You are on page 1of 5

Chính Hữu là cây bút nổi bật thời kì kháng chiến chống Pháp.

Thơ ông đã mở
ra trong ta bao cảm nhận về con người kháng chiến đặc biệt là chân dung những
anh bộ đội cụ Hồ. Và đẹp hơn cả ở họ là tình đồng chí, đồng đội gắn kết được
nhà thơ khắc họa qua Đồng chí. Bảy câu thơ đầu của bài đã cho chúng ta những
cảm nhận, những hiểu biết về cơ sở hình thành tình đồng chí trong gian khổ chiến
tranh.
Bài thơ sáng tác mùa xuân 1948, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp.Bài thơ theo thể tự do, 20 dòng chia làm 3 đoạn. Cả bài thơ tập trung
thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức
nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây
ấn tượng sâu đậm.
Trước hết, ở đoạn đầu, với 7 câu tự do, dài ngắn khác nhau, có thể xem là sự lý
giải về cơ sở của tình đồng chí.Mở đầu bằng hai câu đối nhau

"Quê hương anh nước mặn đồng chua


Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Được sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những
người nông dân chất phác, hiền lành. "Nước mặn đồng chua" là vùng đất ven biển
nhiễm phèn khó làm ăn, "đất cày lên sỏi đá" là nơi đồi núi, trung du, khó canh
tác."Anh và tôi" là hai người bạn mới quen, đều có xuất thân từ những vùng quê
nghèo khó. Hai câu thơ tưởng chừng đối nhau, nhưng lại song hành với nhau thể
hiện lên tình cảm của những người lính. Họ từ những vùng quê nghèo khó ấy, họ
rời xa người thân, rời xa xóm giềng, tạm biệt những cánh đồng quen thuộc, họ ra
đi chiến đấu để giành lại linh hồn cho đất nước. Và những khó khăn, gian khổ ấy
dường như chẳng thể cản bước chân đi của những người lính:
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Họ đến với cách mạng cũng vì những khát vọng cống hiến, được dâng hiến cho
đời. Những người lính ấy cùng chung một khát vọng, chung một lý tưởng sống,
chung một niềm tin và họ kề vai sát cánh chung một chiến hào khi bước chân vào
trận chiến... Phải chăng tình đồng chí, đồng đội của họ đã xuất phát từ những điều
bình dị như vậy. Và tiếp sau đó, lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ trở nên dồn dập
hơn:
"Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đên rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng một loạt những từ ngữ liệt kê, nghệ thuật
điệp từ. Điều này không chỉ đưa bài thơ lên đỉnh điểm của sự tình cảm mà những
sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm nhưng chính điều đó cũng làm cho tình
đồng chí thêm đẹp hơn, thêm cao quý hơn. Câu thơ "Đồng chí" chỉ có hai tiếng
ngắn ngủi nhưng nó đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng
của người đọc. Trong muôn vàn những cung bậc tình cảm của con người, phải
chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhát, lý tưởng nhất, nhịp thơ cũng
như nhẹ nhàng hơn, mảnh mai hơn. Dường như nhà thơ Chính Hữu đã thổi vào
bài thơ một tình đồng chí keo sơn, gắn bó, một âm vang bất diệt khiến cho bài thơ
in sâu vào tâm trí người đọc.
Tình đồng đội chân thành đã giúp các anh lính vượt qua bao khó khăn, bao nỗi
nhớ về quê hương, làng xóm:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Cô đơn giữa núi rừng thăm thẳm, hai anh bộ đội đã tâm sự với nhau về những
ngổn ngang trong tâm tư. Là những người lính dũng cảm kiên cường trong chiến
đấu, bất khuất truóc kẻ thù nhưng họ cũng là những con của làng quê mộc mạc,
chân chất, bình dị. Và đã là người con của quê hương, xóm làng thì không ai đi xa
mà lại không luôn nhớ về. Người chiến sĩ cũng vậy. Họ đã gác lại cái yên bình ấm
êm của bản thân để ra đi cho niềm vui chung của toàn dân tôc. Nhưng bên trong
những người lính chiến ấy có ngày nào nguôi ngoai nỗi nhớ về vùng đất thân
thương? Ở đó có gian nhà, có mảnh ruộng, khu vườn_những gì quan trọng nhất
đối với người nông dân. Nhưng giờ đây, đối với anh trai làng mặc áo lính, không
còn gì quan trọng hơn sinh mệnh của đất nước, như Bác Hồ đã nói: “Không có gì
quý hơn độc lập tự do”, anh đã tạm quên cái quý giá của cuộc đời mình để ra đi
bảo vệ cái quý giá của đất nước giang sơn. Ruộng nương được anh gửi lại cho
người bạn thân cày . Và gian nhà… tác giả Chính Hữu mới tài tình làm sao khi
dùng chữ “không” khi miêu tả trong “gian nhà không”. Gian nhà không nhiều vật
dụng, đơn sơ vì cái nghèo quay quắt lan tỏa vào đời sống từng người trong
khoảng thời gian khó khăn ấy của đất nước; nhưng từ không mà nhà thơ sự dụng
lại không thảm thương bi đát như sự thực của nó, cũng không lạc quan hóa quá
đáng cái khổ mà vừa phải, vừa giàu sức gợi hình, vừa mang tính gợi cảm. Ngôi
nhà trống không vì đơn sơ, nay lại càng trống trải vì vắng bóng người trai cần cù
tháo vát nhưng anh vẫn “mặc kệ” để lên đường nhập ngũ. Hai chữ “mặc kệ” hay
chính là lòng quyết tâm, thái độ dứt khoát mạnh mẽ của anh lính với lòng yêu
nước trào dâng. Và cũng chính lòng yêu nước đã làm cho hình tượng người lính
cao cả như một vị anh hùng: dốc sức vì nước, không so đo, khư khư giữ lấy hạnh
phúc cho riêng mình. Một sự hi sinh thầm lặng và vô cùng đáng quý.
Nhưng cho dù dứt khoát ra đi như vậy, anh trai làng ở trận tuyến vẫn không thể
quên được hình bóng quê nhà thân thương:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng “Giếng nước gốc đa” vốn là biểu tượng đẹp của
làng quê Việt Nam, nay còn là cội nguồn của nỗi nhớ thương xuất phát từ hai
chiều. “Giếng nước gốc đa” không đơn thuần là cảnh vật quê hương mà còn là
người thân, cha mẹ, anh em, họ hàng, là tất cả những người quan trọng trong
cuộc đời người bộ đội. Dù “người ra đi đầu không ngoảnh lại” mặc cho “sau lưng
thềm nắng lá rơi đầy” (Nguyễn Đình Thi) nhưng trong lòng “người ra đi” ấy vẫn
đau đáu nhớ về cái “thềm nắng lá rơi đầy” quen thuộc, cũng như anh chiến sĩ dù
“mặc kệ” cả căn nhà, bỏ lại cả ruộng nương nhưng bên trong anh, ngọn lửa nhớ
thương chưa bao giờ bị dập tắt. Nhưng đó là nỗi nhớ từ nơi nao, là “giếng nước
gốc đa” nhớ người đi hay chính là nỗi nhớ cồn cào khôn nguôi của người đi về
“giếng nước gốc đa”? Người đi lính nhớ về người ở lại, kẻ ở lại lại nhung nhớ
người ra đi; người ra trận luôn hướng tầm mắt về nơi quê nhà, người ở quê nhà
lại luôn dõi theo bước chân người ra trận. Cùng một nỗi nhớ nhưng lại hằn sâu
nơi cả hai miền kí ức. Hậu phương ủng hộ tiền tuyến, luôn hướng về tiền tuyến,
còn tiền tuyến lại như mạnh mẽ hơn trước niềm tin mãnh liệt của hậu phương.
Một hình ảnh chân thực và cảm động. Qua đó, hình tượng người lính hiện lên thật
anh hùng, mạnh mẽ dút khoát trước tiếng gọi của non sông, song vẫn rất giàu tình
nghĩa khi nhớ mãi về quê hương, nhà cửa, về người thân, bạn bè.
Bên cạnh điểm tựa tình cảm vững vàng mang tên “quê hương” một lòng sâu
sắc, người lính còn có thêm điểm tựa chắc chắc với tình bạn, tình đồng chí, cùng
nhau vượt qua những khó khăn đời lính:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Một bức tranh hiện xúc động hiện lên trước mắt ta, đầy rẫy những gian khổ chông
gai như chính cuộc đời người lính. Câu thơ đang vươn dài bỗng rút ngắn, âm điệu
thơ bỗng trở nên chậm rãi, trầm lắng, như khiến tâm hồn người đọc cũng như
chùng xuống trước bạo nhọc nhằn mà người bộ đội phải trải qua. Ra đi từ làng
quê nghèo khổ, các anh lại gặp thêm cái nghèo nàn nơi quân đội. Mấy câu thơ
thôi mà phản ánh được một thực trang, một thời kì khó khăn của cả nước. Đất
nước ta nghèo do bị thực dân bóc lột, và vì đất nước nghèo nên con người, và
đến cả quân đội cũng nghèo theo. Bằng phép liệt kê và giọng điệu thơ bùi ngùi
trầm lặng, Chính Hữu đã kể về những thiếu thốn của quân đội và của người lính
Việt lúc bấy giờ: thiếu lương thực, thuốc men, thiếu cả quân trang, quân phục. Kể
sao cho xiết hằng hà sa số những khó khăn kham khổ của các anh chiến sĩ thuở
kháng Pháp? Từ những đợt sốt rét quái ác hành hạ cơ thể con người, dù mình
“ớn lạnh”, “sốt run người” nhưng vầng trán lại “ướt mồ hôi”; đến bộ quần áo rách
tả tơi vì dầm mưa dãi nắng, vì gai cào xước chỉ. Trong đời bộ đội có mấy ai là
chưa từng nếm qua mùi vì đắng ngắt của căn bệnh sốt rét đâu, có mấy ai mà
quần áo vẫn lành lăn sau bao ngày xông pha chốn rừng thiêng nước độc đâu.
Nhưng, mới thật kì diệu, người lính oai dũng vẫn không hề bị quật ngã bởi những
cay cực nhọc nhằn. Nguồn cội của sức mạnh kì diệu đó chính là tình đồng chí,
tình đồng đội keo sơn khắng khít giữa hai người. Cùng nhau trải qua gian lao cay
đắng, khó khăn tưởng như quá lớn không thể vượt qua đã được chia đôi trong khi
sức mạnh tinh thần của họ lại được nhân lên nhiều lần sức mạnh tinh thần nâng
lên lại thúc đẩy sức mạnh thể xác đi đến ngưỡng cao hơn. Từ “biết” mà nhà thơ
sử dụng đã nói lên tất cả sự chia chia ngọt sẻ bùi của người lính. Tôi biết anh khi
đang trong “cơn ớn lạnh”, anh biết tôi khi “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”.
Tôi biết anh áo rách vai, còn anh lại biết tôi “quần có vài mảnh vá”. Tôi hiểu cho
tâm tình của anh, anh thông cảm cho nỗi lòng tôi. Và cũng vì không cô đơn trong
khổ cực gian khó, hai người đồng chí mới bật tung được hàng bao cảm xúc ấm
áp, tự nhiên trong hoàn cảnh mìn bom chất đống, súng rơi đạn lạc:
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Người nông dân mặc áo lính bỗng trở nên vĩ đại hơn bao giờ hết. Thiếu thốn ngay
đến cả những phương tiện vật chất tối thiểu như quần áo, giày dép, nhưng người
lính lại rất giàu có về tâm hồn. Trong tình thế ngặt nghèo nhất, trong cảnh ngộ tăm
tối nhất, thế mà nụ cười vẫn nở trên môi các anh, dù đó là cái “miệng cười buốt
giá”. Đó là cái buốt giá của thời tiết hay cái lạnh lẽo của cuộc sống vốn lắm trêu
ngươi, gieo rắc khó khăn lên đời người lính? Dù là gì đi nữa thì nó vẫn là nụ cười
đáng quý nhất, vì được thắp lên trong gian nan ngặt nghèo, trong tình huống mà
tưởng chừng không thể mỉm cười nổi, tựa như ánh bình minh chiếu sáng cả một
vùng trời đen tối, như đóa hoa bung nở trong khu vườn băng đóng im lìm. Nụ
cười ấy thật đáng yêu, đáng quý và đáng khâm phục. Nụ cười ấy đã nói lên tất cả
về người lính: tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng, không đầu hàng số phận.
Đâu phải ai cũng có thể cười lạc quan như các anh trong hoàn cảnh “ngàn cân
treo sợi tóc” của đất nước, con người, dân tộc? Cười ấy hoàn toàn không phải là
cái cười thản nhiên lạnh lùng, mà là cười trong buốt giá để vượt qua cái buốt giá,
để tâm hồn ấm lên, để lòng thấy tự tin hơn, vững vàng hơn. Hai người đồng chí
đã vượt lên tất cả, từ cái rét tê tái của thời tiết, cái lạnh run của bệnh sốt rừng, cái
thiếu thốn quan áo (áo rách vai, quần vá, không giày…) để đến được ngưỡng
thăng hoa của tình cảm, của tình đồng chí thiêng liêng, gắn bó: nắm lấy bàn tay
nhau. Cao hơn hết thảy mọi cử chỉ quan tâm, mọi lời nói sẻ chia, hai anh lính
chiến nắm tay nhau trong cảnh rừng buốt giá ấy lại chính là biểu tượng đẹp nhất
của sự “thương nhau” giữa người với người, của tình đồng chí mộc mạc và thấm
thía. Giá buốt mà không lạnh lẽo, là khi hai người bộ đội nắm chặt tay nhau,
truyền cho nhau hơi ấm tình người, những khao khát vượt lên số phận, những
niềm tin chiến thắng hân hoan. Tác giả khéo léo sử dụng giọng thơ trầm lắng,
cảm động khi nói về hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” để bộc lộ tình đồng chí chân
thành, đậm sâu, hồn hậu như cây lúa củ khoai, như tấm lòng của anh trai cày ra
trận. Bàn tay im lặng như lại nói lên được tình cảm thiêng liêng - tình đồng chí,
tình người, tình anh em, Bàn tay thắt chặt tình thân, đốt cháy lên ngọn lửa đoàn
kết, tinh thần diệt giặc lập công nơi người lính…
Biểu hiện của tình đồng chí càng được tô đậm hơn, khắc sâu hơn qua bức
tranh chiến đấu cuối bài thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Với nghệ thuật tả thực sống động, hai câu trên như một lời tự sự nhưng lại mang
màu sắc trữ tình và có giá trị miêu tả rất lớn. “Đêm nay rừng hoang sương muối” -
xót xa thay cho cuộc đời người chiến sĩ! Đã trải qua bao nhiêu vất vả giờ lại bị
thiên nhiên hoành hành bằng những đợt rét đậm rét hại cắt da cắt thịt; bằng
những màn sương muối phủ kín cả một cánh rừng hoang. Tuy trong thời tiết như
thế, các anh vẫn “đứng cạnh bên nhau “ để mà “chờ giặc tới”. Thật vậy! Tình đồng
chí giữa họ cao cả như thế đấy, không chỉ chia sẻ cùng nhau tâm tư nỗi nhớ,
cùng nhau trải qua gian nan khổ cực của cuộc chiến, mà giờ đây còn kề vai sát
cánh bên nhau trên cái nền lạnh giá của “rừng hoang sương muối”, cùng “chờ
giặc tới” với tư thế hiên ngang, chủ động, anh hùng và tinh thần lạc quan, đỏ rực
lửa tình đồng đội. Bức tranh chiến đấu ấy của người lính vừa mang hơi thở hiện
thực và thời đại, vừa thấm đẫm cái trữ tình bay bổng. Con đường kháng chiến
của dân tộc hãy còn dài, khi mà mỗi bước tiến trên con đường lại được đánh đổi
bằng xương máu, bằng mạng sống bao con người ngã xuống, thì sự lạc quan
cùng bao tình cảm ấm nồng đã tiếp thêm sức mạnh cho các anh đi đánh giặc, bên
cạnh lòng yêu nước tràn đầy và ý chí chiến đầu bền bỉ. Tư thế ung dung cùng tình
đồng chí bền vững của hai người lính khi cùng sát cánh bên nhau chờ để đối diện
với giặc, để đánh tan chúng giành lại non sông đất nước đã tạo cho ta một niềm
cảm phục sâu sắc. Giặc mà tới, không ít thì nhiều quan ta cũng phải có người hi
sinh. Nhưng các anh đã lại “mặc kệ” chúng, “mặc kệ” cái chết có thể đến bất kì lúc
nào với bất kì ai, để cùng vui chung niềm vui người lính: tận hưởng không khí
rừng đêm, tận hưởng khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời mà ngay cả họ cũng là một
phần của nó: “Đầu súng trăng treo”

Với giọng điệu thơ trữ tình, giàu cảm xúc, ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn
rất cô đọng, chứng tỏ sự gọt giũa cẩn thận của tác giả kết hợp với những hình
ảnh liên tưởng lãng mãn sâu sắc, bài thơ đã thể hiện một cách chân thực, cảm
động tình đồng chí vững vàng của các anh lính trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược. Dẫu còn gặp nhiều khó khăn trắc trở, nhưng tình đồng
chí của họ vẫn vượt lên hết thảy và trở thành tình cảm đẹp đẽ nhất, đáng trân
trọng nhất giữa những người bộ đội. Tác giả Chính Hữu đã thể hiện chân thực
hình tượng người người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn của họ qua những
chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
Bài thơ khép lại nhưng ấn tượng trong lòng thì mãi không bao giờ phai.
Trước mắt ta như vẫn hiện lên hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng, bên
dưới là bóng hai người chiến sĩ đứng cạnh bên nhau… Chiến tranh trôi qua, hòa
bình này đã được lập lại nhưng những năm tháng gian khổ thì mãi không bao giờ
phai. Trước mắt ta như vẫn hiện lên hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng,
bên dưới là bóng hai người chiến sĩ đứng cạnh bên nhau… Chiến tranh trôi qua,
hòa bình này đã được lập lại nhưng những năm tháng gian khổ mà hào hùng đó
vẫn mãi là một chương quan trọng trong cuốn sách với những trang sử vàng vẻ
vang của dân tộc. Ta lại càng ý thức hơn nữa lòng biết ơn dành cho các anh bộ
đội cụ Hồ đã đổ bao xương máu để đất nước giang sơn được như ngày hôm nay.
Cùng chung lý tưởng, ý chí, cảnh ngộ xuất thân, chung nhau trải qua gian nan
ngặt nghèo, những người lính ấy đã sống, chiến đấu, và nếu có hi sinh, đều như
một người anh hùng.

You might also like