lớp thanh niên: “Đâu cần thanh niên có – Đâu khó có thanh niên.
Đó còn là những con người sống có lí tưởng và tràn đầy lạc quan. Họ thực sự tìm thấy
niềm hạnh phúc trong công việc lao động đầy gian khổ. Đánh cá trong đêm đầy vất vả,
nguy hiểm, người ngư dân đã thu về thành quả thật tốt đẹp. Họ ra đi, làm việc và trở về đều
trong câu hát
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Thời gian, không gian có khác nhưng hình ảnh vẫn thế, âm hưởng vẫn thế: hào hứng như
lúc ra đi, vẫn không khí khẩn trương ấy. Từ “hát'” lại một lần nữa xuất hiện thể hiện niềm
vui lao động đến say sưa của dân chài nhưng đây là tiếng hát mừng vui thắng lợi. “Đoàn
thuyền” được nhân hóa kết hợp với phép nói quá thể hiện khí thế, sức mạnh của đoàn
thuyền lướt sóng như chạy đua với thời gian để nhanh chóng trở về bến; đồng thời cũng
nâng cao tầm vóc con người trước vũ trụ bao la, rộng lớn. Hình ảnh nhân hoá “mặt trời đội
biển” đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn, ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đến
màu của cảnh vật mà còn mang “màu mới” cho cuộc sống mà những người lao động đang
từng ngày, từng giờ cống hiến. Tác giả cũng thành công trong việc sử dụng phép tu từ ẩn
dụ “ đội biển” đã cho thấy sức sống mạnh mẽ, tràn đầy nhiệt huyết của những con người
nơi đây và “màu mới” muốn nói đến ý nghĩa sâu xa hơn đó là màu của hạnh phúc, ấm no,
màu của người lao động tự do làm việc trên chính vùng trời, vùng biển của quê hương sau
bao năm tháng chịu cảnh nô lệ. Đẹp nhất là hình ảnh đặc tả “mắt cá”, đây là hình ảnh hoán
dụ miêu tả mắt cá với những con cá nối nhau, xếp lên nhau, trải dài trên bãi cát, mỗi mắt cá
là một mặt trời nhỏ cho kết quả của chuyến đánh cá trên biển thật bội thu. Tại sao mắt cá
148
lại “huy hoàng” ? Phải chăng là miêu tả ánh sáng đẹp, rạng rỡ, là biểu hiện niềm vui trong
mắt người, biểu tượng cho một tương lai, cuộc sống mới đang khởi sắc trên “muôn dặm
phơi'”. Câu thơ vừa tả cảnh biển tráng lệ lúc bình minh, vừa tả cảnh được mùa cá đẹp.
Còn lí tưởng sống của anh thanh niên là vì nhân dân, vì đất nước. Chính từ suy nghĩ :
“mình sinh ra…. vì ai mà làm việc?” mà anh đã vượt lên nỗi “thèm người” để gắn bó với
đỉnh Yên Sơn trong công việc thầm lặng. Trong cái lặng im của Sa Pa ấy, không phải chỉ
có anh thanh niên mà còn có cả thế giới những người “làm việc và lo nghĩ cho đất nước”
qua lời anh kể như: ông kĩ sư vườn rau, đồng chí cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét… Họ
thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong lao động cống hiến.
Người lao động vô danh trong hai tác phẩm đủ mọi thành phần, lứa tuối, nghề
nhiệp, dù ở núi cao hay biển xa đều là những người nhiệt tình, say mê công việc, sống
có lí tưởng. Họ là điển hình cao đẹp của con người lao động mới, con người trưởng
thành trong công cuộc xây dưng CNXH ở miền Bắc.
3. Kết bài
Hình ảnh của những con người lao động qua hai tác phẩm: “Đoàn thuyền đánh cá” của
Huy Cận và “Lặng lẽ SaPa” của Nguyễn Thành Long họ luôn chiến đấu với sóng gió, với
những khó khăn muôn trùng, nhưng bằng sự nhiệt tình trong lao động, bằng niềm tin lạc
quan tin tưởng vào công việc xây dựng chủ nghĩa XH. Trong trái tim của những người lao
động ấy luôn chất chứa tình yêu nước thật tuyệt vời, thật đáng trân trọng. Hình ảnh của họ
chính là vóc dáng dân tộc một thời hào hùng đáng nhớ
…………………………………………………………………………………
50: “Càng từng trải chiến tranh, càng chứng kiến nhiều hơn sức mạnh hủy diệt, sức mạnh
biến tất cả thành tro bụi của nó, Kiên càng tin rằng chiến tranh không tiêu diệt được cái gì
hết. Tất cả vẫn còn lại đó, y nguyên”
(Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến tranh, NXB Văn học 2006. Tr
279)
Từ những chiêm nghiệm trên, hãy nói về những điều “chiến tranh không tiêu diệt
được” trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật và truyện
ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.
1. Mở bài
Phạm Tiến Duật (1941- 2007), là nhà thơ khoác áo lính, một gương mặt tiêu biểu cho thế
hệ thơ trẻ kháng chiến chống Mĩ. Hình tượng trung tâm trong thơ ông là người lính và cô
thanh niên xung phong. Mà tiêu biểu là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, với giọng điệu
sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc. Tác phẩm: Viết năm 1969 đã thể hiện
tình đồng đội keo sơm, gắn bó và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước của những người lính. Còn Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong
kháng chiến chống Mĩ. Tác giả tham gia thanh niên xung phong và bắt đầu sáng tác vào
đầu những năm 70. Lê Minh Khuê thành công ở thể loại truyện ngắn mà tiêu biểu là tác
phẩm “Những ngôi sao xa xôi”. Sáng tác của Lê Minh Khuê cuốn hút người đọc nhờ lối
viết giản dị, tự nhiên, lối kể chuyện sinh động, khả năng phân tích tâm lí nhân vật chân
thực, tinh tế. Tác phẩm được viết năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang
diễn ra ác liệt. Bởi vậy, khi nói về hai tác phẩm này có người chiêm nghiệm rằng: “Càng
từng trải chiến tranh, càng chứng kiến nhiều hơn sức mạnh hủy diệt, sức mạnh biến tất cả

149
thành tro bụi của nó, Kiên càng tin rằng chiến tranh không tiêu diệt được cái gì hết. Tất cả
vẫn còn lại đó, y nguyên”
2. Thân bài:
Vậy ta nên hiểu những chiêm nghiệm: “Càng từng trải chiến tranh, càng chứng kiến
nhiều hơn sức mạnh hủy diệt, sức mạnh biến tất cả thành tro bụi của nó, Kiên càng tin rằng
chiến tranh không tiêu diệt được cái gì hết. Tất cả vẫn còn lại đó, y nguyên” có ý nghĩa thế
nào? Theo cách hiểu của tôi thì chiến tranh với những thứ vũ khí có sức tàn phá lớn, nó
hủy diệt mọi thứ mà thực tế lại không hủy diệt được gì, đó là: đau thương, mất mát và hơn
cả nó không thể hủy diệt sự dũng cảm, lòng yêu nước của thế hệ trẻ.
Đến với “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cái không tiêu diệt được là sự sôi nổi, trẻ
trung, nhiệt huyết của tuổi trẻ:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo


Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”
Tác giả đã dùng bút pháp so sánh nhằm nhấn mạnh trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các
anh vẫn “cười” rồi chẳng cần bận tâm, lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian
lao. Với giọng điệu thản nhiên, ngang tàng, hóm hỉnh làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của
người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Đọc
những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến
trường trong những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt
nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời. Thật đáng đáng tự hào biết
bao!
Còn cả tâm hồn lãng mạn của những người lính lái xe chiến tranh cũng không thể tiêu
diệt được:
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Bằng biện pháp liệt kê “sao trời, cánh chim” cho ta hiểu thêm những người chiến sĩ lái xe
Trường Sơn lên đường bất kể ngày đêm. Với phép so sánh để ta thấy được thế giới bên
ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt, tạo những cảm giác đột ngột cho người lái.
Giờ đây người lính như giao hòa với thiên thiên, biểu hiện thái độ bình tĩnh, thản nhiên
trước những nguy hiểm của chiến tranh và niềm vui, lạc quan, yêu đời của những người
lính trẻ. Lúc này, người lính như nhìn thấy “trời xanh thêm” phía cuối con đường. Họ lái
chiếc xe không kính đến một chân trời đẹp đẽ.
Còn đến với tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” ta bắt gặp chị Thao, Nho, Phương Định.
Họ là ba cô gái trẻ có nội tâm phong phú. Ở họ có những phẩm chất chung của những
chiến sĩ thanh niên xung phong ở tuyến đường trường Sơn, đó là tinh thần trách nhiệm
cao với nhiệm vụ và lòng dũng cảm không sợ hi sinh. Theo tiếng gọi của Tổ quốc họ

150
phải lên đường và khi đã lên đường là phải hoàn thành tốt nhiệm vụ, với họ những ai phải
ngồi trực điện thoại trong hang là một cực hình, có bao nhiêu trái bom chưa nổ họ không
cần ai giúp mà phân công cho nhau phá “Tôi một quả bom trên đồi, Nho hai quả bom dưới
lòng đường, chị Thao một quả dưới chân cái hầm Barie cũ”. Đặc biệt tinh thần dũng cảm
của các cô gái trẻ được bộc lộ rõ nét trong những lần phá bom. Ở họ còn có những nét
chung rất đáng yêu của những cô gái trẻ dễ xúc cảm, mơ mộng, trong sáng. Họ thích làm
đẹp cho cuộc sống của mình ngay trong hoàn cảnh ác liệt: Nho thích ăn kẹo, chị Thao thích
chép bài hát, thích thêu thùa, còn Phương Định thích ngắm mắt mình trong gương và ngồi
bó gối mơ màng và chỉ cần một cơn mưa đá thoáng qua cũng khiến họ vui thích. Những
cảm xúc hồn nhiên ấy như nguồn sống, như điểm tựa giúp họ thêm vững vàng để họ vượt
qua những khó khăn, gian khổ. Cuộc sống ở chiến trường rất khó khăn nhưng họ vẫn luôn
bình tĩnh, lạc quan, yêu đời. Trong hang vẫn vang lên tiếng hát của ba cô gái và những dự
định về tương lai. Chiến tranh bom đạn không thể phá đi được những giây phút mơ mộng
ấy. Đó còn là thời gian để nhớ về gia đình, về những kỉ niệm, là niềm vui của Nho và
Phương Định khi thấy những cơn mưa đá.
Chiến tranh cũng không tiêu diệt được tình đồng đội gắn bó khăng khít, sâu nặng trong
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính”:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua của kính vỡ rồi”
Cái “bắt tay” chân thành qua cửa kính vỡ đã bộc lộ vẻ đẹp của tình đồng đội đơn sơ, giản
dị nhưng vô cùng sâu nặng. Cái bắt tay ấy như là sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau; là lời
động viên thầm lặng mà nồng hậu của người lính Trường Sơn. Đó còn là sự mừng vui, là
chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến
thắng.
Ở họ còn có sự gắn bó, đầm ấm, thân thương như trong một gia đình: “ Chung bát đũa
nghĩa là gia đình đấy”, đây là những giây phút bình yên hiếm hoi trong cuộc đời người
lính. Bữa cơm thời chiến vội vã đã xóa đi mọi khoảng cách, giúp họ có cảm giác gần gũi,
thân thương như ruột thịt
Những ngôi sao xa xôi
Cái không tiêu diệt được trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” cũng là tình đồng
đội keo sơn, gắn bó. Điều này được thể hiện sâu sắc trong một lần phá bom Nho bị thương
Phương Định và chị Thao đã chăm sóc cho Nho như một người em gái. Phương Định bế
Nho lên, rửa vết thương cho Nho bằng nước đun sôi, tiêm thuốc cho Nho; còn chị Thao
lúng túng, lo lắng. Không chỉ vậy, với Phương Định mỗi lần đồng đội đi làm nhiệm vụ ở
ngoài cao điểm là cô lo lắng và căng thẳng.
Đặc biệt cô dành tình cảm yêu mến khâm phục những chiến sĩ hàng đêm cô gặp trên con
đường ra mặt trận đối với cô: “Những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng
nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ”. Đó là tình cảm thể hiện trong sự
nể phục, kính trọng.

151
Cũng không thể tiêu diệt được lòng dũng cảm, sẵn sàng hi sinh và lòng yêu nước
nồng nàn. Ở “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đó là phong thái ung dung, hiên ngang,
dũng cảm:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng”
Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” gợi lên sự điềm tĩnh, bình thản, lạc quan, yêu
đời của những người lính lái xe; họ vẫn tiếp tục công việc của mình dù cho xung quanh có
xảy ra những điều dữ dội, đau thương, mất mát. Điệp từ “nhìn” kết hợp với thủ pháp liệt
kê “đất, trời, thẳng” để nói lên những người lính không hề né tránh hiện thực gian khổ, hy
sinh; họ sẵn sàng đối mặt với gian nan, thử thách – một bản lĩnh vô cùng vững vàng. Ngoài
ra ở họ còn mang ẻ đẹp của lí tưởng cách mạng:
“Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Vẻ đẹp của người lính cách mạng được thể hiện qua câu “Xe vẫn chạy vì miền nam phía
trước” cho thấy ý chí quyết tâm của người lính, cũng là lời khẳng định về một ngày mai
chiến thắng. Biện pháp hoán dụ “trái tim” để chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm
xưa; cũng là ý chí, tâm huyết, sức lực mà người lính dành trọn cho đất nước. “Trái tim”
còn là một ẩn dụ cho tinh thần, trách nhiệm, cho ý chí chiến đấu. Có thể coi câu thơ cuối là
câu thơ hay nhất của bài vì chỉ cần có “một trái tim”, một trái tim yêu nước, một lòng khao
khát giải phóng miền Nam thì tất cả những thiếu thốn kia đâu có hề gì. Nó tiêu biểu cho vẻ
đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ, là một biểu tượng của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng thời chống Mĩ.
Tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” đó là tinh thần trách nhiệm cao với công việc, nhiệm
vụ. Khi
có lệnh là những nữ chinh sát mặt đường đi làm nhiệm vụ ngay, họ quyết tâm hoàn thành
nhiệm vụ phá bom mở đường cho những đoàn xe nối đuôi nhau ra tiền tuyến và về đích an
toàn. Trong khi phá bom họ chỉ quan tâm đến một điều duy nhất: Liệu bom có nổ không,
nếu không thì làm cách nào để bom nổ: “Có ở đâu như thế này không thần kinh căng như
chão, tim đập bất chấp nhịp điệu, xung quanh có nhiều quả bom chưa nổ, nó có thể nổ bây
giờ, có thể nổ chốc nữa nhưng nhất định sẽ nổ”. Như vậy, với họ nhiệm vụ còn quan trọng
hơn tính mạng bản thân.
Ở họ luôn có sự gan dạ, dũng cảm, không sợ hy sinh: Cuộc sống trong bom đạn chiến
tranh cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào, song họ chưa bao giờ thấy ám ảnh, chưa bao
giờ phải trằn trọc đêm đêm, cái chết đối với họ là một khái niệm rất mờ nhạt, không cụ thể.
Lòng dũng cảm còn thể hiện qua sự kiên cường trong chiến đấu. Chị Thao rất gan dạ, ai
cũng phải phát bực về cái tính bình tĩnh đến lạ của chị. Nho cũng rất kiên định, dũng cảm
khi bị thương không hề rên la, không muốn đồng đội phải lo lắng cho mình. Còn Phương
Định bình tĩnh gan dạ, trong một lần phá bom, một mình Phương Định phá quả bom trên
đồi quang cảnh vắng lặng đến phát sợ, lẽ ra Phương Định phải đi khom người nhưng sợ
các anh cao xa có cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt nhìn thấy từng hành
động cử chỉ của mình nên Phương Định cứ: “Đàng hoàng mà bước tới” và thế là lòng dũng
cảm của cô đã được kích thích bằng sự tự trọng.

152
Cả hai tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” và “Những ngôi sao xa xôi” đã tái
hiện chân thực cuộc sống đầy khó khăn nơi chiến trường, nhưng đồng thời làm ánh lên vẻ
đẹp phẩm chất ngời sáng đó là lòng dũng cảm, tình đồng đội keo sơn và lòng yêu nước
nồng nàn. Những tình cảm đẹp đẽ đó, bom đạn chiến tranh mãi mãi không thể xóa nhòa,
vui lấp. Hai tác phẩm cũng thành công khi sử dụng ngôn ngữ giản dị, trong sáng, giàu cảm
xúc.
3. Kết bài:
Năm tháng trôi đi và lịch sử không ngừng biết động, “Những ngôi sao xa xôi” của Lê
Minh Khuê; “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật mãi là những bông
hoa không tuổi tựa mùa xuân không ngày tháng, đã ghi lại cái quá khứ hào hùng, sôi động
của đất nước mình một thuở. Văn học thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã bắt được
cái nhịp sống của dân tộc, đã ngợi ca sức sống và vẻ đẹp của con người. Cả hai tác phẩm sẽ
sống mãi với thời gian, đặc biệt vẻ đẹp của những chàng trai, cô gái thanh niên xung phong
sẽ sống mãi mà “chiến tranh không tiêu diệt được”. Và ta mãi cất lên những bài ca
không bao giờ quên về hai tác phẩm này.
…………………………………………………………………………………
51: Vẻ đẹp người lao động mới trong hai tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận)
và “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long).
1. Mở bài:
Nguyễn Thành Long là nhà văn quen thuộc với bạn đọc yêu thích truyện ngắn Việt Nam
hiện đại. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được viết sau chuyến đi thực tế của nhà văn ở Sa
Pa. Qua nhân vật anh thanh niên và một số nhân vật khác, tác giả ca ngợi phẩm chất tốt đẹp
của những con người lao động mới đang ngày đêm âm thầm cống hiến cho đất nước. Huy
Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thi ca hiện đại Việt Nam. Bài thơ “Đoàn
thuyền đánh cá” được viết nhân chuyến đi thực tế của nhà thơ ở vùng biển Quảng Ninh.
Bài thơ ca ngợi tinh thần lao động phấn khởi, hăng say của những người dân chài trên vùng
biển quê hương.
2. Thân bài:
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Một không khí phấn khởi, hăng say lao động kiến thiết đất nước, làm hậu
phương vững chắc cho chiến trường miền Nam dấy lên ở khắp nơi. Các tác phẩm “Đoàn
thuyền đánh cá” của Huy Cận và “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long đều là kết quả
của những chuyến thực tế mà tác giả sống trực tiếp, phản ánh không khí lao động và nhất
là thể hiện hình ảnh của những con người lao động thời kì này.
Hình tượng người lao động mới là chỉ những con người lao động thầm lặng trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trong “Đoàn thuyền đánh cá” là hình ảnh
những người ngư dân trong cảnh lao động tập thể. Trong “Lặng lẽ Sa Pa” là hình ảnh của
những người trí thức khoa học, tiêu biểu là anh thanh niên.
Công việc, điều kiện làm việc của họ đầy gian khó, thử thách. Người ngư dân trong bài
thơ Đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi thiên nhiên, vũ trụ vào trạng thái nghỉ ngơi. Đánh cá
trên biển là một công việc rất vất vả và nguy hiểm. Nhưng những người ngư dân đã hòa
nhập với thiên nhiên bao la và trở thành hình ảnh sáng đẹp:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

153
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Mặt trời từ từ lặn xuống lòng biển được tác giả ví như “ hòn lửa” đỏ rực. Với cách so sánh
này, làm hiện ra trước mắt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây ngất
lòng người. Nhưng không gian đẹp đẽ ấy cũng chỉ diễn ra trong chốc lát rồi nhường chỗ
cho màn đêm lan tỏa. Với nghệ thuật nhân hóa “ sóng cài then, đêm sập cửa” đã thể hiện
sự dứt khoát về thời khắc chuyển giao không gian, khiến thiên nhiên như những con người
biết hoạt động, biết nghỉ ngơi. Vũ trụ giờ đây như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn
sóng dài như chiếc then cài, còn màn đêm đang buông xuống chính là cánh cửa. Hình ảnh
hoán dụ “đoàn thuyền đánh cá” và phụ từ “lại” diễn tả nhịp điệu lao động của người dân
chài đã ổn định, nề nếp. Đồng thời cho ta hiểu đây là công việc, là hoạt động hàng ngày,
thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển.
Trong hoàn cảnh thiên nhiên đi vào nghỉ ngơi, còn con người lại bắt tay vào lao động đây
là sự đối lập giữa thiên nhiên và con người, từ đó gợi lên cả nhịp sống thanh bình của quê
hương, đất nước. Với nghệ thuật ẩn dụ“Câu hát căng buồm” gợi lên niềm vui, sự phấn
khởi, tình yêu lao động, tinh thần lạc quan của những con người lao động mới. Cánh
buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới đi lên của công cuộc dựng xây đất
nước.
Trong “Lặng lẽ Sa Pa”, anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao
2600 mét.
Nói về hoàn cảnh sống và công việc của anh. Theo lời bác lái xe thì anh là người “cô độc
nhất thế gian”, công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt
đất….” rồi ghi chép lại và báo về trung tâm, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày,
phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Chỉ quanh quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn thôi
nhưng lại quan trọng vô cùng, ấy thế nên anh đã sống hết mình vì nó. Mỗi ngày anh đo và
báo số liệu về trạm bốn lần. Nửa đêm, đúng giờ ốp dù mưa tuyết, gió rét thế nào thì anh
vẫn phải trở dậy làm việc. Xách đèn ra vườn, gió tuyết vù lặng im ờ bên ngoài như chi
chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nỏ như bị gió chặt ra
từng khúc, mà gió thì như những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung…
Trong điều kiện khắc nghiệt như vậy nhưng những người lao động ấy vẫn nhiệt tình,
hăng say, mang hết sức lực của mình để cống hiến cho Tổ quốc. Những người ngư dân là
những con người lao động tập thể. Họ hăm hở:
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Câu thơ với biện pháp nhân hóa đã biến con thuyền biết “đậu” “dò” biển cả; hằng đêm,
họ phải vượt qua bao nhiêu dặm biển trong cảnh trời đêm, ra đậu ngoài khơi xa; không chỉ
thế họ còn phải “dò bụng biển” để có thể tìm được các bãi cá. Sau đó những chiếc thuyền
sẽ tỏa ra, thả lưới bủa vây để đánh bắt cá. Thành ngữ “ dàn đan thế trận” nói lên tư thế sẵn
sàng, quyết tâm đem về thành quả lao động dù có lắm khó khăn, vất vả. Qua đó thể hiện
niềm vui phơi phới, khỏe khoắn của người lao động làm chủ công việc của mình với sự
hào hứng, hăng say. Họ làm việc nhiệt tình, hăng say trong câu hát:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
154
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan
và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Đi đánh cá từ
ngàn đời nay may rủi là chuyện thường tình. Vì vậy, trong câu hát ta đọc được những
ước mong của họ. Đó là ước mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh
bắt được nhiều. Giọng điệu lời thơ như ngân lên ngọt ngào, ngân dài và xa mãi. Các
hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét sáng tạo độc đáo đem đến cho
người đọc một cảm nhận thứ vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Anh thanh niên có những suy nghĩ đúng đắn, sâu sắc về công việc. Qua đó, anh có thể
hoàn thành nghĩa vụ và ước mơ cống hiến cho Tổ quốc của mình. Anh lựa chọn cho mình
làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, dù công việc này có lắm khó khăn, đòi hỏi tính
tỉ mỉ chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao nhưng anh lại tìm thấy niềm vui ở nó “ khi
ta làm việc ta với công việc là đôi”. Đẹp nhất ở anh là tư tưởng sống “không chỉ cho bản
thân mà là cho đất nước, cho dân tộc”, chính lí tưởng đó đã hướng anh đi theo con đường
lao động đúng đắn và có ích. Anh cũng như bao người bình thường khác, trong suy nghĩ
cũng từng có những ngại ngần và tâm lí sợ sự cô đơn trước con đường đời đã chọn. Nhưng
tuổi trẻ và lí tưởng cao đẹp nơi anh đã lấp đầy khoảng trống ấy bằng tấm lòng yêu nghề, sự
say mê lao động của mình: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn
đến chết mất”. Từ trải nghiệm về công việc, anh yên tâm đón nhận con đường mình đang
tiến tới bằng lý tưởng cao đẹp về công việc lao động của mình.
Đó còn là những con người sống có lí tưởng và tràn đầy lạc quan. Họ thực sự tìm thấy
niềm hạnh phúc trong công việc lao động đầy gian khổ. Đánh cá trong đêm đầy vất vả,
nguy hiểm, người ngư dân đã thu về thành quả thật tốt đẹp. Họ ra đi, làm việc và trở về đều
trong câu hát. Hình ảnh thơ cuối bài rạng rỡ niềm vui, tin tưởng, hy vọng của người lao
động. Họ vui say lao động vì một ngày mai tươi sáng:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Vẫn là tiếng hát khỏe khoắn của người ngư dân dạn dày sóng nước đang vươn lên làm
chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm
trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh đoàn thuyền chạy
đua cùng mặt trời rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời
của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng, đồng thời cũng thế hiện khí thế đi lên
mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước sau giải phóng.
Lí tưởng sống của anh thanh niên là vì nhân dân, vì đất nước. Chính từ suy nghĩ: Mình
sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc? mà anh đã vượt lên nỗi thèm người để
gắn bó với đỉnh Yên Sơn trong công việc thầm lặng. Trong cái lặng im của Sapa ấy, không
phải chỉ có anh thanh niên mà còn có cả thế giới những người làm việc và lo nghĩ cho đất

155
nước qua lời anh kê như: ông kĩ sư vườn rau, đồng chí cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét…
Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong lao động cống hiến.
Nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” và hình ảnh ngư dân lao động trong
“Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là hiện thân của vẻ đẹp người lao động một thời. Đó
là những người ưu tú của quê hương trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Người lao động vô danh trong hai tác phẩm đủ mọi thành phần, lứa tuổi, nghề nghiệp, dù
ở núi cao hay biển xa đều là những người nhiệt tình, say mê công việc, sống có lí tưởng.
Họ là điển hình cao đẹp của con người lao động mới, con người trưởng thành trong công
cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Hai tác giả đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh người lao động thật lạc quan, yêu
đời và sống có trách nhiệm. Chính họ đã đóng góp một phần công sức lớn lao của mình
vào việc đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, là hậu phương vững chắc bảo vệ Tổ quốc thân yêu.
Càng khâm phục họ, thanh niên chúng ta phải ra sức học tập để sau này trở thành người
sống có ích để xây dựng đất nước ngày càng phát triển, văn minh.
3. Kết bài:
Hình ảnh của những con người lao động qua hai tác phẩm: “Đoàn thuyền đánh cá” của
Huy Cận và “Lặng lẽ SaPa” của Nguyễn Thành Long họ luôn chiến đấu với sóng gió, với
những khó khăn muôn trùng, nhưng bằng sự nhiệt tình trong lao động, bằng niềm tin lạc
quan tin tưởng vào công việc xây dựng chủ nghĩa XH. Trong trái tim của những người lao
động ấy luôn chất chứa tình yêu nước thật tuyệt vời, thật đáng trân trọng. Hình ảnh của họ
chính là vóc dáng dân tộc một thời hào hùng đáng nhớ
…………………………………………………………………………………
52: Ra-xum Ga-đa-tốp được mệnh danh là nhà thơ của mọi thời đại có dành cho báo Nước
Nga văn học một cuộc trò chuyện, trong đó bày tỏ sâu sắc suy nghĩ của mình về văn học:
“...Nền tảng của bất kì tác phẩm nào phải là chân lí được khắc họa bằng tất cả tài nghệ của
nhà văn. Cần phải hát đúng giai điệu về thời đại mình và phải miêu tả nó một cách trung
thực bằng những hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả tạo”
(Đọc hiểu văn bản, SGK Ngữ văn 9 – 2005, trang 160)
Em hiểu lời bàn trên như thế nào? Bằng sự hiểu biết của mình về hoàn cảnh lịch sử đất
nước, con người Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, hãy làm
sáng tỏ lời bàn ấy qua tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” của Phạm Tiến Duật.
1. Mở bài:
Văn học nghệ thuật bao giờ cũng lấy chất liệu từ đời sống hiện thực khách quan. Người
nghệ sĩ phải phản ánh hiện thực đó một cách vừa trung thực vừa sáng tạo. Bởi vậy, Ra-xum
Ga-đa-top đã bày tỏ sâu sắc suy nghĩ của mình về văn học: “...Nền tảng của bất kì tác
phẩm nào phải là chân lí được khắc họa bằng tất cả tài nghệ của nhà văn. Cần phải hát
đúng giai điệu về thời đại mình và phải miêu tả nó một cách trung thực bằng những hình
ảnh hấp dẫn, không một chút giả tạo”. Trong hoàn cảnh đất nước Việt Nam nửa cuối thế kỉ
XX – đương đầu với thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Văn học cách mạng đã hướng ngòi bút
vào hiện thực ấy, ca hát về thời đại mình khổ đau mà vô cùng vĩ đại, trong đó có “Đồng
chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
2. Thân bài:

156
Vậy ta phải hiểu chân lí là gì? Đó là sự phản ánh sự vật hiện tượng của hiện thực vào
nhận thức của con người đúng như chúng tồn tại. Còn văn học là thư kí của cuộc sống hiện
thực, là tấm gương phản chiếu hiện thực thông qua lăng kính chủ quan và sự sáng tạo của
người cầm bút. Hiện thực được phản ánh phải trung thực, phù hợp với hoàn cảnh của thời
đại: “... Nền tảng của bất kì tác phẩm nào phải là chân lí được khắc họa bằng tất cả tài nghệ
của nhà văn”.
Với tài năng của người nghệ sĩ, hiện thực cuộc sống được ghi lại trong tác phẩm bằng
những hình ảnh hấp dẫn và sáng tạo để tác phẩm đó sống mãi với thời gian. Vì vậy, văn
học thường mang nội dung cụ thể của thời đại mình.
Nền tảng chân lý của bài thơ “Đồng chí” là hiện thực của đất nước trong cuộc kháng
chiến trường kỳ chống thực dân Pháp từ 1946 - 1954. Dân tộc ta tiến hành cuộc kháng
chiến với bao khó khăn, gian khổ và thiếu thốn. Lực lượng chính là nông dân. Họ sẵn sàng
hi sinh tất cả sức người, sức của để giành lấy độc lập, tự do. Và bài thơ “Đồng chí” được
sáng tác năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc của quân và dân ta đánh thắng cuộc tiến công
quy mô lớn của quân Pháp cuối năm 1947 lên khu căn cứ địa Việt Bắc. Chính Hữu – một
nhà thơ, một người chiến sĩ lúc đó là chính trị viên đại đội thuộc trung đoàn Thủ đô, cùng
đơn vị của mình tham gia chiến đấu suốt chiến dịch. Bài thơ ra đời là kết quả của những
trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu xa, mạnh mẽ của tác giả với những người đồng đội
trong chiến dịch Việt Bắc.
Còn nền tảng chân lý của “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là hiện thực của đất nước
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1954 đến 1975. Miền Bắc vừa xây
dựng đất nước, vừa làm hậu phương vững chắc cho miền Nam. Giặc Mỹ đã gây ra cuộc
chiến tranh hủy diệt, tàn khốc với dân tộc Việt Nam. Song cả dân tộc với tinh thần độc lập,
tự do đã đoàn kết đứng dậy đấu tranh, quyết đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Đặc
biệt là tinh thần của lớp thanh niên quyết “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” - Tố Hữu.
Phạm Tiến Duật cũng là một nhà thơ - chiến sĩ có mặt trong đội ngũ trùng trùng điệp điệp
ấy. Ông đã sáng tác “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” năm 1969, khi ông trực tiếp ngồi
trên những chiếc xe không kính, cùng đoàn xe tiến thẳng vào miền Nam qua tuyến đường
Trường Sơn.
Hai bài thơ đã phản ánh trung thành hiện thực chiến tranh của đất nước: khổ đau mà vĩ
đại, bi tráng mà hào hùng. Khẳng định chân lý bất biến của dân tộc: “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do!” - Hồ Chí Minh.
Giai điệu về thời đại được nhà thơ Chính Hữu khai thác từ hiện thực của cuộc chiến đấu
đầy khó khăn gian khổ, hi sinh của người lính trong buổi đầu kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược. Hệ thống hình ảnh trong bài thơ từ hiện thực đó đi vào tác phẩm không hề
tô vẽ. Cũng nhờ vậy mà vẻ đẹp đồng chí được tỏa sáng:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!...

157
…“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Đồng chí - họ là những người nông dân mặc áo lính, từ những vùng quê nghèo khó hội
tụ về thành đồng chí, đồng đội. Họ là những người cùng chí hướng, cùng nhiệm vụ cầm
súng bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Buổi đầu xa lạ để rồi thành “tri kỉ”, thành “đồng
chí”, họ lại chia sẻ với nhau những khó khăn, thiếu thốn “thương nhau tay nắm lấy bàn
tay” để vượt qua tất cả.
Họ cùng chung cuộc sống gian nan, thiếu thốn: “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, “áo
rách”, “quần tôi có vài mảnh vá”, “miệng cười buốt giá”, “chân không giầy”, “rừng hoang
sương muối”.
Gian nan, thiếu thốn, hi sinh nhưng lí tưởng của người lính vô cùng cao đẹp. Đó là lí
tưởng chiến đấu bảo vệ đất nước. Vẻ đẹp chân thực nhưng cũng rất hào hoa của người lính
được nhà thơ thể hiện bằng hình ảnh nghệ thuật đầy sáng tạo: “Đầu súng trăng treo”. Đây
là một hình ảnh thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa
rừng khuya, đồng thời nó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng
phong phú sâu xa. “Súng” biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực chiến đấu khắc nghiệt,
cho người chiến sĩ. “Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp hòa bình, cho ảo mộng và lãng mạn,
cho người thi sĩ. Hai hình ảnh “súng” và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng
đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà lãng mạn. Hình ảnh ấy còn gợi
vẻ đẹp của tình đồng chí sáng trong, cho vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo, lãng mạn. Đồng thời
còn gợi vẻ đẹp tâm hồn dân tộc Việt Nam – một dân tộc mà bàn tay giữ chắc cây súng để
bảo vệ những khát vọng thanh bình.
Hình ảnh người lính thể hiện lên chân thực, giản dị, gắn bó keo sơn trong mọi hoàn cảnh.
Vất vả, gian nan nhưng họ vẫn lạc quan, vẫn tin ở thắng lợi cuối cùng. Bài thơ Đồng chí
trở thành biểu tượng cho thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Còn giai điệu về thời đại trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được nhà thơ Phạm
Tiến Duật khai thác từ hiện thực những chiếc xe không kính và người chiến sĩ lái xe trên
tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Giặc Mĩ bắn phá miền
Bắc ác liệt với âm mưu hủy diệt, chặn đứng con đường huyết mạch nối liền hai miền Nam
- Bắc. Dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, những chiếc xe vận tải tiếp sức cho tiền tuyến đã
bị biến dạng: không kính, không đèn, không mui... Song chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta
đi, những chiếc xe vẫn ngày đêm băng qua bom đạn tiến thẳng ra mặt trận, đã trở thành
biểu tượng của một dân tộc anh hùng, phản ánh đúng tính chất khốc liệt của cuộc chiến.
Hình ảnh thơ trần trụi nhưng lại là hình ảnh độc đáo, đầy sáng tạo của nhà thơ. Nhờ đó mà
bài thơ đã được lưu truyền rộng rãi trong công chúng, được nhiều người ưa thích:
“ Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng...

…Không có kính rồi xe không có đèn


Không có mui xe, thùng xe có xước

158
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Song cái giai điệu về thời đại mà nhà thơ Phạm Tiến Duật muốn ca hát, đó là vẻ đẹp hình
tượng người chiến sĩ lái xe. Với tư thế ung dung, tinh thần lạc quan, yêu đời, thái độ coi
thường hiểm nguy, thử thách, trẻ trung hồn nhiên, ấm áp tinh thần đồng đội, ý chí quyết
tâm giải phóng miền Nam của người lính trẻ, nhà thơ đã tạc nên chân dung người lính -
tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ: bất khuất, kiên cường, kiêu hùng và lãng mạn.
Bài thơ vừa mang không khí của thời đại, vừa mang tầm vóc lịch sử. Đó là tiếng nói của
cuộc sống hiện thực hào hùng, oanh liệt thời chống Mĩ. Nó là biểu tượng anh hùng tuyệt
vời về người lính Trường Sơn. Bài thơ góp phần làm sống mãi hình ảnh thế hệ thanh niên
thời đại Hồ Chí Minh gian khổ mà oanh liệt “Vang tự hào giữa thế kỉ hai mươi” - Tố Hữu.
Hai bài thơ là hai giai điệu minh chứng cho thực tế lịch sử; là bài ca ca ngợi về người
lính giúp thế hệ sau thấy được thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ
gian khổ, hi sinh nhưng rất anh hùng.
3. Kết bài:
Bằng tài năng, tâm huyết và sự sáng tạo, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã góp mặt vào
thơ ca kháng chiến hai thi phẩm - hai bài ca sống mãi với thời gian làm rung động lòng
người. Hình ảnh những người lính trong hai bài thơ hiện lên thật đẹp đẽ, họ chính là biểu
tượng, là niềm tin, khát vọng của nhân dân gửi gắm nơi họ. Ở các anh, người đọc nhận
thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng vô cùng. Vẻ đẹp của nó đã chứng minh
cho nhận định của Ra-xum Ga-đa-tôp là hoàn toàn đúng đắn: “Hát đúng giai điệu về thời
đại của mình” và “Miêu tả một cách trung thực bằng hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả
tạo”.
…………………………………………………………………………………
53: “Những điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy
nghĩ khác trong óc người khác, có sẵn mà chưa rõ hay chưa được đúng.” (Nguyễn Thành
Long, “Lặng lẽ Sa Pa”). Điều gì trong những suy nghĩ của các nhân vật trong truyện gây
được ấn tượng đậm nét cho em? Nêu cảm nghĩ của em về điều đó.
1. Mở bài:
Trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, nhân vật ông hoạ sĩ già ít
được bạn đọc chú ý tới. Nhưng dường như chính tác giả Nguyễn Thành Long đã hoá thân
vào người nghệ sĩ cao tuổi này, giàu kinh nghiệm đời, say mê sự nghiệm sáng tạo để gửi
tới bạn đọc những điều tâm đắc về cuộc sống, về con người. Một trong những điều tâm đắc
nhất phải chăng đã được biểu hiện trong giây phút xao động trong tâm hồn của nhà hoạ sĩ.
Khi trò chuyện với anh thanh niên khí tượng, ông đã nghĩ: “Những điều suy nghĩ đứng đắn
bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác...”.
Vậy, những vang âm nào đã ngân lên từ tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” ? Phải chăng đó là anh
thanh niên và cảnh đẹp nơi núi rừng ở Sa Pa lặng lẽ này.
2. Thân bài:
Trước hết, đó là vang âm của cuộc gặp gỡ giữa ông hoạ sĩ, cô kĩ sư nông nghiệp và anh
thanh niên khí tượng. Làm một công việc âm thầm, lặng lẽ, trên đỉnh núi cao 2600 mét,
giữa mênh mông đất trời, sương tuyết, anh thanh niên vẫn yêu đời, đầy trách nhiệm, cần
cù, dũng cảm. Anh không để xảy ra sơ suất nào trong nhiệm vụ đã đành, anh còn biết tự

159
tạo một cuộc sống nề nếp, phong phú và thơ mộng: nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. Thỉnh
thoảng xuống núi, anh tìm gặp bác lái xe, cùng khách qua đoàn để thăm hỏi, giúp đỡ, để
vơi bớt nỗi cô đơn, nỗi “nhớ người”... Con người ấy đã biết sống một cuộc sống thật đẹp,
thật phong phú, một cuộc sống làm chủ mình, giúp ích cho đời. Kể về một lần, nhờ anh
góp phần phát hiện một đám mây khô nên không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực, anh
đã sung sướng nói với ông hoạ sĩ: “Từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc”. Ý thức sâu sắc
mục đích việc mình làm, say mê làm việc để đạt hiệu quả, thấm thía niềm vui, tìm được
hạnh phúc trong cuộc sống, phong cách sống ấy của anh thanh niên khí tượng khiến ông
hoạ sĩ xúc động nhủ thầm “người con trai ấy đáng yêu thật”. Phải chăng đó chính là những
vang âm từ một cách sống? Đối với ông hoạ sĩ, anh thanh niên không chỉ đáng yêu vì cách
sống mà còn vì những điều anh suy nghĩ. Đó cũng là những âm vang vừa có chiều sâu vừa
có sức khơi gợi. Thứ nhất, về quan niệm “người cô độc”, anh nói với hoạ sĩ: “khi ta làm
việc, ta với công việc là đôi... huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em
đồng chí dưới kia”. Rồi tâm sự với cô kĩ sư: “Lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa
là có sách ấy mà”. Thứ hai, về nỗi “nhớ người”, anh cho rằng: “người thì ai mà chả
“thèm”... Mình sinh ra làm gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?”. Thứ ba, về vị trí
cuộc sống, về ấn tượng mà mỗi con người tạo ra trong đời, anh luôn luôn cảm thấy mình
nhỏ bé, bình thường so với nhiều người khác. So độ cao nơi ở, anh không bằng người bạn
“Trên trạm đỉnh Phăng-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét”. Tìm một chân dung
cho tác phẩm hội hoạ, anh giới thiệu ông kĩ sư vườn rau, ngày này sang ngày khác rình
xem cách ong thụ phấn cho su hào để nâng cao năng suất trồng rau; rồi một người làm
công tác nghiên cứu khoa học, mười năm không một ngày xa cơ quan, luôn trong tư thế
sẵn sàng đợi sét để lập bản đồ sét, tìm cho ra của chìm dưới lòng đất của Tổ quốc. Thứ tư,
về vùng đất anh đang sống và làm việc mà anh thấu hiểu hơn ai hết: “Trong cái im lặng của
Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến
chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”. Thế
đấy, mỗi suy nghĩ của con người trẻ tuổi ấy đều thấm đẫm tình yêu con người, yêu cuộc
sống, yêu mến và tự hào về mảnh đất mình đang sống. Chính những suy nghĩ và tình cảm
ấy đã trở thành sức mạnh, thành điểm tựa để anh làm việc, học tập, vươn lên trong những
đỉnh cao trong cuộc sống. Anh biết sống cho một sự nghiệp lớn lao là công cuộc xây dựng
đất nước, cũng biết sống cho riêng mình và chia sẻ với mọi người. Vì thế, gặp gỡ, trò
chuyện với anh, ông hoạ sĩ cảm thấy “nhọc quá”; cô kĩ sư nông nghiệp dạt lên trong lòng
“một ấn tượng hàm ơn”... Trước anh chàng trẻ tuổi đáng yêu, ông hoạ sĩ ngỡ như lồng
ngực có thêm một quả tim nữa, hay chính là quả tim cũ được “đề cao” lên? Đang bước vào
tuổi già, tuổi của những nghỉ ngơi, ông bỗng trẻ lại, thấy yêu thêm cuộc sống, khao khát
sống, khao khát sáng tạo. Vừa nói chuyện, ông vừa kí hoạ hình ảnh anh thanh niên. Bàn tay
ông như có thần, trái tim rung động, trí tuệ minh mẫn, suy nghĩ bao nhiêu điều tốt lành về
cuộc sống, con người và mảnh đất Sa Pa. Như vậy, cảm giác “mệt nhọc” của người nghệ sĩ
ấy chính là một niềm vui, niềm hạnh phúc. còn cô kĩ sư nông nghiệp, cái ấn tượng về trách
nhiệm dạt lên trong lòng là những gì? Có phải đó cũng là những thu lượm bổ ích, phong
phú, tươi non về nhận thức, về tâm hồn? Từ lúc bắt đầu lên xe, rồi được gần ông hoạ sĩ,
được ông giúp đỡ, chăm sóc như với con gái, đến khi thăm vườn hoa, căn nhà và trò
chuyện với anh thanh niên làm công tác khí tượng, cô gái hiểu ra bao nhiêu điều về cuộc

160
sống. Cô hiểu anh thanh niên, hiểu cái thế giới những con người mà anh kể, và quan trọng,
thiêng liêng sâu sắc nhất là “cô hiểu con đường cô đang đi tới”. Cô gái bàng hoàng, xúc
động như giây phút tuổi trẻ đón nhận một tình yêu, tình yêu đích thực, chứ không phải mối
tình nhạt nhẽo, sai lầm vừa qua. Cô yên tâm và tin tưởng ở con đường mình đang đi tới, ở
công việc mình đã lựa chọn. Do đó, khi ôm bó hoa anh thanh niên tặng, cô gái hồi hộp và
sung sướng vì nhận được một kỉ niệm đẹp của một tấm lòng, cũng “vì bó hoa nào khác
nữa, bó hoa của những háo hức và mộng mơ” đang bừng nở với muôn vàn hương sắc trong
tâm hồn cô. Cô kĩ sư nông nghiệp đã “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Tuy là hai
nhân vật phụ, cô kĩ sư cũng như ông hoạ sĩ vẫn được nhà văn trân trọng gửi gắm nhiều ý
tưởng. Hình ảnh cuối cùng của họ - “Ông xách cái làn trứng, cô ôm bó hoa to. Lúc bấy giờ,
nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiều
làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ” - hệt như một bức tranh óng ánh sắc màu. Có thể nói,
cuộc gặp gỡ của ba nhân vật giữa mịt mờ sương tuyết mà vẫn nồng ấm tình người, y như
một mối duyên kì ngộ. Chỉ tiếp xúc trong ba mươi phút, họ đủ hiểu nhau, toả sáng cho
nhau, khơi gợi trong nhau biết bao điều bổ ích. Điều bổ ích lớn lao nhất cho cả ba con
người thuộc hai thế hệ khác nhau là sự ý thức về vị trí, trách nhiệm mỗi con người trong
công cuộc xây dựng đất nước. Dù họ chia tay nhau, điều bổ ích ấy vẫn vang trong họ và từ
họ, vang âm sang người đọc chúng ta. Thực ra, những vang âm của tác phẩm không đợi
đến cuộc gặp gỡ giữa ba nhân vật ở phần hai.
Tác Phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” còn ngân nga, nhẹ nhàng, ấm áp ngay trong những dòng đầu,
khi bác lái xe giới thiệu đã vào đất Sa Pa, khi những nhân vật bắt đầu gặp gỡ, chuyện trò.
Họ nói về phong cảnh Sa Pa, về những hoạ sĩ đã quá cố, rồi về cuộc sống, con người ngày
nay. Cảnh Sa Pa cứ hiện dần, mỗi lúc một đẹp đẽ, mơ màng. Những nhân vật cũng được
khắc hoạ rõ nét dần. Cảnh thơ mộng, người mộng mơ. Tất cả, từ bác lái xe, đến các hành
khách, ông hoạ sĩ, cô kĩ sư... Dường như trên chuyến xe ấy, mọi người đang đi tìm một
điều gì thật giản dị nhưng cũng thật là thiêng liêng, những khát vọng, những háo hức... Đọc
văn, có cảm giác được lần lần ngắm những tác phẩm hội hoạ lung linh kì ảo: “Nắng bắt
đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những
ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu
màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên
các vòm lá ướt sương rơi”. Ôi, phong cảnh đẹp biết nhường nào? Còn con người thì, như ta
đã thấy, mỗi chân dung, mỗi lời nói, ý nghĩa, hành động đều như ngân lên những vang âm
ngọt ngào, êm ái. Mỗi chữ, mỗi câu trong tác phẩm có hình khối, đường nét, màu sắc...
đậm đà chất hội hoạ. Văn xuôi truyện ngắn mà giàu nhịp điệu, âm thanh, êm ái, mang âm
hưởng của một bài thơ...
Những điều anh suy nghĩ và những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh chính là những
suy tư trăn trở của nhà văn trước cuộc đời. Ý nghĩa ấy được gửi gắm qua hình thức một câu
chuyện nhẹ nhàng, giầu chất thơ.
3. Kết bài:
“Lặng lẽ Sa Pa” - mới đọc tên, ngỡ nhà văn nói về một điều gì... im ắng, hắt hiu, giá lạnh.
Vậy mà, thật kì diệu, trong cái lặng lẽ của Sa Pa vẫn vang ngân lên những âm thanh trong
sáng, vẫn ánh lên những sắc màu lung linh, lan toả hơi ấm tình người và sự sống, sự sống
những rừng cây, những đoá hoa, những tấm lòng nhân hậu. Chính những vang âm, sắc màu

161
và hơi ấm của một vùng lặng lẽ ấy đã khơi gợi trong biết bao lớp người đọc tác phẩm này
tình yêu Tổ quốc, tình yêu con người, những con người đã một thời biết sống đẹp, suy nghĩ
đẹp, để từ đó mà hướng tới, tìm cho mình một vẻ đẹp riêng trong sự sống, cách sống mỗi
con người. Bởi vậy, ý kiến về truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”: “Những điều suy nghĩ đúng
đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác,
có sẵn mà chưa rõ hay chưa được đúng” là hoàn toàn đúng.
…………………………………………………………………………………
54: “Thơ hiện đại không chỉ đem lại những cái mới về nội dung tư tưởng, cảm xúc mà
còn đổi mới về phương thức biểu cảm, về sáng tạo hình ảnh, cấu trúc câu thơ, ngôn
ngữ thơ.”
(Ngữ văn 9, tập 2, trang 200, NXB GD, 2004)
Anh (chị) hãy làm sáng rõ nhận định trên qua tác phẩm “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
1. Mở bài:
Thơ văn là sự phản ánh hiện thực, vinh dự lớn lao nhất của nhà thơ là phản ánh cho được
đời sống chiến đấu và sản xuất của nhân dân. Nó không đơn thuần chỉ là một hoạt động
phản ánh mà còn là hoạt động sáng tạo - sự sáng tạo về nội dung tư tưởng, cảm xúc mà còn
đổi mới về phương thức biểu cảm, về sáng tạo hình ảnh, cấu trúc câu thơ, ngôn ngữ thơ để
đưa tác phẩm tới tay bạn đọc một ấn tượng, một cảm xúc sâu sắc nhất, để nó sống mãi với
thời gian trong lòng mọi người. Bởi có ý kiến: “Thơ hiện đại không chỉ đem lại những
cái mới về nội dung tư tưởng, cảm xúc mà còn đổi mới về phương thức biểu cảm, về
sáng tạo hình ảnh, cấu trúc câu thơ, ngôn ngữ thơ”. Đến với nhà thơ Nguyễn Duy, ta
biết ông là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông là một
gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ yêu nước thời kháng chiến chống mỹ. Sau giải
phóng, ông tiếp tục bền bỉ sáng tác sau ngày đất nước giải phóng. Thơ Nguyễn Duy nhiều
bài có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm vì thế cứ ngấm vào người
đọc và trong cái đà ngấm ấy có lúc khiến người ta phải giật mình suy nghĩ. Bài thơ “Ánh
trăng” thể hiện sâu sắc đặc điểm nghệ thuật ấy của ông; đồng thời có ý nghĩa sâu sắc như
lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của người lính từng gắn bó với thiên
nhiên, đất nước và cả một khát khao, ước vọng truyền cho mọi người lẽ sống, cách sống
trọn vẹn, tình nghĩa.
2. Thân bài:
Trước tiên ta phải biết được thơ hiện đại: được xác định từ đầu thế kỷ XX khi văn học
tiếp thu, chịu ảnh hưởng của các trào lưu văn học phương Tây và ánh sáng cách mạng của
Đảng soi đường. Đặc biệt, sau năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, thơ ca nói riêng
và văn học nói chung có sự giao lưu, tiếp xúc, hội nhập với nền văn học thế giới.
Còn xã hội, con người, tư tưởng cũng thay đổi theo thời đại. Việc phản ánh tâm tư, tình
cảm mới đòi hỏi văn học, thơ ca hiện đại cũng phải thay đổi để phù hợp với sự tinh tế,
nhạy cảm và phong phú đa dạng trong đời sống tinh thần của thế hệ, con người Việt Nam.
Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy viết năm 1978, khi đất nước Việt Nam bước sang
trang mới sau chiến thắng huy hoàng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Bắc Nam sum họp
một nhà. Ba năm trôi qua, con người Việt Nam vẫn ở trong trạng thái hưởng niềm vui
chiến thắng nên nhiều khi quên mất quá khứ gắn bó, vất vả đau thương. Và nhiều khi chợt
nhận ra sự vô tình, lãng quên của mình… “Ánh trăng” thể hiện những trăn trở, suy ngẫm

162
của nhà thơ và xu hướng đổi mới của thơ ca Việt Nam hiện đại. “Ánh trăng”, tuy là một
bài thơ nhỏ nhưng lại mang đến một bài học lớn.
Đến với bài “Ánh trăng” ta thấy được cái mới về nội dung, tư tưởng, cảm xúc: Đó chính
là sự phản ánh tâm trạng của người chiến sĩ - một lớp người rất đông trong xã hội vừa trải
qua giai đoạn chiến tranh ác liệt. Trong niềm vui hân hoan chiến thắng, cuộc sống hiện đại
văn minh đôi khi con người đã lãng quên quá khứ của mình, lãng quên quá khứ vất vả đau
thương của dân tộc. Dòng cảm xúc đó được thể hiện theo thời gian từ quá khứ đến hiện tại
và nâng lên thành suy ngẫm mang tính triết lý.
Bài thơ nhẹ nhàng như một câu chuyện tâm tình, tác giả đã gợi lại những kỷ niệm gắn bó
sâu sắc giữa con người với vầng trăng trong quá khứ:
“ Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Kỷ niệm gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị hiền hậu trong quá khứ hiện về trong
hai thời điểm của nhân vật trữ tình: thời thơ ấu và thời chiến tranh. Dù ở đâu trên quê
hương, đồng, sông, rừng bể người lính vẫn gắn bó với ánh trăng với thiên nhiên như người
bạn tri kỉ. Sự gắn bó ân tình, thủy chung ấy khiến con người nghĩ rằng cả cuộc đời sẽ
không bao giờ quên người bạn tình nghĩa.
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Thế nhưng từ “ngỡ” như báo trước một sự thay đổi nằm ngoài dự định, vì chuyện đời có
những ngã rẽ bất ngờ mà không ai lường trước được:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Đạo lí sống nghĩa tình và thủy chung với quá khứ đã bị quên lãng một cách vô tình bởi
hoàn cảnh sống hiện tại. Nơi đô thị, con người làm quen với tiện nghi hiện đại, văn minh
“ánh điện, cửa gương” nên cứ vô tình quên lãng vầng trăng tri kỉ. Đêm nào trăng cũng sáng
trên đầu nhưng bị mờ đi bởi ánh điện rực rỡ. Vô tình trăng và người cứ dửng dưng như
người xa lạ, chưa hề quen biết với nhau dù trước đây là tri âm, tri kỉ.
Mối quan hệ giữa con người và vầng trăng được đặt trong một cuộc hội ngộ bất ngờ,
khiến con người tỉnh ngộ:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn - đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Một tình huống giản dị bình thường trong cuộc sống đã khiến nhân vật trữ tình tỉnh ngộ
nhận ra sự thay đổi bội bạc đáng lên án đó của mình - thành phố mất điện. Giây phút ngắn
ngủi bất ngờ nhưng thực sự có ý nghĩa như một bước ngoặt trong dòng tư tưởng của con

163
người để giúp họ thay đổi. Tác giả thành công khi sử dụng phép đảo ngữ với từ láy “đột
ngột” gợi lêm một cảm giác ngỡ ngàng khi người lính gặp lại vầng trăng. Người bạn nghĩa
tình ấy lại có mặt vẫn tròn đầy, vẹn nguyên, không phai mờ dù.
Để rồi đến khổ thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cảm xúc mãnh liệt của mình khi thấy lại
người bạn năm xưa, thì biết bao nhiêu kỉ niệm cũ ùa về:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Việc đối diện với vầng trăng - người bạn tri kỷ đã giúp người lính nhớ về kỷ niệm xưa
gắn bó, tươi đẹp và rồi ân hận, xúc động xốn xang. Nỗi ân hận được thể hiện trong dòng
nước mắt rưng rưng, nhẹ nhàng xót xa. Điệp từ “là” kết hợp với phép liệt kê “đồng, bể,
sông, rừng” thân thương, tác giả đã gợi lại những hình ảnh trong sáng, tuyệt đẹp nhất của
tuổi thơ hồn nhiên cũng như những ngày tháng hạnh phúc, gian lao khi vào lính. Từ đó cho
thấy kí ức nghĩa tình ấy, vẻ đẹp thân thương ấy không bao giờ mất đi, chỉ lặng lẽ sống
trong tâm hồn mỗi con người.
Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm
nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình”
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ “tròn vành vạnh” vừa tả vẻ đẹp tròn đầy, vừa gợi sự
thủy chung trước sau như một của vầng trăng, cũng là của quê hương quá khứ nghĩa tình.
Trăng không chỉ đẹp mà còn rất bao dung, độ lượng; trước sự bội bạc của con người, trăng
không một lời trách móc “kể chi người vô tình”. Nhưng độ lượng không có nghĩa là dễ dãi,
trăng cũng rất nghiêm khắc:
Ánh trăng được nhân hóa “im phăng phắc”; trăng im lặng, không một lời trách cứ; gợi
liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng. Cũng là lời cảnh tỉnh, nhắc
nhở khiến con người “ giật mình” thức tỉnh: nhận ra sự cám dỗ về vật chất khiến con người
đánh mất đi giá trị tinh thần đẹp đẽ. “Gật mình” thức tỉnh lương tâm không được phép lãng
quên quá khứ, không được bội bạc với nghĩa tình thiêng liêng, sâu nặng. Đồng thời giúp
cho con người biết trở về, nâng niu, trân trọng quá khứ. Đây cũng là bài học nghĩa tình,
thủy chung cho mọi người: “Uống nước nhớ nguồn”
Ánh trăng không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ, chuyện của một người mà có ý nghĩa
với cả một thế hệ. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi tác
phẩm đặt ra vấn đề thái độ đối với quá khứ, với những người đã khuất và đối với chính
mình.
Bài thơ “Ánh trăng” cũng thể hiện những đổi mới về phương thức biểu cảm, về sáng tạo
hình ảnh, cấu trúc câu thơ, ngôn ngữ thơ: Bài thơ như một câu chuyện riêng, có sự kết hợp
hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình. Giọng điệu tâm tình với nhịp thơ khi trôi chảy tự
nhiên, nhịp nhàng theo lời kể, khi ngân nga thiết tha cảm xúc (khổ 5), lúc lại trầm lắng biểu
hiện suy tư (khổ cuối). Kết cấu, giọng điệu của bài thơ có tác dụng làm nổi bật chủ đề, tạo

164
nên tính chân thực, chân thành, sức truyền cảm sâu sắc cho tác phẩm, gây ấn tượng mạnh
mẽ đối với người đọc. Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Đặc biệt hình ảnh ánh trăng là hình
tượng đa nghĩa, vừa cụ thể vừa khái quát mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Thể thơ ngũ ngôn
được sử dụng sáng tạo. Mỗi khổ chỉ viết hoa chữ cái đầu dòng thứ nhất. Tác phẩm chỉ có
một dấu chấm ở câu thơ cuối. Nghệ thuật viết câu, đặt câu, sử dụng dấu chấm câu đã diễn
tả mạch cảm xúc dạt dào tuôn chảy liền mạch trong một tình huống bất ngờ, giản dị đời
thường.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy là một sáng tác thể hiện rõ nét tinh thần đổi mới của thơ ca
hiện đại. Đề tài trăng, thể thơ ngũ ngôn là nét truyền thống của Đường thi song bài thơ thể
hiện cái mới trong việc phản ánh nội dung câu chuyện nhỏ của người chiến sĩ vừa trải qua
chiến tranh, sống trong hòa bình, hiện đại. “Ánh trăng” mang vẻ đẹp hình tượng thiên
nhiên, đồng thời cũng là biểu tượng của quá khứ - nhân dân, đất nước trong quá khứ và
hiện tại, mãi mãi vẹn nguyên, vĩnh hằng, bất biến, thủy chung, nghĩa tình, bao dung, độ
lượng. Con người hãy biết sống ân tình, thủy chung với quá khứ. Tác phẩm như lời giáo
huấn đạo đức nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc. “Ánh trăng” là bài thơ của những phút giật
mình, giật mình để thức tỉnh, để sống nhân văn hơn.
3. Kết bài:
Từ những đổi mới và sáng tạo của bài thơ “Ánh trăng” trên hai phương diện nội dung, tư
tưởng và hình thức nghệ thuật bình luận về mối quan hệ giữa cuộc sống - tác giả - tác
phẩm: Nền tảng của bất kì tác phẩm nào phải là chân lí được khắc họa bằng tất cả tài nghệ
của nhà văn. Cần phải hát đúng giai điệu về thời đại mình và phải miêu tả nó một cách
trung thực bằng những hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả tạo. Bởi vậy, ý kiến: “Thơ
hiện đại không chỉ đem lại những cái mới về nội dung tư tưởng, cảm xúc mà còn đổi
mới về phương thức biểu cảm, về sáng tạo hình ảnh, cấu trúc câu thơ, ngôn ngữ thơ”
là hoàn toàn đúng với bài “Ánh trăng”
…………………………………………………………………………………
55: Chứng kiến lần về phép thăm nhà của ông Sáu, nhân vật “tôi” trong truyện ngắn Chiếc
lược ngà của Nguyễn Quang Sáng bày tỏ: “Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng
kiến không biết bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ tôi bị xúc động như lần ấy.”
(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà, Ngữ văn 9 Tập I, NXB Giáo dục 2011, trang
195)
Bằng hiểu biết về truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, em hãy làm sáng
tỏ lời tâm sự trên của nhân vật “tôi”.
1. Mở bài:
Nguyễn Quang Sáng sinh năm (1932 - 2014) ở An Giang, là một trong những nhà văn
chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong kháng chiến cũng như trong hòa
bình. Ông viết truyện ngắn “Chiếc lược ngà” năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ thời
chống Mỹ. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được trần thuật theo lời của nhân vật “tôi” -
người bạn của ông Sáu, người đã chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con ông Sáu: “Trong
cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng
chưa bao giờ tôi bị xúc động như lần ấy.” Suy nghĩ này của nhân vật “tôi” bày tỏ sự xúc
động và sẻ chia sâu sắc với câu chuyện của cha con ông Sáu. Ở đây, người kể chuyện đã

165
hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen
vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc.
2. Thân bài:
Cuộc chia tay nào mà lại khiến nhân vật “tôi” “xúc động” đặc biệt như thế? chính
là cuộc chia tay giữa ông Sáu với bé Thu, khi ông Sáu chia tay mọi người để trở lại
chiến khu. Trước khi đi ông Sáu chia tay với bé Thu cũng là lúc bé Thu nhận ba,
khóc giữ ba ở l ại. Đây là một tình huống vô cùng xúc động.
Sau bao năm đi kháng chiến, ông Sáu mới có dịp trở về thăm nhà, thăm con. Ông khao
khát được gặp con, được nghe con gọi tiếng “ba” nhưng suốt ba ngày phép ngắn ngủi ấy,
bé Thu không chịu nhận “ba” và kiên quyết không gọi “ba”. Khi bé Thu hiểu ra, nhận cha
thì lại là lúc cha con phải giã từ - ông Sáu phải về đơn vị nhận nhiệm vụ mới.
Nhìn cảnh má bận rộn chuẩn bị hành lý cho ba và mọi người đến chia tay ba, vẻ mặt của
bé Thu “có gì hơi khác”. Nó im lặng “nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Mọi người đều không
để ý đến nó. Chỉ có nhân vật “tôi” là đang quan sát. Nhưng dường như chính nhân vật “tôi”
cũng không hình dung trước chuyện sẽ xảy ra. Ông Sáu “đưa mắt nhìn con”, “muốn ôm
con”, “hôn con” nhưng lại sợ nó “giẫy lên”, “bỏ chạy”. Ông nhìn con “với đôi mắt trìu mến
lẫn buồn rầu”. Câu nói “khe khẽ” của ông Sáu: “Thôi! Ba đi nghe con!”. Thì lúc này mọi
tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng, tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay, giờ
trỗi dậy. Nó không nén nổi tình cảm và bỗng kêu thét lên: “Ba...a...a...ba!”. Tiếng kêu của
nó như tiếng xé, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba”
nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó. Tiếng kêu “ba” từ sâu
thẳm trái tim bé Thu, tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày
qua, tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước, khao khát như
muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi “ba”. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà
còn mang một giá trị thiêng liêng với nó. Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung
sướng của một đứa con có ba. Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giàu tình cảm, có
cá tính mạnh mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây thơ – đó chính là bé Thu.
Một chuỗi những hành động liên tiếp của bé Thu đã nói lên tình thương cha mãnh liệt.
Tình cảm với người cha mà nó đã nén lại bấy lâu, cùng với niềm ân hận về thái độ của
mình với ba trong những ngày qua khi chưa kịp nhận ra ba. Bé Thu ân hận vì trong mọi
tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “ba” dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị
dồn vào thế bí, dù là bị ông Sáu đánh….Nhưng chính thái độ ngang ngạnh đó là biểu hiện
vô cùng đẹp đẽ mà bé Thu dành cho người ba yêu quý. Trong tâm trí em chỉ có duy nhất
hình ảnh của một người ba “chụp chung trong bức ảnh với má”. Người ba ấy không giống
ông Sáu, không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo
- dấu tích của chiến tranh đã làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu.
Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy của bé Thu, “bà con xung quanh có người
không cầm được nước mắt” còn người kể chuyện - nhân vật “tôi” thì cảm thấy thương
cảm, xót xa “như có bàn tay ai nắm lấy trái tim” mình. Là người đồng đội của ông Sáu,
người đã từng sống, chiến đấu cùng đơn vị, cùng theo ông Sáu về thăm nhà, chứng kiến tất
cả các sự việc ấy, nhân vật “tôi” đã thật sự xúc động. Cảm giác “như có bàn tay ai nắm lấy
trái tim mình” của nhân vật “tôi” phải chăng chính là cảm giác thấy lòng mình se thắt lại
trước sự chân thực, mãnh liệt trong cảm xúc của bé Thu với ông Sáu.

166
Đây là cuộc chia tay vô cùng cảm động và đặc biệt xót xa của hai cha con ông Sáu.
Nó càng xót xa hơn bởi đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng của họ. Điều này lí giải vì sao
nhân vật “tôi” lại có những xúc động sâu sắc đến như vậy.
Còn tình cảm của ông Sáu đối với bé Thu thì sao? Ông Sáu - được giới thiệu là người
lính chiến tranh, vì nhiệm vụ cao cả mà anh phải tham gia chiến đấu, bỏ lại gia đình, quê
hương và đặc biệt là đứa con yêu tha thiết. Sau bao năm tham gia kháng chiến, ông Sáu
vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng là được gặp con và nghe con gọi một tiếng ba. Bởi
vậy, ông nôn nao muốn được gặp con, khi thuyền chưa cập bến “ anh nhún chân nhảy thót
lên”. Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không chịu nhận
ông là ba. Trong ba ngày nghỉ phép ở nhà ông Sáu muốn gần gũi để bù đắp cho con, nhưng
bé vẫn lạnh lùng, bướng bỉnh. Chính điều ấy, đã làm tổn thương những tình cảm da diết
nhất trong lòng ông. Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm
bùng lên những đau khổ mà bấy lâu nay ông dồn nén, chứa chất trong lòng, chính vì thế
ông đã đánh con. Nhưng khi bé Thu cất tiếng gọi “Ba”, tiếng gọi muộn màng nhưng lại có
ý nghĩa đẹp đẽ! Ai có thể ngờ được một người lính dày dạn nơi chiến trường, quen với cái
chết cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm
hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm
nhận được sự ấm áp của tình cha con thực sự! “Không ghìm được xúc động và không
muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”.
Mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt nhau: “Ba về! Ba
mua cho con một cây lược nghe ba!”; nhưng đối với ông Sáu thì đó là mơ ước đầu tiên và
duy nhất, cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông. Có thể nói, nếu tình mẫu tử được diễn tả
khá nhiều trong văn chương, một thứ tình cảm dễ bộc lộ, vừa rộng lớn vừa tự nhiên thì tình
phụ tử lại thường ít bộc lộ ra bên ngoài, kín đáo mà sâu sắc.
Nhân vật “tôi” đã từng nảy ra ý định muốn bảo ông Sáu ở lại vài hôm. Nhưng không
được vì cả hai người phải trở về đơn vị nhận lệnh chiến đấu mới.
Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt hơn biết bao
khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con: “Ông ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng
tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc ”. Bụi ngà mỗi ngày rơi một nhiều làm nhân vật “Tôi”
cũng cảm thấy vui cho ông. Trên sống lưng cây lược, ông đã tẩn mẩn khắc một dòng chữ
nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”, dòng chữ nhỏ mà chứa bao tình cảm lớn lao. Việc
làm chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa tâm trạng mong nhớ, ân hận vừa là cách gửi vào đó
những yêu thương khao khát cháy bỏng dành cho đứa con gái yêu của mình. “Chiếc lược
ngà” giờ đây đã trở thành một vật quí giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân
hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của của người cha
đối với đứa con xa cách. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân -
nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Ông gửi vào đó bao lời nhắn
nhủ thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi nhớ mong con. Làm được cây lược cho con, ông Sáu
mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc cho con. Nhưng rồi, một tình cảnh đau
thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị
một viên đạn bắn vào ngực và ông đã hi sinh. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức
trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực
cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho “Tôi”.

167
Lúc này, nhân vật “tôi” cảm nhận được sự trao gửi đầy yêu thương và tin cậy trong đôi mắt
của ông Sáu. “Chiếc lược ngà” cũng là chiếc lược yêu thương, là biểu tượng cao đẹp của
tình phụ tử. Chứng kiến sự ra đi của ông Sáu, có lẽ nhân vật “tôi” không chỉ cảm thấy đau
đớn, xót xa mà còn nhận ra sự bất diệt của tình phụ tử - một thứ tình cảm như “những con
sóng ở bể sâu”, thâm trầm, sâu sắc. Phải chăng “Chỉ có tình cha con là không thể chết
được”? Câu chuyện về cha con ông Sáu cũng là câu chuyện của bao nhiêu gia đình Việt
Nam trong chiến tranh. Đó là một câu chuyện với c ảnh ngộ éo le, với những đau thương,
mất mát.
Nhưng vượt lên trên tất cả cảnh ngộ éo le, những đau thương mất mát của chiến tranh là
tình cha con sâu nặng.
Nhân vật “tôi” trong tác phẩm đã vô cùng xúc động trước cuộc chia tay của cha con ông
Sáu. Tình cha con của họ tỏa sáng từ trong những éo le, khốc liệt của chiến tranh. Tác
phẩm là lời khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trị nhân bản
sâu sắc, cao đẹp: Dù cuộc chiến tranh có tàn khốc bao nhiêu cũng không thể nào dập tắt
nổi những tình cảm cao đẹp và bền vững của con người Việt Nam. “Chiến tranh đã thử
thách nghiệt ngã con người nhưng cũng bộc lộ vẻ đẹp đầy bi tráng của tâm hồn Việt Nam.”
Truyện thành công ở nghệ thuật xây dựng tình huống, ngòi bút miêu tả tâm lí, tính cách
nhân vật, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Tác giả còn kết hợp nhuần nhuyễn giữa
các thủ pháp kể, tả với bình luận trữ tình, thay đổi điểm nhìn nhân vật... Người kể chuyện
trong vai một người bạn thân thiết của ông Sáu không chỉ là người chứng kiến khách quan
và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Đây là một con người giàu
lòng trắc ẩn, có sự thấu hiểu với những hi sinh, mất mát mà bạn mình phải chịu đựng.
Đồng thời qua những ý nghĩ, cảm xúc của nhân vật kể chuyện, các chi tiết, sự việc và nhân
vật khác trong truyện bộc lộ rõ hơn, ý nghĩa tư tưởng của truyện thêm sức thuyết phục.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã miêu tả cuộc chia tay giữa ông Sáu và bé Thu đầy xúc
động và thấm đẫm tình người - tình cảm mãnh liệt của nhân vật, niềm cảm thông, xót xa
của người kể chuyện...Tất cả những tình cảm này đã có sức lan truyền trực tiếp tới trái tim
người đọc. Tác giả Nguyễn Quang Sáng thực sự đã “Làm giàu thêm cho văn chương một
cảnh chia li đầy xúc động và xót xa giữa cha và con”.
…………………………………………………………………………………
56: Tình cảm gia đình qua hai tác phẩm: “Bếp lửa” của Bằng Việt, “Chiếc lược ngà”
của Nguyễn Quang Sáng

“ Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ


Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha”
Tình cảm gia đình luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong các tác phẩm văn học: đó là tình
cảm của những thành viên, thế hệ trong gia đình (ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh em dành
cho nhau); tình cảm của sự sinh thành, nuôi dưỡng, chở che, đùm bọc và tấm lòng ứng xử
của những con người trong gia đình với nhau. Điều đó thể hiện rõ nét trong tác phẩm
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, nó đã đánh cắp con tim của người đọc bởi tình
cha con bao năm xa cách mà đầy éo le trong chiến tranh. Những ai đã từng đọc “Bếp lửa”
của Bằng Việt chắc chắn không thể quên được tình cảm nồng thắm của người bà dành cho
cháu; hòa trong những cung bậc nỗi nhớ và suy tư của người cháu đối với bà là lòng biết

168
ơn vô hạn của cháu về người bà giàu tình thương và đức hi sinh làm rung động bao con tim
độc giả.
Đến với “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh
đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân
trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt nhận
ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương.
Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta
tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài
và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì
luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim.
Hình ảnh “Bếp lửa” đã khơi nguồn hồi tưởng của tác giả về những năm tháng sống bên
bà, cùng bà nhóm lên ngọn lửa nồng ấm của tuổi thơ, để cho người đọc bao thế hệ cùng
rung cảm với một bản trường ca về tình bà cháu. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm
vơi tự sự, miêu tả và nghị luận bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh
người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc, kỷ niệm về tình bà cháu. Trong biết bao kỉ
niệm tuổi thơ “Bếp lửa” in dấu đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt. Bắt đầu từ hình
ảnh thân thương, ấm áp – hình ảnh đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa để mở ra
một chân trời đầy ắp kỷ niệm tuổi thơ của tình bà cháu. Bằng Việt trở về với những năm
tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn, những kỉ niệm gắn với hình ảnh người bà:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !”
“Tám năm ròng” là một quãng thời gian tuổi thơ của tác giả cùng bà “nhóm lửa”, đây
cũng chính là những năm tháng có chiến tranh, bà phải bươn trải để giúp cháu vượt qua sự
thiếu đói . Âm thanh tiếng chim tu hú ấy như giục lúa mau chín để người nông dân mau
thoát khỏi cái đói, như khơi dậy trong bà những kỉ niệm ngày xưa ở Huế, để bắt đầu những
câu chuyện êm đềm cho tuổi thơ của cháu. Một tiếng chim đong đầy kỉ niệm đến nỗi tác
giả phải thốt lên lời cảm thán rằng “sao mà tha thiết thế !” cùng với điệp từ “tu hú” được
lặp đi lặp lại khiến lời thơ có âm điệu thật bồi hồi, tha thiết. Đồng thời còn gợi lên những
nỗi nhớ trùng điệp, vương vấn – nỗi nhớ về quá khứ càng khiến cho tác giả nhớ bà thêm
thăm thẳm, vời vợi, để dòng kỉ niệm trải dài hơn, rộng hơn, sâu hơn trong không gian xa
thẳm của nỗi nhớ thương:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
Trong suốt thời gian bố mẹ đi công tác xa, cháu phải sống cùng bà. Với thủ pháp liệt kê:
“Bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã khẳng định được bà là chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn
tinh thần. Trong những năm tháng ấy, bà vừa là cha, vừa là mẹ. Bà không chỉ chăm lo cho
cháu từng chút một mà còn là người thầy đầu tiên dạy cho cháu bao điều về cuộc sống,
những bài học của bà trở thành hành trang để cháu mang theo trong suốt quãng đời còn lại.

169
Cùng bà nhóm bếp hằng ngày, tác giả thấm thía được những gian lao, vất vả của bà khi
phải một mình chăm sóc cháu, để rồi lời thơ như thủ thỉ một lời tâm tình “nghĩ thương bà
khó nhọc”, và một lần nữa tiếng chim tu hú lại vọng về :
“Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Câu cảm thán “Tu hú ơi !” kết hợp với câu hỏi tu từ vang lên như một lời than thở, trách
móc. Lời thơ là hỏi chim tu hú, hay là hỏi chính mình ? Phải chăng đó chính là mong ước
khôn nguôi muốn được trở lại bên bà ? Nỗi lòng của chim tu hú “kêu chi hoài trên những
cánh đồng xa” đâu có khác gì với nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người.
Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết.
Vì sao mà tấm lòng người bà chứa đựng được biết bao điều như vậy ? Vì trong tấm lòng
đó luôn âm ỉ một ngọn lửa:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Điệp từ “rồi” kết hợp với thời gian “ sớm – chiều” cho thấy cuộc đời bà luôn gắn liền
với bếp lửa; bà vẫn thức khuya, dậy sớm để nhóm lên bếp lửa yêu thương. Từ hình ảnh bếp
lửa cụ thể, tác giả đã nâng lên thành “ngọn lửa” mang ý nghĩa ẩn dụ; đó chính là ngọn lửa
của tình yêu thương, của niềm tin bất diệt và hi vọng mà bà đã gieo vào lòng cháu. Điệp
ngữ “một ngọn lửa” càng khẳng tình yêu thương ấm áp của bà dành cho cháu. Chính ngọn
lửa của lòng bà đã nhen nhóm trong lòng cháu ý chí, nghị lực và cả tình yêu cuộc sống.
Ngọn lửa ấy bà luôn “ủ sẵn” khiến ta cảm nhận được một ngọn lửa không bao giờ tắt qua
năm tháng. Từ láy “dai dẳng” và dấu dấu chấm lửng như càng tiếp thêm cho sự bền bỉ, lan
tỏa của ngọn lửa niềm tin, để tới bây giờ nó vẫn còn cháy trong cháu, mang theo bao cảm
xúc không thể nói hết được. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người
truyền lửa.
Để giờ đây, khi đang ở cách xa bà hàng nghìn dặm, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình
về người bà yêu thương:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở :
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?...”
Với bút pháp liệt kê “ khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” để nhấn mạnh ở
hiện tại, người cháu đã có cuộc sống đầy đủ, ấm no hơn về vật chất cũng như tinh thần
nhưng một niềm vui và hạnh phúc đơn sơ, nhỏ bé, thiêng liêng về bà, về quê hương luôn
chiếm vị trí quan trọng nhất trong trái tim tác giả. Thế nhưng dù ở bất cứ đâu cháu vẫn
không quên được tấm lòng ấm áp, hi sinh của bà “chẳng lúc nào quên” cho thấy sự ghi
lòng tạc dạ, thủy chung son sắt với bà, với quê hương nghèo khó, vất vả. Câu hỏi tu từ kết
thúc bài thơ: “ Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?”, khẳng định nỗi nhớ bà luôn thường
trực, khắc khoải trong lòng cháu. “Bếp lửa” đã thực sự trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành
niềm tin thiêng liêng kì diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.
Tác giả đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh thơ vừa cụ thể, gần gũi, vừa gợi
nhiều liên tưởng mang ý nghĩa biểu tượng. Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phù hợp

170
với giọng điệu cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả, tự sự,
nghị luận và biểu cảm.
Còn với “Chiếc lược ngà” ta bắt gặp hình ảnh ông Sáu - được giới thiệu là người lính
chiến tranh, vì nhiệm vụ cao cả mà anh phải tham gia chiến đấu, bỏ lại gia đình, quê hương
và đặc biệt là đứa con yêu tha thiết. Sau bao năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn
nung nấu khao khát cháy bỏng là được gặp con và nghe con gọi một tiếng ba. Bởi vậy, ông
nôn nao muốn được gặp con, khi thuyền chưa cập bến “ anh nhún chân nhảy thót lên”.
Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không chịu nhận ông là
ba. Trong ba ngày nghỉ phép ở nhà ông Sáu muốn gần gũi để bù đắp cho con, nhưng bé
vẫn lạnh lùng, bướng bỉnh. Chính điều ấy, đã làm tổn thương những tình cảm da diết nhất
trong lòng ông. Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm
bùng lên những đau khổ mà bấy lâu nay ông dồn nén, chứa chất trong lòng, chính vì thế
ông đã đánh con. Nhưng khi bé Thu cất tiếng gọi “Ba”, tiếng gọi muộn màng nhưng lại có
ý nghĩa đẹp đẽ! Ai có thể ngờ được một người lính dày dạn nơi chiến trường, quen với cái
chết cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm
hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm
nhận được sự ấm áp của tình cha con thực sự! “Không ghìm được xúc động và không
muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”.
Mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt nhau: “Ba về! Ba
mua cho con một cây lược nghe ba!”; nhưng đối với ông Sáu thì đó là mơ ước đầu tiên và
duy nhất, cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông.
Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt hơn biết bao
khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con: “Ông ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng
tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc ”. Bụi ngà mỗi ngày rơi một nhiều làm người đồng đội
cũng cảm thấy vui cho ông. Trên sống lưng cây lược, ông đã tẩn mẩn khắc một dòng chữ
nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”, dòng chữ nhỏ mà chứa bao tình cảm lớn lao. Việc
làm chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa tâm trạng mong nhớ, ân hận vừa là cách gửi vào đó
những yêu thương khao khát cháy bỏng dành cho đứa con gái yêu của mình. “Chiếc lược
ngà” giờ đây đã trở thành một vật quí giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân
hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của của người cha
đối với đứa con xa cách. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân -
nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Ông gửi vào đó bao lời nhắn
nhủ thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi nhớ mong con. Làm được cây lược cho con, ông Sáu
mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc cho con. Nhưng rồi, một tình cảnh đau
thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị
một viên đạn bắn vào ngực và ông đã hi sinh. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức
trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực
cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người
bạn – là bác Ba và nhìn Bác một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì,
chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ thực
hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con. Tình cảm của ông sáu khiến ta thấy ấm lòng và
cảm động sâu sắc

171
Tác giả đã thành công trong việc tạo tình huống truyện để thể hiện tình cha con trong
cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Cốt truyện chặt chẽ mang yếu tố bất ngờ mà tự nhiên, hợp
lý. Lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp khiến câu chuyện chân thực, thể hiện xúc động
tình cha con. Nghệ thuật miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật, nhất là nhân vật trẻ em rất sinh
động.
Những nét giống nhau trong việc khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua hai
tác phẩm đó là tình yêu thương của sự chăm sóc, ân cần dạy dỗ, tấm lòng vị tha, đức hy
sinh vì cháu, con - một tình cảm mang tính khái quát.
Những nét riêng trong việc khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua hai tác
phẩm là hoàn cảnh, tình cảm, xuất phát từ mối quan hệ, tình cảm bà - cháu, cha - con..., và
nét riêng trong hình thức thể hiện.
Tình cảm gia đình là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng và quý giá của mỗi con
người, mỗi tác giả bằng sự khám phá và thể hiện của mình đã đem đến cho văn học những
tác phẩm giàu giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục và lay thức tình cảm
tốt đẹp của con người.
Vẻ đẹp của tình cảm gia đình trong hai tác phẩm như những nét vẽ góp phần hoàn thiện
bức chân dung gia đình của mỗi con người. Tình cảm ấy lại được hoà quyện thống nhất,
gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước. Đây cũng là một mạch nguồn tình cảm
được lưu chuyển qua dòng chảy truyền thống của văn học dân tộc nhưng luôn có những
khám phá, phát hiện và cách thể hiện theo những nét riêng, một đặc trưng quan trọng trong
sáng tạo nghệ thuật.
3. Kết bài:
Đọc xong hai tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, “Bếp lửa” của Bằng
Việt nhiều dư âm vẫn làm ta xao xuyến không muốn gấp trang sách lại. Với tình cảm sâu
đậm của cha con ông Sáu trong “Chiếc lược ngà”, hay những cảm xúc dâng trào về sức
mạnh to lớn của tình bà cháu trong “Bếp lửa”. Tất cả như dừng lại khiến ta phải suy ngẫm
về những gì mình đã làm khiến cha mẹ buồn rầu, rơi lệ. Chính Nguyễn Quang Sáng, Bằng
Việt giúp ta nhận ra vẻ đẹp gần gũi luôn bên cạnh ta để ta cảm nhận được sâu sắc hơn
những tình cảm thiêng liêng ấy.
…………………………………………………………………………………
57: Có ý kiến cho rằng “ Lặng lẽ Sa Pa viết về những con người vô danh, họ đến từ những
vùng đất khác nhau, làm những công việc khác nhau nhưng lại gặp nhau ở một điểm: lặng
lẽ dâng cho đời tình yêu và sức lực của mình”.
Hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua việc phân tích truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của nhà
văn Nguyễn Thành Long.
1. Mở bài:
Nguyễn Thành Long là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và bút kí. Các tác phẩm của ông
là sự chắt lọc hiện thực của cuộc sống. “Lặng lẽ Sa Pa” là một truyện ngắn đặc sắc, hấp
dẫn, lôi cuốn người đọc. Truyện được viết sau chuyến đi thực tế ở Sa Pa, một vùng núi đẹp
nổi tiếng. Tác phẩm không chỉ khắc hoạ vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên Sa Pa mà còn nêu
lên vẻ đẹp của những con người ở chốn Sa Pa lặng lẽ đó. Vì vây đã có ý kiến cho rằng:
“Văn bản Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long viết về những con người vô danh. Họ

172
đến từ những vùng đất khác nhau, làm những công việc khác nhau nhưng lại gặp nhau ở
một điểm - lặng lẽ dâng cho đời tình yêu và trí tuệ của mình”.
2. Thân bài:
Thiên nhiên Việt Nam có rất nhiều cảnh đẹp trong đó có Sa Pa là một danh lam
thắng cảnh nổi tiếng ở miền Bắc. Khí hậu ở đây hài hoà, chính vì thế mà hoa trái bốn
mùa tươi tốt. Sa Pa hiện lên trong truyện ngắn của Nguyễn Thành Long với ngôn ngữ
điêu luyện đã trở thành một bức tranh đẹp, sống động, và đầy chất thơ. Đọc truyện
cửa ông, người đọc không còn thấy Sa Pa có vẻ đẹp hoang dã, bí ẩn mà ngược lại,
thiên nhiên nơi đây đi vào truyện của Nguyễn Thành Long với một cái nhìn dịu dàng,
trong trẻo như một bức tranh thủy mặc làm cho người đọc không khỏi bâng khuâng,
xao xuyến. Sa Pa xuất hiện đầu tiên với hình ảnh “những rặng đào” và “những đàn bò lang
cổ có đeo chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường”. Đúng là Sa Pa rồi! Bạn
có nhận ra chưa? Còn người hoạ sĩ thì đã nhận ra cảnh quan ấy để rồi nghĩ đến một ngày
được về ở hẳn nơi này. Chỉ một ước muốn ấy thôi cũng cho thấy bức tranh thiên nhiên có
sức hấp dẫn lòng người. Đẹp nhất vẫn là lúc nắng lên. Dưới ánh nắng, dường như mọi vật
đều trở nên sinh động. Ánh nắng làm cho bức tranh trở nên đầy màu sắc, khiến con người
họa sĩ và cô kĩ sư cũng nín bặt vì vẻ đẹp lạ kì của cảnh: “Nắng bây giờ bắt đầu len tới, đốt
cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng
bạc dưới cái nhìn bao che của cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu hình hoa cà lên trên
màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên vòm lá ướt sương,
rơi xuống đường cái, luồn vào cả gầm xe”. Rõ ràng tác giả đang nhìn từ trên cao nhìn
xuống. Không gian bao quát, có cả mây, có cả rừng. Thiên nhiên đuợc nhân hoá trở nên
sống động lạ kì “ nắng len tới”; chòm thông rung tít với “những ngón” tay bằng bạc; cây tử
kinh với cái “ nhìn bao che” “nhô đầu” ; “ mây xua nắng đi”...Bức tranh hiện lên với nhiều
màu sắc tươi sáng, màu xanh của những cánh rừng bạt ngàn, màu tím của những cây tử
kinh, màu trắng của những đụn mây trời và màu vàng tươi của sắc nắng... Khung cảnh
bồng bềnh, sương khói, lãng đãng mây trời và ngập tràn ánh sáng ấy chính là khung nền
cho một cuộc gặp gỡ cũng thấm đẫm chất trữ tình nên thơ.
Trên nền bức tranh thiên nhiên kì ảo ấy, Sa Pa còn đẹp thêm biết bao với những con
người làm việc quên mình cho đất nước. Trước hết là anh thanh niên làm công tác khí
tượng kiêm vật lí địa cầu. Anh thanh niên mang trong mình đầy đủ những phẩm chất
tốt đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề ở tinh thần trách nhiệm với công việc. Nói về
hoàn cảnh sống và công việc của anh. Theo lời bác lái xe thì anh là người “cô độc nhất thế
gian”, công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất….”
rồi ghi chép lại và báo về trung tâm, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản
xuất, phục vụ chiến đấu. Chỉ quanh quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn thôi nhưng lại quan
trọng vô cùng, ấy thế nên anh đã sống hết mình vì nó. Vẻ đẹp nơi anh bắt đầu từ chính
công việc mà anh đã chọn – là con đường lao động. Qua đó, anh có thể hoàn thành nghĩa
vụ và ước mơ cống hiến cho Tổ quốc của mình. Anh lựa chọn cho mình làm công tác khí
tượng kiêm vật lí địa cầu, dù công việc này có lắm khó khăn, đòi hỏi tính tỉ mỉ chính xác
và có tinh thần trách nhiệm cao nhưng anh lại tìm thấy niềm vui ở nó “ khi ta làm việc ta
với công việc là đôi”. Đẹp nhất ở anh là tư tưởng sống “không chỉ cho bản thân mà là cho
đất nước, cho dân tộc”, chính lí tưởng đó đã hướng anh đi theo con đường lao động đúng

173
đắn và có ích. Anh cũng như bao người bình thường khác, trong suy nghĩ cũng từng có
những ngại ngần và tâm lí sợ sự cô đơn trước con đường đời đã chọn. Nhưng tuổi trẻ và lí
tưởng cao đẹp nơi anh đã lấp đầy khoảng trống ấy bằng tấm lòng yêu nghề, sự say mê lao
động của mình: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết
mất”. Từ trải nghiệm về công việc, anh yên tâm đón nhận con đường mình đang tiến tới
bằng lý tưởng cao đẹp về công việc lao động của mình. Trong môi trường sống và lao động
khắc nghiệt của thời tiết núi rừng Sa Pa “Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên
ngoài chỉ trực đợi mình ra là ào ào xô tới”; ngay cả những khổ cực khi phải thức dậy vào
lúc “bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối lại một giờ sáng”…Thế nhưng anh vẫn vượt qua
và hoàn thành tốt công việc của mình. Phải nói anh thanh niên ấy là một con người say mê
công việc, biết vươn lên những khó khăn, tự giác hoàn thành nhiệm vụ và đã rèn luyện cho
mình một trái tim thấm đượm lòng yêu nghề. Chính anh đã đánh thức niềm say mê lao
động, say mê cống hiến nơi người họa sĩ già để đem lại nguồn cảm hứng dạt dào trong tâm
hồn con người ấy.
Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn
nắp: “Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”.
Cuộc sống riêng của anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc
bàn học, một giá sách”. Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống
của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần. Cuộc sống của anh không cô đơn,
buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò
chuyện, để thanh lọc tâm hồn. Sách là nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài.
Cảnh sống của anh như một người đang sống và làm việc giữa xã hội chứ không phải mình
anh, đúng là một cách sống đẹp đẽ mọi người nhìn thấy cái đẹp bắt đầu từ tâm hồn.
Không chỉ vậy người thanh niên này còn thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng
hiếu khách, sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Tình thân với bác lái xe,
thái độ ân cần chu đáo, tặng củ tam thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy. Vui sướng khi có
khách đến thăm nhà. Anh đón tiếp khách nồng nhiệt, ân cần chu đáo, hái một bó hoa rực
rỡ sắc màu tặng người con gái chưa hề quen biết: “Anh con trai, rất tự nhiên như với một
người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái và cũng rất tự nhiên, cô đỡ
lấy”, pha nước chè cho ông họa sĩ. Anh trò chuyện cởi mở với ông họa sĩ và cô kĩ sư về
công việc, cuộc sống của mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ. Đếm từng phút vì sợ hết mất
ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu. Lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến nỗi
phải “quay mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ già làn trứng làm quà, không dám tiễn khách
ra xe dù chưa đến giờ “ốp”. Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người
thanh niên mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí.
Công việc vất vả có những đóng góp quan trọng như thế cho đất nước nhưng người
thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn. Anh cảm thấy những đóng góp
của mình chỉ bình thường nhỏ bé so với bao người khác, vì thế anh đã từ chối ông họa sĩ vẽ
bức chân dung của mình, con người khiêm tốn ấy còn hào hứng giới thiệu với ông họa sĩ
những người mà anh cho là đáng vẽ hơn: “Ơ bác vẽ cháu đấy ư ? Không, không, đừng vẽ
cháu, để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn”, đó là ông kỹ sư
ở vườn rau Sa Pa, là anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, có thể nói dù còn trẻ tuổi, nhưng

174
anh đã thấm thía cái nghĩa cái tình của mảnh đất Sa Pa, thấm thía sự hi sinh thầm lặng của
những con người ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
Thông qua lời kể của anh thanh niên, ta còn thấy ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa hằng
ngày ngồi trong vườn chăm chú quan sát cách lấy mật của ong, rồi tự tay thụ phấn cho
hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra tốt hơn. Anh cán bộ nghiên cứu đã mười một năm
ròng túc trực chờ sét để lập bản đồ sét tìm tài nguyên cho đất nước. Họ tạo thành cái thế
giới những con người như anh thanh niên ở trạm khí tượng, những con người miệt mài lao
động khoa học lặng lẽ mà khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của con người.
Mặc dù tất các các nhân vật trong truyện điều không có tên cụ thể chỉ biết họ gọi
nhau như thế nhưng ở họ lại hiên lên sự miệt mài lao động, sự hi sinh âm thầm, lặng
lẽ. Nhan đề của truyện là “Lặng lẽ Sa Pa” nhưng Sa Pa có thật sự lặng lẽ không? Tác
giả đã giải thích một cách hết sức đơn giản cho người đọc: Trong cái lặng im của Sa
Pa, dưới những dinh thự cũ của Sa Pa, một Sa Pa mà chỉ nghe tên người ta đã nghĩ
đến chuyện nghỉ ngơi có những con người đang làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất
nước. Qua cách đặt nhan đề của truyện, tác giả muốn ca ngợi những con người sống
đẹp, họ lao động một cách say mê và quên mình cho đất nước, họ đã nâng cao và mở
rộng tâm hồn người đọc: hãy yêu thương nhau và sống đẹp hơn.
Truyện đã thành công trong cách xây dựng tình huống hợp lí, tự nhiên mà hết sức bất
ngờ, trong cách kể chuyện giản dị, trong cách miêu tả con người, cảnh vật dưới nhiều điểm
nhìn. Ngôn ngữ đậm chất hội họa, trữ tình cũng là một trong những thành công của thiên
truyện.
3. Kết bài:
Nhà văn Nguyễn Thành Long đã đem đến cho chúng ta niềm cảm hứng dạt dào về vẻ đẹp
thiên nhiên và con người Sa Pa. Người đọc như nghe thấy được những lời khuyên nhủ nhỏ
nhẹ, tâm tình của nhà văn qua thiên truyện đầy chất thơ với cái tên độc đáo Lặng lẽ Sa Pa.
Đó là hãy nhìn vào mọi người để phát hiện những điều vô cùng nhỏ nhưng đáng ca ngợi
biết bao. Bởi vậy ý kiến “ Lặng lẽ Sa Pa viết về những con người vô danh, họ đến từ
những vùng đất khác nhau, làm những công việc khác nhau nhưng lại gặp nhau ở một
điểm: lặng lẽ dâng cho đời tình yêu và sức lực của mình” là hoàn toàn đúng.
…………………………………………………………………………………
58: Bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc
của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc một vấn đề nhân sinh”.
Dựa vào “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đề chứng minh điều đó.
1. Mở bài:
Truyện ngắn là một thể loại được ưa thích cả với người sáng tác văn chương và người
thưởng thức. Sức hấp dẫn đặc biệt của thể loại này chính là ở chiều sâu nghệ thuật rất đặc
biệt và độc đáo của nó. Bởi vậy, khi Xây dựng thiên truyện “Chuyện người con gái Nam
Xương”, Nguyễn Dữ đã vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đắc sắc. Nhà văn đã xây dựng
tính cách nhân vật theo thủ pháp quen thuộc của truyện cổ dân gian, để cho nhân vật trực
tiếp bộc lộ bản chất, tính cách bằng những hành động cụ thể. Từ tình huống độc đáo, nhà
văn tạo dựng kịch tính truyện gây cấn, kịch liệt. Đồng thời cũng là một trong những tác
phẩm tiêu biểu cho cảm hứng nhân văn của Nguyễn Dữ, mà nhân vật chính là Vũ Nương -
một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ
175
của chồng mình. Bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ,
một sự việc của nhận vật, nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc một vấn đề nhân sinh”
2. Thân bài:
Vậy ta nên hiểu “Một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của một nhân vật nhà văn
muốn đối thoại với bạn đọc về một vấn đề nhân sinh” là gì đây? Phải chăng vì tính chất
ước lệ nó chỉ cái số ít của truyện ngắn so với thế giới phức tạp, đồ sộ và bề bộn của tiểu
thuyết. Có nghĩa là truyện ngắn có khuôn khổ ngắn, ít nhân vật, ít sự kiện. Nó chỉ là mảnh
nhỏ, một lát cắt của đời sống. Tác giả truyện ngắn thường hướng đến phát hiện và khắc họa
một hiện tượng, một nét bản chất nhất trong quan hệ nhân sinh hoặc trong đời sống tâm
hồn của con người. Nhân vật trong truyện ngắn không phải là một cá tính điển hình đầy
đặn và phức tạp. Nhiều khi đó chỉ là một mảnh đời, một khoảnh khắc của một số phận.
Đến với “Chuyện người con gái Nam Xương” ta thấy thương cảm cho số phận của
người phụ nữ - chính là Vũ Nương vì thấy nàng là người phụ nữ nết na, là người vợ đảm
đam, giàu đức hy sinh. Không những vậy nàng còn có tư dung tốt đẹp; trong cuộc sống gia
đình nàng là người vợ hiền, luôn giữ gìn khuôn phép “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến
thất hòa”. Còn Trương Sinh tuy là con nhà hào phú nhưng lại không có học, bản tính lại đa
nghi “đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Lấy Vũ Nương thực chất chỉ do “mến vì dung
hạnh” của nàng chứ không có thứ gọi là tình yêu chân thực giữa hai người. Nàng được xem
như một món hàng mua bán (lúc mà Trương Sinh đem tiền đến rước dâu. Dù không môn
đăng hộ đối cũng phải cúi đầu nghe theo). Trương Sinh không hề quan tâm, cũng chẳng lo
lắng chu đáo cho vợ; đã vậy lại còn để ý đến những sai lầm của Vũ Nương. Anh là người
ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân, nhỏ nhen, xét nét.
Cũng cần lên án chiến tranh phi nghĩa đã ngăn cách tình vợ chồng, tạo bức màn
khiến người phụ nữ phải chịu cảnh chờ đợi, không thể làm được điều gì. Khiến nề
nếp, lề thói một tay người phụ nữ gây dựng, bỗng chốc tan vào hư vô. Bởi vậy, sau khi
Trương Sinh đi lính đi lính trở về, nghe lời đứa con thỏ dại: “ Ô hay! Thế ra ông cũng là
cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít ”, chính câu
nói đã gây nên nỗi oan khuất cho Vũ Nương. Bị chồng ghen tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi
bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà con nhưng Trương Sinh vẫn
không tin và đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng tăng không có cách gì gỡ ra được.
Đó cũng là do xã hội phong kiến nam quyền, bất công, vô lí. Con trai là người nắm
giữ quyền lực và dù đúng dù sai vẫn luôn có quyền phán xét, hành xử người khác. Nỗi
hàm oan của Vũ Nương lại không được quyền nói ra là bởi con người độc đoán, lại
kém văn hoá như Trương Sinh. Chàng mắng nhiếc vợ thậm tệ rồi “đánh đuổi nàng đi”.
Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trong trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng
sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu
mà ra. Nàng cũng dùng những lời lẽ để khẳng định lòng thủy chung: “ Thiếp vốn con kẻ
khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa
binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu
tường hoa chưa hề bén gót ”, nhưng Trương Sinh vẫn không tin lời nàng. Thất vọng khi
chồng đối xử bất công, nàng bày tỏ nỗi đau đớn: “ Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa
tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió... ”, đây là những hình ảnh mang tính ước lệ để diễn
tả sự tan vỡ hạnh phúc gia đình, cả nỗi đau khổ bởi hạnh phúc - niềm vui “ nghi gia nghi

176
thất” không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Vũ Nương mượn dòng nước
của con sông Hoàng Giang để bày tỏ nỗi oan khuất, sự trong sạch của mình: “ Thiếp nếu
đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin
làm cỏ Ngu Mĩ. Nhựơc bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá
tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Hành động tự
vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày được với chồng, tiết hạnh
của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của chồng.
Chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho giáo nuôi dưỡng,
dung túng đã gây ra nỗi đau cho người phụ nữ, mà Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu. Không
chỉ có Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ nữ “Bảy nổi, ba chìm” đã phải sống trong
cảnh đời như vậy:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ
đồ, vũ phu, đa nghi như Trương Sinh. Qua đó Nguyễn Dữ đã tố cáo những luật lệ phong
kiến hà khắc, bất công của chế độ nam quyền dưới thời phong kiến.
Còn “thông qua một truyện ngắn nhà văn bao giờ cũng muốn đối thoại với bạn đọc
một vấn đề nhân sinh” là gì? Phải chăng để sáng tạo ra một thế giới nghệ thuật cho một
tác phẩm nhà văn phải trải qua bao dằn vặt, trăn trở, hy vọng, đau đớn từ đó hình thành nên
một quan niệm, một niềm tin nhất định của mình. Đằng sau bức tranh cuộc sống được tái
hiện, miêu tả bao giờ cũng chứa đựng một quan niệm, một khát vọng thiết tha muốn bạn
đọc đồng tình, sẻ chia , cùng suy ngẫm và sáng tạo.
Trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, với tấm lòng yêu
thương con người Nguyễn Dữ không để cho sự trong sáng cao đẹp của Vũ Nương
phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp những chi tiết hoang đường kì ảo.
Vò N¬ng gặp được Phan Lang – người cùng làng với nàng, là ân nhân của Linh Phi, khi bị
chết đuối được Linh Phi cứu sống. Nhân dịp Phan Lang trở về dương thế, Vũ Nương nhê
Phan Lang mang chiÕc hoa vµng vÒ cho Tr¬ng Sinh vµ dÆn lËp ®µn gi¶i oan cho nµng
thì Vũ Nương sẽ trë vÒ. C¸c chi tiÕt ®ã cã t¸c dông lµm hoµn chØnh nÐt ®Ñp cña nh©n
vËt Vò N¬ng: dï chÕt nhng nµng vÉn muèn röa oan, b¶o toµn danh dù, nh©n phÈm cho
m×nh; còng nãi lªn t×nh c¶m cña nµng víi quª h¬ng, chång con dï nµng chÞu nhiÒu oan
øc. C¶nh Vò N¬ng hiÖn vÒ trªn bÕn s«ng nhng chØ thÊp tho¸ng lóc Èn, lóc hiÖn trong
chèc l¸t råi biÕn mÊt cïng nh÷ng lêi nãi cña Vũ Nương khi kÕt thóc c©u chuyÖn: “§a t¹
t×nh chµng, thiÕp ch¼ng thÓ trë vÒ nh©n gian ®îc n÷a”; ngêi ®· chÕt, h¹nh phóc tan vì,
chia ly lµ vÜnh viÔn. Đó lµ hiÖn thùc cay ®¾ng kh«ng thÓ phñ nhËn. Chi tiÕt nµy còng
thể hiện thái độ dứt khoát từ bỏ cuộc sống đầy oan ức cña Vò N¬ng, còng cho thÊy Vò N-
¬ng lµ ngêi träng ¬n nghÜa: "ThiÕp c¶m ¬n ®øc cña Linh Phi, thÒ sèng chÕt kh«ng bá".
Điều đã tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của Nguyễn
Dữ về sự công bằng: người tốt sau bao oan khuất cuối cùng cũng được minh oan; đồng thời
cũng tố cáo sự bất công của xã hội phong kiến. Qua đó cũng khẳng định niềm thương cảm
của Nguyễn Dữ đối với số phận bi thảm của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến
thời xưa. Đồng thời làm tăng sức hấp dẫn, tính bi kịch trong câu chuyện.

177
Ngòi bút của Nguyễn Dữ đâu có vô tình ? Ông đã sắp xếp một bố cục chặt chẽ, dẫn
truyện khéo léo, sử dụng chi tiết đầy kịch tính và đặc biệt là sáng tạo các chi tiết kì ảo. Tất
cả để làm nổi bật nỗi oan của người phụ nữ và nỗi thương cảm cho số phận người phụ nữ
của tác giả trong XHPK thời xưa, gây xúc động sâu sắc trong lòng người đọc.
3. Kết bài:
Tóm lại trong “Chuyện người com gái Nam Xương”, Trương Sinh - một kẻ thất học, vũ
phu ngang nhiên chà đạp lên giá trị nhân phẩm của người vợ hiền thục, nết na. Đó là một
xã hội dung túng cho quan niệm trọng nam khinh nữ. Chỉ chỉ dựa vào câu nói vô tình của
con trẻ mà bỏ ngoài tai mọi lời thanh minh của vợ dẫn đến sự ghen tuông mù quáng, thiếu
căn cứ. Nhưng xét cho cùng hành động ghen tuông của Trương cũng chỉ là một trạng thái
tâm lí bộc phát trong cơn nóng giận bất thường. Nếu Trương Sinh là thủ phạm trực tiếp gây
nên cái chết của Vũ Nương thì nguyên nhân sâu xa là do chính chiến tranh phi nghĩa,
XHPK bất công - xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể đứng ra để bảo vệ cho giá trị
nhân phẩm của mình. Bởi vậy, ý kiến: “Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của
nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc một vấn đề nhân sinh” là hoàn toàn đúng với
“Chuyện người com gái Nam Xương”
…………………………………………………………………………………
59: Một trong những tình cảm thiêng liêng luôn thường trực trong mỗi con người Việt
Nam là tình yêu Tổ quốc. Đặc biệt, tình cảm đó đã được nhiều nhà thơ, nhà văn thể hiện
trong tác phẩm của mình. Trong bài thơ “Tình sông núi”, nhà thơ Trần Mai Ninh viết:
“Có mối tình nào hơn thế nữa
Nói bằng súng, bằng gươm sáng rền
Có mối tình nào hơn thế nữa
Trộn hoà lao động với giang sơn
Có mối tình nào hơn
Tổ quốc? ”
Dựa vào ý thơ trên và các bài thơ hiện đại đã được học ở chương trình Ngữ văn lớp 9 -
tập 1, em hãy viết một bài văn với nhan đề: Tình yêu Tổ quốc.
1. Mở bài:
Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống. Và có lẽ vì thế nên mỗi bài thơ đều mang đến sự đồng
điệu giữa cảm xúc của người đọc, người nghe và tâm hồn thi sĩ của tác giả. Đặc biệt,
những bài thơ gắn liền với hình ảnh người lính trong hai thời kì kháng chiến chống Pháp,
chống Mĩ và cả trong lao động lại càng khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống chiến đấu gian
khổ của dân tộc hơn. Để nói về điều này, trong bài thơ “Tình sông núi”, nhà thơ Trần Mai
Ninh viết:
“Có mối tình nào hơn thế nữa
Nói bằng súng, bằng gươm sáng rền
Có mối tình nào hơn thế nữa
Trộn hoà lao động với giang sơn
Có mối tình nào hơn
Tổ quốc? ”
Trước tình cảnh đất nước bị xâm lăng, nhà thơ - chiến sĩ đã bày tỏ khát vọng phải chiến
đấu để trả món nợ non sông. Những nỗi giày vò đêm ngày vì vận nước, vì tình thương dân

178
khiến nhà thơ không nguôi đau khổ. Bởi vậy, tình yêu Tổ quốc của con người Việt Nam
không chỉ thể hiện trong chiến đấu mà còn thể hiện trong lao động ở những bài thơ hiện đại
ở chương trình Ngữ văn lớp 9 tập 1.
2. Thân bài:
Trước tiên ta nên hiểu tình yêu nước đó là thứ tình cảm thiêng liêng, là sự tôn
trọng, tôn thờ, ghi khắc trong tim đối với đất nước mà mình đang sinh sống.
Ta bắt gặp tình yêu Tổ quốc của con người Việt Nam trong chiến đấu ở bài “Đồng
chí”, của Chính Hữu. Họ trước hết là những người nông dân mặc áo lính. Khi quê hương
bị giày xéo trước gót chân kẻ thù xâm lược, thì bằng tình yêu thiêng liêng với Tổ quốc, họ
đã bỏ lại tất cả ở quê nhà để ra đi chiến đấu, quét sạch bóng kẻ thù:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
(Đồng Chí – Chính Hữu)
Tình yêu đối với đất nước cùng với lí tưởng cao cả là chiến đấu đánh đuổi kẻ thù xâm
lược đã giúp họ vượt lên mọi khó khăn gian khổ để sống và chiến đấu:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
(Đồng Chí – Chính Hữu)
“Súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu; “đầu” biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ.
Hình ảnh sóng đôi, các điệp từ “súng, đầu, bên” nhấn mạnh sự gắn kết cùng cùng chung
nhiệm vụ, chung lý tưởng, chung chiến hào chiến đấu. Họ đồng tâm, đồng lòng, cùng nhau
ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương, giữ gìn nền độc lập, tự do, sự sống còn
của dân tộc – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Và họ lại cùng sẻ chia mọi gian lao thiếu
thốn của cuộc đời người lính: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”, cái khó khăn thiếu
thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải “chung chăn”. Nhưng chính sự chung
chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm
của những người đồng đội
Cho dù trên con đường đó họ có thể gặp nhiều gian khổ, mất mát, hi sinh với một niềm
tin và lạc quan:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật)
Ở hai câu thơ này, tác giả đã sử dụng điệp từ “không”, điệp ngữ “không có” để giới thiệu
cho chúng ta về những chiếc xe rất đặc biệt “không có kính”. Điệp từ “ bom” kết hợp với
các động từ mạnh “giật, rung”, hình ảnh chân thực, giọng thơ tinh nghịch để nhấn mạnh
bom đạn kẻ thù, những con đường ra trận đã làm cho những chiếc xe này biến dạng “không
có kính”. Nhưng với nghệ thuật đảo ngữ qua từ láy “ung dung” gợi lên sự điềm tĩnh, bình
thản, lạc quan, yêu đời của những người lính lái xe; họ vẫn tiếp tục công việc của mình dù

179
cho xung quanh có xảy ra những điều dữ dội, đau thương, mất mát. Điệp từ “nhìn” kết hợp
với thủ pháp liệt kê “đất, trời, thẳng” để nói lên những người lính không hề né tránh hiện
thực gian khổ, hy sinh; họ sẵn sàng đối mặt với gian nan, thử thách – một bản lĩnh vô cùng
vững vàng.
Lòng yêu nước là tiền đề cho những phẩm chất quý giá khác ra đời đó là lòng tự tôn dân
tộc, tinh thần hy sinh, kiên cường bất khuất, lòng căm thù quân giặc và đặc biệt là trong
giây phút sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ
vượt lên tất cả
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
(Đồng Chí – Chính Hữu)
Hai câu thơ cuối trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã hoàn thiện vẻ đẹp của
người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu giải phòng miền Nam:
“Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Cho thấy ý chí quyết tâm của người lính, cũng là lời khẳng định về một ngày mai chiến
thắng. Biện pháp hoán dụ “trái tim” để chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa; cũng
là ý chí, tâm huyết, sức lực mà người lính dành trọn cho đất nước.
Như vậy, khi Tổ quốc bị kẻ thù xâm lược thì tình yêu Tổ quốc của con người Việt Nam là:
“Nói bằng súng, bằng gươm sáng rền”.
Tình yêu Tổ quốc không chỉ biểu hiện trong chiến đấu mà trong lao động tình yêu ấy
cũng được thể hiện một cách thiết tha đối với đất nước thân yêu.
Đó là niềm tự hào khi con người Việt Nam được làm chủ cả một vùng biển Đông rộng
lớn, được ra khơi khai thác tài nguyên biển để làm giàu cho Tổ quốc. Vì vậy dù công việc
rất vất vả nhưng họ vẫn luôn lạc quan, ra khơi trong tiếng hát hào hứng và say mê:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
( Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận)
Nhưng có lẽ bài ca lao động ngân vang hào hùng nhất, hay nhất ở khổ thơ cuối, diễn tả
cảnh trở về của đoàn thuyền trong khung cảnh bình minh rực rỡ, tráng lệ:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt ca huy hoàng muôn dặm phơi”
Thời gian, không gian có khác nhưng hình ảnh vẫn thế, âm hưởng vẫn thế: hào hứng như
lúc ra đi, vẫn không khí khẩn trương ấy. Từ “hát'” lại một lần nữa xuất hiện thể hiện niềm
vui lao động đến say sưa của dân chài nhưng đây là tiếng hát mừng vui thắng lợi. Hình ảnh
nhân hoá “mặt trời đội biển” đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn, ánh sáng của mặt trời
không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang “màu mới” cho cuộc sống mà những
người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Tác giả cũng thành công trong việc sử
dụng phép tu từ ẩn dụ “ đội biển” đã cho thấy sức sống mạnh mẽ, tràn đầy nhiệt huyết của
những con người nơi đây và “màu mới” muốn nói đến ý nghĩa sâu xa hơn đó là màu của

180
hạnh phúc, ấm no, màu của người lao động tự do làm việc trên chính vùng trời, vùng biển
của quê hương sau bao năm tháng chịu cảnh nô lệ. Ở đây tại sao mắt cá lại “huy hoàng” ?
Phải chăng là miêu tả ánh sáng đẹp, rạng rỡ, là biểu hiện niềm vui trong mắt người, biểu
tượng cho một tương lai, cuộc sống mới đang khởi sắc trên “muôn dặm phơi'”.
Đó là hình ảnh người bà đáng kính tuy không trực tiếp lao động sản xuất nhưng đã hết
lòng vì con vì cháu cho các con công tác để phục vụ cho đất nước và cũng là người bà giàu
nghị lực, giàu ý chí và niềm tin:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”
(Bếp lửa - Bằng Việt)
Đó là người mẹ dân tộc Tà Ôi đã có sự thống nhất giữa tình yêu con và tình yêu Tổ quốc:
Công việc của bà tuy vất vả nhưng luôn gắn với dân làng, bộ đội, đất nước, tình cảm, mơ
ước của bà không chỉ cho con mà còn gắn với dân làng, bộ đội, đất nước:
“Mẹ thương a kay, mẹ thương bộ đội
Mẹ thương a kay, mẹ thương làng đói
Mẹ thương a kay, mẹ thương đất nước”
(Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm)
Đó còn là sự giật mình thức tỉnh nối dài hiện tại với quá khứ, để sống đúng với đạo lí
“Uống nước nhớ nguồn” trước ánh trăng – nhân dân đất nước bình dị, độ lượng, bao dung,
khi con người được sống trong hòa bình, đã vô tình lãng quên quá khứ:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình”
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
(Ánh trăng – Nguyễn Duy)
Như vậy, tình yêu Tổ quốc của con người Việt Nam là mối tình trộn hoà trong lao động
với giang sơn và không có mối tình nào hơn thế.
Bởi vậy, chúng ta - thế hệ trẻ hôm nay phải luôn có ý thức về trách nhiệm bảo vệ Tổ
quốc, sẵn lòng hi sinh cho Tổ quốc khi đất nước gọi tên, không được phép trốn tránh hay
sợ hãi. Cảnh giác và đề phòng với các thế lực thù địch có ý đồ chống phá Đảng và nhà
nước ta, phải giữ lập trường tư tưởng chính trị đúng đắn. Chăm ngoan học hành, tu dưỡng
và rèn luyện đạo đức để tương lai trở thành những cá nhân ưu tú đóng góp vào sự phát
triển của đất nước. Nhắc nhở bản thân phải ghi nhớ công lao của các thế hệ cha anh đi
trước, luôn bồi dưỡng và củng cố tấm lòng yêu nước, lòng yêu hòa bình. Tham gia vào các
công tác phòng chống tệ nạn xã hội, bạo lực học đường, đặc biệt là nuôi dưỡng tâm hồn
một cách tích cực, hướng thiện,...
3. Kết bài:

181
Tình yêu Tổ quốc là một tình cảm thiêng liêng, không chỉ có ở trong tim của mỗi con
người mà đã trở thành dòng chảy xuyên suốt lịch sử Việt Nam. Đó là sợi chỉ đỏ kết nối
muôn triệu trái tim, tạo thành nguồn sức mạnh vĩ đại đưa dân tộc ta đi qua đêm trường nô
lệ tới ánh sáng của tự do.
.........................................................................................
Đề 60: Trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, nhà văn Nguyễn Thành Long đã viết về nhân
vật anh thanh niên như sau:
Anh hạ giọng, nửa tâm sự, nửa đọc lại một điều rõ ràng đã ngẫm nghĩ nhiều:
- Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa, cháu
cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không nghĩ như
vậy nữa. Vả, khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi
việc của cháu gắm liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu
gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất. Còn người thì ai mà chả “thèm”
hở bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc? Đấy, cháu tự nói với
cháu thế đấy. Bác lái xe đi, về Lai Châu cứ đến đây dừng lại một lát. Không vào “ốp” là
cháu chạy xuống chơi, lâu thành lệ. Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật
ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô hội thì xoàng. Cháu ở liền trong trạm hàng
tháng. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe, mặc, cháu gan lì nhất định không xuống.
Ấy thế là một hôm, bác lái phải thân hành lên trạm cháu. Cháu nói: “Đấy, bác cũng chẳng
“thèm” người là gì?”.
Anh xoay sang người con gái đang một mắt đọc cuốn sách, một mắt lắng nghe, chân cô
đung đưa khe khẽ, nói:
- Và cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà. Mỗi
người viết một vẻ.
Cảm nhận của em về nhân vật anh thanh niên trong đoạn trích trên. Từ đó, hãy liên
hệ với hình ảnh của thế hệ trẻ trong một tác phẩm văn học khác hoặc trong thực tế
đời sống để thấy được vẻ đẹp của sức trẻ Việt Nam
1. Mở bài:
Yêu biết mấy hình ảnh người thanh niên thời kỳ chống Mỹ: cần cù trong lao động, anh
hùng trong chiến đấu. Văn thơ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ đã dựng lại cả một thời kỳ
máu lửa, đi sâu tìm tòi khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của thế hệ thanh niên trong chiến đấu
cũng như trong lao động. Tôi nhớ mãi hình ảnh anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” của
Nguyễn Thành Long. Anh là hiện thân của vẻ đẹp con người Việt Nam, ngày ngày lặng
thầm góp công xây đựng đất nước không chỉ bằng những trang sử chống Mỹ mà còn bằng
những thành tích lao động quên mình. Bởi vậy, khi viết về anh thanh niên, Nguyễn Thành
Long nói “Anh hạ giọng, nửa tâm sự, nửa đọc lại một điều rõ ràng đã ngẫm nghĩ nhiều:
- Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa, cháu
cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không nghĩ như
vậy nữa. Vả, khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi
việc của cháu gắm liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu
gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất…. Anh xoay sang người con gái
đang một mắt đọc cuốn sách, một mắt lắng nghe, chân cô đung đưa khe khẽ, nói:

182
- Và cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà. Mỗi
người viết một vẻ”.
2. Thân bài:
Anh thanh niên là một người lao động bình thường, cũng như bao người khác, chỉ biết
bác lái xe gọi anh một cách đơn giản là “anh thanh niên” thế thôi. Anh được giới thiệu:
“Hai bẩy tuổi” - tuổi của sự cống hiến sức trẻ, anh sống và làm việc trên “đỉnh Yên Sơn
cao hai nghìn sáu trăm mét”. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Lời giới thiệu
ngắn gọn về anh cũng đủ để ta thấy công việc mà anh đã chọn và đang làm không dễ dàng
chút nào! Nhưng chính anh là thế, một anh thanh niên bất chấp mọi khó khăn để đi theo
con đường lao động chân chính mà mình đã chọn.
Một người yêu mến công việc dù làm việc một mình trên đỉnh núi Yên Sơn trong khung
cảnh vắng vẻ nhưng anh không cảm thấy lẻ loi vì công việc mang lại cho anh niềm vui và
nhận thức về ý nghĩa của công việc làm. Cho nên với anh: “Ta với công việc là đôi, sao gọi
là một mình được?”. Đẹp nhất ở anh là tư tưởng sống không chỉ cho bản thân mà là cho
đất nước, cho dân tộc, chính lí tưởng đó đã hướng anh đi theo con đường lao động đúng
đắn và có ích. Anh cũng như bao người bình thường khác, trong suy nghĩ cũng từng có
những ngại ngần và tâm lí sợ sự cô đơn trước con đường đời đã chọn. Nhưng tuổi trẻ và lí
tưởng cao đẹp nơi anh đã lấp đầy khoảng trống ấy bằng tấm lòng yêu nghề, sự say mê lao
động của mình: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết
mất”. Từ trải nghiệm về công việc, anh yên tâm đón nhận con đường mình đang tiến tới
bằng lý tưởng cao đẹp về công việc lao động của mình.
Một người có lòng yêu mến con người. Sống đơn độc nên anh rất khao khát được gặp gỡ
và trò chuyện với mọi người. Chính anh đã khẳng định với bác tài xế xe khách: Còn người
thì ai mà chả “thèm” hở bác?.
Một người ham học hỏi, rất quan tâm đến đời sống nội tâm. Sống một mình trên đỉnh
núi, anh không cảm thấy cô đơn vì lúc nào bên cạnh anh cũng có sách. Ngoài giờ làm việc,
ngoài lúc phải chăm sóc vườn hoa, đàn gà, anh dành thời gian để đọc sách. Khi cô kĩ sư,
ông họa sĩ… đến phòng ở của anh và quyển sách anh đang đọc dở vẫn còn để mở trên bàn.
Chính anh cũng đã khẳng định với cô kĩ sư: “Và cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có
người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà. Mỗi người viết một vẻ”. Cái cách đọc sách của
anh tinh tế, nghiêm túc và đúng đắn biết bao.
Một người sống có lý tưởng, có trách nhiệm. Anh ý thức một cách rất rõ ràng: “Mình
sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc”. Nhận thức đó cho thấy anh trẻ nhưng
không hời hợt. Anh sống một mình nhưng không cô đơn vì lúc nào trong tư tưởng của anh
mục đích sống, lẽ sống vẫn luôn luôn tồn tại và nhắc nhở. Làm một công việc đơn độc,
phải dậy vào lúc nửa đêm, phải ra ngoài trời lúc mưa bão, lạnh lẽo, anh có thể nằm ở trong
nhà, lấy số liệu cũ mà gọi bộ đàm về để báo cáo. Nhưng anh không làm điều đó. Vì anh có
trách nhiệm và anh hiểu rõ việc anh làm ở đây có liên quan, có ảnh hưởng đến cuộc sống
lao động và chiến đấu của rất nhiều người lúc bấy giờ. Việc phái đoàn không quân – phòng
không đến thăm và khen ngợi anh đã cho thấy rõ điều đó.
Nhân vật anh thanh niên được xây dựng bằng một nghệ thuật đặc sắc. Nó được miêu tả
và thể hiện qua cuộc gặp gỡ đặc biệt với ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ; được bộc lộ qua lời

183
đối thoại của nhân vật; nhân vật không có tên riêng, không có ngoại hình cụ thể mà chỉ có
tên gọi theo kiểu chung, phiếm chỉ.
Vì thế, hình ảnh người thanh niên thể hiện vẻ đẹp của người thanh niên Việt Nam nói
chung trong giai đoạn chống Mĩ: giản dị, chân thành và giàu lý tưởng; góp phần thể hiện tư
tưởng chủ đề của tác phẩm, thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong chiến
đấu; thể hiện cảm hứng của Nguyễn Thành Long khi sáng tác: “Sa Pa không chỉ là một sự
yên tĩnh. Bên dưới sự yên tĩnh ấy, người ta làm việc”, hy sinh, yêu thương và mơ ước.
Hình ảnh này gợi cho người đọc đến hình ảnh của thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn
chống Mĩ nói riêng và theo dòng chảy thời gian nói chung.
Qua đoạn văn trên đã gợi đến trong em hình ảnh những người như: Phương Định, Nho,
chị Thao trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.
Những cô thanh niên xung phong làm công tác trinh sát mặt đường trên đường mòn
Trường Sơn trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ gian khổ, ác liệt và đầy nguy hiểm.
Nhưng họ là những người rất lạc quan, thích vui đùa, mỗi người một vẻ. Trong đó tiêu biểu
nhất là Phương Định. Đó là một cô gái Hà Nội xinh đẹp, có tâm hồn nhạy cảm, lao động và
chiến đấu gan góc, dũng cảm và cũng là người có ý thức, có tình cảm đẹp về tình đồng đội
của những người thanh niên:
“ Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” và Phương Định, Nho, chị Thao ở tác
phẩm “Những ngôi sao xa xôi” …Tuy họ là những nhân vật khác nhau trong những tác
phẩm văn học khác nhau. Họ khác nhau về giới tính, về môi trường sống, về công việc cụ
thể. Nhưng họ là những người thanh niên của cùng một thời kì chiến tranh, cùng thể hiện
vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam trong một thời kì lịch sử đầy khốc liệt của Tổ quốc và cùng
để lại những ấn tượng sâu đậm đối với người đọc ở các giai đoạn sau.
3. Kết bài:
Đây là một đoạn văn ngắn nhưng biểu hiện được những nét tiêu biểu cho nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm, của nhân vật anh thanh niên. Tác giả Nguyễn Thành Long đã
thành công trong việc khắc họa nét đẹp của tuổi trẻ Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh
cũng như trong giai đoạn hiện nay.
Đề 61: “Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái
đẹp”. Hãy khám phá “xứ sở của cái đẹp” qua một số tác phẩm SGK Ngữ văn 9.
1. Mở bài:
Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là một truyện ngắn đặc sắc,
hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Truyện được viết sau chuyến đi thực tế ở Sa Pa, một
vùng núi đẹp nổi tiếng. Nguyễn Thành Long không chỉ gửi đến người đọc vẻ đẹp độc
đáo của thiên nhiên Sa Pa mà còn nêu lên vẻ đẹp của những con người ở chốn Sa Pa
lặng lẽ đó. Còn với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận vừa là một bức
tranh thiên nhiên đẹp đẽ, vừa là một khúc ca hào hùng về những người đánh cá trên
biển cả bao la của Tổ quốc. Mỗi người dân làng chài thật phấn khởi, say mê với công
việc của mình trong tư thế thực sự làm chủ biển trời, làm chủ cuộc đời mới. Giá trị
thẩm mĩ của hai tác phẩm văn học này đem lại cho người đọc: cái đẹp của văn học và

184
cái đẹp của cuộc sống. Bởi vậy, có ý kiến về hai tác phẩm này: “Niềm vui của nhà văn
chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”.
2. Thân bài:
Thế nào là nhà văn chân chính? Phải chăng nhà văn chân chính là nhà văn luôn đặt
mục đích sáng tác vào con người và cuộc sống. Đem ngòi bút của mình phục vụ đời
sống và có ích cho con người.
Còn xứ sở của cái đẹp trong tác phẩm văn học lại được thể hiện ở hai phương diện
nội dung và hình thức. Vẻ đẹp nội dung là vẻ đẹp của tự nhiên và con người trong lao
động, chiến đấu,… mà nhà văn mang tới cho người đọc. Vẻ đẹp hình thức là khả
năng xây dựng được những hình tượng nghệ thuật sinh động, độc đáo, hấp dẫn. Là
khả năng kết cấu chặt chẽ, tình huống hợp lí và khả năng sử dụng ngôn từ điêu
luyện... Cả hai phương diện nội dung và hình thức không chỉ đem lại cho người đọc
những rung cảm thẩm mĩ mà còn làm cho con người yêu cuộc sống, khao khát hướng
tới những gì đẹp đẽ tốt lành cho cuộc đời.
Để người đọc cảm nhận được xứ sở của cái đẹp đó thì nhà văn chân chính là người
dẫn đường cho người đọc khám phá cảm nhận. Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc của
nhà văn.
Điểm chung của cả hai tác phẩm đều mang đến cho người đọc là cả hai tác giả cùng đi
thực tế để khams phá vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp của con người, đặc biết đó còn là vẻ đẹp
của nghệ thuật biểu hiện của hai tác phẩm.
Đến với tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long thì xứ sở cái đẹp chính
là bức tranh thiên nhiên núi rừng rộng lớn vùng Tây Bắc. Dưới ngòi bút của Nguyễn
Thành Long thiên nhiên Sa Pa thật thơ mộng, lung linh, kì ảo, trữ tình. Sa Pa xuất hiện
đầu tiên với hình ảnh “những rặng đào” và “những đàn bò lang cổ có đeo chuông ở các
đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường”. Đúng là sa pa rồi! Bạn có nhận ra chưa? Còn
người hoạ sĩ thì đã nhận ra cảnh quan ấy để rồi tơ tưởng đến một ngày được về ở hẳn nơi
ấy. Chỉ một ước muốn ấy thôi cũng cho thấy bức tranh thiên nhiên có sức hấp dẫn lòng
người. Đẹp nhất vẫn là lúc nắng lên. Dưới ánh nắng, dường như mọi vật đều trở nên sinh
động. Ánh nắng làm cho bức tranh trở nên đầy màu sắc, khiến con người họa sĩ và cô kĩ sư
cũng nín bặt vì vẻ đẹp lạ kì của cảnh: “Nắng bây giờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây.
Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái
nhìn bao che của cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu hình hoa cà lên trên màu xanh của
rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên vòm lá ướt sương, rơi xuống đường
cái, luồn vào cả gầm xe”. Thiên nhiên đuợc nhân hoá trở nên sống động lạ kì “ Nắng len
tới”; chòm thông rung tít với “những ngón” tay bằng bạc; cây tử kinh với cái “ Nhìn bao
che” “nhô dầu” ; “ mây xua nắng đi”...Bức tranh hiện lên với nhiều màu sắc tươi sáng, màu
xanh của những cánh rừng bạc ngàn, màu tím của những cây tử kinh, màu trắng của những
đụn mây trời và màu vàng tươi của sắc nắng...Khung cảnh bồng bềnh, sương khói, lãng
đãng mây trời và ngập tràn ánh sáng ấy chính là khung nền cho một cuộc gặp gỡ cũng
thấm đẫm chất trữ tình nên thơ.
Xứ sở của cái đẹp trong “Lặng lẽ Sa Pa” còn được thể hiện ở vẻ đẹp hấp dẫn của
những con người làm việc quên mình cho đất nước. Trước hết là anh thanh niên làm
công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Anh thanh niên mang trong mình đầy đủ

185
những phẩm chất tốt đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề ở tinh thần trách nhiệm với
công việc. Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt
đất….” rồi ghi chép lại và báo về trung tâm, dựa vào việc báo trước thời tiết hàng ngày,
phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Chỉ quanh quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn thôi
nhưng lại quan trọng vô cùng, ấy thế nên anh đã sống hết mình vì nó. Vẻ đẹp nơi anh bắt
đầu từ chính công việc mà anh đã chọn – là con đường lao động. Qua đó, anh có thể hoàn
thành nghĩa vụ và ước mơ cống hiến cho Tổ quốc của mình. Anh lựa chọn cho mình làm
công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, dù công việc này có lắm khó khăn, đòi hỏi tính tỉ mỉ
chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao nhưng anh lại tìm thấy niềm vui ở nó “ khi ta
làm việc ta với công việc là đôi”. Đẹp nhất ở anh là tư tưởng sống “không chỉ cho bản thân
mà là cho đất nước, cho dân tộc”, chính lí tưởng đó đã hướng anh đi theo con đường lao
động đúng đắn và có ích. Anh cũng như bao người bình thường khác, trong suy nghĩ cũng
từng có những ngại ngần và tâm lí sợ sự cô đơn trước con đường đời đã chọn. Nhưng tuổi
trẻ và lí tưởng cao đẹp nơi anh đã lấp đầy khoảng trống ấy bằng tấm lòng yêu nghề, sự say
mê lao động của mình: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến
chết mất”. Từ trải nghiệm về công việc, anh yên tâm đón nhận con đường mình đang tiến
tới bằng lý tưởng cao đẹp về công việc lao động của mình. Trong môi trường sống và lao
động khắc nghiệt của thời tiết núi rừng Sa Pa “Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở
bên ngoài chỉ trực đợi mình ra là ào ào xô tới”; ngay cả những khổ cực khi phải thức dậy
vào lúc “Bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối lại một giờ sáng”…Thế nhưng anh vẫn vượt
qua và hoàn thành tốt công việc của mình. Phải nói anh thanh niên ấy là một con người say
mê công việc, biết vươn lên những khó khăn, tự giác hoàn thành nhiệm vụ và đã rèn luyện
cho mình một trái tim thấm đượm lòng yêu nghề.
Những người như ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa hằng ngày ngồi trong vườn chăm chú quan
sát cách lấy mật của ong, rồi tự tay thụ phấn cho hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra
tốt hơn, anh cán bộ nghiên cứu đã mười một năm ròng túc trực chờ sét để lập bản đồ sét
tìm tài nguyên cho đất nước. Họ tạo thành cái thế giới những con người như anh thanh niên
ở trạm khí tượng, những con người miệt mài lao động khoa học lặng lẽ mà khẩn trương vì
lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của con người.
Tất cả đã tạo nên xứ sở của cái đẹp là sự cống hiến âm thầm và lặng lẽ hết mình cho
đất nước. Xứ sở của cái đẹp trong “Lặng lẽ Sa Pa không chỉ đẹp về nội dung mà còn
đẹp về nghệ thuật, với nhan đề “Lặng lẽ Sa Pa” thấm đẫm chất thơ. Cốt truyện, tình
huống giản đơn, chỉ là cuộc gặp gỡ tình cờ giữa các nhân vật nhưng nhà văn đã dựng lên
mối quan hệ chung - riêng thật đẹp. Hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, chất
tạo hình, âm điệu nhẹ nhàng, êm ái, giàu chất thơ. Ngôn ngữ chắp cánh những vần thơ,
nâng tâm hồn người đọc vươn tới những cảm xúc sâu xa, thấm thía.
Còn với xứ sở của cái đẹp trong “Đoàn thuyền đánh cá” được thể hiện ở vẻ đẹp của
thiên nhiên vùng biển Hạ Long:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa”
Mặt trời từ từ lặn xuống lòng biển được tác giả ví như “ hòn lửa” đỏ rực. Với cách so
sánh này, làm hiện ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây
ngất lòng người.

186
Theo nhịp bước vận động của thời gian, của một chuyến hành trình tiến ra khơi xa
của đoàn thuyền đánh cá, mọi vẻ đẹp và sự giàu có trù phú của biển cả như dần hiện
ra:
“ Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”
Phép liệt kê “cá bạc, cá thu” cho thấy sự giàu có của biển khơi. Ý thơ càng rõ nét hơn
qua hình ảnh liên tưởng tưởng tượng và phép so sánh “như đoàn thoi”; từng đàn cá thu bơi
lội tung tăng, di chuyển nhịp nhàng, đông đúc như những con thoi đang kéo sợi để dệt nên
những tấm lưới đầy màu sắc. Ở đây ta thấy có sự độc đáo trong cách dùng phép nhân hóa
“dệt biển” và hình thức ẩn dụ “muôn luồng sáng” khiến ta hình dung những vệt nước lấp
lánh khi đàn cá bơi lội, cả những tấm lụa đầy màu sắc gợi cảnh biển thất đẹp dưới những
ánh sáng kì diệu.
Xứ sở của cái đẹp còn là vẻ đẹp của cảnh bình minh tươi sáng, tinh khôi, tràn đầy sức
sống:
“Mặt trời đội biển nhô màu mới”
Hình ảnh nhân hoá “mặt trời đội biển” đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn, ánh sáng
của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang “màu mới” cho cuộc
sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến.
Xứ sở của cái đẹp trong “Đoàn thuyền đánh cá” còn được thể hiện ở vẻ của con
người khi ra khơi đánh cá với sự hào hứng, hăng say, phấn khởi tràn đầy hy vọng:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Hình ảnh hoán dụ “đoàn thuyền đánh cá” và phụ từ “lại” diễn tả nhịp điệu lao động của
người dân chài đã ổn định, nề nếp. Đồng thời cho ta hiểu đây là công việc, là hoạt động
hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân
vùng biển. Trong hoàn cảnh thiên nhiên đi vào nghỉ ngơi, còn con người lại bắt tay vào lao
động đây là sự đối lập giữa thiên nhiên và con người, từ đó gợi lên cả nhịp sống thanh bình
của quê hương, đất nước. Với nghệ thuật ẩn dụ“Câu hát căng buồm” gợi lên niềm vui, sự
phấn khởi, tình yêu lao động, tinh thần lạc quan của những con người lao động mới.
Xứ sở của cái đẹp trong “Đoàn thuyền đánh cá” còn được thể hiện khi đánh cá trên
biển: Con người với khí thế hăng hái, tư thế hùng dũng mạnh mẽ, với niềm vui phơi
phới, lạc quan, với lòng yêu mến, biết ơn biển, với ý chí quyết tâm và sự nỗ lực khẩn
trương:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
“Trăng” được nhân hóa qua từ “gõ thuyền” cho ta cảm nhận được trăng in bóng xuống
dòng nước, sóng xô bóng trăng trong nước gõ vào mạn thuyền, tạo nên nhịp trăng gõ
thuyền để lùa cá vào lưới. Thiên nhiên và con người giờ đây như cùng một nhịp lao động,
gắn bó và hài hòa với nhau. Tác giả lại thành công trong việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa
và phép so sánh “biển” như “ lòng mẹ” để khẳng định biển cả đối với ngư dân trở nên thật

187
ấm áp, bao dung như người mẹ hiền chở che, nuôi nấng họ lớn lên, lại cho họ nhiều tôm,
cá... Biển không chỉ đẹp, giàu có mà còn rất ân tình.
Cuối cùng, khi trở về con người lại tràn đầy niềm vui, niềm tự hào, với tư thế tự tin,
thắng lợi:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Thời gian, không gian có khác nhưng hình ảnh vẫn thế, âm hưởng vẫn thế: hào hứng như
lúc ra đi, vẫn không khí khẩn trương ấy. Từ “hát'” lại một lần nữa xuất hiện thể hiện niềm
vui lao động đến say sưa của dân chài nhưng đây là tiếng hát mừng vui thắng lợi.
Xứ sở của cái đẹp trong “Đoàn thuyền đánh cá” không chỉ đẹp về nội dung mà còn
đẹp về nghệ thuật, được thể hiện: Thể thơ 7 chữ, cách gieo vần biết hóa linh hoạt. Âm
hưởng thơ khỏe khoắn sôi nổi vừa phơi phới, bay bổng vừa ngọt ngào, tha thiết. Kết
cấu đầu cuối tương ứng thể hiện trọn vẹn hành trình ra khơi đánh cá và trở về. Bút
pháp tả thực kết hợp với lãng mạn. Hình ảnh thơ kì vĩ tráng lệ, sử dụng linh hoạt các
biện pháp tu từ: liệt kê, ẩn dụ, hình ảnh so sánh, nhân hóa đẹp được sáng tạo bằng
cảm hứng lãng mạn, cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về lao động.
3. Kết bài:
Tóm lại cái đẹp trong tác phẩm văn học thật đa dạng, phong phú được khơi nguồn, kết
tinh từ cuộc sống. Đời sống tự nhiên ấy được làm nên từ quá trình lao động cực nhọc, sáng
tạo, mê say của nhà văn để có được sức hấp dẫn, những giá trị đẹp của con người, làm cho
con người sống tốt hơn. Yêu cái đẹp của văn chương là chúng ta yêu tấm lòng của nhà văn.
Họ là những kĩ sư tâm hồn đốt cháy mình để có được ánh sáng, niềm vui dẫn ta đến bến bờ
xứ sở của cái đẹp trong cuộc sống. Nhà văn Nguyễn Thành Long đã đem đến cho chúng ta
với xứ sở cái đẹp là niềm cảm hứng dạt dào về vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi Sa Pa.
Với bài thơ “Đoàn thuyền dánh cá” thì đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, của những con người
lao động cần cù, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Yêu cái đẹp của văn chương là chúng ta
yêu tấm lòng của nhà văn. Họ là những kĩ sư tâm hồn đốt cháy mình để có được ánh sáng,
niềm vui dẫn ta đến bến bờ xứ sở của cái đẹp trong cuộc sống.
…………………………………………………………………..
Đề 62: Hãy chỉ ra và phân tích giá trị nghệ thuật của phép tu từ trong đoạn thơ sau?
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”
( “Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Trong đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” của Nguyễn Du sau có sử dụng nhiều phép tu từ:
phép ẩn dụ “làn thu thuỷ nét xuân sơn”; nhân hóa “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém
xanh”; thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành”; phép nói quá Thúy Kiều đẹp đến mức
“hoa ghen, liễu hờn”, “nghiêng nước nghiêng thành” được thể hiện rõ nét:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”

188
Đầu tiên ta bắt gặp phép ẩn dụ: “Làn thu thủy, nét xuân sơn” gợi đôi mắt trong sáng,
long lanh như làn nước mùa thu; hàng lông mày thanh tú, đẹp như dáng núi mùa xuân.
Tiếp đến là phép tu từ nhân hóa “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, tác giả làm
nổi bật dung nhan đằm thắm của Kiều khiến thiên nhiên là hoa phải ghen, dáng trẻ trung
đầy sức sống khiến liễu phải hờn.
Với thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” để nói lên Kiều có vẻ đẹp làm say đắm,
chinh phục lòng người.
Phép nói quá: Để chỉ Thúy Kiều đẹp đến mức “hoa ghen, liễu hờn”, “nghiêng nước
nghiêng thành”, Kiều đúng là một trang tuyệt thế giai nhân
Qua các biện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, thành ngữ, nói quá kết hợp bút pháp ước lệ cổ
điển trong nghệ thuật miêu tả nhân vật, sử dụng điển tích, điển cố đã làm hiển hiện trước
mắt người đọc một trang giai nhân tuyệt sắc kiêu sa, diễm lệ; đồng thời với việc sử dụng
các biện pháp nghệ thuật ấy dường như dự báo được cuộc đời dâu bể lận đận của Kiều sau
này, qua đó đã cho ta thấy được tài năng của bậc thầy Nguyễn Du trong nghệ thuật xây
dựng nhân vật.
………………………………………………………………………
Đề 69: Nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng: “Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám
ảnh”.em hãy chứng minh rằng: bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là một bài thơ hay.
1. Mở bài:
Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống
Mĩ. Ông là một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ yêu nước thời kháng chiến
chống mỹ. Sau giải phóng, ông tiếp tục bền bỉ sáng tác sau ngày đất nước giải phóng.
Thơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm
nghiệm vì thế cứ ngấm vào người đọc và trong cái đà ngấm ấy có lúc khiến người ta
phải giật mình suy nghĩ. Bài thơ “Ánh trăng” thể hiện sâu sắc đặc điểm nghệ thuật ấy
của ông. Bởi vậy, Nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng: “Thơ hay là thơ giản dị, xúc
động và ám ảnh”
2. Thân bài:
Trước tiên ta nên hiểu “giản dị” là sự bình dị, mộc mạc, không cầu kì, hoa mĩ. Giản
dị trong văn chương không đồng nhất với đơn giản, dễ dãi. Còn “ xúc động” thì sao?
Phải chăng đó là tiếng lòng, sự dồn nén cao độ của cảm xúc được chính nhà thơ gửi
gắm trong tác phẩm. Từ tiếng lòng của thi nhân, bằng thơ và qua thơ đến với người
đọc, khơi gợi trong lòng người đọc những rung cảm, tình cảm đẹp đẽ. Thế “ám ảnh”
ta nên hiểu là những giá trị sâu sắc gợi cho người đọc những trăn trở nghĩ suy, những
cảm xúc không thể nào quên. Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là một bài thơ hội
tụ đầy đủ ba yếu tố: giản dị, xúc động và ám ảnh.
Trước tiên ta thấy được sự giản dị trong bài thơ “Ánh trăng” đó chính là nhan đề
bài thơ được cấu tạo là một danh từ là biểu tượng cho thứ ánh sáng đẹp của thiên
nhiên, biểu tượng cho quá khứ trong sáng, đẹp đẽ, nghĩa tình, thủy chung, vẹn
nguyên. Gợi liên tưởng đến những con người giản dị, thủy chung, nghĩa tình đồng
thời là lời nhắc nhở của tác giả đối với mỗi chúng ta hãy sống ân nghĩa, thủy chung
với quá khứ.

189
Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn rất bình dị. Bài thơ mang dáng dấp của một câu
chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian, theo dòng cảm nghĩ của tác giả, có sự kết
hợp hài hoà, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình. Giọng điệu, ngôn ngữ tự nhiên như lời
tâm tình sâu lắng, nhịp thơ khi thì trôi chảy, nhịp nhàng theo lời kể, khi thì ngân nga
thiết tha cảm xúc.
Tiếp đến là những “xúc động” và “ám ảnh” của bài thơ “Ánh trăng” chủ yếu thể
hiện qua nội dung, tư tưởng bài thơ, nó xúc động, nhẹ nhàng như một câu chuyện
tâm tình, tác giả đã gợi lại những kỷ niệm gắn bó sâu sắc giữa con người với vầng
trăng trong quá khứ:
“ Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể”
Với phép liệt kê “đồng, sông, bể” đã gợi ra một không gian mênh mông, êm đềm, trong
sáng và những kỉ niệm thuổi thơ vô cùng đẹp đẽ. Cánh đồng, sông và bể là những nơi cất
giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Lúc này vầng chăng đã chia
sẻ những niềm vui thơ ấu với tác giả. Điệp từ “ với” để nói trăng và người luôn luôn gắn
bó thân thiết trong niềm hạnh phúc. Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được! Khi lớn
lên – trở thành người lính, vầng trăng lại theo người lính vào chiến trường:
“ hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Trong những năm tháng gian lao, trăng luôn sát cách bên người lính, cùng trải nghiệm
sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Với phép nhân
hóa trăng đã trở thành “tri kỉ” của người lính: cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ,
người lính lại cùng trăng tâm sự để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Điệp từ “hồi” làm
sống lại vầng trăng trong kí ức quá khứ của tác giả.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở người lính không được quên đi vầng trăng - người
bạn tri kỉ của mình:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Với từ láy “trần trụi” nhà thơ đã diễn tả sự trong sáng, hồn nhiên trong tâm hồn người
lính và giờ đây con người thật sự chan hòa một cách tuyệt đối với thiên nhiên. Tác giả lại
thành công khi sử dụng phép so sánh “ hồn nhiên như cây cỏ” để tô đậm vẻ đẹp tâm hồn
của người lính hồn nhiên, chân thành, không hề vụ lợi, không toan tính nhỏ nhen. Từ đó
vầng trăng tri kỉ đã hóa thành vầng trăng “tình nghĩa”, trong sự biến đổi kỳ diệu ta lại thấy
biện pháp tu từ ẩn dụ được sử dụng để nói lên cái nghĩa tình của vầng trăng với con người
trong quá khứ của đồng, của sông, của bể và của người lính trong những năm tháng gian
lao. Vì thế người lính “ngỡ không bao giờ quên” để khẳng định với lòng mình một nghĩa
tình thủy chung mãi mãi. Thế nhưng từ “ngỡ” như báo trước một sự thay đổi nằm ngoài dự
định, vì chuyện đời có những ngã rẽ bất ngờ mà không ai lường trước được:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương

190
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
“Từ hồi về thành phố” đã khép lại những năm tháng chiến tranh gian khó và mở ra một
cuộc sống hòa bình. Cuộc sống sau chiến tranh được tái hiện qua phép ẩn dụ “ánh điện,
cửa gương” để miêu tả không gian, lối sống nơi đô thị của con người có cuộc sống đầy đủ
vật chất, tiện nghi. Với biện pháp tu từ nhân hóa “ đi qua ngõ” kết hợp so sánh “vầng trăng
như người dưng” thì mối quan hệ giữa con người và vầng trăng thay đổi một cách đột ngột:
vầng trăng đã hóa thành xa lạ, con người không còn cảm nhận được vầng trăng trong đời
sống nơi đô thị. Thứ ánh sáng nhân tạo của ánh điện, cửa gương khiến con người quên mất
vẻ đẹp của ánh trăng. Con người trở nên xa lạ với quá khứ, với nghĩa tình trong quá khứ.
Mối quan hệ giữa con người và vầng trăng được đặt trong một cuộc hội ngộ bất ngờ,
khiến con người tỉnh ngộ:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn - đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Tác giả đã sử dụng đảo ngữ với từ láy “thình lình” nhằm gợi tả một biến cố bất ngờ
thường thấy trong đời sống nơi đô thị; sự việc xảy ra quá nhanh chóng mà con người
không thể lường trước được: “Đèn điện tắt, phòng buyn - đinh tối om” con người phải đối
diện với một không gian tối tăm, ngột ngạt. Lúc này, con người muốn thoát khỏi không
gian chật hẹp, từ túng ấy nên “vội bật tung của sổ”, đây là một phản ứng chân thực, tự
nhiên của con người khi mất điện, thật may mắn con người đã gặp lại người bạn tri kỉ của
mình. Tác giả thành công khi sử dụng phép đảo ngữ với từ láy “đột ngột” gợi lêm một cảm
giác ngỡ ngàng khi người lính gặp lại vầng trăng. Người bạn nghĩa tình ấy lại có mặt vẫn
tròn đầy, vẹn nguyên, không phai mờ dù con người quay lưng, chối bỏ.
Để rồi đến khổ thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cảm xúc mãnh liệt của mình khi thấy lại
người bạn năm xưa, thì biết bao nhiêu kỉ niệm cũ ùa về:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Điệp từ “mặt” nhấn mạnh giây phút mặt người và mặt trăng đối diện với nhau - người
lính gặp lại cố nhân xưa, để rồi nhận ra sự đổi thay, vô tình với quá khứ gian lao, nghĩa
tình của mình. Từ láy “rưng rưng” diễn tả tinh tế trạng thái cảm xúc nghẹn ngào; đồng thời
thể hiện sự chua xót, xấu hổ và nhớ thương ân hận khi nhận ra sự bội bạc của mình với lời
tự hứa “không bao giờ quên” và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước
lòng vị tha của người bạn tri kỉ. Điệp từ “là” kết hợp với phép liệt kê “đồng, bể, sông,
rừng” thân thương, tác giả đã gợi lại những hình ảnh trong sáng, tuyệt đẹp nhất của tuổi
thơ hồn nhiên cũng như những ngày tháng hạnh phúc, gian lao khi vào lính. Từ đó cho
thấy kí ức nghĩa tình ấy, vẻ đẹp thân thương ấy không bao giờ mất đi, chỉ lặng lẽ sống
trong tâm hồn mỗi con người.
Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm
nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:

191
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình”
Tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ “tròn vành vạnh” vừa tả vẻ đẹp tròn đầy, vừa gợi sự
thủy chung trước sau như một của vầng trăng, cũng là của quê hương quá khứ nghĩa tình.
Trăng không chỉ đẹp mà còn rất bao dung, độ lượng; trước sự bội bạc của con người, trăng
không một lời trách móc “kể chi người vô tình”. Nhưng độ lượng không có nghĩa là dễ dãi,
trăng cũng rất nghiêm khắc:
“ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Ánh trăng được nhân hóa “im phăng phắc”; trăng im lặng, không một lời trách cứ; gợi
liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng. Cũng là lời cảnh tỉnh, nhắc
nhở khiến con người “ giật mình” thức tỉnh: nhận ra sự cám dỗ về vật chất khiến con người
đánh mất đi giá trị tinh thần đẹp đẽ. “Gật mình” thức tỉnh lương tâm không được phép lãng
quên quá khứ, không được bội bạc với nghĩa tình thiêng liêng, sâu nặng. Đồng thời giúp
cho con người biết trở về, nâng niu, trân trọng quá khứ. Đây cũng là bài học nghĩa tình,
thủy chung cho mọi người: “Uống nước nhớ nguồn”
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã gây xúc động nhiều thế hệ độc giả bởi cách diễn đạt
bình dị, chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ… Tác phẩm như
một lời tâm sự, nhắc nhở về tình nghĩa thủy chung mà tác giả gửi đến cho những người
lính vừa bước ra khỏi chiến trường, đồng thời cũng là thông điệp cho tất cả chúng ta: hãy
trân trọng quá khứ, hãy sống trọn đạo nghĩa “Uống nước nhớ nguồn”.
3. Kết bài:
Vầng trăng và ánh trăng mang ý nghĩa biểu trưng, trở thành hình tượng xuyên suốt bài
thơ, tạo thành dòng chảy liên hồi, là sợi dây kết nối con người trong hiện tại và quá khứ đã
qua. Cuộc gặp gỡ tình cờ nhưng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Từ câu chuyện tưởng như là
thường tình nhưng đã thức tỉnh con người. Con người tự nhắc nhở thấm thía về thái độ,
tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian khổ mà nghĩa tình đối với thiên nhiên, đất
nước bình dị. Bài thơ có ý nghĩa nhắc nhở, củng cố người đọc thái độ sống “uống nước
nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ. Bởi vây, ý kiến của nhà thơ Trần Đăng
Khoa cho rằng: “Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh” về bài “Ánh trăng” là hoàn
toàn chính xác
………………………………………………………………….
Đề 70: “Tinh thần nhân đạo trong văn học trước hết là tình yêu thương con người”
Chứng minh ý kiến trên qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ. (SGK, Ngữ văn 9, tập I)
1. Mở bài:
Tinh thần nhân đạo đã trở thành linh hồn của nhiều tác phẩm văn học. Nội dung ấy được
thể hiện dưới nhiều màu sắc, hình thức. Trong văn học trung đại, một trong những biểu
hiện của tinh thần nhân đạo là tấm lòng nhân ái đối với số phận mong manh, nhiều bất
hạnh của người phụ nữ. Qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ thì tình yêu thương được thể hiện qua tấm lòng trân trọng của tác giả đối với những vẻ
đẹp giản dị, cao cả của Vũ Nương, cũng như đồng cảm với những bất hạnh mà cuộc đời
nàng phải hứng chịu.
192
2. Thân bài
Tinh thần nhân đạo - tình yêu thương con người được Nguyễn Dữ trân trọng, ngợi ca, đề
cao vẻ đẹp của người phụ nữ qua hình tượng nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con
gái Nam Xương”. Trước hết, ta cảm thương cho thân phân Vũ Nương và dễ dàng nhận thấy
được nàng là người phụ nữ nết na, là người vợ đảm đam, giàu đức hy sinh. Không những
vậy nàng còn có tư dung tốt đẹp; trong cuộc sống gia đình nàng là người vợ hiền, luôn giữ
gìn khuôn phép “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Cho dù Trương Sinh – chồng
của nàng, tuy là con nhà hào phú nhưng lại không có học; luôn mang trong mình tính đa
nghi, đối với vợ lại “ phòng ngừa quá sức ”. Nhưng chính sự khiêm nhường, cam chịu của
Vũ Nương đã tạo nên sự đầm ấm của gia đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè
nặng trong đầu óc kẻ vị kỉ, không có học như Trương Sinh.
Khi tiễn chồng đi lính Vũ Nương đã có những hành đông và lời lẽ vô cùng thiết tha, cảm
động: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm
trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên ”. Rõ ràng Vũ Nương
không hề nghĩ đến vinh hoa phú quý mà nàng vô cùng lo lắng cho chồng “ Soạn áo rét gửi
người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang lại thổn thức tâm tình... ”. Qua đó thể hiện rõ cái “công
- dung - ngôn - hạnh” mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành. Thế rồi nỗi nhớ
nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến ta phải ca ngợi con người nhân
hậu, đảm đang đó.
Tính cách cao đẹp của Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng. Khi mẹ chồng đau
yếu nàng chăm sóc thuốc thang, làm ma chay tế lễ khi mẹ chồng qua đời rất chu đáo như
đối với cha mẹ đẻ của mình. Nàng đã giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ tròn tình nghĩa
với chồng. Thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất là
trong gia đình phong kiến. Thế nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó thể hiện tấm
lòng hiếu thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Bởi vậy, trước khi qua đời mẹ
chồng nàng thay lời cảm ơn qua sự trăn trối: “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con
đã chẳng phụ mẹ ... ”
Lòng chung thuỷ của Vũ Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng
trong suốt những tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con
côi cút đùm bọc, gắn bó. Cậu Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của
mình trên vách gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con) nhưng sau đó lại là nguyên nhân
gây ra cái tội thật vô tình. Nỗi hàm oan của Vũ Nương lại không được quyền nói ra là bởi
con người độc đoán, lại kém văn hoá như Trương Sinh. Khi chàng đi lính trở về, nghe lời
đứa con thỏ dại: “ Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như
cha tôi trước kia chỉ nín thin thít ”, chính câu nói đã gây nên nỗi oan khuất cho Vũ Nương.
Bị chồng ghen tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của
láng giềng, bà con nhưng Trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ
ngày càng tăng không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thậm tệ rồi “đánh đuổi
nàng đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trong trắng, đức hạnh vẹn
toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan
khuất từ đâu mà ra. Nàng cũng dùng những lời lẽ để khẳng định lòng thủy chung: “ Thiếp
vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì
động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi

193
lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót ”, nhưng Trương Sinh vẫn không tin lời nàng.
Thất vọng khi chồng đối xử bất công, nàng bày tỏ nỗi đau đớn: “ Nay đã bình rơi trâm gãy,
mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió... ”, đây là những hình ảnh mang tính
ước lệ để diễn tả sự tan vỡ hạnh phúc gia đình, cả nỗi đau khổ bởi hạnh phúc - niềm vui
“nghi gia nghi thất” không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Vũ Nương
mượn dòng nước của con sông Hoàng Giang để bày tỏ nỗi oan khuất, sự trong sạch của
mình: “ Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị
Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con,
dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người
phỉ nhổ”. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày
được với chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của
chồng.
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ
đồ, vũ phu, đa nghi như Trương Sinh. Qua đó Nguyễn Dữ đã tố cáo những luật lệ phong
kiến hà khắc, bất công của chế độ nam quyền dưới thời phong kiến.
Ngợi ca vẻ đẹp của “người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã góp tiếng nói chung vào
cảm hứng ngợi ca người phụ nữ đầy nhân văn của văn học trung đại. Bên cạnh Vũ Nương
của Nguyễn Dữ ta còn có thể kể đến Thúy Kiều của Nguyễn Du, “người chinh phụ” trong
thơ của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm,...Nhưng trong xã hội phong kiến thời kì suy
sụp, thối nát, cái đẹp thường đi liền với nỗi bất hạnh và những tai họa khôn lường: “Chữ tài
liền với chữ tai một vần”. Khi ấy, văn học lại cất lên tiếng nói đồng cảm với những thân
phận bị “gió dập sóng vùi” chẳng biết “tấp vào đâu”.
Nàng Vũ Nương của Nguyễn Dữ cũng phải hứng chịu nhiều bất hạnh. Trước hết, nàng có
một cuộc hôn nhân không được lựa chọn. Với vẻ đẹp vốn có, đáng ra nàng phải được kén
một tấm chồng tài đức tương xứng. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời lại chỉ dành cho nàng
một gã Trương Sinh. Đó là một kẻ vô học nhưng giàu có “con nhà hào phú” xin mẹ trăm
lạng vàng lấy nàng về làm vợ. Người phụ nữ vẹn toàn này không có quyền lựa chọn cho
mình một người chồng tương xứng. Cuộc hôn nhân của nàng do vàng bạc mở đường, đó
như một cuộc trao đổi, mua bán.
Tinh thần nhân đạo - tình yêu thương con người được thể hiện qua thái độ lên án những
thế lực đen tối chà đạp lên khát vọng chính đáng của con người. Đó chính là do chiến tranh
phong kiến phi nghĩa làm vợ chồng chia lìa dẫn đến nỗi oan cho Vũ Nương. Những tư
tưởng lạc hậu của xã hội phong kiến suy tàn (trọng nam khinh nữ, đạo tòng phu,…) gây bao
nhiêu bất công. Hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông hồ đồ,
mù quáng, gia trưởng, vũ phu. Đó còn là sự vô tình trong câu nói của con trẻ ngây thơ…
Tinh thần nhân đạo - lòng yêu thương con người là khát vọng và ước mơ về một cuộc
sống công bằng, tốt đẹp, bình đẳng. quyền được hưởng hạnh phúc gia đình của con người
đặc biệt là người phụ nữ. Đồng thời nó còn được thể hiện qua thái độ lên án những thế lực
đen tối chà đạp lên khát vọng chính đáng của con người.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm của Nguyễn Dữ không tiến xa hơn câu chuyện
dân gian là mấy. Nguyễn Dữ đã vô cùng trăn trở với số phận của người con gái đa đoan
trong tác phẩm của mình. Tin tưởng và yêu mến nhân vật, nhà văn đã để nàng gửi mình
chốn cung mây dưới nước của Linh Phi. Vũ Nương là người phụ nữ giàu lòng vị tha, khi

194
được các nàng tiên dưới thủy cung cứu sống và gặp được Phan Lang – người cùng làng, đã
bày tỏ nỗi oan khuất của mình và sẵn sàng tha thứ cho Trương sinh. Nàng cũng rất thương
chồng và nhớ con nhưng không thể về vì nặng ân nghĩa với Linh Phi. Cuối cùng nàng cũng
được giải oan, nhưng chỉ hiện ra trong chốc lát rồi “ bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần
mà biến đi mất ”
Câu chuyện kể với nhiều tình tiết bất ngờ. Cách kết thúc có hậu cộng với các chi tiết kì
ảo hoang đường trong câu chuyện đã thu hút người đọc, giúp người đọc cảm thông hơn với
cuộc đời và số phận của Vũ Nương.
3. Kết bài:
Câu chuyện đã kết thúc, nhưng hình ảnh Vũ Nương vẫn hiện lên với tất cả vẻ đẹp của
tấm lòng vị tha, chung thủy. Phẩm chất sáng ngời đó cùng với câu chuyện về cuộc đời, nỗi
oan khuất của nàng mãi mãi sống trong lòng người như một bản cáo trang về chế độ phong
kiến nam quyền bất công, độc đoán. Đồng thời cũng thể hiện tinh thần nhân đạo của
Nguyễn Dữ. Bởi vậy, ý kiến “Tinh thần nhân đạo trong văn học trước hết là tình yêu
thương con người” về nàng Vũ Nương của Nguyễn Dữ trong tác phẩm “Chuyện người con
gái Nam Xương” là hoàn toàn đúng.
……………………………………………………………..
Đề 71: Xác định và phân tích giá trị thẩm mĩ của các biện pháp tu từ có trong đoạn thơ?
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
(Phạm Tiến Duật, Bài thơ về tiểu đội xe không kính - SGK Ngữ văn 9, tập 1)
Trong đoạn thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính ” của Phạm Tiến Duật sau có sử dụng
nhiều phép tu từ: điệp ngữ “không có”, phép liệt kê“ không kính, không đèn, không mui,
thùng xe có xước”, phép hoán dụ và ẩn dụ “trái tim”, tương phản giữa “không” và “có”
được thể hiện rõ nét:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Điệp ngữ: “không có” ( lặp lại 3 lần) để nhấn mạnh thêm tính chất khốc liệt của chiến
tranh làm cho chiếc xe biến dạng đến trần trụi tưởng chừng như chiếc xe không thể chạy
được nữa.
Phép liệt kê “ không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước” để khẳng định
những gian khổ, khó khăn, nguy hiểm ngày càng tăng, càng ác liệt của cuộc chiến tranh.
Với phép tương phản: giữa “không” và “có” đó là sự đối lập giữa phương tiện vật chất và
tinh thần của người chiến sĩ.
Biện pháp hoán dụ “trái tim” để chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa; cũng là ý
chí, tâm huyết, sức lực mà người lính dành trọn cho đất nước - một tình yêu nước, một khát
vọng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và đó cũng là lí tưởng của thế hệ trẻ Việt
Nam thời chống Mĩ cứu nước. .

195
“Trái tim” còn là một ẩn dụ cho tinh thần, trách nhiệm, cho ý chí chiến đấu; chỉ cần có
“một trái tim”, một trái tim yêu nước, một lòng khao khát giải phóng miền Nam thì tất cả
những thiếu thốn kia đâu có hề gì.
Qua các biện pháp tu từ: điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ, liệt kê, tương phản cho ta thấy hiện
thực khốc liệt của chiến tranh; đồng thời cũng là ý chí quyết tâm của người lính, là lời
khẳng định về một ngày mai chiến thắng của miền Nam yêu thương.
………………………………….
Đề 72: Thơ văn hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, ngoài hình ảnh người chiến sĩ
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc còn mang nhịp thở của con người lao động mới.
Bằng những tác phẩm thơ văn đã học, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
1. Mở bài:
Hiện thực của đất nước ta từ 1945 đến 1975 là hiện thực của những cuộc kháng chiến vệ
quốc vĩ đại và công cuộc xây dựng cuộc sống mới đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiện thực đó đã
tạo nên cho dân tộc Việt Nam một vóc dáng nổi bật: vóc dáng người chiến sĩ luôn trong tư
thế chủ động chiến đấu chống kẻ thù, vóc dáng của con người mới xây dựng đất nước đi
lên chủ nghĩa xã hội. Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động mới hoà quyện tạo nên vẻ
đẹp của con người dân tộc Việt Nam. Và điều này đã làm nên hơi thở, sức sống của văn
học thời kì 1945 - 1975.
2. Thân bài:
Hình ảnh người lính trong luôn là một đề tài bất tận của thơ ca kháng chiến. Ở mỗi một
thời kì, họ lại hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau, có lúc thì sôi nổi, trẻ trung, khi thì hào
hoa, lãng mạn. Vậy những người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là những người
như thế nào? Họ là những con người ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi không kể già trẻ, trai gái,
giàu nghèo. Họ nổi bật với lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ
thù xâm lược vì đất nước, với tình đồng đội cao cả, sắt son, tinh thần lạc quan sâu sắc. Đó
là những người nông dân mặc áo lính thể hiện qua bài thơ “ Đồng chí “ của nhà thơ Chính
Hữu:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Với phép sóng đôi “quê anh - làng tôi”, tác giả cho thấy tình đồng chí, đồng đội bắt
nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính. Thành ngữ “nước
mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lời kể chuyện, để nói
họ đều là những người lính nông dân áo vải ra đi từ những miền quê nghèo khó – miền
biển nước mặn, vùng đồi núi trung du. Đồng thời hai câu thơ còn gợi lên không khí cách
mạng của thời đại và cuộc đổi đời vĩ đại của giai cấp nông dân. Lần đầu tiên trong lịch sử
họ đứng lên làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mình. Ý chí lên đường của lòng yêu nước,
của tình cảm cách mạng khi Tổ quốc cần thì những người lính ấy sẵn sàng hi sinh hạnh
phúc riêng tư - để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương “ruộng nương, gian
nhà.
Nếu tác giả Chính Hữu đã đem đến cho ta hình ảnh của những người nông dân Việt Nam
cần cù chăm chỉ, chịu thương, chịu khó thì tác giả Phạm Tiến Duật đem đến cho ta hình
ảnh những chàng trai trí thức vừa rời ghế nhà trường. Mà ở họ có sự tương phản rõ rệt giữa
vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong, giữa cái không có và cái có. Bom đạn kẻ

196
thù đã làm cho xe mất đi đử thứ: Không kính, không đèn, không mui nên chiếc xe đã trở
nên trần trụi đến kì lạ, xe không còn nguyên vẹn… Nhưng một thứ rất cần mà các anh đã
có, đó là trái tim yêu nước. Trái tim đầy nhiệt thành cách mạng, sẽ chiến thắng những thiếu
thốn về vật chất. Trái tim yêu nước đã điều khiển chiếc xe không nguyên vẹn ấy băng về
phía trước, nơi miền Nam ruột thịt:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Cùng với chủ đề ngợi ca vẻ đẹp người chiến sĩ, nhưng khác với nhà thơ Phạm Tiến Duật,
nhà văn Lê Minh Khuê trong “Những ngôi sao xa xôi” đã đi tìm và khai thác vẻ đẹp ấy qua
hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong. Đó là chuyện về những cô gái thanh
niên xung phong vừa kiên cường dũng cảm trong chiến đấu vừa hồn nhiên, mơ mộng thật
đáng yêu, đáng quý. Họ đóng quân trong một cái hang giữa “túi bom, chảo lửa” trên tuyến
đường Trường Sơn. Công việc hàng ngày của họ là đếm bom, rồi lao ra trọng điểm sau
những trận bom để đo khối lượng đất đá cần phải san lấp, đánh dấu vị trí những quả bom
chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Một khối lượng công việc vừa đồ sộ vừa nguy hiểm. Cái
chết rình rập họ từng phút, từng giờ. Họ luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, dù chỉ
có ba người (lại là ba phụ nữ); họ phân công nhau phá bằng hết những quả bom chưa nổ
mà không cần đến sự trợ giúp của đơn vị mà “như mọi lần chúng tôi sẽ giải quyết hết.”
Trong cuộc chiến đấu cam go, ác liệt đó người dân Việt Nam không chỉ những người trai
tráng khỏe mạnh mà ngay cả những người phụ nữ, những người già cũng đứng lên chiến
đấu chống giặc. Mà đặc biệt hơn nữa, ngay cả những đứa trẻ Việt Nam, khi đất nước có
chiến tranh cũng mang lòng căm thù và quyết tâm giúp sức cho cách mạng. Và hình ảnh
của những chú bé liên lạc viên này được nhà thơ Tố Hữu tái hiện sống động qua bài thơ
“Lượm”:
Một hôm nào đó,
Như bao hôm nào,
Chú đồng chí nhỏ,
Bỏ thư vào bao,

Vụt qua mặt trận,


Ðạn bay vèo vèo,
Thư đề "Thượng khẩn",
Sợ chi hiểm nghèo!
Dù tuổi đời còn nhỏ nhưng những chú bé này đã có những nhận thức sâu sắc về thực
trạng của đất nước mình, cũng từ đó mà mang quyết tâm đấu tranh, góp sức vào công cuộc
giải phóng đất nước, quê hương. Vì còn nhỏ nên những chú bé này không thể cầm súng ra
trận địa đấu tranh trực tiếp với quân giặc mà làm những công việc đơn giản nhưng cũng
không kém phần nguy hiểm, đó là truyền “thư đề thượng khẩn”, truyền báo tin tức cho
quân ta. Đây là công việc rất nguy hiểm bởi việc bảo mật của thông tin cũng như việc phải
đương đầu với sự giám sát của kẻ thù. Ấy vậy mà trong Lượm lại hiện lên như những
người chiến sĩ thực thụ, dù xung quanh là mưa bom bão đạn, mạng sống có thể mất bất cứ
197
lúc nào nhưng cậu bé không hề sợ, cậu bé không sợ chết mà vì thư cậu bé chỉ sợ những
thông tin mật rất gấp rút không thể đưa đến kịp vì vậy mà cậu bé bất chấp lao vào mưa
bom, lửa đạn “Sợ chi hiểm nghèo”.
Ngoài hình ảnh người lính thì song song đồng hành với họ là những con người lao động
mới. Họ xuất hiện với tư cách là những người làm chủ cuộc sống mới, họ thầm lặng lao
động, cống hiến một cách hăng say, hào hứng, sẵn sàng hi sinh cả tuổi thanh xuân của
mình vì những lí tưởng cao cả và tương lai đất nước. Điều đó thể hiện rõ nét nhất trong tác
phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” và “Lăng lẽ sapa” của hai tác giả nổi tiếng là Huy Cận và
Nguyễn Thành Long.
Đối với bài “Đoàn thuyền đánh cá”, tác giả Huy cận đã khắc họa thành công hình ảnh
tinh thần lao động phấn khởi, hăng say của những người dân chài trên vùng biển quê
hương. Đó là những người ngư dân trong cảnh lao động tập thể và công việc hàng ngày của
họ là khi màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày chính vào thời điểm ấy ngư dân bắt tay
vào công việc quen thuộc của mình là ra khơi đánh cá. Họ ra khơi với niềm hân hoan trong
câu hát, với ước mơ trong công việc, với niềm vui thắng lợi trong lao động và hòa nhập với
thiên nhiên bao la và trở thành hình ảnh sáng đẹp:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể hiện
niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng. Với tinh thần lao động hang hái,
lạc quan, họ làm việc nhiệt tình, hăng say trong câu hát, mỗi tiếng hát hòa cùng gió mạnh,
thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Qua mỗi câu hát ta đọc được những
ước mong của họ. Đó là ước mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh bắt
được nhiều. Đó là những con người mang tầm vóc vũ trụ, hăm hở ra khơi bằng tất cả sức
lực và trí tụê của mình
Đồng hành với bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” thì bài “ Lặng lẽ Sa Pa “ cũng mang nhịp
thở của người lao động mới với cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp, sống có lí tưởng, say mê,
miệt mài trong công việc, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư thầm lặng cống hiến hết
mình cho đất nước. Cuộc sống của họ âm thầm, bình dị mà cao đẹp. Thể hiện qua nhân vật
anh thanh niên và một số nhân vật khác, tác giả ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của những con
người lao động mới đang ngày đêm âm thầm công hiến cho đất nước. Đó là những con
người sống có lí tưởng và tràn đầy lạc quan. Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong
công việc lao động đầy gian khổ. Lí tưởng sống của họ là vì nhân dân, vì đất nước. Chính
từ suy nghĩ: “Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?” mà anh đã vượt
lên nỗi “thèm người” để gắn bó với đỉnh Yên Son trong công việc thầm lặng. Trong cái
lặng im của Sa Pa ấy, không phải chỉ có anh thanh niên mà còn có cả thế giới những người
làm việc và lo nghĩ cho đất nước qua lời anh kê như: ông kĩ sư vườn rau, đồng chí cán bộ
nghiên cứu lập bản đồ sét… Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong lao động cống hiến.
3. Kết bài:
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đáp ứng được những yêu cầu của lịch sử và
thời đại. Ở ngoài tiền tuyến khói lửa là hình ảnh của những người lính dũng cảm, kiên

198
cường. Nơi hậu phương là những người lao động bình dị mang nhịp thở của thời đại mới.
Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động đã kết tinh thành sức mạnh của con người và
dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Các tác giả văn học thời kì này họ đồng thời vừa là nhà văn,
nhà thơ, vừa là người lính, người chiến sĩ, người lao động cầm bút để ngợi ca về con người
dân tộc Việt với niềm say mê và tự hào. Họ đã làm nên vẻ đẹp và sức sống mới cho văn
học Việt Nam.
.....................................................................................
Đề 73: Trong bài thơ “Tây Tiến” của tác giả Quang Dũng (viết về những người chiến sĩ
của đoàn binh Tây Tiến - sáng tác năm 1948) có câu thơ:
“...Heo hút cồn mây súng ngửi trời...”
Trong bài thơ" Đồng chí" của Chính Hữu cũng có câu:
“...Đầu súng trăng treo...”
Hãy so sánh sự giống và khác nhau trong hai hình ảnh thơ ở hai câu thơ trên. Qua sự
giống và khác nhau đó, em cảm nhận được gì về hình tượng người lính trong thơ ca Việt
Nam.
Nét giống nhau: Cả hai câu thơ đều xuất hiện hình ảnh người lính gắn liền với cây súng.
Cây súng là vũ khí chiến đấu của người lính. Hai hình ảnh gắn liền với nhau và xuất hiện
nhiều trong thi ca Việt Nam. Tuy vậy hình ảnh cây súng xuất hiện trong hai câu thơ trên
không gợi lên sự ác liệt, dữ dội của chiến tranh mà vẫn mang đến cho người đọc cảm giác
nhẹ nhàng, bình thản, lãng mạn.
Còn điểm khác nhau thì sao? Ở câu thơ: “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”; hình ảnh
người lính với cây súng được đặt trong không gian cao, rộng với “cồn mây, trời” gợi cho
người đọc sự hình dung: người lính “Tây Tiến” leo dốc dài và gian khổ để lên được đỉnh
núi rất cao. Hình ảnh “súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa gợi cho người đọc thấy được
độ cao của núi, sự heo hút, âm u, mù mịt của cồn mây đồng thời thấy được cái dí dỏm, hài
hước, tinh nghịch, hồn nhiên và tinh thần lạc quan vượt qua mọi khó khăn gian khổ của
người lính “Tây Tiến”. Cách thể hiện ý thơ của Quang Dũng lãng mạn, hồn nhiên, phóng
khoáng mà tài hoa. Còn câu thơ “Đầu súng trăng treo” gợi một không gian yên tĩnh vắng
lặng, người lính đứng gác mà trăng treo đầu súng. Súng và trăng gợi nhiều liên tưởng.
Súng là vũ khí chiến tranh, trăng là biểu tượng hòa bình. Người lính chiến đấu để bảo vệ
hòa bình cho đất nước. Câu thơ thể hiện khát vọng hòa bình của tác giả, của người chiến sĩ
và của nhân dân ta. Hình ảnh thơ thể hiện sự lên tưởng, tưởng tượng phong phú. Cách diến
đạt của chính Hữu: bình dị, mộc mạc mà không kém phần tinh tế.
Qua đó thấy được nét chung về hình tượng người lính trong thơ ca Việt Nam: đó là
những con người hồn nhiên, bình dị, yêu cuộc đời, yêu đất nước, sẵn sàng chiến đấu hi
sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
....................................................................................
Đề 74: Một trong những phương diện thể hiện tài năng của người nghệ sĩ ngôn từ là am
hiểu và miêu tả thành công thế giới nội tâm của nhân vật trong tác phẩm văn học. Bằng
những kiến thức đã học về đoạn trích: “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Trích Truyện Kiều của
Nguyễn Du) em hãy làm sáng tỏ điều đó?
1. Mở bài:

199
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du được
xem là một kiệt tác tiêu biểu và nổi bật. Giá trị vững bền của tác phẩm được tạo nên không
chỉ ở mặt nội dung cốt truyện hấp dẫn mà còn thể hiện qua những bút pháp nghệ thuật đặc
sắc và nổi bật là nghệ thuật miêu tả tâm lí - thế giới nội của tâm nhân vật. “Kiều ở lầu
Ngưng Bích” là một trong những trích đoạn thể hiện rõ biệt tài miêu tả tâm lí - thế giới nội
tâm của nhân vật của tác giả Nguyễn Du. Trong đoạn trích này, chúng ta có thể thấy được
tâm trạng buồn tủi, nỗi nhớ thương cùng dự cảm của Thúy Kiều trong hoàn cảnh bơ vơ, lạc
lõng nơi lầu Ngưng Bích.
2. Thân bài:
Ta cũng biết văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật, chủ yếu là
hình tượng nhân vật trong tác phẩm. Một trong những phương diện thể hiện tài năng
của nhà văn – người nghệ sĩ ngôn từ là am hiểu và miêu tả thành công thế giới nội
tâm nhân vật.
Vậy miêu tả nội tâm trong tác phẩm văn học là gì? Phải chăng nó tái hiện những
suy nghĩ, cảm xúc, những băn khoăn trăn trở, những day dứt, suy tư, những nỗi niềm
thầm kín và cả diễn biến tâm trạng của nhân vật. Vậy, đây là biện pháp quan trọng
để xây dựng nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên sinh động, có hồn hơn. Nhà văn có
thể miêu tả trực tiếp nội tâm gián tiếp bằng cách miêu tả qua cảnh vật, nét mặt, cử
chỉ, trang phục của nhân vật.
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”. Sau khi bán
mình cho Mã Giám Sinh để có tiền chuộc cha và em, Kiều đã “thất thân” với hắn “Đuốc
hoa để đó mặc nàng nằm trơ”, rồi nàng bị hắn bán vào lầu xanh, làm gái làng chơi. Biết
mình bị lừa và phải làm nghề dơ bẩn, Kiều uất ức, rút dao định tự vẫn. Tú Bà sợ hãi “Thôi
thôi vốn liếng đi đời nhà ma”, nhanh trí, mụ liền vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả
chồng cho nàng vào nơi tử tế. Nhưng thực chất, Kiều bị giam lỏng ở “Lầu Ngưng Bích” và
mụ ta đang đợi cơ hội thực hiện âm mưu mới, ép nàng phải ra làm việc đó. Vì thế “Kiều ở
lầu Ngưng Bích” là đoạn đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt cuộc đời của Kiều trong mười lăm
năm lưu lạc. Đoạn trích dựng lên tâm trạng cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung son
sắt với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ của Thúy Kiều khi đang phải một mình bơ vơ, lạc
lõng nơi xứ lạ người xa. Đồng thời qua đoạn trích, người đọc thấy được bút pháp “Tả cảnh
ngụ tình” độc đáo, đạt tới trình độ điêu luyện bậc thầy của thiên tài văn học Nguyễn Du.
Trước tiên là miêu tả nội tâm trực tiếp qua những lời độc thoại nội tâm. Nguyễn Nguyễn
Du đã khéo léo để Kiều nhớ Kim Trọng trước nhớ cha mẹ sau rất hợp tâm lý của con
người, hợp lô gic tình cảm bởi vì trong cơn gia biến, Kiều đã phải hi sinh mối tình đầu đẹp
đẽ để cứu gia đình, Kiều đã phần nào “đền ơn sinh thành” cho cha mẹ. Vì thế trong lòng
Kiều, Kim Trọng là người mất mát nhiều nhất, nỗi đau ấy cứ vò xé tâm can Kiều khiến
Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
Nhớ Kim Trọng Kiều “tưởng” như thấy lại kỷ niệm của tình yêu đầu với Kim Trọng vẫn
vẹn nguyên trong tâm hồn nàng. Nó còn mở ra cái đêm trăng đẹp nhất nàng cùng chàng

200
Kim uống chén rượu thề nguyền. Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết tin nàng
bán mình, vẫn ngày đêm ở chốn Liêu Dương xa xôi chờ trông tin nàng. Thành ngữ “rày
trông mai chờ” giàu sức gợi thể hiện nỗi mong chờ, lo lắng khắc khoải của chàng Kim.
Nàng nhớ người yêu nàng lại xót xa cho mình khi phải dấn thân vào bước lưu lạc nơi “ góc
bể chân trời”. Kiều cũng xót xa cho tình yêu thuỷ chung của mình: “Tấm son gột rửa bao
giờ cho phai”; có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, không nguôi nhớ thương Kim
Trọng của nàng. Sau nỗi nhớ Kim Trọng Kiều lại nhớ cha mẹ:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nhớ cha mẹ Kiều xót xa, lo lắng. Vì nàng tưởng tượng, hình dung ra cha mẹ ngày đêm
ngóng trông, lo lắng cho nàng ở nơi xa. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” nói lên sự lo lắng
không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ, nhằm ca ngợi tình yêu thương sự hiếu
thảo của Thúy Kiều. Cụm từ “Cách mấy nắng mưa” cho thấy khoảng cách xa xôi đầy nắng
mưa, trắc trở nàng không thể vượt thời gian để trở về bên cha mẹ; nàng ý thức được sự trôi
chảy của thời gian. Kiều tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay “gốc tử đã vừa người
ôm”, cha mẹ ngày thêm già yếu, càng cần bàn tay chăm sóc của nàng.
Nỗi nhớ thương của Kiều đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng. Hoàn cảnh của
nàng lúc này thật xót xa, đau đớn. Nhưng quên đi cảnh ngộ bản thân, nàng đã hướng yêu
thương vào những người thân yêu nhất. Kiều thật sự là một người tình thuỷ chung, một
người con hiếu thảo, một người có tấm lòng vị tha cao cả đáng quý.
Tiếp đến Nguyễn Du đã miêu tả nội tâm Kiều gián tiếp qua cảnh vật thiên nhiên (bút pháp
tả cảnh ngụ tình). Những vần thơ buồn mênh mang như gieo vào lòng người đọc nỗi niềm
sót xa khôn nguôi. Mở đầu đoạn trích tác giả đã tái hiện cảnh ngộ của Thúy Kiều, đưa
người đọc vào không gian tù hãm nên cảnh vật cũng nhuốm mầu tâm trạng:
“ Trước lầu ngưng bích khóa xuân”
Hai chữ “khóa xuân” muốn nói Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, thể hiện tình cảnh
đáng thương của nàng. Đồng thời nó còn hàm chứa sự xót xa, mỉa mai cho thân phận của
Thúy Kiều.
Năm câu thơ tiếp theo tái hiện quang cảnh nơi lầu Ngưng Bích trong tâm trạng cô đơn,
xót xa của nàng Kiều:
“ Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa cảnh nửa tình như chia tấm lòng”
Khung cảnh thiên nhiên ở đây thật vắng lặng, không có một chút âm thanh, một bóng
người như càng cô lập Kiều trong sự cô đơn đến rợp người. Hình ảnh “ non xa, trăng gần”
đã mở ra một không gian mênh mông, bát ngát; dài rộng và cao sâu vô tận; nó còn gợi sự
chơ vơ, chênh vênh, trơ trọi của lầu Ngưng Bích. Hai yếu tố đối lập “non xa - trăng gần”
tưởng như phi lí nhưng thực ra đã diễn tả rất chính xác sự trống trải của cảnh vật qua con
mắt của Kiều. Với từ láy “bát ngát” cùng với không gian bốn bề lại càng tô đậm hơn cái vô

201
cùng, vô tận của không gian. Đây là một không gian vô cùng trống trải, hoang vắng, không
có dấu hiệu của sự sống. Việc sử dụng bút pháp liệt kê “ cát vàng, bụi hồng” để nói lên sự
ngổn ngang của cảnh vật, Kiều nhìn xuống mặt đất thấy những cồn cát bụi bay mù mịt,
những bụi hồng xa xôi ngút ngàn. Cách sử dụng tiểu đối “mây sớm – đèn khuya” đã gợi
nỗi hiu hắt, trống vắng, mênh mông của thiên nhiên. Đó là một khung cảnh thiên nhiên
rộng lớn, cô liêu, thiếu vắng sự sống.
Thông qua cảnh vật để nói lên sự cô đơn, lẻ loi đến cùng cực của Kiều. Vì nàng chỉ có
một mình, bầu bạn với Kiều lại là “ non xa, trăng gần, mây sớm, đèn khuya” những sự vật
vô tri, vô giác. Kiều cảm thấy ngổn ngang trăm mối, day dứt lo âu. Từ “ xa trông” gợi sự
trông ngóng, hướng về sự sống – dấu hiệu ấm áp nào đó của thiên nhiên, nhưng Kiều
không thể tìm được. Lối liệt kê hình ảnh “ cát vàng, bụi hồng, mây sớm, đèn khuya” cũng
gợi bao nỗi ngổn ngang trong lòng Thúy Kiều. Rồi từ láy “ bẽ bàng” lại nói lên tâm trạng
chán ngán, buồn tủi, xấu hổ, mặc cảm và tủi nhục cho thân phận mình. Cụm từ “mây sớm
đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín: sớm thì làm bạn với mây, khuya lại trò
chuyện với đèn. Nàng bị đày đọa trong một không gian vô cùng, một thời gian vô tận trong
nỗi cô đơn cùng cực và trước mắt nàng là một tương lai mờ mịt.
Từ những nỗi niềm buồn thương đó, Nguyễn Du đã khéo léo tô thêm màu xám trên cái
nhìn xa xăm của Kiều, đẩy sầu não lên thành đỉnh điểm, qua tám câu khép lại đoạn trích:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.”
Hai câu thơ gợi ra không gian rộng trên mặt biển ba la vào lúc chiều tà. Với hình ảnh ẩn
dụ “cánh buồm” để nói nỗi cô đơn, lẻ lo, bé nhỏ. Thời gian “chiều hôm”: khiến cho nỗi
buồn thân phận càng trở nên thấm thía. Từ láy “ thấp thoáng, xa xa” không chỉ gợi hình mà
còn nói lên tình cảnh lênh đênh, thân phận bơ vơ của Kiều. Trong không gian vắng lặng
Kiều nhìn về xa xa với nỗi nhớ nhà, nhớ gia đình, nhớ người thân, với ước mong được trở
về đoàn tụ, sum họp.
“Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!”
Hình ảnh ẩn dụ “Hoa trôi” nói lên thân phận lênh đênh, nổi trôi, vô định của người con
gái trước sóng gió cuộc đời. Sử dụng câu hỏi tu từ “biết là về đâu” diễn tả tâm trạng xót xa,
hoang mang, lo sợ của Kiều, khiến cô không khỏi băn khoăn, lo lắng, nghĩ ngợi.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
Hình ảnh: “nội cỏ, chân mây, mặt đất” là nét vẽ không gian rộng lớn. Từ láy: “rầu rầu”
vẽ lên cả một vùng cỏ tàn héo; “xanh xanh” gợi sắc xanh nhạt nhòa, xa cách, nhạt phai.
Biện pháp nhân hóa “nội cỏ” gợi nỗi sầu thương, cô lẻ của Kiều. Sự lẻ loi, nhỏ nhoi và nỗi
cơ đơn cùng cực của thân phận. Với phép ẩn dụ “ Chân mây” đã gợi ra một nỗi buồn mênh
mông, dàn trải. Khung cảnh ảm đạm ấy khiến cho Kiều buồn thêm buồn, cái cảm giác sao
mà tẻ nhạt, sao mà chán ngán, vô vọng thế.
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Từ láy “ầm ầm” và phép đảo ngữ gợi nỗi lo âu, sợ hãi. Hình ảnh ẩn dụ “gió cuốn, tiếng
sóng” để nói đến những biến cố kinh hoàng sắp ập đến, con sóng của số phận sắp sửa chôn

202
vùi cuộc đời nàng, dự báo một tương lai đầy sóng gió, đầy phong ba bão táp đang ập xuống
thân phận nhỏ bé, yếu đuối của nàng trong một xã hội phong kiến đầy cổ hủ, bất công. Nó
dồn nàng vào một vực thẳm của nỗi sợ hãi, cùng tâm trạng tuyệt vọng đã đi đến tột cùng.
Tám câu cuối được miêu tả theo trình tự từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm
thanh từ tĩnh đến động; sử dụng điệp ngữ “buồn trông” để tô đậm nỗi buồn man mác, lo âu
của Thúy Kiều không thể vơi, cảnh nào cũng buồn, cũng gợi thân phận con người trong
cuộc đời vô định. Nó tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
3. Kết bài:
Thành công trong việc miêu tả thế giới nội tâm nhân vật là một phương diện để thể hiện
tài năng của nhà văn, làm nên sức sống cho hình tượng nhân vật, cho tác phẩm văn học. Có
lẽ “Truyện Kiều” sống mãi với thời gian một phần bởi nghệ thuật miêu tả nội tâm sâu sắc
của Nguyễn Du.
…………………………………………………………………………………………
Đề 75: Hãy so sánh ngắn gọn điểm tương đồng và nét khác biệt trong hai đoạn thơ sau:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
(Hữu Thỉnh - Sang thu, 1977)
Nắng thu đang trải đầy
đã trăng non múi bưởi
bên cầu con nghé đợi
cả chiều thu sang sông.
(Hữu Thỉnh - Chiều sông Thương, 1992)
Điểm tương đồng của cả hai đoạn thơ là đều viết về đề tài mùa thu; thể thơ năm chữ, với
giọng điệu tha thiết, sâu lắng. Cảm xúc thì bồi hồi, bâng khuâng, xao xuyến và những cảm
nhận tinh tế sâu sắc của cái tôi trữ tình trước vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật trong khoảnh
khắc giao mùa và ở giữa mùa thu. Còn hình ảnh lại chân thực, gợi hình, gợi cảm mang
những nét đặc trưng của mùa thu xứ Bắc. Từ ngữ chọn lọc, tinh tế, sử dụng sáng tạo nghệ
thuật nhân hóa…
Còn điểm khác biệt của hai đoạn thơ trên thì sao? Đầu tiên phải nhắc đến hoàn cảnh sáng
tác. Hai bài thơ được sáng tác ở hai thời điểm khác nhau: Sang thu (1977) còn Chiều sông
Thương (1992) vì vậy nội dung của mỗi đoạn thơ gắn với cảm xúc, tâm trạng của tác giả ở
từng thời điểm riêng biệt.
“Sang thu”: Đoạn thơ là những cảm nhận của nhân vật trữ tình về mùa thu từ một khu
vườn (không gian hẹp) thiên nhiên được mở ra ở góc nhìn rộng lớn, nhiều tầng bậc hơn.
Bức tranh thu được gợi ra từ những gì vô hình chuyển sang những hình ảnh cụ thể, hữu
hình (sông, chim, mây) với không gian rộng dài, cao xa vời vợi. “Dòng sông” được nhân
hóa với từ láy gợi hình “dềnh dàng” gợi con sông của mùa thu chảy chậm chạp, thong thả,
êm đềm, yên ả với trạng thái nghỉ ngơi sau một mùa hạ vất vả với bão dông. “Cánh chim”
cũng được nhân hóa qua từ láy gợi cảm “vội vã”, lúc nào gió heo may se sắt đã tràn về
cũng là lúc mùa rét đã tới, những đàn chim cũng vội vã bay về phương Nam ấm áp để
tránh rét. Với phép đối lập được tác giả sử dụng hết sức tài tình “dềnh dàng” đối với “vội

203
vã” làm nổi bật hai động thái thiên nhiên trái ngược nhau: sông dềnh dàng, chim vội vã là
quy luật không đồng đều của muôn loài, muôn vật ở vào thời điểm giao mùa. Hình ảnh
“đám mây” được miêu tả vô cùng độc đáo, nó trôi lững lờ, bồng bềnh, vắt ngang trên bầu
trời. Thậm chí ngay cả đám mây mùa hạ cũng thấy sốt ruột, phải “Vắt nửa mình sang thu”.
Phải chăng đám mây kia có hai nửa thì một nửa nằm bên mùa hạ, nửa kia thuộc về mùa
thu. Trước hết, tác giả nhân hoá mây trời qua từ “vắt” rất gợi cảm, có hồn; đồng thời cũng
gợi hình ảnh đám mây mùa hạ còn sót lại trên bầu trời đang chuyển sắc sang thu, cũng
giống như con người nửa muốn bước sang mùa thu nhưng nửa còn lại lưu luyến chưa
muốn chia tay với mùa hạ.
Nếu đoạn thơ trong Sang thu là những cảm nhận về thiên nhiên ở thời khắc cuối hạ sang
thu thì khổ thơ trong “Chiều sông Thương” lại là cảm nhận ở thời khắc chiều thu, khi đất
trời đang độ giữa thu. Cảnh vật được miêu tả rất thực về dòng sông, bầu trời, con nghé bên
cầu đợi… Hình ảnh thơ đẹp dịu dàng, gợi ra bức tranh thanh bình, ấm áp: nắng thu còn trải
rộng khắp nhân gian mà trăng non như múi bưởi đã in trên nền trời xanh nhạt, dưới cầu
nước chảy trong veo, con nghé bên cầu đợi… Cả chiều thu sang sông. Cảnh lắng đọng như
chính sự tồn tại của nó chứ không sống động, cựa mình chuyển mùa như bài Sang thu. Đó
chính là nét đẹp riêng của mỗi bài thơ.
…………………………………………………………………………….
Đề 76: Vận dụng kiến thức đã học về từ láy để phân tích nét nổi bật của việc dùng từ trong
những câu thơ sau?
“Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.
( Nguyễn Du, Truyện Kiều)

“Sè sè nắm đất bên đường,


Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”
( Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Trong bốn câu thơ trích trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du ở trên có sử dụng nhiều từ
láy: “nao nao, nho nhỏ, sè sè, rầu rầu”
Các từ láy: “nao nao, nho nhỏ, sè sè, rầu rầu” vừa để tả cảnh vừa tả tâm trạng. Đồng thời
cũng gợi vẻ hoang vắng, trơ trọi, buồn tẻ của ngôi mộ vô chủ và tâm trạng nao nao buồn
của ba chị em Thúy Kiều vào thời điểm cuối ngày hội đạp thanh. Cũng như báo hiệu một
sự kiện sắp xảy ra với nhân vật Thúy Kiều.
………………………………………………………………………………
Đề 77: Một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng cô gái. Không phải vì bó hoa rất to
sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của
những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô.
(Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long, Ngữ văn 9 - tập 1)
Hình ảnh một bó hoa nào khác nữa trong đoạn văn trên được sử dụng theo biện
pháp tu từ nào? Em hiểu ý nghĩa hình ảnh đó như thế nào?
- Hình ảnh bó hoa nào khác nữa được sử dụng theo biện pháp tu từ ẩn dụ.
- Ý nghĩa: Đó là những giá trị tinh thần mà cô gái đã tìm thấy ở anh thanh niên. Từ những

204
điều cô chứng kiến, nghe được, từ những trang sách anh đọc dở, cô nhận ra vẻ đẹp tâm hồn
anh. Anh trở thành tấm gương cho cô noi theo, cho cô yên tâm với sự lựa chọn của mình.
…………………………………………………………………………..
Đề 78: “Dù viết về cái gì, văn chương chân chính cũng hướng về con người. Viết về cái
xấu để cảnh tỉnh con người, để báo động giúp con người sống với bản lĩnh tốt đẹp của
mình. Viết về cái tốt để con người tự tin ở mình và đó chính là hành trang cần có ở con
người trong cuộc hành trình tới tương lai.”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ “Ánh
trăng” của Nguyễn Duy.
1. Mở bài:
Văn học là dòng chảy bất tận của thời gian, các nhà văn nhà thơ là thư kí trung thành của
thời đại. Văn học Việt Nam từ xưa đến nay luôn mang trong mình những nét riêng biệt,
những vẻ đẹp thuần túy được kết tinh nên từ sự tinh hoa của nền văn hóa dân tộc. Mỗi một
chủ đề luôn được văn học diễn tả một cách sâu sắc và truyền tải thông điệp đến người đọc.
Văn học là bức tranh về đời sống xã hội và con người, văn học viết ra để phục vụ con
người. Một trong những chủ đề đó là viết về con người với những giá trị nhân đạo cao đẹp.
Bởi vậy có ý kiến cho rằng: “Dù viết về cái gì, văn chương chân chính cũng hướng về con
người. Viết về cái xấu để cảnh tỉnh con người, để báo động giúp con người sống với bản
lĩnh tốt đẹp của mình. Viết về cái tốt để con người tự tin ở mình và đó chính là hành trang
cần có ở con người trong cuộc hành trình tới tương lai”.
2. Thân bài:
Trước tiên ta nên hiểu văn chương chân chính là gì? Văn chương chân chính là
những tác phẩm văn học hướng tới những giá trị, chủ đề đẹp đẽ, thiêng liêng, những
bài học đạo đức có tính nhân văn sâu sắc, là những thông điệp về cuộc sống tươi đẹp
tác giả muốn gửi tới người đọc. Văn chương chân chính là văn chương gần gũi,
chuyên chú ở con người, phục vụ đời sống, có ích cho con người.
Vậy tại sao lại nói văn chương chân chính luôn hướng về con người? Phải chăng
văn chương là tấm gương phản chiếu hiện thực của cuộc sống nên nó phản ánh cả
những điều xấu và điều tốt của hiện thực. Viết về cái xấu với mục đích cảnh tỉnh, giúp
con người nhận ra cái đúng – sai, tốt – xấu… để cải tạo con người. Còn viết về cái tốt
nhằm để ngợi ca, động viên khích lệ,…con người. Đó là chức năng cao đẹp của văn
chương. Dù viết về cái gì thì thứ văn chương chân chính cũng hướng về con người.
Đến với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mượn cảm hứng đề tài truyền thống
của thơ ca từ cổ chí kim là vầng trăng. Bài thơ không chỉ thể hiện cảm xúc về vầng
trăng đẹp mà qua đó còn hướng người đọc đến bài học nhân sinh. Viết về cái xấu để
cảnh tỉnh con người, để báo động giúp con người sống với bản chất tốt đẹp của mình.
“Ánh trăng” viết về sự đổi thay bội bạc của con người với quá khứ. Quá khứ đó là sự
gắn bó nghĩa tình với thiên nhiên, nhân dân, đất nước trong những năm tháng gian
lao của chiến tranh.
“ Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”

205
Với phép liệt kê “đồng, sông, bể” đã gợi ra một không gian mênh mông, êm đềm, trong
sáng và những kỉ niệm thuổi thơ vô cùng đẹp đẽ. Cánh đồng, sông và bể là những nơi cất
giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Lúc này vầng chăng đã chia
sẻ những niềm vui thơ ấu với tác giả. Điệp từ “ với” để nói trăng và người luôn luôn gắn
bó thân thiết trong niềm hạnh phúc. Đến những năm tháng gian lao, trăng luôn sát cách
bên người lính, cùng trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của
bom đạn kẻ thù. Với phép nhân hóa trăng đã trở thành “tri kỉ” của người lính: cùng chia
ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, người lính lại cùng trăng tâm sự để vơi đi bớt nỗi cô đơn,
nỗi nhớ nhà. Điệp từ “hồi” làm sống lại vầng trăng trong kí ức quá khứ của tác giả.
Từ nhỏ đến lúc trưởng thành, trong khó khăn gian khổ con người gắn bó với ánh trăng
như tri kỉ, tri âm. Vậy mà khi hoà bình với đầy đủ tiện nghi ở thành phố, con người đã vô
tình quên lãng vầng trăng:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
“Từ hồi về thành phố” đã khép lại những năm tháng chiến tranh gian khó và mở ra một
cuộc sống hòa bình. Cuộc sống sau chiến tranh được tái hiện qua phép ẩn dụ “ánh điện,
cửa gương” để miêu tả không gian, lối sống nơi đô thị của con người có cuộc sống đầy đủ
vật chất, tiện nghi. Với biện pháp tu từ nhân hóa “ đi qua ngõ” kết hợp so sánh “vầng trăng
như người dưng” thì mối quan hệ giữa con người và vầng trăng thay đổi một cách đột ngột:
vầng trăng đã hóa thành xa lạ, con người không còn cảm nhận được vầng trăng trong đời
sống nơi đô thị. Thứ ánh sáng nhân tạo của ánh điện, cửa gương khiến con người quên mất
vẻ đẹp của ánh trăng. Con người trở nên xa lạ với quá khứ, với nghĩa tình trong quá khứ.
Đây là cái xấu đáng lên án của con người.
Để rồi đến khổ thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cảm xúc mãnh liệt của mình khi thấy lại
người bạn năm xưa, thì biết bao nhiêu kỉ niệm cũ ùa về:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Điệp từ “mặt” nhấn mạnh giây phút mặt người và mặt trăng đối diện với nhau - người
lính gặp lại cố nhân xưa, để rồi nhận ra sự đổi thay, vô tình với quá khứ gian lao, nghĩa
tình của mình. Từ láy “rưng rưng” diễn tả tinh tế trạng thái cảm xúc nghẹn ngào; đồng thời
thể hiện sự chua xót, xấu hổ và nhớ thương ân hận khi nhận ra sự bội bạc của mình với lời
tự hứa “không bao giờ quên” và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước
lòng vị tha của người bạn tri kỉ. Điệp từ “là” kết hợp với phép liệt kê “đồng, bể, sông,
rừng” thân thương, tác giả đã gợi lại những hình ảnh trong sáng, tuyệt đẹp nhất của tuổi
thơ hồn nhiên cũng như những ngày tháng hạnh phúc, gian lao khi vào lính. Từ đó cho
thấy kí ức nghĩa tình ấy, vẻ đẹp thân thương ấy không bao giờ mất đi, chỉ lặng lẽ sống
trong tâm hồn mỗi con người. Đây là cái tốt để con người tự tin ở mình, đó chính là hành
trang để con người hướng tới tương lai. Bản tính tốt đẹp của nhân vật trong tác phẩm là
dám nhìn thẳng vào sự thật, thấy cái xấu của mình để sửa chữa và sống tốt hơn. Người

206
chiến sĩ trong “Ánh trăng” đã ân hận “rưng rưng”, “giật mình” bởi thái độ sống bạc nghĩa
vừa qua của mình. Đó là giọt nước mắt hướng thiện.
Để rồi đến khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư,
trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình”
Tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ “tròn vành vạnh” vừa tả vẻ đẹp tròn đầy, vừa gợi sự
thủy chung trước sau như một của vầng trăng, cũng là của quê hương quá khứ nghĩa tình.
Trăng không chỉ đẹp mà còn rất bao dung, độ lượng; trước sự bội bạc của con người, trăng
không một lời trách móc “kể chi người vô tình”. Nhưng độ lượng không có nghĩa là dễ dãi,
trăng cũng rất nghiêm khắc:
“ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Ánh trăng được nhân hóa “im phăng phắc”; trăng im lặng, không một lời trách cứ; gợi
liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng. Cũng là lời cảnh tỉnh, nhắc
nhở khiến con người “ giật mình” thức tỉnh: nhận ra sự cám dỗ về vật chất khiến con người
đánh mất đi giá trị tinh thần đẹp đẽ. “Gật mình” thức tỉnh lương tâm không được phép lãng
quên quá khứ, không được bội bạc với nghĩa tình thiêng liêng, sâu nặng. Đồng thời giúp
cho con người biết trở về, nâng niu, trân trọng quá khứ. Đây cũng là bài học nghĩa tình,
thủy chung cho mọi người: “Uống nước nhớ nguồn”
Hay trong tác phẩm “Cô bé bán diêm”, vì cái chết trong giá lạnh của cô ngay đêm giao
thừa làm cảnh tỉnh con người về sự vô cảm trong cuộc sống. Đồng thời cũng thể mong ước
của con người về một cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc…
Tác giả đã thành công trong việc kết hợp giữa tự sự và trữ tình, tự sự làm cho trữ tình trở
nên tự nhiên mà cũng rất sâu nặng. Sáng tạo nên hình ảnh thơ có nhiều tầng ý nghĩa: trăng
là vẻ đẹp của thiên nhiên, tự nhiên, là người bạn gắn bó với con người; là biểu tượng cho
quá khứ nghĩa tình, cho vẻ đẹp đời sống tự nhiên, vĩnh hằng.
3. Kết bài:
Văn chương và đời sống có quan hệ mật thiết với nhau. Vì thế văn chương dù viết cái
xấu hay cái tốt đều hướng về con người và nâng đỡ tâm hồn con người. Đó là hành trang
cần có ở con người trong cuộc hành trình tới tương lai. Vì thế bài thơ “Ánh trăng” viết để
nhắc nhở người lính nói riêng, con người nói chung phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại
chính mình để sống đẹp hơn, trong sáng hơn, nghĩa tình hơn. Bởi vậy, ý kiến: “Dù viết về
cái gì, văn chương chân chính cũng hướng về con người. Viết về cái xấu để cảnh tỉnh con
người, để báo động giúp con người sống với bản lĩnh tốt đẹp của mình. Viết về cái tốt để
con người tự tin ở mình và đó chính là hành trang cần có ở con người trong cuộc hành trình
tới tương lai” là hoàn toàn hợp lý.
…………………………………………………………………………..
Đề 79: Nhà văn Nguyễn Dữ đã kết thúc “Chuyện người con gái Nam Xương” bằng chi tiết
Vũ Nương hiện về gặp chồng rồi sau đó biến mất. Có ý kiến cho rằng: giá như nhà văn để
Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc cùng chồng con thì kết thúc của truyện sẽ có ý
nghĩa hơn. Có người lại nhận xét: cách kết thúc của tác giả như vậy là hợp lí.
Suy nghĩ của em về hai ý kiến trên.

207
1. Mở bài:
Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI, “Chuyện người con gái Nam Xương” là một
trong 20 truyện trích trong “Truyền kì mạn lục”, ông đã ghi chép lại những câu chuyện
trong dân gian với một sự hư cấu, sáng tạo, trau chuốt vừa thể hiện tấm lòng và phản ánh
hiện thực xã hội phong kiến thối nát đương thời. Điển hình là số phận của Vũ Nương trong
“Chuyện người con gái Nam Xương” cũng là số phận của nhiều người phụ nữ dưới chế độ
phong kiến. Nhưng kết thúc của truyện liệu có phải là cái kết vẹn toàn, có hậu hay đó là
nỗi đau khổ dai dẳng kéo dài? Với tấm lòng nhân đạo, bao dung của Nguyễn Dữ ta thấy Vũ
Nương được giải oan và vẫn sống ở một thế giới khác nhưng hiện thực đau lòng vẫn luôn
tồn tại. Nếu như để vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc bên chồng con thì lại theo
lối mòn quen thuộc của truyện dân gian. Vậy, cách kết thúc nào sẽ hợp lý để câu chuyện
thêm hấp dẫn mà Vũ Nương vẫn hiện lên với phẩm chất đẹp đẽ.
2. Thân bài:
Vũ Nương là người phụ nữ có nhan sắc, đức hạnh vẹn toàn. Nàng gả cho Trương Sinh và
một lòng chăm lo cho chồng, mẹ chồng và việc nhà cửa hết sức chu đáo. Vũ Nương biết
chồng có tính hay ghen nhưng nàng chưa từng để gia đình phải bất hòa. Khi chồng đi lính
vừa đầy đầy tuần thì Vũ Nương sinh hạ một cậu con trai, đặt tên là Đản. Nàng ở nhà chăm
sóc mẹ chồng khi ốm đau, bệnh tật như mẹ ruột đến nỗi người mẹ chồng trước khi mất
cũng trăn trối những lời chúc phúc cho nàng. Vũ Nương ở nhà một mình nuôi con, chờ
chồng về để có được niềm vui “nghi gia nghi thất”, hạnh phúc gia đình trọn vẹn. Thời gian
qua mau, bé Đản dần khôn lớn và hỏi cha đâu. Vũ Nương chỉ vào cái bóng của mình trong
đêm và nói rằng đó là cha của Đản. Khi chồng trở về, nghe lời bé Đản đã mắng chửi và
đánh đập Vũ Nương vì cho rằng nàng thất tiết, không giữ đạo vợ chồng. Vũ Nương giải
thích hết lời nhưng Trương Sinh không nghe. Nàng gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự
vẫn để chứng tỏ tấm lòng trong sạch. Thời gian sau, có người cùng làng tên là Phan Lang
vì từng cứu Linh Phi lúc hóa rùa nên được Linh Phi cứu sống, vô tình gặp Vũ Nương ở
thủy cung. Lúc Phan Lang sắp trở về trần gian, Vũ Nương gửi chiếc hoa vàng cùng lời
nhắn cho Trương Sinh. Biết vợ bị oan, Trương Sinh theo lời nhắn, lập đền giải oan cho Vũ
Nương. Nàng trở về nói lời đa tạ và biến mất. Câu chuyện truyền kì kết thúc nhưng hiện
thực vẫn còn đau đáu những nỗi niềm thân phận, bi kịch của những người phụ nữ như Vũ
Nương vẫn còn tái diễn.
Cái kết đó gợi lên hai luồng ý kiến: “Giá như nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống
hạnh phúc cùng chồng con thì kết thúc của truyện sẽ có ý nghĩa hơn”. Đây là cách kết thúc
thường gặp trong các truyện cổ dân gian, thể hiện quan niệm “Ở hiền gặp lành, cái thiện
thắng cái ác” của người lao động, thể hiện niềm tin, niềm lạc quan của họ. Đó cũng là
truyền thống nhân đạo của dân tộc, cũng là một trong những nội dung của văn học trung
đại Việt Nam. Cách kết thúc truyện như vậy có thể chấp nhận được vì không trái với tinh
thần nhân đạo của văn học. Tuy nhiên điều này sẽ ảnh hưởng tới giá trị hiện thực và logic
phát triển của cốt truyện
Tuy nhiên, cách kết thúc câu chuyện của Nguyễn Dữ như vậy là hợp lí mang lại những ý
nghĩa sâu xa hơn vì đã thể hiện được tinh thần nhân đạo và khát vọng của con người về
cuộc sống. Vũ Nương không chết, nàng được các nàng tiên dưới thủy cung cứa sống và có
một cuộc sống sung sướng, hạnh phúc nơi đây. Tình cờ Vũ Nương gặp được Phan lang,

208
người cùng làng với nàng, trước đây có ơn với Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi
cứu. Sau khi nghe Phan Lang nói về chồng con, quê nhà “Vũ Nương ứa nước mắt khóc” vì
xót xa cho tình cảnh bi thảm. Vì vậy, nàng quả qyết “Tôi tất phải tìm về có ngày” thể hiện
rõ phẩm chất cao đẹp của Vũ Nương và mong muốn gặp lại chồng con để khẳng định tình
cảm thủy chung của mình, cũng mong nỗi oan khuất của mình được giải. Khi Phan Lang
trở về dương thế, nàng đã nhờ Phan Lang gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn cho Trương
Sinh “Nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn ở bến song, đốt cây đèn thần
chiếu xuống, tôi sẽ trở về”. Trương Sinh nghe Phan Lang kể, biết vợ bị oan, bèn lập đàn
giải oan trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương trở về “ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng giữa
dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ lúc ẩn lúc hiện”, nói với
chồng lời tạ từ “Đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Rồi trong
chốc lát “Bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”. Kết thúc truyện cho thấy sự
vận dụng sáng tạo truyện dân gian của nhà văn. Tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường kì
ảo và lối kể chuyện dân gian để thể hiện tư tưởng của mình. Bên cạnh giá trị nhân đạo,
truyện còn có giá trị hiện thực sâu sắc.
Nếu tác giả để cho Vũ Nương trở về với cuộc sống thực tại thì nàng cũng không thể có
được hạnh phúc với một người chồng đa nghi, độc đoán cùng những định kiến nặng nề của
xã hội đương thời. Kết thúc truyện như vậy là hoàn toàn hợp lí vì nó vừa thể hiện được tư
tưởng của tác giả, vừa đảm bảo tính lôgic của cốt truyện đồng thời phản ánh một cách
chân thực, khách quan số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một câu chuyện được lưu truyền trong dân gian,
cái kết nàng được giải oan và sống ở thủy cung của Linh Phi là một cái kết xem như có
hậu. Vì cuối cùng oan khuất của nàng được giải, nàng vẫn được sống dù là ở thế giới khác.
Từ đây, nàng không còn phải lo toan, vất vả vì chồng con nữa. Người tốt xứng đáng được
hưởng hạnh phúc. Đó là mong ước, là bài học bao đời dân gian truyền dạy con cháu. Cái
kết này hoàn toàn thỏa mãn mong ước về sự công bằng, nhân nghĩa ở đời.
Ngòi bút của Nguyễn Dữ đã cố vun vén, thêm vào những yếu tố kì ảo nhưng rồi cũng bất
lực trước thực tại. Hiện thực đầy rẫy bất công, thực trạng vẫn cứ tiếp diễn, gây ra bao nỗi
đau thân phận. Ở đó, con người luôn cố gắng vẫy vùng trong tuyệt vọng và cái chết được
xem như là sự giải thoát. Số phận bất hạnh của Vũ Nương cũng là số phận bất hạnh của rất
nhiều phụ nữ khác, họ chỉ có thể cam chịu, khuất nhục. Tiếng nói, nỗi đau của họ như chìm
hẳn, trở nên yếu ớt vô cùng giữa muôn trùng hà khắc của chế độ phong kiến. Vũ Nương
trong truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” còn được giải oan, còn được sống ở một
thế giới khác, còn một lần trở về gặp Trương Sinh còn những người phụ nữ khác trong xã
hội phong kiến thì sao? Hiện thực là họ chết mang theo hàm oan không thể tỏ bày, họ tức
tưởi trong tuyệt vọng, họ chấm dứt cuộc sống và không có thế giới ở cõi âm cho họ một lần
sống, cứu vớt họ. Nguyễn Dữ đã lên án, tố cáo đanh thép vào chế độ phong kiến đồng thời
tấm lòng nhân đạo, cái nhìn bao dung của ông đã hướng về những người phụ nữ bất hạnh,
nhỏ nhoi giữa dòng đời nghiệt ngã.
3. kết bài:
Cái kết có yếu tố kì ảo giúp Vũ Nương được minh oan và sống ở thủy cung, làm con
người tin vào nhân quả, thiện ác, công bằng ở đời. Nhưng cũng không thể phủ nhận hiện
thực tàn ác, bất công. Câu chuyện về Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam

209
Xương” lưu truyền như một lời tố cáo đanh thép xã hội phong kiến, là lời oán than cho số
phận con người. Cách kết thúc câu chuyện của nhà văn không chỉ góp phần tạo nên sức
sống của tác phẩm mà còn khẳng định tài năng của tác giả Nguyễn Dữ trong sáng tạo nghệ
thuật.
…………………………………………………………………………..
Đề 80: Hãy chỉ ra biện pháp tu từ từ vựng và ý nghĩa của chúng trong các câu thơ sau:
a. “Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
(Ông đồ, Vũ Đình Liên)
b. Để miêu tả cảnh biệt li của Thúy Kiều với gia đình, đại thi hào Nguyễn Du viết:
“Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm”
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
“Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
(Bếp lửa, Bằng Việt)

Trong đoạn thơ “Ông Đồ” của Vũ Đình Liêm, hai câu thơ trong “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du và đoạn thơ trong “Bếp lửa” của Bằng Việt có sử dụng nhiều phép tu từ: Nhân
hóa “buồn, sầu”; tiểu đối “kẻ ở - người đi”; nói quá “lệ rơi thấm đá”; ẩn dụ “tơ chia rũ
tằm”; điệp từ “nhóm”; “khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo”; ẩn dụ: “Bếp lửa” được thể hiện rõ
nét:
“Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
Biện pháp tu từ nhân hóa “giấy buồn, mực sầu”; người thuê viết không còn nên giấy đỏ
buồn không muốn thắm, mực thơm không được dùng đến nên sầu tủi đọng lại trong
nghiên. Như vậy, những vật vô tri cũng buồn cùng ông đồ, cũng cảm thấy cô đơn, lạc lõng.
Biện pháp nhân hoá góp phần nhấn mạnh tâm trạng của ông Đồ.
Còn trong “Truyện Kiều” để miêu tả cảnh biệt li của Thúy Kiều với gia đình, đại thi hào
Nguyễn Du viết:
“Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm”
Sử dụng phép tiểu đối “kẻ ở - người đi”, nói quá “lệ rơi thấm đá”, ẩn dụ “tơ chia rũ tằm”
để nói lên nỗi đau đớn đến đứt ruột của Thúy Kiều khi phải giã biệt gia đình, đồng thời thể
hiện tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du dành cho nhân vật.
Cuối cùng là đoạn thơ trong bài “Bếp lửa” cũng sử dụng nhiều phép tu từ để thắp sáng
chân dung người bà tần tảo:
“Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

210
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Với điệp từ “nhóm” bốn lần lặp lại liên tiếp đầu mỗi câu thơ vừa nhấn mạnh công việc
nhóm bếp của bà vừa soi sáng chân dung người bà tần tảo, nhẫn nại, giàu đức hi sinh. Bà
không chỉ nhóm lên bếp lửa bằng đôi tay khéo léo để bếp lửa cháy sáng, để có nồi khoai
sắn ngọt bùi, có nồi xôi gạo mới. Từ công việc nhóm lửa hàng ngày, bà còn nhóm lên cả
những nét đẹp tâm hồn tuổi thơ cháu, bồi đắp ước mơ và tình yêu thương cho cháu. Biện
pháp tu từ hoán dụ: “khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo” gợi ra tình cảm gắn bó với những gì
giản dị, gần gũi của quê hương. Bà bồi đắp cho cháu tình đoàn kết xóm làng. Với phép ẩn
dụ: “bếp lửa” vừa tả thực vừa là hình ảnh biểu tượng cho lòng bà, tình yêu thương bà dành
cho cháu, trở thành kỉ vật thiêng liêng của tình bà cháu, là hành trang theo cháu suốt hành
trình dài rộng của cuộc đời.
Qua các biện pháp tu từ: Nhân hóa, tiểu đối, nói quá, ẩn dụ, điệp từ, hoán dụ...đã cho ta
thấy được tài năng của các tác giả.
.....................................................................................
Đề 81: Hình ảnh Thúy Kiều qua hai đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” và “Kiều ở lầu Ngưng
Bích” (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới.
“Truyện Kiều” là một thành công lớn của Nguyễn Du vì nó kết tinh những giá trị hiện
thực và nhân đạo sâu sắc. Đọc các đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng
Bích” cho ta thấy tác giả đã xót thương cho số phận bất hạnh của Thúy Kiều nhưng đó
cũng đồng thời là nỗi xót thương cho số phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Hai đoạn trích
còn cho thấy nghệ thuật tả người điêu luyện của Nguyễn Du, ở đó ta thấy được tài sắc, tâm
đức vẹn toàn của Thúy Kiều nhưng cuộc đời, số phận nàng lại bất hạnh, ngang trái.
Ở đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, sau khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân tác giả miêu tả
vẻ đẹp của Thuý Kiều:
“Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”
Tác giả vẫn dùng những hình ảnh ước lệ tượng trưng, phép ẩn dụ “làn thu thuỷ nét xuân
sơn” gợi đôi mắt trong sáng, long lanh như làn nước mùa thu; hàng lông mày thanh tú, đẹp
như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều hội tụ ở đôi mắt – cửa sổ tâm hồn thể hiện phần
tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Bằng hình ảnh nhân hoá “hoa ghen, liễu hờn”, tác giả làm
nổi bật dung nhan đằm thắm của Kiều khiến hoa phải ghen, dáng trẻ trung đầy sức sống
khiến liễu phải hờn. Nàng có vẻ đẹp làm say đắm, chinh phục lòng người qua thành ngữ
“nghiêng nước nghiêng thành”. Kiều là một trang tuyệt thế giai nhân nhưng nàng không
chỉ đẹp mà còn rất đa tài:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm

211
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng lão nhân”
Nàng thông minh bẩm sinh, có tài làm thơ, vẽ “pha nghề thi họa”, tài đàn “ăn đứt”, âm
luật giỏi đến mức “làu bậc”, còn sáng tác nhạc “một thiên bạc mệnh”- chính là sự ghi lại
tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp giữa sắc, tài và
tình. Vẻ đẹp của nàng làm cho tạo hoá phải ghen ghét, đố kị nên số phận của nàng sẽ éo le,
đau khổ.
Một lần nữa ở bốn câu kết thúc của đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, Nguyễn Du miêu tả
cuộc sống êm đềm, khuôn phép, mẫu mực và ngợi ca đức hạnh của Thúy Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê ,
Êm đềm trướng rủ màn che .
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Mặc dù đã đến tuổi búi tóc cài trâm, có thể lấy chồng nhưng Thúy Kiều vẫn sống hòa
thuận, vui vẻ trong cảnh “trướng rủ màn che”, không tơ tưởng đến những kẻ đi tìm tình
yêu, đi ve vãn con gái như ong bướm tìm hoa. Chính những nét hồn nhiên, trong sáng, thơ
ngây đã nuôi dưỡng, bồi đắp cho sự hình thành, phát triển nhân cách và ý thức làm người
cao cả của Thúy Kiều.
Đến với “Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, bằng những vần thơ buồn mênh mang
như gieo vào lòng người đọc nỗi niềm sót xa khôn nguôi. Mở đầu đoạn trích tác giả đã tái
hiện cảnh ngộ của Thúy Kiều:
“ Trước lầu ngưng bích khóa xuân”
Hai chữ “khóa xuân” muốn nói Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, thể hiện tình cảnh
đáng thương của nàng. Đồng thời nó còn hàm chứa sự xót xa, mỉa mai cho thân phận của
Thúy Kiều.
Năm câu thơ tiếp theo tái hiện quang cảnh nơi lầu Ngưng Bích trong tâm trạng cô đơn,
xót xa của nàng Kiều:
“ Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa cảnh nửa tình như chia tấm lòng”
Khung cảnh thiên nhiên ở đây thật vắng lặng, không có một chút âm thanh, một bóng
người như càng cô lập Kiều trong sự cô đơn đến rợp người. Đây là một khung cảnh thiên
nhiên rộng lớn, cô liêu, thiếu vắng sự sống. Thông qua cảnh vật để nói lên sự cô đơn, lẻ loi
đến cùng cực của Kiều. Vì nàng chỉ có một mình, bầu bạn với Kiều lại là “ non xa, trăng
gần, mây sớm, đèn khuya” những sự vật vô tri, vô giác. Kiều cảm thấy ngổn ngang trăm
mối, day dứt lo âu. Lối liệt kê hình ảnh “ cát vàng, bụi hồng, mây sớm, đèn khuya” cũng
gợi bao nỗi ngổn ngang trong lòng Thúy Kiều. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian
tuần hoàn, khép kín: sớm thì làm bạn với mây, khuya lại trò chuyện với đèn. Trước nỗi
buồn Kiều muốn chia tấm lòng mình thành hai nửa: một nửa theo khung cảnh trống trải

212
của cảnh vật, nửa ở lại với mảnh tình đơn côi. Nàng bị đày đọa trong một không gian vô
cùng, một thời gian vô tận trong nỗi cô đơn cùng cực và trước mắt nàng là một tương lai
mờ mịt.
Chính trong hoàn cảnh cô đơn nơi đất khách quê người, tâm trạng của Kiều chuyển từ
buồn sang nhớ. Trước hết Kiều nhớ đến Kim Trọng bởi trong cơn gia biến, Kiều đã phải hi
sinh mối tình đầu đẹp đẽ để cứu gia đình, Kiều đã phần nào “đền ơn sinh thành” cho cha
mẹ. Vì thế trong lòng Kiều, Kim Trọng là người mất mát nhiều nhất, nỗi đau ấy cứ vò xé
tâm can Kiều khiến Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
Nhớ Kim Trọng Kiều “tưởng” như thấy lại kỷ niệm của tình yêu đầu với Kim Trọng vẫn
vẹn nguyên trong tâm hồn nàng. Nó còn mở ra cái đêm trăng đẹp nhất nàng cùng chàng
Kim uống chén rượu thề nguyền. Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết tin nàng
bán mình, vẫn ngày đêm ở chốn Liêu Dương xa xôi chờ trông tin nàng. Kiều cũng xót xa
cho tình yêu thuỷ chung của mình: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”; có lẽ “tấm son”
ấy là tấm lòng Kiều son sắt, không nguôi nhớ thương Kim Trọng của nàng. Sau nỗi nhớ
Kim Trọng Kiều lại nhớ cha mẹ:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nhớ cha mẹ Kiều xót xa, lo lắng. Vì nàng tưởng tượng, hình dung ra cha mẹ ngày đêm
ngóng trông, lo lắng cho nàng ở nơi xa. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” nói lên sự lo lắng
không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ, nhằm ca ngợi tình yêu thương sự hiếu
thảo của Thúy Kiều. Kiều tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay “gốc tử đã vừa người
ôm”, cha mẹ ngày thêm già yếu, càng cần bàn tay chăm sóc của nàng.
Nỗi nhớ thương của Kiều đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng. Hoàn cảnh của
nàng lúc này thật xót xa, đau đớn. Nhưng quên đi cảnh ngộ bản thân, nàng đã hướng yêu
thương vào những người thân yêu nhất. Kiều thật sự là một người tình thuỷ chung, một
người con hiếu thảo, một người có tấm lòng vị tha cao cả đáng quý.
Từ những nỗi niềm buồn thương đó, Nguyễn Du đã khéo léo tô thêm màu xám trên cái
nhìn xa xăm của Kiều, đẩy sầu não lên thành đỉnh điểm, qua tám câu khép lại đoạn trích:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.”
Hai câu thơ gợi ra không gian rộng trên mặt biển ba la vào lúc chiều tà. Với hình ảnh ẩn
dụ “cánh buồm” để nói nỗi cô đơn, lẻ lo, bé nhỏ. Thời gian “chiều hôm”: khiến cho nỗi
buồn thân phận càng trở nên thấm thía. Từ láy “ thấp thoáng, xa xa” không chỉ gợi hình mà
còn nói lên tình cảnh lênh đênh, thân phận bơ vơ của Kiều. Trong không gian vắng lặng
Kiều nhìn về xa xa với nỗi nhớ nhà, nhớ gia đình, nhớ người thân, với ước mong được trở
về đoàn tụ, sum họp.

213
“Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!”
Hình ảnh ẩn dụ “Hoa trôi” nói lên thân phận lênh đênh, nổi trôi, vô định của người con
gái trước sóng gió cuộc đời. Sử dụng câu hỏi tu từ “biết là về đâu” diễn tả tâm trạng xót xa,
hoang mang, lo sợ của Kiều, khiến cô không khỏi băn khoăn, lo lắng, nghĩ ngợi.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
Hình ảnh: “nội cỏ, chân mây, mặt đất” là nét vẽ không gian rộng lớn. Từ láy: “rầu rầu”
vẽ lên cả một vùng cỏ tàn héo; “xanh xanh” gợi sắc xanh nhạt nhòa, xa cách, nhạt phai.
Biện pháp nhân hóa “nội cỏ” gợi nỗi sầu thương, cô lẻ của Kiều. Sự lẻ loi, nhỏ nhoi và nỗi
cơ đơn cùng cực của thân phận. Với phép ẩn dụ “ Chân mây” đã gợi ra một nỗi buồn mênh
mông, dàn trải. Khung cảnh ảm đạm ấy khiến cho Kiều buồn thêm buồn, cái cảm giác sao
mà tẻ nhạt, sao mà chán ngán, vô vọng thế.
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Từ láy “ầm ầm” và phép đảo ngữ gợi nỗi lo âu, sợ hãi. Hình ảnh ẩn dụ “gió cuốn, tiếng
sóng” để nói đến những biến cố kinh hoàng sắp ập đến, con sóng của số phận sắp sửa chôn
vùi cuộc đời nàng, dự báo một tương lai đầy sóng gió, đầy phong ba bão táp đang ập xuống
thân phận nhỏ bé, yếu đuối của nàng trong một xã hội phong kiến đầy cổ hủ, bất công. Nó
dồn nàng vào một vực thẳm của nỗi sợ hãi, cùng tâm trạng tuyệt vọng đã đi đến tột cùng.
Với bút pháp ước lệ tượng trưng, sử dụng từ ngữ, các điển tích, điển cố....., nghệ
thuật tả người, tả cảnh ngụ tình....Phải nói rằng hình ảnh Thúy Kiều với vẻ đẹp, tài
sắc, tâm đức vẹn toàn nhưng cuộc đời, số phận lại có nhiều bất hạnh, ngang trái.
Hình ảnh và cuộc đời của Thúy Kiều là tiêu biểu cho người phụ nữ trong xã hội
Phong kiến. Nguyễn Dụ ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của Kiều đồng thời đồng cảm với
nỗi bất hạnh của nàng. Chính vì thế “Truyện Kiều” mang giá trị nhân đạo cao cả,
sống mãi với thời gian.
c. Kết bài:
Qua hai đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trong “Truyện Kiều”
chúng ta thấy được sự tinh tế của Nguyễn Du khi miêu tả về hình ảnh Thúy Kiều: một
thiếu nữ tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời phải chịu bao phong ba bão táp, lênh đênh,
ngang trái. Bằng bút pháp miêu tả tài tình Nguyễn Du đã vẽ lên chân dung Thúy
Kiều thật đẹp nhưng cũng đau thương. Chính vì thế mà “Truyện Kiều” sống mãi với
thời gian phần lớn cũng là do thành tựu nghệ thuật này.
………………………………………………………………
Đề 82: Cảm nhận đức hi sinh cao cả của nhân vật ông Sáu “Chiếc lược ngà” và anh
thanh niên “Lặng lẽ Sa Pa”
Rất “thèm” người nhưng nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm “Lặng lẽ SaP của
“Nguyễn Thành Long” lại xung phong lên làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu
trăm mét không một bóng người. Để rồi từng ngày vẫn luôn khao khát được gặp người.
Rất yêu thương con nhưng nhân vật anh Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”
của “Nguyễn Quang Sáng” lại dứt khoát từ giã gia đình đi chiến đấu. Để rồi nơi chiến
khu khôn nguôi thương nhớ con.

214
Qua cảm nhận về những hành động nghịch lí của hai nhân vật trên, em hãy chỉ ra
những thông điệp mà các tác giả đã gửi gắm.
1. Mở bài:
Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long và “Chiếc lược ngà” của Nguyễn
Quang Sáng là hai tác phẩm xuất sắc của nền văn học kháng chiến. Tuy viết về hai đối
tượng trong những tình thế khác nhau nhưng hai nhà văn gặp nhau ở một điểm chung: phát
hiện và ca ngợi vẻ đẹp con người sau những hành động tưởng chừng như là nghịch lí
nhưng lại hết sức hợp lí. Từ đó gửi gắm đến người đọc những thông điệp sâu sắc đó là đức
hi sinh cao cả. Bởi vậy, anh thanh niên trong tác phẩm “Lặng lẽ SaPa” của Nguyễn Thành
Long tuy rất “thèm” người nhưng lại xung phong lên làm việc trên đỉnh Yên Sơn Cao hai
nghìn sáu trăm mét không một bóng người. Để rồi từng ngày vẫn luôn khao khát được gặp
người. Còn ông Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng tuy rất
yêu thương con nhưng lại dứt khoát từ giã gia đình đi chiến đấu. Để rồi nơi chiến khu khôn
nguôi thương nhớ con.
2. Thân bài:
Nhân vật chính là linh hồn của tác phầm. Nhân vật cũng là đối tượng chuyển tải
mọi thông điệp của tác giả muốn gửi gắm đến người đọc. Để xây dựng nhân vật, nhà
văn phải dụng công trong việc lựa chọn các tình tiết nhằm khắc họa lời nói, hành
động, suy nghĩ,… Nhờ đó, các nhân vật mới hiện lên sinh động, cụ thể, vừa có hình
vừa có hồn.
Hành động nghịch lí có thể hiểu là những hành động nhìn có vẻ như không logic
nhưng thật ra là đúng đắn và chân thực. Thế nên, theo cách nghĩ thông thường,
“thèm” người thì phải chọn chốn đông người mà đến và làm việc. Yêu gia đình thì
phải luôn ở bên gia đình, được trông nhìn và nói chuyền, yêu thương từng ngày. Ấy
thế mà nhân vật anh thanh niên và ông Sáu đã có những lựa chọn kì lạ. Anh thanh
niên xung phong lên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu
trăm mét không một bóng người. Nơi ấy quanh năm vắng vẻ. Anh một mình trên
đỉnh cao, làm bạn với mây, gió trên đỉnh Yên Sơn. Ông Sáu tình nguyện từ giã gia
đình đi chiến đấu lúc con gái đầu lòng chưa đầy một tuổi. Đến khi con gái anh lên
tám tuổi anh mới có dịp trở về.
Thông qua việc xây dựng những chuỗi suy nghĩ, hành động nghịch lí ấy, tác giả đã
giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về nhân vật. Đó cũng là cách gửi gắm thông điệp thầm
lặng của người sáng tác cho hai nhân vật chính là đức hi sinh cao cả.
Hình ảnh anh thanh niên trên đỉnh cao mây mù, lộng gió ngày đêm một mình với công
việc cho ta thấy anh là một người rất yêu nghề. Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo
nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất….” rồi ghi chép lại và báo về trung tâm, dự vào việc
báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Chỉ quanh quẩn ở mấy
chiếc máy ngoài vườn thôi nhưng lại quan trọng vô cùng, ấy thế nên anh đã sống hết mình
vì nó. Vẻ đẹp nơi anh bắt đầu từ chính công việc mà anh đã chọn – là con đường lao động.
Qua đó, anh có thể hoàn thành nghĩa vụ và ước mơ cống hiến cho Tổ quốc của mình. Anh
lựa chọn cho mình làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, dù công việc này có lắm khó
khăn, đòi hỏi tính tỉ mỉ chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao nhưng anh lại tìm thấy
niềm vui ở nó “ khi ta làm việc ta với công việc là đôi”. Đẹp nhất ở anh là tư tưởng sống

215
“không chỉ cho bản thân mà là cho đất nước, cho dân tộc”, chính lí tưởng đó đã hướng anh
đi theo con đường lao động đúng đắn và có ích. Anh cũng như bao người bình thường
khác, trong suy nghĩ cũng từng có những ngại ngần và tâm lí sợ sự cô đơn trước con đường
đời đã chọn. Nhưng tuổi trẻ và lí tưởng cao đẹp nơi anh đã lấp đầy khoảng trống ấy bằng
tấm lòng yêu nghề, sự say mê lao động của mình: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy,
chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Từ trải nghiệm về công việc, anh yên tâm đón
nhận con đường mình đang tiến tới bằng lý tưởng cao đẹp về công việc lao động của mình.
Trong môi trường sống và lao động khắc nghiệt của thời tiết núi rừng Sa Pa “Xách đèn ra
vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài chỉ trực đợi mình ra là ào ào xô tới”; ngay cả
những khổ cực khi phải thức dậy vào lúc “bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối lại một giờ
sáng”…Thế nhưng anh vẫn vượt qua và hoàn thành tốt công việc của mình. Phải nói anh
thanh niên ấy là một con người say mê công việc, biết vươn lên những khó khăn, tự giác
hoàn thành nhiệm vụ và đã rèn luyện cho mình một trái tim thấm đượm lòng yêu nghề.
Anh tự đặt và trả lời câu hỏi: “Mình sinh ra là gì ? Mình đẻ ở đâu ? Mình vì ai mà
làm việc ? Nhưng cái khó khăn, thách thức lớn nhất đối với anh chính là sự cô độc.
Đã có những phút anh phải yếu mềm trước cơn “thèm người” đang dâng trào trong
huyết quản. Anh đã làm đủ mọi cách để gặp con người, được nghe họ nói, được thấy
họ cười, dù chỉ trong một giây phút. Những khuôn mặt chưa bao giờ anh gặp sao
bỗng trở nên thân thiết lạ lùng! Nhưng cuối cùng, chàng trai đã vượt qua cơn xúc
động để trở về với cuộc sống bình thường. Anh có những suy nghĩ rất đẹp về ý nghĩa
của cuộc sống, về hạnh phúc trong đời. Với anh hạnh phúc là trong công việc. Khi kể
lại thành tích nhờ phát hiện kịp thời đám mây khô, không quân ta đã hạ nhiều máy
bay Mĩ ở cầu Hàm Rồng, anh nói: “Kể từ hôm đó, cháu sống thật hạnh phúc”. Chính
anh đã đánh thức niềm say mê lao động, say mê cống hiến nơi người họa sĩ già để đem lại
nguồn cảm hứng dạt dào trong tâm hồn con người ấy.
Xét cho cùng, biểu hiện cao nhất của lòng yêu cuộc sống và con người chính là khao khát
được cống hiến. Việc “thèm” người, yêu quý con người của anh thanh niên chính là lí do
thôi thúc anh lựa chọn làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao, cô độc. Qua đó thể hiện rõ thông
điệ của tác giả: hãy sống hăng say, hãy biến tình yêu cuộc sống và con người thành ý thức
đóng góp, thành nhiệt huyết với công việc xây dựng Tổ quốc.
Còn ông Sáu lựa chọn cho mình con đường ra chiến trường, vì nhiệm vụ cao cả mà anh
phải tham gia chiến đấu, bỏ lại gia đình, quê hương và đặc biệt là đứa con yêu tha thiết.
Sau bao năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng là
được gặp con và nghe con gọi một tiếng ba. Bởi vậy, ông nôn nao muốn được gặp con, khi
thuyền chưa cập bến “ anh nhún chân nhảy thót lên”. Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại
nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không chịu nhận ông là ba. Trong ba ngày nghỉ phép ở
nhà ông Sáu muốn gần gũi để bù đắp cho con, nhưng bé vẫn lạnh lùng, bướng bỉnh. Chính
điều ấy, đã làm tổn thương những tình cảm da diết nhất trong lòng ông. Có thể coi việc bé
Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những đau khổ mà bấy lâu
nay ông dồn nén, chứa chất trong lòng, chính vì thế ông đã đánh con. Nhưng khi bé Thu
cất tiếng gọi “Ba”, tiếng gọi muộn màng nhưng lại có ý nghĩa đẹp đẽ! Ai có thể ngờ được
một người lính dày dạn nơi chiến trường, quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu
mền trước con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều

216
gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của tình cha con
thực sự! “Không ghìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu
một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”. Mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng
trong giây phút cha con từ biệt nhau: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”;
nhưng đối với ông Sáu thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất, cho nên nó cứ thôi thúc trong
lòng ông. Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt hơn
biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con: “Ông ngồi cưa từng chiếc răng lược,
thận trọng tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc ”. Bụi ngà mỗi ngày rơi một nhiều làm
người đồng đội cũng cảm thấy vui cho ông. Trên sống lưng cây lược, ông đã tẩn mẩn khắc
một dòng chữ nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”, dòng chữ nhỏ mà chứa bao tình cảm
lớn lao. Việc làm chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa tâm trạng mong nhớ, ân hận vừa là
cách gửi vào đó những yêu thương khao khát cháy bỏng dành cho đứa con gái yêu của
mình. “Chiếc lược ngà” giờ đây đã trở thành một vật quí giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó
làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi
của của người cha đối với đứa con xa cách. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành
một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Ông gửi vào
đó bao lời nhắn nhủ thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi nhớ mong con. Làm được cây lược
cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc cho con. Nhưng rồi, một
tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn của quân Mỹ
ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực và ông đã hi sinh. “Trong giờ phút cuối cùng,
không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết
được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây
lược” đưa cho người bạn – là bác Ba và nhìn Bác một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không
kịp trăn trối điều gì, chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn
của mình sẽ thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con. Tình cảm của ông sáu khiến
ta thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc.
Ông Sáu ra đi vì Tổ quốc. Nhưng ẩn sau đó là tình yêu gia đình thiết tha. Việc đi chiến
đấu cũng là gìn giữ đất nước. Đó cũng là để được đoàn tụ, chung sống hạnh phúc cùng vợ
và con trong khung cảnh thanh bình. Tình yêu gia đình chính là động lực lớn lao để người
chiến sĩ tiến về phía trước. Đó cũng chính là thông điệp mà Nguyễn Quang sáng đã khéo
léo gửi đến người đọc: tình yêu nhà và tình yêu đất nước là hai khái niệm không thể tách
rời, hướng người ta vươn đến những đều tốt đẹp nhất.
Đằng sau những hành động có vẻ nghịch lí của nhân vật là những điều hết sức hợp lí.
Yêu thương, gắn kết với ai đó hoặc cái gì đó không có nghĩa là phải kề cận gần bên. Tình
yêu cao cả là phải sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân để có thể mang lại những gì tốt đẹp nhất
cho người mình yêu quý.
Thông qua tình yêu với con người và gia đình, cả hai tác giả đều hướng người đọc đến
một tình yêu lớn lao hơn. Đó là tình yêu tổ quốc. Tình cảm thiêng liêng ấy thể hiện qua
công việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là thông điệp hết sức ý nghĩa.
3. Kết bài:
Việc lựa chọn những hành động tưởng chừng nghịch lí ấy đã cho thấy tài năng của hai
tác giả trong việc thể hiện vẻ đẹp của nhân vật và tư tưởng của tác phẩm. Tài năng ấy bắt
nguồn từ tấm lòng tha thiết đối với cuộc đời. Phải khẳng định rằng: Nguyễn Thành Long

217
đã gieo vào lòng người đọc về xúc cảm về hình ảnh một con người hi sinh thầm lặng ở một
nơi hoang vắng, đó là anh thanh niên trong tác phẩm “Lặng lẽ Sapa. Còn cả hình ảnh ông
Sáu – người chiến sĩ cách mạng, người cha trong truyện “Chiếc lược ngà” đã để lại bao
thổn thức trong lòng người đọc về tình phụ tử sâu sắc, người lính của một thế hệ anh hùng
đã nếm trải nhiều gian khổ và hi sinh. Bởi vậy, hình ảnh hai nhân vật trong hai tác phẩm
làm chúng ta càng thêm trân trọng đức hi sinh đáng quý ở họ đang ngày đêm làm việc, lo
nghĩ cho đất nước.
…………………………………………………………..
Đề 83: Tìm và phân tích hiệu quả thẩm mỹ của các biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...”
Trong đoạn thơ “Từ ấy” của Tố Hữu sau có sử dụng nhiều phép tu từ: Ẩn dụ với hình
ảnh “nắng hạ”, “mặt trời chân lí”, “vườn hoa lá” và “rộn tiếng chim”; so sánh ngang bằng
qua từ “là”, phép đảo ngữ “rất đậm hương, rộn tiếng chim” được thể hiện rõ nét:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...”
Phép ẩn dụ với hình ảnh “nắng hạ”, “mặt trời chân lí” kết hợp với các động từ mạnh
“bừng, chói” nhà thơ muốn khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn sáng rực rỡ, chói
lòa xua tan những u ám, tối tăm; làm bừng sáng tâm hồn người thanh niên trí thức tiểu tư
sản giàu nhiệt huyết nhưng chưa tìm được đường đi đúng đắn, đang băn khoăn đi kiếm lẽ
yêu đời. Cách nói thể hiện thái độ thành kính, ân tình của nhà thơ với Đảng.
Hình ảnh “vườn hoa lá” và “rộn tiếng chim” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một thế
giới tươi sáng, rộn rã, tràn đầy sức sống.
Với phép so sánh ngang bằng: lấy cái trừu tượng “tâm hồn’ so sánh với cái cụ thể “khu
vườn”, kết hợp với phép đảo ngữ “rất đậm hương, rộn tiếng chim” để nói lên một khu vườn
tràn đầy màu sắc, hương thơm, âm thanh...; tác giả đã diễn tả niềm vui sướng mãnh liệt khi
được giác ngộ lí tưởng cộng sản, ánh sáng của lí tưởng cộng sản có sức mạnh kì diệu đã
làm bừng lên một sức sống mới mẻ trong tâm hồn nhà thơ. Niềm vui sống, sự sáng suốt,
minh mẫn đến kì lạ của tinh thần trí tuệ khi được lí tưởng chiếu dọi làm tâm hồn nhà thơ
trở nên sảng khoái, say mê, náo nức... Đây là giây phút đặc biệt thiêng liêng trong cuộc đời
của Tố Hữu và nhà thơ đã ghi lại chân thành, cảm động.
Qua các biện pháp tu từ: Ẩn dụ, so sánh, đảo ngữ Tố Hữu như muốn khẳng định rằng ánh
sáng cách mạng chính là ánh sáng chân lý mà ông đã tìm thấy được, từ đó thức tỉnh lòng
yêu nước trong lòng mỗi người dân Việt. Đồng thời khẳng định lí tưởng làm con người
thêm yêu đời.
.........................................................................................
Đề 84: Xác định và phân tích giá trị của các phép tu từ trong khổ thơ sau ?
“Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre

218
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng” .
(Nhớ con sông quê hương, Tế Hanh)
Trong đoạn thơ “Nhớ con sông quê hương” của Tế Hanh sau có sử dụng nhiều phép tu
từ: Phép ẩn dụ hình thức “nước gương trong”; nhân hóa “soi tóc”; so sánh ngang bằng qua
từ “là” được thể hiện rõ nét:
“Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng” .
Nhà thơ đã dùng biện pháp ẩn dụ hình thức: “Nước gương trong” để nói mặt nước như
một tấm gương khổng lồ, trong vắt, soi bóng hàng tre hai bên bờ; những hàng tre xanh
mướt mang dáng hình của người thiếu nữ yêu kiều, thướt tha. Qua đó tô đậm sự thanh bình
của dòng sông ; đồng thời phản chiếu cả sự thơ mộng, trong sáng trong tâm hồn tác giả.
Nhân hóa “soi tóc”; biến không gian nghệ thuật hai bên bờ sông thành nhân vật của
mình, nhà thơ muốn gợi lên cái hồn, cái tình của con sông quê. Hàng tre trở thành dân quê,
với những sinh hoạt giống con người, hay chính con người yêu quê hương quá, mà nhận ra
cả bóng dáng của chị, của mẹ bên con sông yêu thương.
Với phép tu từ so sánh ngang bằng qua từ “là” trong câu “Tâm hồn tôi là một buổi trưa
hè” để nói cái nắng của buổi trưa hè là nắng gắt, như tâm hồn tràn đầy nhựa sống và tình
yêu thiết tha với quê hương của tác giả vậy. Nó mở ra một khung cảnh trữ tình đầy duyên
dáng. Nắng không “chiếu”, không “soi”, mà là “tỏa”, có lẽ chỉ từ tỏa mới có thể diễn tả
được hết cái tấm lòng bao la muốn tỏa sáng trọn vẹn dòng sông quê. Sức nóng của mùa hè
- sức sống của tác giả, điều đó đã nuôi dưỡng tâm hồn ông, vun đắp những khát vọng đẹp
và biết bao nhiêu vần thơ hay về quê hương.
Qua các phép tu từ : Ẩn dụ, nhân hóa, so sánh để nói lên tấm lòng yêu quê đến tha thiết
của nhà thơ. Qua đó tác giả đã vẽ nên một bức tranh con sông quê thật thơ mộng găn bó
gần gũi với bao lớp người đã được sinh ra và lớn lên dưới lũy tre xanh, với cây đa, bến
nươc, sân đình.
....................................................................................................
Đề 85: Trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, nhân vật
Trương Sinh vội tin câu nói ngây thơ của con trẻ đã nghi oan cho Vũ Nương, ruồng rẫy và
đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức nên nhảy xuống sông tự vẫn. Theo em khi kể
chuyện tác giả có hé mở chi tiết nào trong truyện để có thể tránh được thảm kịch đau
thương cho Vũ Nương. Suy nghĩ của em về cái chết của Vũ Nương?
1. Mở bài:
“Nghi ngút dầu ghènh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng”.
Truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” được Nguyễn Dữ viết lên từ một câu
chuyện có thật trong xã hội bất công phong kiến. Câu chuyện hòa trong cái thực và cái hư
với hai cảnh sống khác nhau của Vũ Thị Thiết - người con gái Nam Xương. Một cảnh trần

219
gian nàng bị Trương sinh nghi oan vì câu nói ngây thơ của con trẻ nên đã ruồng rẫy và
đánh đuổi nàng đi, Vũ Nương bị oan ức nên nhảy xuống sông tự vẫn và một ở thủy cung
với cuộc sống tốt đẹp. Tuy đó là hai cảnh đời khác nhau nhưng lại gắn bó chặt chẽ với
nhau tạo nên một câu chuyện hay đúng với tựa đề của tập truyện: “Truyền kì mạn lục”.
Đây là một tập truyện ngắn viết bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam vào thế kỉ mười sáu.
2. Thân bài:
Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương là người con gái thuỳ mị nết na, xinh đẹp được Trương
Sinh cưới về làm vợ. Trương Sinh là con nhà khá giả, không có học nhưng lại có tính đa
nghi. Cuộc sống gia đình đang êm ấm thì chàng Trương phải đi lính. Ở nhà, ít lâu sau Vũ
Nương sinh ra một đứa con trai và đặt tên là Đản. Mẹ Trương Sinh vì nhớ con mà sinh
bệnh, Vũ Nương hết lòng chăm sóc, thuốc thang nhưng bà không qua khỏi. Khi Trương
Sinh đi lính trở về, bé Đản không chịu nhận chàng là cha. Nó nói: “Ơ hay! Thế ra ông cũng
là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít... Trước đây
thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cùng đi, mẹ Đản ngồi cùng
ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”.
Chính câu nói trên của bé Đản đã gây nên nỗi oan khuất cho Vũ Nương. Nghe con nói
thế tính đa nghi của Trương Sinh nổi dậy, làm cho chàng trở nên mù quáng. Chàng
nghĩ rằng vợ mình đã làm một việc mà không một ai có thể tha thứ được đó là tội
ngoại tình. Bị chồng ghen tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên
ngăn của láng giềng, bà con nhưng Trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là vợ hư, mối
nghi ngờ ngày càng tăng không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thậm tệ rồi
“đánh đuổi nàng đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trong trắng, đức
hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu
nỗi oan khuất từ đâu mà ra. Nàng cũng dùng những lời lẽ để khẳng định lòng thủy chung: “
Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia
phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã
nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót ”, nhưng Trương Sinh vẫn không tin lời
nàng. Thất vọng khi chồng đối xử bất công, nàng bày tỏ nỗi đau đớn: “ Nay đã bình rơi
trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió... ”, đây là những hình ảnh
mang tính ước lệ để diễn tả sự tan vỡ hạnh phúc gia đình, cả nỗi đau khổ bởi hạnh phúc -
niềm vui “ nghi gia nghi thất” không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Vũ
Nương mượn dòng nước của con sông Hoàng Giang để bày tỏ nỗi oan khuất, sự trong sạch
của mình: “ Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị
Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhựơc bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con,
dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người
phỉ nhổ”. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày
được với chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của
chồng.
Đọc kĩ tác phẩm, em thấy truyện không phải không hé mở khả năng có thể dễ dàng tránh
được thảm kịch đau thương của Vũ Nương. Vì lời con trẻ thường chứa đựng không ít điều
vô lí nên không thể tin ngay được. Câu nói của bé Đản chứa đựng nhiều sự nghi ngờ, nó
như một câu đố? Nếu như Trương Sinh biết suy nghĩ, trả lời cho những điều vô lý về
người cha kì lạ này: “Không biết nói, chỉ nín thin thít” chẳng bao giờ bế con của mình; thế

220
rồi: “Mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”,.... thì cái chết của Vũ Nương sẽ không
xảy ra. Nhưng Trương Sinh cả ghen, ít học, đã vô tình bỏ dở khả năng giải quyết tấm thảm
kịch, dẫn tới cái chết oan uổng của người vợ. Bi kịch cũng có thể tránh được khi Vũ
Nương hỏi “chuyện kia do ai nói” ? Chỉ cần Trương Sinh kể lại lời con nói thì mọi chuyện
sẽ rõ ràng. Vũ Nương cũng sẽ chứng minh cho chồng rõ: ở một mình nàng hay đùa với con
trỏ vào bóng mình trên vách và nói là cha Đản (đó là một cách dỗ dành con). Mãi đến đến
sau cái chết đó, một đêm nọ dưới ngọn đèn khuya bé Đản lại nói: “ Cha Đản lại đến kia
kìa” Trương Sinh mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình thì mọi chuyện đã quá muộn màng vì
Vũ Nương đã không còn nữa trên đời. Qua đây đã thể hiện tài năng kể chuyện của Nguyễn
Dữ: thắt nút truyện làm cho mâu thuẫn đẩy lên đỉnh điểm tăng sự li kỳ, hấp dẫn cho câu
chuyện.
Vũ Nương phải tìm đến cái chết là giải pháp tiêu cực nhất nhưng dường như đó là cách
duy nhất của nàng. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động cuối cùng để bảo
toàn danh dự, đối với nàng phẩm giá còn cao hơn cả sự sống. Một phụ nữ đức hạnh, tâm
hồn như ngọc sáng mà bị nghi oan bởi một chuyện không đâu từ lời nói ngây thơ của con
trẻ, một câu nói đùa của mẹ với con mà Vũ Nương phải tìm đến cái chết bi thảm, ai oán
trong lòng sông thăm thẳm.
Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện trong nhà, một vụ ghen tuông.
Vũ Nương lấy phải người chồng cả ghen, nguyên nhân trực tiếp dẫn nàng đến cái chết bi
thảm là “máu ghen” của người chồng nông nổi. Không phải chỉ vì “cái bóng trên vách” mà
chính là cái bóng đen trong tâm hồn Trương Sinh đã giết chết Vũ Nương. Sự thực vẫn là sự
thực! Cái chết của Vũ Nương thật oan uổng với một người chồng độc đoán như Trương
Sinh.
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ
đồ, vũ phu, đa nghi như Trương Sinh. Nỗi oan của Vũ Nương còn hơn nỗi oan của Thị
Kính. Thị Kính còn biết mình bị oan là vì sao, còn Vũ Nương thì chí biết mình có tội chứ
không biết được nguyên nhân. Câu chuyện tuy kể về gia đình nhưng nó vẫn vượt ra khỏi
khuôn khổ ấy. Ở đây, ta thấy truyện đã mang tính xã hội: khi chế độ nam quyền đã đè nặng
lên vai người phụ nữ, họ không có quyền sống tự do của mình. Và chế độ “trọng nam
khinh nữ” ấy đã thấm sâu vào máu huyết của người đàn ông lúc bấy giờ. Đằng sau cái chết,
đằng sau sự khinh rẻ của mọi người và xã hội với Vũ Nương ta còn thấy hình ảnh của
nhiều người phụ nữ khác. Những lời nói của Vũ Nương chẳng ai tin nữa, chỉ có cái chết
mới có thể minh oan được. Nhưng cái chết ấy vẫn chưa đủ điều kiện để khẳng định sự
chung thủy của nàng nếu không có lời nói của bé Đản lúc sau. Nhìn chung, cái chết của Vũ
Nương do Trương Sinh trực tiếp gây ra nhưng nguyên nhân sâu xa vẫn là cái xã hội bất
công, đầy ngang trái.
Hay chính “Chiến tranh phong kiến” cũng là một nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ
Nương. Nó gây nên cảnh ly biệt rồi góp phần dẫn đến cảnh tử biệt. Cái chết của Vũ Nương
là lời tố cáo xã hội phong kiến đã dung túng cho cái ác, cái xấu xa đồng thời bày tỏ niềm
cảm thông đối với số phận người phụ nữ. Bi kịch của Vũ Nương đem đến bài học thấm
thía về việc giữ gìn hạnh phúc gia đình.
Câu chuyện kể với nhiều tình tiết bất ngờ có ý nghĩa trong tác phẩm, tạo tình huống có
vấn đề. Qua đó đã thu hút người đọc, giúp người đọc cảm thông hơn với cuộc đời và số

221
phận của Vũ Nương.
3. Kết bài:
Vũ Nương trong truyện là một nhân vật vừa đẹp người lại đẹp nết, theo đúng quan niệm
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, nhưng phải chịu nỗi oan khuất và chứng minh sự
vô tội của mình bằng cái chết. Một cái chết đau đớn bất công, chỉ vì sự hiểu nhầm từ một
câu nói thơ ngây của con trẻ mà Trương Sinh đã nghi oan, làm mất đi người vợ quý trên
đời. Đồng thời truyện phê phán chiến tranh loạn lạc và lễ giáo phong kiến trọng nam quyền
trong xã hội ngày xưa đã gây bi kịch nát lòng. Nói tóm lại “Chuyện người con gái Nam
Xương” đã phản ánh rất rõ nét về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Tuy có nhiều khả năng tránh được thảm kịch nhưng những hủ tục cổ xưa lại làm cho thảm
kịch xảy ra.
....................................................................................
Đề 86: Thái độ và hành động của hai nhân vật anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm
vật lí địa cầu trong (Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long) và anh chiến sĩ lái xe trong (Bài
thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật) gợi cho em suy nghĩ gì về tuổi trẻ ngày
nay.
1. Mở bài:
Yêu biết mấy hình ảnh người thanh niên thời kỳ chống Mỹ: cần cù trong lao động, anh
hùng trong chiến đấu. Văn thơ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ đã dựng lại cả một thời kỳ
máu lửa, đi sâu tìm tòi khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của thế hệ thanh niên trong chiến đấu
cũng như trong lao động. Tôi nhớ anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành
Long; và những người chiến sĩ lái xe dũng cảm trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
của Phạm Tiến Duật. Họ là hiện thân của vẻ đẹp con người Việt Nam, của sức sống dân
tộc. Năm tháng trôi đi và lịch sử đã bước sang trang mới nhưng những con người ấy vẫn
sáng ngời lên nhắc nhở ta về một quãng đường đầy gian khổ, đau thương, lại rất đỗi anh
hùng mà đất nước mình đã đi qua. Để rồi mỗi lần đọc lại tôi không khỏi ngỡ ngàng vì
người dân mình đẹp quá, dũng cảm; và lòng tôi được như sống lại những ngày còn chiến
tranh bom đạn ấy.
2. Thân bài:
“Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long ; “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm
Tiến Duật hiện lên một tập thể anh hùng đang ngày đêm chiến đấu kẻ thù và xây dựng với
để giữ từng tấc đất, ngôi nhà cho quê hương, đất nước và xây dựng quê hương đất nước
ngày càng giàu đẹp hơn. Hai nhà văn đều không đi sâu vào miêu tả những đau thương mất
mát, vất vả khó khăn của dân mình, hay tội ác tày trời của giặc Mỹ mà đi vào khám phá, ca
ngợi vẻ đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh cũng như trong lao động. Hình ảnh
anh thanh niên và những người lính lái xe và còn biết bao con người nữa sáng lên vẻ đẹp
phẩm chất lạ thường. Họ là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, sức sống dân tộc. Những con người
yêu nước thiết tha, quên mình vì Tổ quốc ấy lại rất đỗi giản dị, sáng trong. Một tập thể anh
hùng giữa hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, trong đó mỗi một nhân vật đều có một vẻ đẹp
riêng, một tâm hồn, một cái “tôi” riêng hoà chung với cái “ta” rộng lớn. Hình ảnh thế hệ trẻ
Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ: Họ là những người lính lái xe Trường Sơn; những
con người ngày đêm miệt mài lao động cống hiến cho đất nước...

222
Thái độ và hành động của hai nhân vật anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí
địa cầu trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long và anh chiến sĩ lái xe trong “Bài
thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đều là những thanh niên sống có lý
tưởng cao đẹp, họ nguyện đem sức trẻ, tinh thần, trí tuệ…cống hiến cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiệm vụ khác nhau nhưng họ cùng chung mục đích, lý
tưởng là bảo vệ và xây dựng đất nước nên ở họ đều tỏa sáng những phẩm chất cao đẹp
tuyệt vời.
Đó là lớp thanh niên trẻ có lý tưởng cách mạng cao đẹp, có hoài bão ước mơ, sẵn
sàng cống hiến sức trẻ cho đất nước. Lý tưởng cao đẹp của những người lính lái xe
Trường Sơn: Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
Nhân vật anh thanh niên dù tuổi đời còn rất trẻ nhưng anh đã ý thức được một cách sâu
sắc về trách nhiệm của mình (một công dân) đối với quê hương đất nước, mà cao hơn là lý
tưởng sống, lý tưởng cách mạng: “ Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm
việc?”
(Lặng lẽ Sa Pa)
Họ là những con người dũng cảm, gan dạ, đầy tinh thần trách nhiệm, coi thường
hiểm nguy, vượt qua mọi gian khổ sẵn sàng hi sinh để hoàn thành nhiệm vụ. Những
người lính lái xe Trường Sơn với tinh thần dũng cảm và ý chí kiên cường vì sự nghiệp giải
phóng đất nước đã giúp họ vượt qua sự nguy hiểm của bom đạn, sự ác liệt trên tuyến
đường Trường Sơn thời chống Mĩ:
“ Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi…”
Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là
tinh thần lạc quan, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo


Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”
Anh thanh niên với lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm đã giúp anh vượt qua nỗi cô
đơn, vượt qua mọi gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ: “ Cháu ở đây có nhiệm vụ đo nắng,
đo mưa….xong việc trở vào là không thể nào ngủ lại được”.
Ở họ có tình đồng chí, đồng đội gắn bó thân thiết, sẵn sàng chia sẻ với nhau trong
cuộc sống thiếu thốn, gian khổ và hiểm nguy. Những người lính lái xe Trường Sơn từ sự
cùng chung nhiệm vụ, lý tưởng họ đã trở thành đồng đội của nhau, sẻ chia với nhau những

223
gian khổ ở chiến trường, tình đồng đội đã tiếp thêm cho họ sức mạnh để vượt qua bom đạn
hiểm nguy:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua của kính vỡ rồi”
“Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong chiến trường, từ trong ác liệt trở về. “Những
chiếc xe không kính” được nhân hóa qua cụm từ “Họp thành tiểu đội” để nói những chiếc
xe này đã vượt qua bom đạn kẻ thù và bỗng tụ hội lại nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú
vị. Cái “bắt tay” chân thành qua cửa kính vỡ đã bộc lộ vẻ đẹp của tình đồng đội đơn sơ,
giản dị nhưng vô cùng sâu nặng. Cái bắt tay ấy như là sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau; là
lời động viên thầm lặng mà nồng hậu của người lính Trường Sơn. Đó còn là sự mừng vui,
là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến
thắng. Có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”: “Thương nhau tay
nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ
ca trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút
sinh hoạt của họ:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Câu thơ thứ nhất thật khoáng đạt, mạnh mẽ với cụm từ “dựng giữa trời”, một lần nữa cho
thấy sự hiên ngang, bất khuất của người lính. Tình đồng đội còn được thể hiện qua sự gắn
bó đầm ấm, thân thương “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”, đây là những giây phút
bình yên hiếm hoi trong cuộc đời người lính. Bữa cơm thời chiến vội vã đã xóa đi mọi
khoảng cách, giúp họ có cảm giác gần gũi, thân thương như ruột thịt. Với từ láy “chông
chênh” gợi ra con đường gập ghềnh, khó khăn ở phía trước, giấc ngủ của người lính không
được trọn vẹn mà luôn lắc lư theo nhịp chiếc xe. Điệp ngữ “lại đi” diễn tả nhịp bước hành
quân của người chiến sĩ lái đầy lạc quan, yêu đời. Nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh thêm” để
nói lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến; “trời xanh
thêm” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng.
Anh thanh niên có thể vượt qua nỗi cô đơn, vượt qua mọi sự gian khổ để hoàn thành
nhiệm vụ là vì anh luôn suy nghĩ anh không cô đơn mà luôn có đồng đội tiếp sức cho anh:
“Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia”. Vì
đồng đội mà anh luôn cố gắng trong công việc bởi anh luôn thấy những đóng góp của mình
cho đất nước còn quá nhỏ bé so với họ (anh bạn trên đỉnh Phan-xi-păng, anh cán bộ nghiên
cứu bản đồ sét, ông kĩ sư vườn rau Sa Pa).
Giữa những khó khăn ác liệt của cuộc sống họ vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan, sự
trẻ trung, lãng mạn của tuổi trẻ. Sự trẻ trung, ngang tàng, sôi nổi đậm chất lính của
những chiến sĩ lái xe Trường Sơn giữa chiến trường ác liệt. Thái độ bất chấp những gian
khổ hiểm nguy:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,

224
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng”
Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” gợi lên sự điềm tĩnh, bình thản, lạc quan, yêu
đời của những người lính lái xe; họ vẫn tiếp tục công việc của mình dù cho xung quanh có
xảy ra những điều dữ dội, đau thương, mất mát. Điệp từ “nhìn” kết hợp với thủ pháp liệt
kê “đất, trời, thẳng” để nói lên những người lính không hề né tránh hiện thực gian khổ, hy
sinh; họ sẵn sàng đối mặt với gian nan, thử thách – một bản lĩnh vô cùng vững vàng.
Anh thanh niên, qua những lời anh tâm sự với ông họa sĩ và cô kĩ sư về cuộc sống một
mình của anh, về công việc của anh ta thấy được ý chí nghị lực phi thường ở anh “ …Nếu
là nỗi nhớ phồn hoa đô hội thì xoàng…”. Không chỉ vậy, ngoài giờ làm việc còn trồng hoa,
nuôi gà và đặc biệt là dành thời gian để đọc sách mở mang hiểu biết.
Thái độ và hành động của hai nhân vật anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm
vật lí địa cầu trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long và anh chiến sĩ lái xe
trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã cho ta thấy sự cống
hiến to lớn đối với đất nước họ lạc quan, yêu đời.
Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ hiện lên chân thực, sinh
động trên các trang văn của các tác giả đã có sức thuyết phục với người đọc. Hình
ảnh ấy không chỉ cho thấy tài năng của các tác giả mà còn cho chúng ta thấy sự am
hiểu, trải nghiệm cuộc sống trong những năm kháng chiến ác liệtcủa các nhà văn, nhà
thơ. Qua đó, chúng ta có thể hiểu thêm về lịch sử dân tộc, thêm tự hào và tiếp bước
truyền thống các thế hệ cha anh.
3. Kết bài
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính ” của Phạm Tiến Duật; “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn
Thành Long là những tượng đài lộng lẫy về vẻ đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ, thử thách mà rất đỗi anh hùng. Hai
nhân vật trong hai tác phẩm tuy có những khía cạnh khác nhau của đời sống thời kì chống
Mỹ về khung cảnh, hoàn cảnh và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc đáo, riêng biệt
nhưng đều góp phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói khám phá ngợi ca vẻ đẹp
của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Phạm Tiến Duật
và Nguyễn thành Long là những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu vĩ đại của
dân tộc, họ thấu hiểu và trân trọng những phẩm chất của con người Việt Nam. Hình ảnh
những con người một lòng “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” mãi mãi khắc tạc vào lịch sử,
trở thành tấm gương sáng ngời về ý chí, lý tưởng sống và đức hi sinh cho mọi thế hệ mai
sau noi theo.
............................................................................................................
Đề 87: Trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, nhà văn Nguyễn Thành Long đã để cho
ông hoạ sĩ nghĩ về anh thanh niên như sau:
“Người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm
cho người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ trong cái vắng vẻ vòi vọi
hai nghìn sáu trăm mét trên mặt biển, cuồn cuộn tuôn ra khi gặp người. Những điều suy
nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong
óc người khác, có sẵn mà chưa rõ hay chưa được đúng”.
(Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long)

225
Nêu rõ những điều anh suy nghĩ và những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh
trong truyện ngắn.
1. Mở bài:
Trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, nhân vật ông hoạ sĩ già ít
được bạn đọc chú ý tới. Nhưng dường như chính tác giả Nguyễn Thành Long hoá thân vào
người nghệ sĩ cao tuổi, giàu kinh nghiệm đời, say mê sự trải nghiệm sáng tạo ấy để gửi tới
bạn đọc những điều tâm đắc về cuộc sống, về con người. Một trong những điều tâm đắc
nhất phải chăng đã được biểu hiện trong giây phút xao động tâm hồn của nhà hoạ sĩ khi trò
chuyện với anh thanh niên khí tượng, ông đã nghĩ: “Người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng
làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh. Và về những
điều anh suy nghĩ trong cái vắng vẻ vòi vọi hai nghìn sáu trăm mét trên mặt biển, cuồn
cuộn tuôn ra khi gặp người. Những điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang
âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác, có sẵn mà chưa rõ hay chưa
được đúng”. Vậy, những vang âm nào đã ngân lên từ tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa?
2. Thân bài:
Trước hết, đó là vang âm của cuộc gặp gỡ giữa ông hoạ sĩ, cô kĩ sư nông nghiệp và
anh thanh niên làm công tác khí tượng - một công việc âm thầm, lặng lẽ, trên đỉnh
núi cao 2600 mét, giữa mênh mông đất trời, sương tuyết. Thế nhưng anh thanh niên
vẫn yêu đời, đầy trách nhiệm, cần cù, dũng cảm. Anh không để xảy ra sai sót nào
trong nhiệm vụ của mình, anh còn biết tự tạo một cuộc sống nề nếp, phong phú và
thơ mộng: nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. Thỉnh thoảng anh xuống núi để tìm gặp bác
lái xe, cùng khách qua đường để hỏi thăm, giúp đỡ cho vơi bớt nỗi cô đơn, nỗi “nhớ
người”.... Con người ấy đã biết sống một cuộc sống thật đẹp, thật phong phú, một
cuộc sống làm chủ mình, giúp ích cho đời. Kể về một lần, nhờ anh góp phần phát hiện
một đám mây khô nên không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm
Rồng, anh đã sung sướng nói với ông hoạ sĩ: “Từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc”.
Ý thức sâu sắc mục đích việc mình làm, say mê làm việc để đạt hiệu quả, thấm thía
niềm vui, tìm được hạnh phúc trong cuộc sống, phong cách sống ấy của anh thanh
niên làm công tác khí tượng khiến ông hoạ sĩ xúc động nhủ thầm “Người con trai ấy
đáng yêu thật”. Phải chăng đó chính là những vang âm từ một cách sống? Đối với ông
hoạ sĩ, anh thanh niên không chỉ đáng yêu vì cách sống mà còn vì những điều anh suy
nghĩ. Đó cũng là những âm vang vừa có chiều sâu vừa có sức khơi gợi. Thứ nhất, về
quan niệm “người cô độc”, anh nói với ông hoạ sĩ: “Khi ta làm việc, ta với công việc
là đôi... huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia”.
Rồi tâm sự với cô kĩ sư: “Lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy
mà”. Thứ hai, về nỗi “nhớ người”, anh cho rằng: “Người thì ai mà chả “thèm”...
Mình sinh ra để làm gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc? Thứ ba, về vị trí cuộc
sống, về ấn tượng mà mỗi con người tạo ra trong đời, anh luôn luôn cảm thấy mình
nhỏ bé, bình thường so với nhiều người khác. So độ cao nơi ở, anh không bằng người
bạn “Trên trạm đỉnh Phăng-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét”. Tìm một
chân dung cho tác phẩm hội hoạ, anh giới thiệu ông kĩ sư vườn rau, ngày này sang
ngày khác rình xem cách ong thụ phấn cho su hào để nâng cao năng suất trồng rau;
là anh cán bộ nghiên cứu khoa học, mười năm không một ngày xa cơ quan, luôn

226
trong tư thế sẵn sàng đợi sét để lập bản đồ sét, tìm cho ra của chìm dưới lòng đất của
Tổ quốc. Thứ tư, về vùng đất anh đang sống và làm việc mà anh thấu hiểu hơn ai hết:
“Trong cái im lặng của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ
nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo
nghĩ như vậy cho đất nước”. Thế đấy, mỗi suy nghĩ của con người trẻ tuổi ấy đều
thấm đẫm tình yêu con người, yêu cuộc sống, yêu mến và tự hào về mảnh đất mình
đang sống. Chính những suy nghĩ và tình cảm ấy đã trở thành sức mạnh, thành điểm
tựa để anh làm việc, học tập, vươn lên trong những đỉnh cao trong cuộc sống. Anh
biết sống cho một sự nghiệp lớn lao là công cuộc xây dựng đất nước, cũng biết sống
cho riêng mình và chia sẻ với mọi người. Vì thế, gặp gỡ, trò chuyện với anh, ông hoạ
sĩ cảm thấy “nhọc quá”; cô kĩ sư nông nghiệp dạt lên trong lòng “một ấn tượng hàm
ơn khó tả”...
Trước anh thanh niên trẻ tuổi đáng yêu, ông hoạ sĩ ngỡ như lồng ngực có thêm một quả
tim nữa, hay chính là quả tim cũ được “để cao” lên? Đang bước vào tuổi già, tuổi của
những nghỉ ngơi, ông bỗng trẻ lại, thấy yêu thêm cuộc sống, khao khát sống, khao khát
sáng tạo. Vừa nói chuyện, ông vừa ghi lại hình ảnh anh “bằng nét bút kí hoạ”. Bàn tay ông
như có thần, trái tim rung động, trí tuệ minh mẫn, suy nghĩ bao nhiêu điều tốt lành về cuộc
sống, con người và mảnh đất Sa Pa. Như vậy, cảm giác “ mệt nhọc” của người nghệ sĩ ấy
chính là một niềm vui, niềm hạnh phúc, khao khát, yêu thêm cuộc sống. Ông quyết định
quay trở lại nơi này để hoàn thành bức vẽ chân dung anh.
Còn cô kĩ sư nông nghiệp, cái ấn tượng về trách nhiệm dạt lên trong lòng là những gì?
Có phải đó cũng là những điều học được thật bổ ích, phong phú về nhận thức, về tâm hồn?
Từ lúc bắt đầu lên xe, rồi được gần ông hoạ sĩ, được ông giúp đỡ, chăm sóc như với con
gái, đến khi thăm vườn hoa, căn nhà và trò chuyện với anh thanh niên làm công tác khí
tượng, cô gái hiểu ra bao nhiêu điều về cuộc sống. Cô hiểu anh thanh niên, hiểu cái thế giới
những con người mà anh kể, và quan trọng, thiêng liêng sâu sắc nhất là “cô hiểu con đường
cô đang đi tới”. Cô gái bàng hoàng, xúc động như giây phút tuổi trẻ đón nhận một tình yêu,
tình yêu đích thực, chứ không phải mối tình nhạt nhẽo, sai lầm vừa qua. Cô yên tâm và tin
tưởng ở con đường mình đang đi tới, ở công việc mình đã lựa chọn. Do đó, khi ôm bó hoa
anh thanh niên tặng, cô gái hồi hộp và sung sướng vì nhận được một kỉ niệm đẹp của một
tấm lòng, cũng “vì bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mộng mơ” đang
bừng nở với muôn vàn hương sắc trong tâm hồn cô. Cô kĩ sư nông nghiệp đã “đi một ngày
đàng học một sàng khôn”.
Tuy là hai nhân vật phụ, cô kĩ sư cũng như ông hoạ sĩ vẫn được nhà văn trân trọng gửi
gắm nhiều ý tưởng. Hình ảnh cuối cùng của họ - “Ông xách cái làn trứng, cô ôm bó hoa to.
Lúc bấy giờ, nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn.
Nắng chiều làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ” - hệt như một bức tranh óng ánh sắc màu.
Có thể nói, cuộc gặp gỡ của ba nhân vật giữa mịt mờ sương tuyết mà vẫn nồng ấm tình
người, y như một mối duyên kì ngộ. Chỉ tiếp xúc trong ba mươi phút, họ đủ hiểu nhau, toả
sáng cho nhau, khơi gợi trong nhau biết bao điều bổ ích. Điều bổ ích lớn lao nhất cho cả ba
con người thuộc hai thế hệ khác nhau là sự ý thức về vị trí, trách nhiệm mỗi con người
trong công cuộc xây dựng đất nước. Dù họ chia tay nhau, điều bổ ích ấy vẫn vang trong họ
và từ họ, vang âm sang người đọc chúng ta. Qua những suy nghĩ của các nhân vật ông hoạ

227
sĩ, cô kĩ sư, nhà văn nhấn mạnh ý nghĩa lớn lao của những công việc thầm lặng. Đó là
những suy nghĩ đẹp, cách sống đẹp.
Những điều anh suy nghĩ và những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh chính là những
suy tư trăn trở của nhà văn trước cuộc đời. Ý nghĩa ấy được gửi gắm qua hình thức một câu
chuyện nhẹ nhàng, giầu chất thơ. Từ những suy nghĩ ấy, rút ra cho bản thân những bài học
về cách sống cao đẹp.
3. Kết bài:
“Lặng lẽ Sa Pa” - mới đọc tên, ngỡ nhà văn nói về một điều gì... im ắng, hắt hiu, giá lạnh.
Vậy mà, thật kì diệu, trong cái lặng lẽ của Sa Pa vẫn vang ngân lên những âm thanh trong
sáng, vẫn ánh lên những sắc màu lung linh, lan toả hơi ấm tình người và sự sống, sự sống
những rừng cây, những đoá hoa, những tấm lòng nhân hậu. Chính những vang âm, sắc màu
và hơi ấm của một vùng lặng lẽ ấy đã khơi gợi trong biết bao lớp người đọc tác phẩm này
tình yêu Tổ quốc, tình yêu con người, những con người đã một thời biết sống đẹp, suy nghĩ
đẹp, để từ đó mà hướng tới, tìm cho mình một vẻ đẹp riêng trong sự sống, cách sống mỗi
con người.
..................................................................................................
Đề 88: Trong ca khúc “Để gió cuốn đi”, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có viết: “Sống trong
đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi”. Hãy tìm câu trả
lời trong các văn bản “Mùa xuân nho nhở” của thanh Hải và “Lặng lẽ Sapa” của Nguyễn
Thành long
1. Mở bài:
Xã hội hiện đại ngày nay đang đứng trước nguy cơ bị căn bệnh vô cảm xâm thực vào đời
sống. Và cách duy nhất để chống lại loài virut này có lẽ là tấm lòng yêu thương, đồng cảm
sẻ chia của mọi người. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có lẽ đã rất chân thành khi viết nên những
ca từ “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì, em biết không ? Để gió cuốn
đi”. Những ca từ ấy, rất đúng với những con người lao động bình thường và ý nghĩa của
công việc thầm lặng, tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ SaPa” và “Mùa
xuân nho nhỏ” của Thanh Hải – mặc dù trong những phút cận kề cái chết ông vẫn khát
khao sống, làm việc cống hiến cho cuộc đời chung.
2. Thân bài:
Trước hết, nhạc sĩ khẳng định “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Vậy phải
chăng “Tấm lòng” đó là những tình cảm tốt đẹp, đáng trân trọng ở con người. Tiếp đến
nhạc sĩ lại đặt câu hỏi “Để làm gì, em biết không ?” rồi trả lời “Để gió cuốn đi”, cách diễn
đạt hình ảnh này nhằm để nói đến một lối sống đẹp: khi ta làm điều gì đó cao đẹp, gió sẽ
mang những điều cao đẹp ấy bay đến muôn nơi. Qua đó Trịnh Công Sơn muốn nhắn nhủ
đến mỗi người chúng ta: sống trong đời sống, mỗi người cần phải có một tấm lòng không
phải để mong được người khác ghi nhận, không phải để mong được trả ơn và cũng không
phải để phô trương hay trang sức cho bản thân mình… mà để “gió cuốn đi”. Cuộc sống
như vậy mới thanh thản và bình yên.
Đến với bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải và truyện ngắn “Lặng lẽ SaPa” của
nguyễn Thành Long ta thấy rõ ước nguyện chung của cả hai tác phẩm: Đó là ước nguyện
được cống hiến cho đời mà ở đây là hoàn toàn tự nguyện, âm thầm và lặng lẽ. Là cống hiến
những gì đẹp đẽ nhất cho đất nước. Đây cũng là lý tưởng của thế hệ lúc bấy giờ.

228
Thế nhưng ở mỗi tác phẩm lại đều thể hiện những nét đẹp riêng trong cách thể hiện. Đến
với bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải ta thấy được ước nguyện của ông về mùa
xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào một khát vọng hiến dâng. Bài thơ ra đời vào tháng
11/1980, được xem như một lời tâm niệm trẻ trung và đáng trân trọng của nhà thơ để lại
cho đời trước lúc đi xa:
“ Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Sử dụng điệp từ “ta” và bút pháp liệt kê để thể hiện ước nguyện chân thành, thiết tha:
được làm một tiếng chim hót thánh thót góp phần làm cho mùa xuân quê hương thêm rạo
rực, sống động; Thanh Hải nguyện làm một cành hoa để tô điểm thêm hương sắc cho mùa
xuân quê hương đất nước; ông không mơ làm một nốt nhạc bổng cao vút trong bản hòa ca
của dân tộc mà chỉ khiêm nhường làm một nốt trầm xao xuyến lòng người, nốt trầm ấy có
thể là nốt nhạc phụ nhưng không thể thiếu bởi nó là yếu tố góp phần làm nên sự thành công
của bản hòa ca. Với lớp nghĩa ẩn dụ tượng trưng “con chim hót”, “một cành hoa”, “ nốt
trần xao xuyến” nó gợi liên tưởng đến mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con
người và đất nước Việt Nam. Cái “tôi”của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyển hoá
thành cái “ta” đã nhằm nhấn mạnh ước muốn không chỉ của riêng nhà thơ mà là ước
nguyện chung của mọi người
Đến khổ thơ tiếp theo Thanh Hải thể hiện rõ hơn khát vọng cống hiến của mình ở
những vần thơ sâu lắng:
“ Một mùa xuân nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
“Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc đời đáng yêu, một khát
vọng sống cao đẹp. Mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy đem tất cả những gì tốt đẹp,
tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước. Cặp từ láy
“nho nhỏ”, “lặng lẽ” kết hợp với đảo ngữ “lặng lẽ dâng” cho thấy một thái độ chân thành,
khiêm nhường, không khoe khoang mà chỉ lặng lẽ, âm thầm dâng hiến. Lời ước nguyện
thật thuỷ chung, son sắt được diễn tả qua hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi” chỉ tuổi trẻ và
“khi tóc bạc” để nói khi về già. Điều này đã khẳng định cả đời người phải giữ trọn lẽ sống
có ích, có ý nghĩa, cống hiến suốt cuộc đời cho Tổ quốc, cho nhân dân. Điệp ngữ “dù là”
nhắc lại hai lần làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết sâu lắng càng khắc sâu ước
nguyện chân thành, bền bỉ đáng quý. Phải chăng đây là lẽ sống đầy trách nhiệm mà Thanh
Hải muốn nhắn gởi đến chúng ta.
Tác giả đã thành công khi viết theo thể năm chữ nhẹ nhàng, tha thiết. Kết hợp hài hòa
giữa những hình ảnh thơ tự nhiên, giản dị với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng, khái
quát. Sử dụng ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc với các ẩn dụ,
điệp từ, đảo ngữ, liệt kê, hoán dụ...hai khổ thơ đã giúp người đọc cảm nhận được âm điệu
rộn ràng, rồi lại trầm lặng, từ ngữ sâu sắc, luyến láy rất vần tác giả đã đưa đến một “Mùa
xuân nho nhỏ” của riêng mình để rồi đưa ta đến ước nguyện cùng tác giả.

229
Còn với truyện ngắn “Lặng lẽ SaPa” của Nguyễn Thành Long lại được viết vào năm
1970 là kết quả của chuyến đi Lào Cai của tác giả, truyện ca ngợi vẻ đẹp của những con
người lao động bình thường và ý nghĩa của công việc thầm lặng, tiêu biểu là nhân vật anh
thanh niên.
Anh thanh niên mang trong mình đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp ở tấm lòng yêu
đời, yêu nghề ở tinh thần trách nhiệm với công việc. Nói về hoàn cảnh sống và công
việc của anh. Theo lời bác lái xe thì anh là người “cô độc nhất thế gian”, công việc của anh
là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất….” rồi ghi chép lại và báo về
trung tâm, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.
Chỉ quanh quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn thôi nhưng lại quan trọng vô cùng, ấy thế
nên anh đã sống hết mình vì nó. Vẻ đẹp nơi anh bắt đầu từ chính công việc mà anh đã chọn
– là con đường lao động. Qua đó, anh có thể hoàn thành nghĩa vụ và ước mơ cống hiến cho
Tổ quốc của mình. Anh lựa chọn cho mình làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, dù
công việc này có lắm khó khăn, đòi hỏi tính tỉ mỉ chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao
nhưng anh lại tìm thấy niềm vui ở nó “ khi ta làm việc ta với công việc là đôi”. Đẹp nhất ở
anh là tư tưởng sống “không chỉ cho bản thân mà là cho đất nước, cho dân tộc”, chính lí
tưởng đó đã hướng anh đi theo con đường lao động đúng đắn và có ích. Anh cũng như bao
người bình thường khác, trong suy nghĩ cũng từng có những ngại ngần và tâm lí sợ sự cô
đơn trước con đường đời đã chọn. Nhưng tuổi trẻ và lí tưởng cao đẹp nơi anh đã lấp đầy
khoảng trống ấy bằng tấm lòng yêu nghề, sự say mê lao động của mình: “Công việc của
cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Từ trải nghiệm về công
việc, anh yên tâm đón nhận con đường mình đang tiến tới bằng lý tưởng cao đẹp về công
việc lao động của mình. Trong môi trường sống và lao động khắc nghiệt của thời tiết núi
rừng Sa Pa “Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài chỉ trực đợi mình ra là ào
ào xô tới”; ngay cả những khổ cực khi phải thức dậy vào lúc “bốn giờ, mười một giờ, bảy
giờ tối lại một giờ sáng”…Thế nhưng anh vẫn vượt qua và hoàn thành tốt công việc của
mình. Phải nói anh thanh niên ấy là một con người say mê công việc, biết vươn lên những
khó khăn, tự giác hoàn thành nhiệm vụ và đã rèn luyện cho mình một trái tim thấm đượm
lòng yêu nghề.
Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống của mình thêm thi vị,
phong phú về vật chất và tinh thần. Cuộc sống của anh không cô đơn, buồn tẻ vì anh có
một nguồn vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò chuyện, để thanh lọc
tâm hồn. Không chỉ vậy người thanh niên này còn thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”,
lòng hiếu khách, sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Tình thân với bác lái
xe, thái độ ân cần chu đáo, tặng củ tam thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy. Vui sướng khi có
khách đến thăm nhà. Anh trò chuyện cởi mở với ông họa sĩ và cô kĩ sư về công việc, cuộc
sống của mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ. Đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút
gặp gỡ vô cùng quý báu. Lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến nỗi phải “quay
mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ già làn trứng làm quà, không dám tiễn khách ra xe dù
chưa đến giờ “ốp”. Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người thanh niên
mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí.
Công việc vất vả có những đóng góp quan trọng như thế cho đất nước nhưng người
thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn. Anh cảm thấy những đóng góp

230
của mình chỉ bình thường, nhỏ bé so với bao người khác, vì thế anh đã từ chối ông họa sĩ
vẽ bức chân dung của mình, con người khiêm tốn ấy còn hào hứng giới thiệu với ông họa
sĩ những người mà anh cho là đáng vẽ hơn: “Ơ bác vẽ cháu đấy ư ? Không, không, đừng vẽ
cháu, để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn”, đó là ông kỹ sư
ở vườn rau Sa Pa, là anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, có thể nói dù còn trẻ tuổi, nhưng
anh đã thấm thía cái nghĩa cái tình của mảnh đất Sa Pa, thấm thía sự hi sinh thầm lặng của
những con người ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
Chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc của truyện,
nhưng tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về tinh thần,
tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc. Anh thanh
niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là chân dung con người lao động
mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
“Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là những vần thơ đẹp , các hình ảnh ẩn dụ tượng
trưng đầy sáng tạo. Trong tác phẩm là tình yêu cuộc sống và khao khát cống hiến cho đời.
Còn “Lặng lẽ Sa Pa” với cốt truyện giản đơn, cuộc gặp gỡ chỉ trong ba mươi phút nhưng
tác giả giúp ta khám phá ra được biết bao vẻ đẹp trong tâm hồn của những người lao động
lặng thầm.
Qua hai tác phẩm trong dòng văn học hiện đại đã mang lại cái nhìn về đúng đắn về vẻ
đẹp của nhân cách con người, về thái độ sống. Ta càng yêu quí, trân trọng, tự hào về họ.
3. Kết bài:
Tóm những ca từ “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì, em biết không ?
Để gió cuốn đi” của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất đúng đối với anh thanh niên trong “Lặng
lẽ SaPa” của Nguyễn Thành Long và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Gấp trang sách
lại, em lại cảm thấy một cái gì đó bồi hồi, xao xuyến muốn đọc lại lần nữa. Những ước
nguyện nhỏ nhoi, khiêm tốn của tác giả lại khiến cho ngưới đọc động lòng. Thật độc đáo!
Còn nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long
vẫn để lại trong lòng em bao ấn tượng khó phai mờ. Anh là người yêu công việc, yêu cuộc
sống, cởi mở, chân thành với mọi người đặc biệt là đức tính khiên tốn. Anh chính là hình
ảnh tiêu biểu cho những con người lao động mới đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam trong
những năm 70 cuối thế kỷ XX. Cuộc sống đẹp đẽ và sự cống hiến hi sinh thầm lặng của cả
hai tác phẩm khiến ta trân trọng và cảm phục vô cùng.
........................................................................................................
Đề 89: Tình cha con qua hai tác phẩm: “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng và “Nói
với con” của Y Phương.
1. Mở bài:
“ Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha”
Tình cảm gia đình luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong các tác phẩm văn học: đó là tình
cảm của những thành viên, thế hệ trong gia đình (ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh em dành
cho nhau); tình cảm của sự sinh thành, nuôi dưỡng, chở che, đùm bọc và tấm lòng ứng xử
của những con người trong gia đình với nhau. Điều đó thể hiện rõ nét trong tác phẩm
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, nó đã đánh cắp con tim của người đọc bởi tình
cha con bao năm xa cách mà đầy éo le trong chiến tranh. Những ai đã từng đọc “Nói với

231
con ” của Y Phương chắc chắn không thể quên được tình cảm nồng thắm của người cha
dành cho con; bài thơ đã thể hiện được điều tâm huyết nhất mà người cha muốn truyền lại
cho con. Đó chính là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống tốt đẹp
của quê hương và niềm tin vững chắc khi bước vào đời. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận
được tình cảm thắm thiết của cha mẹ đối với con cái nói chung và tình yêu quê hương sâu
nặng của nhà thơ Y Phương nói riêng.
2. Thân bài:
Đến với “Chiếc lược ngà” ta bắt gặp hình ảnh ông Sáu - được giới thiệu là người lính
chiến tranh, vì nhiệm vụ cao cả mà anh phải tham gia chiến đấu, bỏ lại gia đình, quê hương
và đặc biệt là đứa con yêu tha thiết. Sau bao năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn
nung nấu khao khát cháy bỏng là được gặp con và nghe con gọi một tiếng ba. Bởi vậy, ông
nôn nao muốn được gặp con, khi thuyền chưa cập bến “ anh nhún chân nhảy thót lên”.
Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không chịu nhận ông là
ba. Trong ba ngày nghỉ phép ở nhà ông Sáu muốn gần gũi để bù đắp cho con, nhưng bé
vẫn lạnh lùng, bướng bỉnh. Chính điều ấy, đã làm tổn thương những tình cảm da diết nhất
trong lòng ông. Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm
bùng lên những đau khổ mà bấy lâu nay ông dồn nén, chứa chất trong lòng, chính vì thế
ông đã đánh con. Nhưng khi bé Thu cất tiếng gọi “Ba”, tiếng gọi muộn màng nhưng lại có
ý nghĩa đẹp đẽ! Ai có thể ngờ được một người lính dày dạn nơi chiến trường, quen với cái
chết cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm
hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm
nhận được sự ấm áp của tình cha con thực sự! “Không ghìm được xúc động và không
muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”.
Mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt nhau: “Ba về! Ba
mua cho con một cây lược nghe ba!”; nhưng đối với ông Sáu thì đó là mơ ước đầu tiên và
duy nhất, cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông.
Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt hơn biết bao
khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con: “Ông ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng
tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc ”. Trên sống lưng cây lược, ông đã tẩn mẩn khắc một
dòng chữ nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”, dòng chữ nhỏ mà chứa bao tình cảm lớn
lao. Việc làm chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa tâm trạng mong nhớ, ân hận vừa là cách
gửi vào đó những yêu thương khao khát cháy bỏng dành cho đứa con gái yêu của mình.
“Chiếc lược ngà” giờ đây đã trở thành một vật quí giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu
đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của của
người cha đối với đứa con xa cách. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một
nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Ông gửi vào đó
bao lời nhắn nhủ thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi nhớ mong con. Làm được cây lược cho
con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc cho con. Nhưng rồi, một tình
cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy,
ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực và ông đã hi sinh. “Trong giờ phút cuối cùng, không
còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất
cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho
người bạn – là bác Ba và nhìn Bác một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối

232
điều gì, chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ
thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con. Tình cảm của ông sáu khiến ta thấy ấm
lòng và cảm động sâu sắc
Tác giả đã thành công trong việc tạo tình huống truyện để thể hiện tình cha con trong
cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Cốt truyện chặt chẽ mang yếu tố bất ngờ mà tự nhiên, hợp
lý. Lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp khiến câu chuyện chân thực, thể hiện xúc động
tình cha con. Nghệ thuật miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật, nhất là nhân vật trẻ em rất sinh
động.
Còn với vẻ đẹp về tình cha con trong bài ‘Nói với con”, ta thấy điều đầu tiên Y Phương
muốn nói với con: gia đình chính là cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, tình yêu
thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho con cái
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Bốn câu thơ mở đầu có nhịp cấu trúc đối xứng cùng thủ pháp liệt kê: “chân phải – chân
trái, một bước – hai bước, tiếng nói – tiếng cười” giúp người đọc hình dung cảnh một em
bé đang chập chững bước đi những bước đầu tiên, đang bi bô tập nói, lúc thì sa vào lòng
mẹ, lúc thì níu lấy tay cha. Qua đó gợi lên khung cảnh gia đình tràn đầy niềm vui, hạnh
phúc. Tác giả lại sử dụng phép liệt kê “ tới cha, tới mẹ” cho thấy sự quan tâm, chăm chút
với ánh mắt dõi theo, vòng tay đón đợi của cha mẹ. Con được sinh ra và lớn lên trong tình
yêu thương, nâng đón của cha mẹ.
Cha còn nói cho con biết: con lớn lên trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ
mộng và nghĩa tình của quê hương:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”.
Qua câu cảm thán “người đồng mình yêu lắm con ơi !” gợi sự yêu thương, tha thiết cũng
là lời giới thiệu ân cần, giản dị về hình ảnh “người đồng mình”; nhà thơ như đang giới
thiệu đây là những người bản mình, người vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân
thương. Các động từ “cài”, “ken” giúp chúng ta thấy được cách miêu tả chính xác động tác
tỉ mỉ, khéo léo trong lao động. “Người đồng mình” vất vả với công việc nhưng cuộc sống
của họ không nhàm chán, ngược lại, họ rất yêu cuộc sống, yêu lao động bởi họ biết dùng
câu hát để khơi dậy tinh thần lạc quan của mình. Tiếng hát giúp cuộc sống của họ có thêm
nhiều màu sắc và giúp tâm hồn họ trở nên phong phú hơn.
Quê hương với những con người tài hoa, tâm hồn lãng mạn, cũng là quê hương với thiên
nhiên thơ mộng, nghĩa tình:
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”.
“Rừng” được nhân hóa qua từ “cho” đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của
thiên nhiên, cũng là niềm vui, nguồn hạnh phúc mà thiên nhiên ban tặng; đồng thời còn ca
ngợi sự giàu có và hào phóng của thiên nhiên quê hương. Qua phép tu từ nhân hóa “con
đường” bằng từ “cho”, tác giả đã gợi được tình cảm gắn bó keo sơn, thắm thiết của người

233
đồng mình với căn nhà, làng bản; đồng thời còn gợi những bàn chân, những tấm lòng trở
về. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình của quê hương: đem đến cho con người những thứ
cần để lớn, dành tặng cho con người những gì đẹp đẽ nhất. Quê hương đã che chở, nuôi
dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống.
“ Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
Phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói” đã gợi lên cuộc
sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc của người đồng mình. Vận dụng thành ngữ dân gian
“Lên thác xuống ghềnh”, ý thơ gợi bao nỗi vất vả, lam lũ. Điệp ngữ “sống”, “không chê”
đã nhấn mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không
thiếu ý chí và sự quyết tâm. Người đồng mình chấp nhận và thủy chung gắn bó cùng quê
hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả.
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
Cụm từ “thô sơ da thịt” là cách nói ẩn dụ để ngợi ca những con người mộc mạc, giản dị,
nhỏ bé về vóc dáng, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó. Cụm từ “chẳng nhỏ bé”
khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin. Sự đối lập này đã tôn
lên tầm vóc của người đồng mình: họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, nghị lực và niềm tin.
Khép lại đoạn thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với biết bao niềm tin hi
vọng của người cha đặt vào đứa con yêu:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”
Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ trước
đó càng trở nên da diết, khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp của “người
đồng mình”. Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình yêu thương vô bờ
bến của cha dành cho con. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý
chí của mình.
Giọng thơ thiết tha, trìu mến nhưng lại trang nghiêm. Các hình ảnh thơ cụ thể mà có tính
khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ. Đoạn thơ chứa chan ý nghĩa, mộc mạc, đằm
thắm mà sâu sắc. Nó tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang. Lời thơ tâm tình của
người cha sẽ là hành trang đi theo con suốt cuộc đời và có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho
các bạn trẻ - bài học về niềm tin, nghị lực, ý chí vươn lên.
Cả hai tác phẩm trên đều có những nét giống nhau: Đó là tình yêu thương của sự chăm
sóc, ân cần dạy dỗ, tấm lòng vị tha, đức hy sinh một đời vì con của cha, một tình cảm
mang tính gia đình cao cả. Đây cũng là truyền thống đạo lý của dân tộc, cần kế thừa và gìn
giữ.
Còn những nét riêng của hai tác phẩm: Là hoàn cảnh sáng tác cả hai tác phẩm, tình cảm,

234
xuất phát từ mối quan hệ, tình cảm cha - con...và nét riêng trong hình thức thể hiện ...
Tình cảm gia đình – tình cha con là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng và quý giá
của mỗi người. Mỗi nhà thơ, nhà văn bằng sự khám phá và thể hiện của mình đã đem đến
cho văn học những tác phẩm giàu giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục
và đánh thức tình cảm tốt đẹp của con người về tình cảm gia đình.
Vẻ đẹp của tình cảm gia đình – tình cha con trong hai tác phẩm như những nét vẽ góp
phần hoàn thiện bức chân dung gia đình của mỗi con người. Tình cảm ấy lại được hoà
quyện thống nhất, gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương đất nước. Đây cũng là một mạch
nguồn tình cảm được lưu chuyển qua dòng chảy truyền thống của thơ ca dân tộc nhưng
luôn có những khám phá, phát hiện và cách thể hiện theo những nét riêng - một đặc trưng
quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật.
3. Kết bài:
Đọc xong hai tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, “Nói với con” của Y
phương nhiều dư âm vẫn làm ta xao xuyến không muốn gấp trang sách lại. Với tình cảm
sâu đậm của cha con ông Sáu trong “Chiếc lược ngà”, hay những cảm xúc dâng trào về sức
mạnh to lớn của tình cha con trong “Nói với con”. Tất cả như dừng lại khiến ta phải suy
ngẫm về những gì mình đã làm khiến cha mẹ buồn rầu, rơi lệ. Chính Nguyễn Quang Sáng,
Y Phương giúp ta nhận ra vẻ đẹp gần gũi luôn bên cạnh ta để ta cảm nhận được sâu sắc
hơn những tình cảm cha con một cách thiêng liêng nhất.
…………………………………………………………………
Đề 90: Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con
người.” Em hãy chọn hai trong bốn tác phẩm sau: Bếp lửa (Bằng Việt), Ánh trăng (Nguyễn
Duy), Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải), Nói với con (Y Phương) để bày tỏ ý kiến của mình
về quan niệm trên
1. Mở bài:
Văn học đem đến cho con người những cảm nhận chân thực, sâu sắc và tinh tế nhất. Văn
học luôn khai thác cái đẹp ở nhiều góc độ: thiên nhiên, đất nước, con người.... Giá trị thẩm
mĩ của tác phẩm ẩn chứa cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Nó đem đến cho người đọc
cảm nhận, rung cảm về những nét đẹp giản dị, gần gũi ở cả cuộc đời thường lẫn những nét
đẹp tượng trưng, mới lạ. Cách thức xây dựng ngôn từ của mỗi nhà văn, nhà thơ cũng đem
lại nét đẹp cho tác phẩm. Bởi đó là nơi để nhà văn gửi gắm những tình cảm sâu lắng nhất,
những cảm xúc, khát vọng chân thành nhất, mãnh liệt nhất về con người và về cuộc đời.
Bởi vậy, đến với một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 9: “Bếp lửa” của Bằng Việt,
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy”,…. có ý kiến rằng: “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng
về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người”
2. Thân bài:
Trước tiên ta phải hiểu “nghệ thuật” chỉ phạm trù lớn, bao gồm cả văn học và các ngành
nghệ thuật khác. Còn sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con
người”: Muốn nói tới sự khám phá, phản ánh vẻ đẹp nhân bản, nhân văn của nghệ thuật
chân chính. Vậy “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người
cho con người”, đó là vai trò cảm hóa, tác động tích cực, chức năng bồi bổ tâm hồn con
người của văn học nghệ thuật.
Tóm lại, ý kiến của Nguyên Ngọc muốn đề cao nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng:

235
luôn mang thiên chức cao cả là phản ánh, ngợi ca vẻ đẹp nhân tính của con người và vì thế,
văn học nghệ thuật đảm nhận chức năng nhân đạo hoá con người, giúp con người hoàn
thiện hơn.
Bằng Việt và Nguyễn Duy đều đã từng sống, trải qua những năm tháng khó khăn,
thiếu thốn, khốc liệt của chiến tranh và được cưu mang, đùm bọc, sẻ chia. Bởi vậy,
khi viết những tác phẩm này, hai nhà thơ đã được hưởng cuộc sống hoà bình, ấm no,
hiện đại. Điều đó gợi nhắc đến đạo lí về lòng biết ơn, lối sống ân nghĩa, thuỷ chung đối
với mỗi người. Dù là lòng thương nhớ, biết ơn bà hay ân tình với nhân dân, đất nước
thì đều có chung một nét đẹp nhân văn.
Đến với bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt được viết 1963 khi tác giả đang du học ở
Liên xô (cũ), xa quê hương, xa người bà đã khơi gợi nỗi nhớ thương về quê hương, về
bếp lửa ấm nồng cùng với hình ảnh bà yêu dấu. Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm
tình cảm bà cháu, tình cảm gia đình cho mỗi người đọc qua dòng hồi tưởng của cháu
về kỷ niệm tuổi thơ bên bà, bên bếp lửa – qua tình cảm bà cháu của nhân vật trữ
tình. Hồi tưởng của cháu bắt đầu từ hình ảnh bếp lửa và hình ảnh bà:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Từ láy “chờn vờn” tả hình ảnh ngọn lửa bập bùng trong làn sương sớm, cũng gợi lại
hình bóng bà chập chờn trong kí ức tuổi thơ. “Ấp iu” tuy là một từ ghép nhưng lại mang
âm hưởng của từ láy vừa gợi tả bàn tay kiên nhẫn, khéo của bà trong công việc nhóm lửa
hằng ngày, vừa là tấm lòng đong đầy yêu thương của bà dành cho cháu.
Nghĩ về bà, tác giả hồi tưởng lại những năm đói khổ; kỷ niệm tám năm sống bên bà;
kỉ niệm những năm giặc dã, chiến tranh. Trong dòng hổi tưởng đó luôn có hình ảnh
bà tần tảo, hi sinh, yêu thương cháu, có tình bà ấm áp:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !”
“Tám năm ròng” là một quãng thời gian tuổi thơ của tác giả cùng bà “nhóm lửa”, đây
cũng chính là những năm tháng có chiến tranh, bà phải bươn trải để giúp cháu vượt qua sự
thiếu đói. Âm thanh tiếng chim tu hú ấy như giục lúa mau chín để người nông dân mau
thoát khỏi cái đói, như khơi dậy trong bà những kỉ niệm ngày xưa ở Huế, để bắt đầu những
câu chuyện êm đềm cho tuổi thơ của cháu.
Hồi tưởng về bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa, bếp lửa là biểu tượng cho tình bà
ấm áp, biểu tượng cho ý chí, nghị lực, niềm tin của bà:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tác giả đã nâng lên thành “ngọn lửa” mang ý nghĩa ẩn dụ; đó
chính là ngọn lửa của tình yêu thương, của niềm tin bất diệt và hi vọng mà bà đã gieo vào
lòng cháu. Điệp ngữ “một ngọn lửa” càng khẳng tình yêu thương ấm áp của bà dành cho

236
cháu. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen nhóm trong lòng cháu ý chí, nghị lực và cả tình
yêu cuộc sống. Ngọn lửa ấy bà luôn “ủ sẵn” khiến ta cảm nhận được một ngọn lửa không
bao giờ tắt qua năm tháng. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người
truyền lửa.
Tình cảm bà cháu là cội nguồn của tình cảm gia đình, tình cảm với quê hương, đất
nước: Mỗi kỉ niệm của cháu với bà gắn với những thời kì lịch sử khó quên của đất
nước, dân tộc; gắn với tình làng nghĩa xóm
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Điệp từ “nhóm” bốn lần lặp lại liên tiếp đầu mỗi câu thơ vừa nhấn mạnh công việc nhóm
bếp của bà vừa soi sáng chân dung người bà tần tảo, nhẫn nại, giàu đức hi sinh. Bà không
chỉ nhóm lên bếp lửa bằng đôi tay khéo léo để bếp lửa cháy sáng, để có nồi khoai sắn ngọt
bùi, có nồi xôi gạo mới. Từ công việc nhóm lửa hàng ngày, bà còn nhóm lên cả những nét
đẹp tâm hồn tuổi thơ cháu, bồi đắp ước mơ và tình yêu thương cho cháu. Biện pháp tu từ
hoán dụ: “khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo” gợi ra tình cảm gắn bó với những gì giản dị, gần
gũi của quê hương. Bà bồi đắp cho cháu tình đoàn kết xóm làng. Với phép ẩn dụ: “bếp
lửa” vừa tả thực vừa là hình ảnh biểu tượng cho lòng bà, tình yêu thương bà dành cho
cháu, trở thành kỉ vật thiêng liêng của tình bà cháu, là hành trang theo cháu suốt hành trình
dài rộng của cuộc đời. Để rồi từ đó tác giả phải thốt lên trong bao nhung nhớ và trân trọng:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Phép đảo ngữ kết hợp với hình thức cảm thán thể cảm xúc sự ngỡ ngàng đến “kì lạ” khi
nghĩ về cái “bếp lửa”, một hình ảnh bình dị lại trở thành ngọn lửa trong lòng bà – ngọn lửa
của sức sống, của niền tin và lòng yêu thương. Bếp lửa đã trở thành biểu tượng cho tình
yêu thương bà, gần gũi mà “thiêng liêng”; người cháu nhớ về bà, biết ơn bà, nhờ hiểu bà
mà thêm hiểu nhân dân, đất nước, dân tộc mình. Bếp lửa và bà đã trở thành biểu
tượng của quê hương, xứ sở:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở :
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?...”
Với bút pháp liệt kê “ khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” để nhấn mạnh ở
hiện tại, người cháu đã có cuộc sống đầy đủ, ấm no hơn về vật chất cũng như tinh thần
nhưng một niềm vui và hạnh phúc đơn sơ, nhỏ bé, thiêng liêng về bà, về quê hương luôn
chiếm vị trí quan trọng nhất trong trái tim tác giả. Câu hỏi tu từ kết thúc bài thơ: “ Sớm mai
này bà nhóm bếp lên chưa ?”, khẳng định nỗi nhớ bà luôn thường trực, khắc khoải trong
lòng cháu. “Bếp lửa” đã thực sự trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng kì
diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.

237
Sự tác động của bài thơ đến tình cảm mỗi người đọc, sự đồng cảm của người đọc với bài
thơ đó là hình tượng bếp lửa và hình tượng người bà. Bài thơ bếp lửa đã khơi dậy trong
lòng mỗi người đọc tình cảm bà cháu đẹp đẽ, tình cảm gia đình thiêng liêng. Tình cảm của
nhân vật trữ tình, của tác giả đã làm sâu sắc, đẹp đẽ, bền vững thêm tình cảm gia đình
trong mỗi người đọc.
Bài thơ Bếp lửa với hình tượng thơ độc đáo, ngôn từ biểu cảm, bình dị mà sâu sắc, sử
dụng hổi tưởng và hiện tại trong mạch cảm xúc, sử dụng nhiểu biện pháp nghệ thuật đặc
sắc đã thể hiện xúc động tình bà cháu thiêng liêng, ấm áp, tình cảm yêu gia đình, quê
hương, đất nước trong sáng, đẹp đẽ. Bài thơ đã làm sáng tỏ những quy luật sáng tạo và tiếp
nhận văn chương; minh chứng cho những tác dụng to lớn của văn chương: Văn chương
làm đẹp thêm tình người, hướng con người đến chân, thiện, mỹ. Bài thơ cũng là lời nhắc
nhở mỗi con người luôn biết trân trọng, giữ gìn những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ “ níu
giữ mãi mãi tính người cho con người.”
Còn Nguyễn Duy là gương mặt tiêu biểu của lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ và có
nhiều đóng góp quan trọng cho thơ Việt Nam sau 1975. Thơ ông dung dị, chất phác
mà thâm trầm, lắng đọng những triết lí suy tư. Bài thơ “Ánh trăng” được viết năm
1978 và in trong tập thơ cùng tên.
“Ánh trăng” là bài thơ chất chứa tâm sự sâu kín trong tâm hồn Nguyễn Duy – một
người lính vừa bước ra khỏi cuộc chiến, trở về với cuộc sống thời bình. Hoài niệm về
sự gắn bó nghĩa tình với vầng trăng trong những năm tháng tuổi thơ và khi ở chiến
trường:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Với phép liệt kê đã diễn tả tuổi thơ được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp thiên
nhiên của tác giả. Khi lớn lên, vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường và luôn sát cách
bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt
của bom đạn kẻ thù. Trăng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ. Người lính lại cùng trăng
tâm sự để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Vì thế trăng đã trở thành “tri kỉ” của người
lính. Thế rồi một biến cố bất ngờ xảy ra:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Với biện pháp tu từ nhân hóa “ đi qua ngõ” kết hợp so sánh “vầng trăng như người
dưng” thì mối quan hệ giữa con người và vầng trăng thay đổi một cách đột ngột: vầng
trăng đã hóa thành xa lạ, con người không còn cảm nhận được vầng trăng trong đời sống
nơi đô thị. Thứ ánh sáng nhân tạo của ánh điện, cửa gương khiến con người quên mất vẻ
đẹp của ánh trăng. Con người trở nên xa lạ với quá khứ, với nghĩa tình trong quá khứ.
Cuối cùng tác giả cảm thấy xúc động, nhớ thương và giật mình thức tỉnh khi bắt gặp
vầng trăng xưa vẫn tròn đầy vẹn nguyên:
“Trăng cứ tròn vành vạnh

238
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để nói trăng vẫn thủy chung, là người bạn gắn bó với
con người dẫu cho bị con người vô tình lãng quên, chối bỏ. Nghệ thuật nhân hóa “ Ánh
trăng im phăng phắc”; trăng như im lặng, không nói gì mà chỉ nhìn khiến cho con người
giật nhắc nhở chính mình không được quên đi quá khứ nghĩa tình, thủy chung khi xưa,
cũng là bài học nghĩa tình, thủy chung cho mọi người. Gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm về
cách sống, cách làm người. Bài thơ là lời tự nhắc nhở của nhà thơ về những năm tháng
gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu.
“Ánh trăng” là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người”:
vì đã đưa tiếng lòng riêng của Nguyễn Duy đến với tiếng lòng chung của bao người: Giật
mình trước sự nông nổi, bạc bẽo của chính mình, tự nhìn lại mình để hoàn thiện chính
mình. Lắng nghe lời tự nhắc của nhà thơ về đạo lí sống “uống nước nhớ nguồn”, biết trân
trọng ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ, người đọc nhận ra những triết lí sống sâu sắc cho
mình. Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy không chỉ là chuyện riêng của nhà thơ mà là
chuyện của mọi người, không chỉ là bài thơ của một thời mà là bài thơ của mọi thời, mọi
đời, nó luôn nhắc nhở mọi người về đạo lí ân nghĩa thủy chung “uống nước nhớ nguồn”
Tác giả đã thành công trong việc kết hợp giữa tự sự và trữ tình, tự sự làm cho trữ tình trở
nên tự nhiên mà cũng rất sâu nặng. Sáng tạo nên hình ảnh thơ có nhiều tầng ý nghĩa: trăng
là vẻ đẹp của thiên nhiên, tự nhiên, là người bạn gắn bó với con người; là biểu tượng cho
quá khứ nghĩa tình, cho vẻ đẹp đời sống tự nhiên, vĩnh hằng.
Bởi vậy ý kiến của Nguyên Ngọc “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ
mãi mãi tính người cho con người” đã trở thành phương châm, nguyên tắc sáng tạo của
người nghệ sĩ chân chính. Đòi hỏi nhà văn phải có tầm nhìn sâu rộng, có tư tưởng nhân
văn, nhân đạo…Quan điểm này cũng trở thành tiêu chí đánh giá văn học nghệ thuật đối với
bạn đọc. Nguyên Ngọc đã góp phần khẳng định giá trị lớn lao, phong phú của văn học
nghệ thuật đối với đời sống nhân sinh, đặc biệt là thiên chức cao cả: thanh lọc tâm hồn,
nhân đạo hóa con người
3. Kết bài:
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy và “Bếp lửa” của Bằng Việt gợi lại bao suy nghĩ, chiêm
nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thủy chung cao quý trong cuộc đời. Có bao giờ ta tự hỏi
tại sao cũng chỉ là những hình ảnh quen thuộc thôi mà con người lại có thể nhìn thấy bao
điều? Nó níu giữ con người khỏi bị trôi trượt đi bởi những lo toan, tất bật hằng ngày, nó
bảo vệ con người khỏi những cám dỗ tầm thường. Và trên hết, nó luôn hướng con người
đến những giá trị bền vững của cuộc sống. Bởi vậy, ý kiến của Nguyên Ngọc về bài thơ
“Ánh trăng”, “Bếp lửa” là hoàn toàn hớp lý vì mỗi bài thơ là một hình ảnh, một mạch cảm
xúc nhưng đều sâu lắng, thiết tha. Cả hai bài thơ đều khẳng định: hãy sống ân tình, thuỷ
chung với quê hương, với quá khứ, với lịch sử và nhân dân. Chẳng ai hạnh phúc nếu không
biết trân trọng, tri ân và chung thuỷ với quá khứ.
..........................................................................................................
Đề 92: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại.
Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ.

239
Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình
góp vào đời sống chung quanh”.
(Nguyễn Đình Thi, Tiếng nói của văn nghệ)
Em hiểu nhận định trên như thế nào? Hãy phân tích một số tác phẩm trong chương trình
Ngữ văn 9 để làm rõ điều mới mẻ trong việc khám phá vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam.
1. Mở bài:
Hiện thực cuộc sống vẫn luôn là nơi khơi nguồn cảm hứng, cung cấp đề tài và chất liệu
sáng tác cho các nhà văn, nhà thơ trong nhiều thời đại. Nhận xét về mối quan hệ chặt chẽ
giữa văn học và hiện thực, Nguyễn Đình Thi đã viết: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây
dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không chỉ ghi những gì đã có rồi
mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ,
anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.” Quả thực, nếu đã từng
đọc qua tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật hay “Lặng lẽ
Sa Pa” của Nguyễn Thành Long; chúng ta không chỉ ấn tượng bởi nhân vật anh thanh niên
sống một mình trên núi cao làm công việc đo khí tượng, cống hiến hết mình cho Tổ quốc
mà còn thấy được hình ảnh những chiếc xe không kính từ hiện thực cuộc sống, đồng thời
cũng phản ánh chân thực hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống
Mỹ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và
ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. Có thể nói, cả hai tác phẩm chính là một minh
chứng sáng giá, hàm súc nhất cho lời bình của Nguyễn Đình Thi.
2. Thân bài:
Tác phẩm văn học bao giờ cũng lấy chất liệu từ cuộc sống thực tại: đó là những con
người, những số phận, những cuộc đời, những mảng đời sống gia đình, xã hội được
tác giả dùng làm đề tài cho những sáng tác của mình. Văn học đã trở thành tấm
gương phản chiếu hiện thực, qua tác phẩm người đọc có thể hình dung được “cuộc
sống muôn hình vạn trạng”.
Nhưng nghệ sỹ không chỉ ghi lại những cái đã có rồi, không chỉ tái hiện cuộc sống
mà còn muốn gửi gắm những tư tưởng tình cảm, thái độ về cuộc sống. Hơn thế nữa
nhiều tác phẩm văn học có giá trị còn thể hiện những khao khát những ý tưởng mới
mẻ, những điều chiêm nghiệm và những suy ngẫm sâu sắc của nghệ sĩ về cuộc đời, về
con người. Đó chính là những điều mới mẻ nghệ sĩ muốn nói qua tác phẩm của mình.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được Phạm Tiến Duật viết vào năm 1969, với
giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, dí dỏm làm nổi bật hình ảnh những anh chiến sĩ lái xe
Trường Sơn hiên ngang, ung dung và lạc quan, yêu đời.
Ngay nhan đề của bài thơ ta đã thấy được sự mới lạ, độc đáo, đậm chất hiện thực của
cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh. “Bài thơ” gợi chất thơ của cuộc sống nơi chiến
trường. Còn “ Tiểu đội xe không kính” nói lên hiện thực chiến tranh vô cùng ác liệt, vẻ đẹp
của người lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, kiên cường .
Bài thơ còn sử dụng những chất liệu của thực tại đó là tái hiện chân thực hiện thực
khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta qua việc khắc hoạ
hình ảnh những chiếc xe không kính rất trần trụi, bình dị, không nguyên vẹn:
“ Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

240
Ở hai câu thơ này, tác giả đã sử dụng điệp từ “không”, điệp ngữ “không có” để giới
thiệu cho chúng ta về những chiếc xe rất đặc biệt “không có kính”. Điệp từ “ bom” kết hợp
với các động từ mạnh “giật, rung”, hình ảnh chân thực, giọng thơ tinh nghịch để nhấn
mạnh bom đạn kẻ thù, những con đường ra trận đã làm cho những chiếc xe này biến dạng
“không có kính”.
Những mất mát, khó khăn do quân địch, do đường trường gây ra làm những chiếc xe bị
hư hỏng nhiều hơn:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Điệp ngữ “không có” gợi lên hình ảnh những chiếc xe không vẹn toàn, thiếu đi đủ thứ.
Phép liệt kê “ không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước” để khẳng định những
gian khổ, khó khăn, nguy hiểm ngày càng tăng, càng ác liệt.
“Vật liệu mượn ở thực tại” trong tác phẩm còn là hiện thực cuộc kháng chiến
chống Mĩ với nhiều khó khăn, gian khổ và tinh thần chiến đấu, đời sống tình cảm của
những người lính trên tuyến đường Trường Sơn. Qua đó, nhà thơ đã khám phá ra
“những điều mới mẻ” với vẻ đẹp riêng của những người lính lái xe trên tuyến đường
Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ từ chính những khó khăn, gian khổ
của hiện thực:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng”
Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” gợi lên sự điềm tĩnh, bình thản, lạc quan, yêu
đời của những người lính lái xe; họ vẫn tiếp tục công việc của mình dù cho xung quanh có
xảy ra những điều dữ dội, đau thương, mất mát. Điệp từ “nhìn” kết hợp với thủ pháp liệt
kê “đất, trời, thẳng” để nói lên những người lính không hề né tránh hiện thực gian khổ, hy
sinh; họ sẵn sàng đối mặt với gian nan, thử thách – một bản lĩnh vô cùng vững vàng.
Và trong cuộc chiến tranh gian lao, thử thách như thế này tình cảm đồng chí, đồng đội
luôn được đề cao và khẳng định:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua của kính vỡ rồi”
Cái “bắt tay” chân thành qua cửa kính vỡ đã bộc lộ vẻ đẹp của tình đồng đội đơn sơ,
giản dị nhưng vô cùng sâu nặng. Cái bắt tay ấy như là sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau; là
lời động viên thầm lặng mà nồng hậu của người lính Trường Sơn. Đó còn là sự mừng vui,
là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến
thắng.
Hai câu thơ cuối đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí chiến
đấu giải phòng miền Nam:
“Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Vẻ đẹp của người lính cách mạng được thể hiện qua câu “Xe vẫn chạy vì miền nam phía
trước” cho thấy ý chí quyết tâm của người lính, cũng là lời khẳng định về một ngày mai
chiến thắng. Biện pháp hoán dụ “trái tim” để chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm

241
xưa; cũng là ý chí, tâm huyết, sức lực mà người lính dành trọn cho đất nước. “Trái tim”
còn là một ẩn dụ cho tinh thần, trách nhiệm, cho ý chí chiến đấu. Có thể coi câu thơ cuối là
câu thơ hay nhất của bài vì chỉ cần có “một trái tim”, một trái tim yêu nước, một lòng khao
khát giải phóng miền Nam thì tất cả những thiếu thốn kia đâu có hề gì.
Vẻ đẹp của những người lính lái xe có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa cái vĩ đại
phi thường với cái giản dị đời thường. “Điều mới mẻ” thể hiện với nhan đề lạ, mới
mẻ, độc đáo và thành công trong việc lựa chọn chi tiết độc đáo, có tính chất phát hiện,
hình ảnh đậm chất hiện thực. Sử dụng ngôn ngữ của đời sống, tạo nhịp điệu linh hoạt
thể hiện giọng điệu ngang tàng, tinh nghịch
Tác giả cũng muốn nhắn nhủ đến với mỗi người đọc chúng ta: hình ảnh những
người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ mãi là biểu tượng đẹp
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Họ chính là những con người đã góp
phần làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc, sức mạnh và tinh thần chiến đấu
của họ đã khẳng định một chân lí của thời đại: sức mạnh tinh thần có thể chiến thắng
sức mạnh vật chất.
Còn “Lặng lẽ Sa Pa” thì sao? Điều “mới mẻ” trong việc khám phá vẻ đẹp của thế hệ trẻ
Việt Nam đó là nhà văn đã phát hiện và ngợi ca lí tưởng sống cao đẹp của tuổi trẻ Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tố quốc mà nhân vật chính là anh thanh niên.
Truyện được viết vào năm 1970, truyện ca ngợi vẻ đẹp của những con người lao động bình
thường và ý nghĩa của công việc thầm lặng. Trong đó anh thanh niên, cô kĩ sư, anh cán bộ
nghiên cứu bản đồ sét, kĩ sư vườn rau su hào ở Sa Pa... tất cả đều có lý tưởng sống đẹp:
Sống phải có ích, sống để cống hiến….Họ ý thức được vai trò, trách nhiệm của tuổi trẻ đối
với đất nước, với nhân dân và cuộc kháng chiến của dân tộc.
Anh thanh niên mang trong mình đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp ở tấm lòng yêu
đời, yêu nghề ở tinh thần trách nhiệm với công việc. Nói về hoàn cảnh sống và công
việc của anh. Theo lời bác lái xe thì anh là người “cô độc nhất thế gian”, công việc của anh
là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất….” rồi ghi chép lại và báo về
trung tâm, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.
Chỉ quanh quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn thôi nhưng lại quan trọng vô cùng, ấy thế
nên anh đã sống hết mình vì nó. Vẻ đẹp nơi anh bắt đầu từ chính công việc mà anh đã chọn
– là con đường lao động. Qua đó, anh có thể hoàn thành nghĩa vụ và ước mơ cống hiến cho
Tổ quốc của mình. Dù công việc này có lắm khó khăn, đòi hỏi tính tỉ mỉ chính xác và có
tinh thần trách nhiệm cao nhưng anh lại tìm thấy niềm vui ở nó “ khi ta làm việc ta với
công việc là đôi”. Đẹp nhất ở anh là tư tưởng sống “không chỉ cho bản thân mà là cho đất
nước, cho dân tộc”, chính lí tưởng đó đã hướng anh đi theo con đường lao động đúng đắn
và có ích. Anh cũng như bao người bình thường khác, trong suy nghĩ cũng từng có những
ngại ngần và tâm lí sợ sự cô đơn trước con đường đời đã chọn. Nhưng tuổi trẻ và lí tưởng
cao đẹp nơi anh đã lấp đầy khoảng trống ấy bằng tấm lòng yêu nghề, sự say mê lao động
của mình: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”.
Từ trải nghiệm về công việc, anh yên tâm đón nhận con đường mình đang tiến tới bằng lý
tưởng cao đẹp về công việc lao động của mình. Trong môi trường sống và lao động khắc
nghiệt của thời tiết núi rừng Sa Pa “Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài chỉ
trực đợi mình ra là ào ào xô tới”; ngay cả những khổ cực khi phải thức dậy vào lúc “bốn

242
giờ, mười một giờ, bảy giờ tối lại một giờ sáng”…Thế nhưng anh vẫn vượt qua và hoàn
thành tốt công việc của mình. Phải nói anh thanh niên ấy là một con người say mê công
việc, biết vươn lên những khó khăn, tự giác hoàn thành nhiệm vụ và đã rèn luyện cho mình
một trái tim thấm đượm lòng yêu nghề.
Không chỉ vậy người thanh niên này còn thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng
hiếu khách, sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Vui sướng khi có khách
đến thăm nhà. Anh đón tiếp khách nồng nhiệt, ân cần chu đáo, hái một bó hoa rực rỡ sắc
màu tặng người con gái chưa hề quen biết. Anh trò chuyện cởi mở với ông họa sĩ và cô kĩ
sư về công việc, cuộc sống của mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ. Đếm từng phút vì sợ
hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu. Lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động
đến nỗi phải “quay mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ già làn trứng làm quà, không dám tiễn
khách ra xe dù chưa đến giờ “ốp”. Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của
người thanh niên mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí.
Công việc vất vả có những đóng góp quan trọng như thế cho đất nước nhưng người
thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn. Anh cảm thấy những đóng góp
của mình chỉ bình thường, nhỏ bé so với bao người khác, vì thế anh đã từ chối ông họa sĩ
vẽ bức chân dung của mình, con người khiêm tốn ấy còn hào hứng giới thiệu với ông họa
sĩ những người mà anh cho là đáng vẽ hơn: đó là ông kỹ sư ở vườn rau Sa Pa, là anh cán
bộ nghiên cứu bản đồ sét, có thể nói dù còn trẻ tuổi, nhưng anh đã thấm thía cái nghĩa cái
tình của mảnh đất Sa Pa, thấm thía sự hi sinh thầm lặng của những con người ngày đêm
làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
Chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc của truyện,
nhưng tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về tinh thần,
tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc. Anh thanh
niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là chân dung con người lao động
mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tác giả đã chọn lựa hình thức nghệ thuật thích hợp nhằm làm toát lên vẻ đẹp mới mẻ của
thế hệ trẻ Việt Nam: Cốt truyện, tình huống truyện đơn giản, cách kể chuyện tự nhiên,
nhân vật không có tên riêng, không có ngoại hình cụ thể mà chỉ có một tên gọi chung,
phiếm chỉ, khiến ý nghĩa câu chuyện mang tính khái quát.
3. Kết bài:
Tóm lại cả hai tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” và “Lặng lẽ Sa Pa” đã phản
ánh rất chính xác thực tại về vẻ đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ, thử thách mà rất đỗi anh hùng. Hai nhân vật trong
hai tác phẩm tuy có những khía cạnh khác nhau của đời sống thời kì chống Mỹ về khung
cảnh, hoàn cảnh và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc đáo, riêng biệt nhưng đều góp
phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói khám phá ngợi ca vẻ đẹp của con người
Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
…………………………………………………………
Đề 93: Tình yêu quê hương, đất nước qua hai tác phẩm “Làng” và “Lặng lẽ Sa Pa”.
1. Mở bài:
“Có nơi đâu đẹp tuyệt vời
Như sông như núi như người Việt Nam”

243
Hai câu thơ của Lê Anh Xuân đã khái quát được vẻ đẹp non sông đất nước và con người
Việt Nam. Phải nói rằng: Người Việt Nam là những con người dũng cảm, yêu nước, sẵn
sàng chiến đấu, hy sinh đem hết tài năng trí tuệ, lòng nhiệt huyết để xây dựng đất nước.
Điều đó một lần nữa được Nguyễn Thành Long thể hiện rõ qua nhân vật anh thanh niên
trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” và Kim Lân qua tác phẩm “Làng” cũng thể hiện rất rõ lòng
yêu nước qua nhân vật ông Hai.
2. Thân bài:
Những nhân vật, những tác phẩm trên ra đời trong những năm tháng cả dân tộc đang
gắng sức lao động, chiến đấu để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Ông Hai (Làng - Kim Lân)
được viết năm 1948, những năm đầu của cuộc kháng chiến chông Pháp thiếu thốn, khó
khăn. “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long ra đời năm 1960 khi miền Bắc đang ra sức
lao động sản xuất “mỗi người làm việc bằng hai” để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện
cho miền Nam đánh Mĩ. Có thể nói, ở mỗi nhân vật đều phảng phất mùi vị của thuốc súng
chiến trường và mồ hôi lao động. Từng thế hệ con người đã sống đúng với chính mình để
hòa mình vào những năm tháng khẩn trương, sôi động của đất nước.
Trước tiên là lòng yêu nước được thể hiện qua nhân vật ông Hai trong truyện
“Làng” trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Trước hết, điều mà người đọc cảm nhận
được ở nhân vật ông Hai đó là tình yêu làng da diết. Tình yêu làng của ông được thể hiện ở
cái tính hay khoe về làng của mình. Trước cách mạng tháng tám, khi nhắc đến làng ông
Hai nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông khoe
làng mình có nhà ngói san sát, sầm uất. Không những thế ông còn lấy làm hãnh diện về
“con đường làng trải toàn đá xanh. Trời mưa, trời gió bùn không dính đến gót chân”. Ông
còn tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Biết bao tình cảm đã
gắn bó với cảnh vật, với con người nơi mảnh đất yêu dấu ấy. Thế nhưng từ sau cách mạng
tháng tám trở đi, khi khoe làng, ông chỉ nhắc đến cái chòi thông tin cao ráo; những ngày
cùng anh em, đồng chí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá”…. Rõ ràng trong ông đã có
sự thay đổi lớn về nhận thức. Trước đây ông chỉ chú trọng những thứ hào nhoáng, xa hoa,
bóng bẩy bên ngoài. Giờ đây ông cảm thấy vui, tự hào vì những điều đơn giản nhưng có lợi
ích cho làng, cho nước. Chỉ qua những chi tiết nhỏ bé đó thôi, ta cũng đủ thấy rõ tình yêu
làng da diết, mãnh liệt, sâu sắc mà ông đã đặt trọn niềm tin dành cho làng.
Nhưng chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng -
xa làng ông mang theo tất cả nỗi niền thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day
dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của
làng. Tự hào và yêu nơi “ chôn nhau cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm
lý chung của mọi người nông dân thời bấy giờ. Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt
ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng Chợ Dầu, về kháng chiến. Hôm nay, ở phòng
thông tin ông nghe được rất nhiều tin chiến thắng từ trẻ con đến những người phụ nữ, điều
này “làm ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”
Những tưởng sẽ không bao giờ có điều gì có thể làm lung lay tình yêu của ông dành cho
làng, thế nhưng một tình huống hết sức éo le, trớ trêu lại ập đến với ông. Đó là khi ông hay
tin “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”, tin từ một người đàn bà đi tản cư. Đây thật sự là
một cú sốc tinh thần quá lớn đối với ông Hai, nó chẳng những làm mất hết niềm tin, sụp đổ
niềm tự hào về làng của ông mà còn khiến ông tủi khổ, nhục nhã vì đã khoe bao điều hay

244
về nó. Vừa nghe tin sét đánh ấy “ cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”,
ông lặng đi tưởng chừng như đến không thở được; ông đang ở trong một trạng thái bất ngờ,
đột ngột và vô cùng xấu hổ. Vừa về đến nhà, ông nằm vật ra giường “nước mắt cứ giàn
ra”, ông tức giận nguyền rủa bọn theo Tây. Ông kiểm điểm từng người trụ tại làng, họ toàn
là những người có tinh thần cách mạng cả mà. Nhưng thằng Chánh Bệu thì đích thị là
người làng ông rồi khiến tâm trạng ông rối bời, phân vân, nửa tin nửa ngờ. Qua đây, tác giả
đã thể hiện rõ thái độ, tâm trạng đau đớn, tức giận của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu
theo giặc bằng bút pháp miêu tả.
Cũng chính từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe
ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo không cho gia đình ông ở nữa. Ông thấy tuyệt
đường sinh sống và nảy ra ý định: “Hay là quay về làng ?” điều khổ tâm, day dứt ấy chứng
tỏ tận sâu thẳm trong tim ông làng vẫn thiêng liêng, tình cảm ông dành cho làng vẫn
nguyên vẹn. Thật khiến cho người đọc cảm thấy tội nghiệp, xót xa thay cho nỗi lòng của
ông Hai. Nhưng có vẻ như qua sự thử thách trên, ta mới dần nhận thấy tình yêu của ông
không chỉ dừng ở góc độ làng xóm mà được nâng dần lên thành tình yêu nước. Đúng như
I-li-a.Ê-ren-bua đã từng nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu
Tổ quốc”. Điều đó được khẳng định qua câu nói chắc nịch của ông “làng thì yêu thật
nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đối với một người yêu làng da diết như ông để
có thể đi đến quyết định ông đã phải đau đớn, dằn vặt bản thân rất khổ sở. Với ông, làng là
máu thịt là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi ông bà tổ tiên bao đời đã làm ăn sinh sống. Vì vậy
làng có một ý nghĩa rất thiêng liêng, quyết định không quay về làng nữa cho thấy sự kiên
quyết trong cách nghĩ và cách sống của ông Hai. Nỗi đau ấy, ông Hai không biết bày tỏ
cùng ai, chỉ thủ thỉ cùng đứa con trai “ nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ!”.
Những lời tâm sự ấy thực chất là để tự nhủ chính mình, khẳng định lập trường, luôn vững
tin vào cách mạng, vào Cụ Hồ, mặc dù ông đang phải sống trong hoàn cảnh tủi nhục như
thế. Đến đây, tác giả đã đặt nhân vật vào một tình huống gay gắt để bộc lộ sâu sắc lòng yêu
làng, yêu nước của ông Hai.
Trong nỗi tuyệt vọng, bế tắc ông chủ tịch xã đã lên tận khu tản cư cải chính rằng: làng
ông không theo giặc. Giờ đây mọi nỗi lo âu, xấu hổ tan biến thay vào đó là tâm trạng vui
mừng, sung sướng: “ Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng vui tươi rạng rỡ hẳn lên”, sự cải
chính tin đồn đó thật quan trọng, đúng lúc, nó xoá đi sự tuyệt vọng trong lòng người dân
Chợ Dầu, đem lại niềm vui sướng cho ông Hai. Sau đó ông Hai đi từ đầu làng đến cuối
xóm khoe cái tin làng mình không theo giặc, khoe cả việc nhà mình bị đốt cháy một cách
hả hê, sung sướng: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới
lên đây cải chính…”, “Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”. Qua lời kheo của ông
Hai, điều làm ta cảm động đó là ông không hề tiếc hay buồn khi ngôi nhà của mình bị đốt
cháy. Niềm vui vì làng không theo giặc đã choáng ngợp hết tâm trí của ông. Đây chính là
nét đẹp trong tâm hồn và tính cách của ông Hai. Tình cảm đặc biệt của ông Hai cũng là
tình cảm chung của nhân dân ta lúc bấy giờ, họ sẵn sàng hi sinh tất cả tài sản, tính mạng
cho cách mạng, cho Tổ quốc.
Lòng yêu làng, yêu kháng chiến, niềm tin vào Đảng, Bác Hồ, lòng yêu nước của ông
Hai mộc mạc, hồn nhiên mà rất sâu sắc, điển hình cho bao tâm hồn người nông dân
Việt Nam trước cách mạng.

245
Lòng yêu nước được thể hiện qua nhân vật anh thanh niên trong truyện “Lặng lẽ
Sa Pa” trong công cuộc xây cuộc sống mới. Nói về hoàn cảnh sống và công việc của anh.
Theo lời bác lái xe thì anh là người “cô độc nhất thế gian”, công việc của anh là “đo gió, đo
mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất….” rồi ghi chép lại và báo về trung tâm, dự
vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Chỉ quanh
quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn thôi nhưng lại quan trọng vô cùng, ấy thế nên anh đã
sống hết mình vì nó. Vẻ đẹp nơi anh bắt đầu từ chính công việc mà anh đã chọn – là con
đường lao động. Qua đó, anh có thể hoàn thành nghĩa vụ và ước mơ cống hiến cho Tổ quốc
của mình. Anh lựa chọn cho mình làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, dù công việc
này có lắm khó khăn, đòi hỏi tính tỉ mỉ chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao nhưng
anh lại tìm thấy niềm vui ở nó “ khi ta làm việc ta với công việc là đôi”. Đẹp nhất ở anh là
tư tưởng sống “không chỉ cho bản thân mà là cho đất nước, cho dân tộc”, chính lí tưởng đó
đã hướng anh đi theo con đường lao động đúng đắn và có ích. Anh cũng như bao người
bình thường khác, trong suy nghĩ cũng từng có những ngại ngần và tâm lí sợ sự cô đơn
trước con đường đời đã chọn. Nhưng tuổi trẻ và lí tưởng cao đẹp nơi anh đã lấp đầy
khoảng trống ấy bằng tấm lòng yêu nghề, sự say mê lao động của mình: “Công việc của
cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Từ trải nghiệm về công
việc, anh yên tâm đón nhận con đường mình đang tiến tới bằng lý tưởng cao đẹp về công
việc lao động của mình. Trong môi trường sống và lao động khắc nghiệt của thời tiết núi
rừng Sa Pa “Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài chỉ trực đợi mình ra là ào
ào xô tới”; ngay cả những khổ cực khi phải thức dậy vào lúc “bốn giờ, mười một giờ, bảy
giờ tối lại một giờ sáng”…Thế nhưng anh vẫn vượt qua và hoàn thành tốt công việc của
mình. Phải nói anh thanh niên ấy là một con người say mê công việc, biết vươn lên những
khó khăn, tự giác hoàn thành nhiệm vụ và đã rèn luyện cho mình một trái tim thấm đượm
lòng yêu nghề. Chính anh đã đánh thức niềm say mê lao động, say mê cống hiến nơi người
họa sĩ già để đem lại nguồn cảm hứng dạt dào trong tâm hồn con người ấy.
Anh yêu nghề, ý thức được công việc thầm nặng của mình có mối quan hệ sâu sắc
tới đời sống nói chung: các em nhỏ tới trường, người nông dân trên cánh đồng, người
lính trên đường hành quân. Anh nhận thấy công việc của mình có ích cho cuộc sống,
cho mọi người, cho kháng chiến: một lần do phát hiện kịp thời một đám mây khô mà
anh góp phần vào chiến thắng của không quân ta bắn rơi máy bay Mĩ trên bầu trời
Hàm Rồng, anh thấy mình “thật hạnh phúc”.
Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn
nắp: “Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”.
Cuộc sống riêng của anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc
bàn học, một giá sách”. Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống
của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần. Cuộc sống của anh không cô đơn,
buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò
chuyện, để thanh lọc tâm hồn. Sách là nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài.
Cảnh sống của anh như một người đang sống và làm việc giữa xã hội chứ không phải mình
anh, đúng là một cách sống đẹp đẽ mọi người nhìn thấy cái đẹp bắt đầu từ tâm hồn.
Hình ảnh người thanh niên giữa cái lặng lẽ của Sa Pa tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt
Nam trong những năm đầu miền Bắc vừa sản xuất vừa chống chiến tranh phá hoại

246
của Mĩ: những con người sống và làm việc trong cái lặng lẽ mà không hề cô độc bởi
sự gắn bó với quê hương đất nước, với mọi người, đó chính bởi họ có lòng yêu công
việc, yêu người, yêu quê hương đất nước.
Đến với “Làng” của Kim Lân, ta thấy rõ được tình yêu làng, yêu nước, hòa quyện trong
tâm hồn người nông dân mộc mạc, chất phác thật đẹp biết bao. “Làng” của Kim Lân là một
khúc ca về tình yêu quê hương đất nước mà ông Hai là nhân vật điển hình. Còn qua “Lặng
lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long ta bắt gặp anh thanh niên là hiện thân cho vẻ đẹp của
con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng để cống hiến cho quê
hương, đất nước. Qua đó bộc lộ được những tình cảm cao đẹp của con người Việt Nam đối
với quê hương, đất nước.
3. Kết bài:
Có thể nói, những thế hệ người Việt chân chính đã được tái hiện sinh động trong một
cảm hứng và quan điểm nhất quán, lôgic. Sợi dây xuyên suốt đời sống tinh thần con người
Việt Nam là tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước và sự cống hiến hết mình cho
những gì mình yêu quý, tôn thờ. Điều này lí giải vì sao trong bao lần cuộc chiến tranh
chống xâm lược, lần nào chúng ta cũng chiến đấu và chiến thắng. Một chân lí thật đơn giản
nhưng ít kẻ thù nào hiểu được: người Việt Nam đã ra trận với khí thế, với tinh thần được
kết từ mấy ngàn năm trong lớp lớp các thê hệ người Việt anh hùng.
………………………………………………..
Đề 94:

247

You might also like