Professional Documents
Culture Documents
HÌNH TƯ NG NGƯ I LÍNH Trong Thơ
HÌNH TƯ NG NGƯ I LÍNH Trong Thơ
Trong kháng chiến chống Pháp: Vẻ đẹp người lính thường gắn bó
với vẻ đẹp bình dị. Họ nhanh chóng trở thành linh hồn của cuộc kháng
chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Tố Hữu đã nói
hộ tình cảm của nhân dân đối với anh Vệ quốc quân:
"Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!''
(Cá nước - Tố Hữu)
Anh bộ đội Cụ Hồ vốn là những nông dân mặc áo lính mang trong
mình lí tưởng cao đẹp. Vì sự sống còn của Tổ quốc, họ tạm biệt bến nước
sân đình, bãi mía nương dâu để ra đi chiến đấu. Ta hãy nghe lời tâm sự
của họ khi nói về quê hương mình:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá''
(Đồng chí - Chính
Hữu)
Họ ra đi, để lại nơi quê nhà người mẹ già, người vợ trẻ một nắng hai
sương cày sâu cuốc bẫm. Trần Hữu Thung đã khắc hoạ thành công hình
ảnh anh Vệ quốc quân nông dân qua trí nhớ của người vợ. Trong buổi
tòng quân rộn ràng tiếng trống, thấp thoáng bóng cờ, ngay phút tiễn đưa
bịn rịn, anh vẫn không quên nhắc vợ:
"Ruộng mình quên cày xới
Nên lúa chín không đều
Nhớ lấy để mùa sau
Nhà cố làm cho tốt''
(Thăm lúa - Trần Hữu Thung)
Cái chất nông dân thuần phác ấy mới đáng qúy làm sao, và chính nó
sẽ làm nên sức mạnh để anh vượt qua mọi gian khổ chiến thắng kẻ thù.
Các anh sẵn sàng ra đi với một quyết tâm lớn lao, sẵn sàng hy sinh riêng
mình vì lí tưởng cao đẹp, đó là lí tưởng giải phóng đất nước, giải phóng
quê hương, giải phóng chính cuộc đời mình khỏi lầm than nô lệ:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay…''
(Đồng chí - Chính Hữu)
Hình ảnh các anh khác xa lắm với hình ảnh người lính thú trong ca
dao xưa:
\Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa
(Ca dao)
Ta như thấy người lính thú hiện lên thật tội nghiệp, đáng thương. Họ
bước đi bởi tiếng trống giục và trong nước mắt, bởi họ hiểu rằng họ buộc
phải đi làm điều mà mình không muốn. Phía trước họ là những cuộc khởi
nghĩa của nông dân, là đồng bào của chính mình. Họ cũng hiểu rằng máu
xương họ đổ xuống chỉ để dìm thêm cuộc sống của bao người trong màn
đêm đen tối.
Các anh cũng khác xa lắm người chinh phu trong "Chinh phụ ngâm''.
Người chinh phu ấy ra đi trong tiếng nức nở xé lòng của người chinh phụ,
trong nỗi chán chường, kinh sợ cảnh binh đao.
Cũng là ra trận, cũng là đi chiến đấu nhưng người lính thú, hay người
chinh phu xưa làm sao có được tư thế hiên ngang, đường hoàng và hăm
hở như người chiến sĩ Việt Nam trong thơ cách mạng:
”Những buổi vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục.
Xóm dưới làng trên, con trai con gái
Xôi nắm cơm đùm rối rít theo nhau…
(Đường ra mặt trận - Tố Hữu)
Các anh là những người có ý chí nghị lực phi thường, vượt lên trên
mọi gian khổ khó khăn trong cuộc chiến đấu:
Kháng chiến bắt đầu từ những ngày gian nan vất vả, bắt đầu từ tiếng
cuốc phá đường đến tiếng đục nhà để tiêu thổ kháng chiến. Hình ảnh anh
Vệ quốc quân đi vào thơ ca cũng từ những ngày tháng gian nan ấy. Hầu
hết các nhà thơ không thi vị hoá người chiến sĩ, không khoác cho các anh
lớp vỏ chiến binh dày dạn phong trần mà họ nhìn người lính với cái nhìn
đồng chí, đồng đội. Họ rất hiểu các anh và tìm thấy ở các anh vẻ đẹp kì lạ
trong những năm tháng chiến đấu, đó là tinh thần vượt khó, chịu đựng
gian lao. Để rồi trong thơ họ, các anh hiện lên thật chân thực và cảm
động.
Trong cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù, các anh là
những người trực tiếp chịu biết bao hy sinh gian khổ. Hơn nửa thế kỉ trôi
qua, giờ đây đọc lại những vần thơ của Chính Hữu, mấy ai không cầm
được nước mắt, không khâm phục sức chịu đựng phi thường của những
người nông dân mặc áo lính:
"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay''
(Đồng chí - Chính Hữu)
Bao đêm các anh phải ngủ ngoài rừng:
"Trải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chăn
Trời thì mưa lâm thâm…''
(Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ)
Hay:
‘'Ngày lại ngày đi, vắt với sương
Ngô bung xôi nhạt, nước lưng bương
Đêm mưa rình giặc, tai thao thức,
Mùa lại mùa qua, rét nhức xương ''
(Giết giặc - Tố Hữu)
Và:
"Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi, ngủ hầm,
Mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn…''
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu)
Bởi vậy, không thể coi là cường điệu khi ta đọc những vần thơ viết về
trung đoàn Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng. Sự thật ở trung đoàn này,
rất nhiều chiến sĩ bị sốt rét đến nỗi nhiều người bị rụng hết tóc:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm''
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Các anh có tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn:
Trong những năm tháng gian lao của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, người lính đã cùng nhau chia ngọt xẻ bùi, vào sinh ra tử có
nhau. Tình đồng chí đồng đội ngày thêm keo sơn gắn bó. Bên nhau, các
anh cùng nhau chia sẻ mọi tâm tư nỗi niềm. Anh hiểu tôi, cũng như tôi
hiểu anh, tất cả cùng chung nỗi nhớ gia đình, nỗi nhớ quê hương. Họ hiểu
rằng, ở nơi xa xôi ấy, quê hương cũng đang ngày đêm nhớ thương mình:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính''
(Đồng chí - Chính Hữu)
Họ chia sẻ cùng nhau nỗi nhớ mẹ nơi quê nhà đến cồn cào cháy
bỏng, nhớ mẹ và hiểu được tấm lòng của mẹ:
"Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm
Bầm ơi có rét không bầm?
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non.
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần…''
(Bầm ơi - Tố Hữu)
Hay chia sẻ cùng nhau cả những điều sâu kín trong trái tim tuổi trẻ:
"Đằng nớ vợ chưa?
Đằng nớ?
Tớ còn chờ độc lập!''
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Lúc thiếu thốn, khi ốm đau, tình đồng chí đã giúp họ thêm sức
mạnh "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay'' (Đồng chí - Chính Hữu). Cái
nắm tay không lời mà như biết nói bao lời. Cái nắm tay như truyền cho
nhau sức mạnh, ý chí và niềm tin, truyền cho nhau hơi ấm tình người,
sưởi ấm lòng nhau, sưởi ấm cả đôi bàn chân không giày trong buốt giá.
Cảm động biết bao nhiêu mối quan hệ tốt đẹp của những người cùng
chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.''
(Đồng chí - Chính
Hữu)
Các anh là những người có tâm hồn lãng mạn, lạc quan yêu đời
Đời lính đâu phải chỉ có khói bom và thuốc súng. Với tâm hồn rộng
mở, trong sáng, người lính cũng có những phút giây, những kỉ niệm thật
êm đẹp, thơ mộng. Giữa cảnh núi rừng mênh mông yên tĩnh, trong màn
sương muối lạnh lẽo phủ dầy, trong tư thế sẵn sàng bước vào cuộc chiến
đấu, người lính vẫn thả hồn mình tìm đến với vẻ đẹp của vầng trăng, vẫn
cảm nhận được vẻ đẹp của vầng trăng, thấy vầng trăng như treo nơi đầu
súng:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng, trăng treo.''
(Đồng chí - Chính Hữu)
Những giây phút nghỉ ngơi giữa hai trận đánh, các anh thật hồn nhiên,
trẻ trung:
‘'Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.''
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Tóm lại: Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã xây dựng thành công
hình ảnh người lính. Năm tháng đã và sẽ trôi qua nhưng những bài thơ
viết về người lính trong giai đoạn lịch sử oanh liệt này vẫn còn mãi trong
nền văn học dân tộc, trong lòng người dân Việt, mãi mãi là niềm tự hào
của mỗi người dân Việt Nam.
HÔNG thể phủ nhận được rằng trong các cuộc chiến tranh cách
mạng của thế kỷ XX, chúng ta không có sự vượt trội về sức mạnh
vật chất, nhưng chúng ta lại luôn là người chiến thắng, cho dù
chiến thắng ấy có phải đánh đổi bằng rất nhiều máu xương, đánh
đổi bằng các những khoảng thời gian đủ cho một thế hệ trưởng
thành. Đành rằng chúng ta nhận được nhiều sự quan tâm động
viên, giúp đỡ về cả vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế,
nhưng những giúp đỡ ấy thật khó để khỏa lấp những chênh lệch
nói trên. Nghĩa là chúng ta vẫn phải tiến hành các cuộc chiến tranh
cách mạng với việc dựa vào sức mình là chính. Và một trong
những yếu tố “sức mình” ấy chính là lòng yêu nước, là tinh thần
lạc quan cách mạng. Lòng yêu nước ấy, tinh thần ấy xuất phát từ
niềm say mê lý tưởng, tình yêu cố hữu, chân thành và tự nguyện
với đất nước quê hương, được tui rèn qua thực tiễn chiến đấu và
chiến thắng… Nhưng không thể không nói rằng nó còn được bồi
đắp bởi những rung động tinh tế của tâm hồn qua tiếp nhận các
tác phẩm văn học mang màu sắc sử thi của giai đoạn này, nhất là
thơ, và thơ viết về người lính.
Sớm nhất là hình ảnh những người chiến sĩ trong tên gọi anh Vệ
quốc quân. Đấy là lớp người đầu tiên đứng lên cầm súng theo
tiếng gọi của Bác Hồ, đi kháng chiến và trở thành những người
tiên phong, mà ngay tên gọi thôi cũng đủ để dấy lên một niềm thân
thương kiêu hãnh: Anh Bộ đội Cụ Hồ. Đấy là những người lính
phần lớn không được đào tạo một cách chính quy, không qua
trường lớp và với mọi thành phần xuất thân – thể hiện tinh thần
đoàn kết của cả một dân tộc luôn biết nắm chặt tay nhau để bảo
vệ lãnh thổ, phong hóa, đời sống, số phận của chính mình. Những
người chiến sĩ ấy xuất hiện một cách giản dị, đời thường, thậm chí
đôi khi còn tội nghiệp nếu không chú ý đến phẩm chất anh hùng
của họ:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Dĩ nhiên trong khí thế toàn dân tộc lên đường, thì không thể thiếu
thành phần “tinh hoa” trong đội ngũ ấy: những người lính xuất thân
học sinh, sinh viên, trí thức… Vậy nên bên cạnh vẻ đẹp chân chất
kia, người ta còn thấy ngời lên vẻ đẹp của sự hào hoa, lịch lãm
của những học sinh, sinh viên, trí thức – nhất là những người con
thủ đô. Đó là những thanh niên ưu tú “xếp bút nghiên theo việc
đao cung”. Không phải ngẫu nhiên mà trong bài Ngày về của
Chính Hữu, hình ảnh người lính phảng phất cái gì đó của những
khách chinh phu truyền thống. Rồi vẻ đẹp ấy sẽ biến mất trong thơ
Chính Hữu, để những con người ấy trở thành “đồng chí” cách
mạng, nhưng dáng dấp thanh lịch ấy sẽ xuất hiện trong thơ Hữu
Loan, Quang Dũng, với nét mộng mơ của một tráng sĩ xác định
một đi không trở lại, Kinh Kha chẳng hạn, nhưng trong lòng không
quên lưu luyến một giấc mộng đẹp của niềm tin khải hoàn:
Những người chiến sĩ ấy, có người xuất thân từ nước mặn, đồng
chua để lại “Ít nhiều người vợ trẻ/Mòn chân bên cối gạo canh
khuya” hay từ thành thị với “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, ở
nơi “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”, hay “Người ra đi đầu
không ngoảnh lại/Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”, cũng đều chung
chiến hào, đã chiến đấu theo tinh thần “ai có súng dùng súng, ai
có gươm dùng gươm”, theo tinh thần biến tất cả những gì có trong
tay thành vũ khí:
Hình ảnh người lính luôn là hình ảnh đẹp nhất của văn học Việt
Nam.Viết về các anh là viết về những đôi tay đã làm nên hình hài,
dáng vóc thân thương của non sông gấm vóc Việt Nam.Huyền
thoại về những người lính gắn liền với lịch sử chống ngoại xâm
của đất nước ta. Có lẽ, chưa một dân tộc nào trên thế giới lại phải
gánh chịu những mất mát và khổ đau vì chiến tranh như dân tộc
ta. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đã khiến cho
những con người Việt Nam trở nên lớn lao và kì vĩ:
“ Kính chào Anh, con người đẹp nhất
Lịch sử hôn Anh, chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”.
ó thể nói “ Thơ văn là sự thể hiện con người và thời đại một cách
cao đẹp”. Thơ văn có thể hiện được cái hồn của thời đại thì mới
trở thành đài tượng niệm của thời đại”. Thơ văn cách mạng đã làm
được điều đó. Các nghệ sĩ đã làm nên một tượng đài bất tử về
người lính cụ Hồ.
Hình ảnh người lính luôn là hình ảnh đẹp nhất của văn học Việt
Nam.Viết về các anh là viết về những đôi tay đã làm nên hình hài,
dáng vóc thân thương của non sông gấm vóc Việt Nam.Huyền
thoại về những người lính gắn liền với lịch sử chống ngoại xâm
của đất nước ta. Có lẽ, chưa một dân tộc nào trên thế giới lại phải
gánh chịu những mất mát và khổ đau vì chiến tranh như dân tộc
ta. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đã khiến cho
những con người Việt Nam trở nên lớn lao và kì vĩ:
“ Kính chào Anh, con người đẹp nhất
Lịch sử hôn Anh, chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”.
1. Vẽ đẹp của hình tượng người lính trong thơ ca kháng chiến.
Có thể nói “ Thơ văn là sự thể hiện con người và thời đại một
cách cao đẹp”. Thơ văn có thể hiện được cái hồn của thời đại thì
mới trở thành đài tượng niệm của thời đại”. Thơ văn cách mạng
đã làm được điều đó. Các nghệ sĩ đã làm nên một tượng đài bất
tử về người lính cụ Hồ.
- Các anh ra đi từ những miền quê nghèo, gạt nỗi nhớ nhà, nhớ
mẹ, và những tình cảm riêng tư sang một bên để chiến đấu cho
một tình yêu lớn lao hơn- tình yêu Tổ Quốc với một tinh thần cảm
tử , hy sinh :
“ Ôi! Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi! Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.
Tình yêu Tổ Quốc của người lính đã trở thành một phần máu
thịt không thể tách rời, như hơi thở, sự sống của chính các
anh. Nó tiếp thêm cho các anh niềm tin, sức mạnh, vượt qua
mọi bão giông, thử thách để chiến thắng kẻ thù:
“ Những dũng sĩ đâm lê núi Thành
Mắt tìm thù sao bay rực rỡ
Rượt đuổi thù chân như chiến mã
Đâm chết thù sức núi dồn bay”
Các anh hiểu được trong hoàn cảnh của dân tộc thì “ hạnh phúc là
đấu tranh”. Vì thế còn gì tự hào hơn khi các anh được gánh vác
trên vai nghĩa vụ thiêng liêng :
“ Nếu được làm hạt giống để mùa sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa”
Có thể nói lòng yêu nước là vẻ đẹp rất điển hình ở người lính.
Lòng yêu nước của người lính đã làm đẹp thêm lòng yêu nước
của con người Việt Nam. Đó là ý thức trách nhiệm của người con
đối với đất nước:
“ Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề cổ súng kề vai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa”
Cuộc sống nơi trận mạc bao giờ cũng vậy, khắc nghiệt vô cùng .
Đó là nơi sự sống và cái chết không có ranh giới. Cái chết có thể
diễn ra trong tích tắc và đến bất cứ lúc nào. Nhưng với các anh thì
cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân thù:
“ Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông, nhớ Trường Sơn tây”
Đất nước Việt Nam, người phải thật tự hào khi sinh ra những
người con:
“ Đất nước của những người con gái, con trai
Đẹp hơn hoa hồng rắn hơn sắt thép
Những cuộc chia ly không hề rơi nước mắt
Nước mắt chỉ dành cho ngày gặp mặt”
Chính lòng gan dạ, khí phách, quả cảm đã tạo nên sức mạnh
mãnh liệt cho những người lính. Ta dễ hiểu vì sao chị Lý sau bao
tra tấn dã man “ điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung” mà bọn giặc
nhẫn tâm vẫn không giết nổi chị “ người con gái anh hùng”. Ta
hiểu vì sao anh Trỗi sau bao đòn roi đau đớn từ chính quyền thực
dân vẫn thà chết chứ không chịu bán nước. Đó là bởi một khi ý chí
đã cứng hơn sắt thép thì không có gì lay chuyển nổi. So với độc
lập tự do của tổ quốc thì cái chết với những người lính có là gì.
Dũng cảm như chị Út “ còn cái lai quần cũng đánh” gan dạ như cô
du kích xóm Lai Vu bị “ rắn quấn bên chân” mà vẫn “ đánh quân
thù”. Và cả :
“ Những nàng xuân rất dịu dàng
Hát câu quan họ chuyến đò ngang
Nhẹ nhàng tay cấy bên sông ấy
Súng khoác trên lưng chẳng ngỡ ngàng”
Làm sao quên được hình ảnh chị Sáu kiêu hùng đi giữa hai hàng
lính với cái chết thoảng hương nhài, làm sao quên những Bế Văn
Đàn, những Phan Đình Giót, những La Văn Cầu : “ Những đồng
chí, thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi gai thép
Ào ào như vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt còn ôm”
Hình ảnh của các anh là biểu tượng ngời sáng cho lòng quả cảm,
tinh thần hiên ngang, bất khuất. Một nhà văn nước ngoài từng nói
“ Ở Việt nam có bao nhiêu bông hoa đẹp, là có bấy nhiêu anh
hùng”. Các anh là những bông hoa như vậy, những bông hoa kiên
cường mọc lên từ những vùng sỏi đá, cằn khô. Nhựa sống của nó
là ý chí và lòng dũng cảm phi thường.
Những con người ấy mạnh mẽ trên chiến trường nhưng lại rất
hào hoa yêu đời trong cuộc sống bình thường. Giản dị mà vẫn
phi thường, hào hùng mà hào hoa. Nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại vẻ
đẹp lạc quan yêu đời của các anh:
“ Mĩ thua nguỵ chạy đường cùng
Xe tăng như xác bọ hung đen bờ
Mấy anh lính trẻ măng tơ
Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi”
Cuộc sống của họ gian khổ thiếu thốn “ áo anh rách vai, quần tôi
có vài mảnh vá” nhưng họ không thiếu thốn tình người:
“ Đồng đội ta là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết”
Chia nhau là để cộng vào, để nhân lên gấp bội tình yêu thương
ấy.Chỉ một cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi mã thôi sao thân
thương đến thế. Chung với nhau một bữa cơm nhà mà ấm áp biết
bao tình người:
“ Bếp Hoàng Cầm ta chạy giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình ấy”
Những người lính đã vượt qua gian khổ như thế đó, bằng tình
người và bằng cả trái tim.
=>Có thể nói, người lính là kết tinh của những vẻ đẹp rất Việt
Nam. Lòng yêu nước, sự dũng cảm, niềm lạc quan yêu đời, tình
đồng chí, đồng đội dù trong bất cứ hoàn cảnh nào những nét đẹp
ấy vẫn luôn toả sáng.
1. Cảm nhận của bản thân về hình ảnh người lính trong kháng
chiến và hình ảnh người lính hôm nay.
Anh bộ đội, người chiến sĩ, chú giải phóng quân..., nhiều tên gọi
khác nhau, song tất cả chỉ là một - đó là anh, "anh bộ đội cụ Hồ".
Không biết từ bao giờ, nhân dân ta yêu anh bộ đội như yêu quý
người thân. Có lẽ, vì ta yêu cái lý tưởng cao đẹp: “Trung với
nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu và hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội...” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Quân đội ta tự hào thay được lớn lên dưới ánh sáng mà Bác đã soi đường chỉ lối.
Tên của các anh gắn liền với tên đất nước. Càng kiêu hãnh biết bao tên anh được gắn
với tên của vị cha già kính yêu của dân tộc “Anh bộ đội Cụ Hồ”. Bác là vị cha già, là
lãnh tụ vĩ đại đã trao cho các anh sứ mệnh lịch sử, đã cùng đoàn quân lội suối trèo
đèo đi kháng chiến trong những năm tháng trường kì kháng chiến. Rồi lại cùng đoàn
quân ra mặt trận để tiêu diệt quân thù trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ
xâm lược. lời Bác gọi là lời non sông. Cả nước cùng Người ra trận.
Chúng ta tự hào được sống trong những ngày sôi động của dân tộc, được sống trong
thời đại tươi đẹp– thời đại mà Bác Hồ đã khai sinh, đã soi đường chỉ lối, chúng ta
nguyện tiếp bước theo các anh để ghi tiếp những cái tên đẹp nhất trong trang sử
nước nhà, để xây đắp tiếp những vườn hoa tươi thắm chói ngời trang sử vàng dân
tộc. Còn niềm vui nào hơn khi chúng ta vinh dự trở thành những người chiến sĩ tiếp
bước các anh:
Mơ ước làm anh bộ đội, mơ ước trở thành những con người trung dũng, ngoan
cường, phấn đấu dưới lá cờ vinh quang của Tổquốc. Mơ ước được mang tên: “Anh
bộ đội Cụ Hồ” để một mai cùng đoàn quân ra trận xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó
là ước mơ của tuổi trẻ, của đàn em nối gót theo các anh – những người anh bình
thường, giản dị đã đọng lại trong lòng nhân dân biết bao tình cảm khó quên.
Trong ngày vui hôm nay của đất nước, tất cả chúng ta không ai có quyền quên,
không bao giờ được quên biết bao anh hùng đã ngã xuống, lấy máu đào tô thắm màu
cờ và làm rạng rỡ non sông đất nước ta. Chúng ta càng không thể quên hình ảnh Bác
Hồ kính yêu – vị cha già của dân tộc suốt đời trăn trở với niềm mong ước làm sao
cho đất nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành và mong muốn đem lại sự giàu mạnh cho đất nước,
hạnh phúc cho nhân dân và xã hội công bằng văn minh.
Tổ quốc thống nhất, người lính trở về quê hương nhưng phẩm chất ý
chí nghị lực, tinh thần lạc quan vẫn không hề thay đổi. Hình ảnh anh
thợ cắt tóc trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là một ví dụ: anh
sống làm việc, lặng lẽ nghiêm túc bao dung và cao thượng. Những
người lính, những người trí thức ngày trước từ giảng đường đại học,
khoác súng lên đường. Hòa bình từ giả cây súng, anh trở về cầm viên
phấn viết tiếp những gì còn giang dở. dù một phần xương thịt đã vĩnh
viễn nằm lại chiến trường, anh vẫn miệt mài cống hiến với tổ quốc.
Hôm nay, trang sử mới của dân tộc đã được mở ra- trang của sự đổi mới, phát triển
và hội nhập với thế giới. Trong quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa cao độ, hình
ảnh anh “Bộ đội cụ Hồ” vẫn vẹn nguyên với vai trò tiên phong, đi đầu trong việc
thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới cùng toàn Đảng, toàn dân. Các chiến sĩ Bộ đội
cụ Hồ hôm nay khoác trên mình màu xanh áo lính cũng đang hứng khởi bước vào
các mặt trận với lòng nhiệt huyết và sức bật mới cùng thời đại. Người lính Cụ Hồ
hôm nay vẫn tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam:
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Đất nước hòa bình, song những người lính Cụ Hồ vẫn “ra trận” vì cuộc sống
bình yên và hạnh phúc của nhân dân. Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ “cõng chữ" lên vùng
cao; “ba cùng” với đồng bào các dân tộc, giúp dân trồng lúa nước, đưa đồng bào vào
làm việc ở các nông trường quân đội… là những hình ảnh bình dị, thân thương,
nhưng vô cùng cao đẹp về tình quân dân cá nước. Con đường em chọn sau khi tốt
nghiệp sẽ là tiếp bước dấu chân người lính, noi gương sáng của anh bộ đội cụ Hồ.
Hình tượng người lính trong thơ ca Việt Nam 1945 – 1975
Đặt vấn đề:
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở đầu một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Đồng thời mở ra một kỉ nguyên mới cho văn học
Việt Nam – một nền thơ ca phản ánh sự bùng nổ toàn diện sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, trước vận hội lịch sử đã tích tụ qua nhiểu thế
kỉ.
Đọc thơ ca Việt Nam 1945 – 1975, chúng ta thấy cuồn cuộn niềm vui của hàng triệu người ra trận, thấy được những mất mát đau thương,
những khát khao, ước vọng chân thành… Ba mươi năm liên tục đấu tranh chống kẻ thù cũng là khoảng thời gian văn học phát triển mạnh
mẽ không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Văn học lấy đề tài chiến tranh, viết về chiến tranh cách mạng. Thơ cũng như văn, hết lòng
ca ngợi người anh hùng, người lính, người mẹ, thanh niên xung phong… Tất cả hiện lên trong tác phẩm với mọi tầng lớp, lứa tuổi, dân
tộc… y như thật ở trên đời. Và họ đẹp – cái đẹp tiêu biểu cho cả thời đại. Cái đẹp ấy kết tinh đậm đà ở hình tượng anh bộ đội cụ Hồ – anh
vệ quốc quân, anh giải phóng quân. Bởi các anh chính là người anh hùng suốt hai cuộc kháng chiến trường kì.
Nội dung:
Dân tộc ta đã tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đã giành thắng lợi vẻ vang. Lẽ tất nhiên, ở đất nước mà hơn ba
mươi năm không dời tay súng, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là hình ảnh con người đẹp nhất, đáng yêu nhất là niềm tự hào lớn của cả dân
tộc. Những chiến sỹ bộ đội cụ Hồ – anh vệ quốc quân trước kia, anh giải phóng quân sau này đã đi qua 2 cuộc kháng chiến và viết lên
những chiến công chói lọi: Điện Biên Phủ, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, Điện Biên Phủ trên không, đặc biệt là
cuộc tổng tiến công và nổi dậy vĩ đại mùa xuân 1975 mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Những chiến công đó đã đi vào lịch sử
như những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỉ XX. Đó là bước đi của người anh hùng tiếp nối con đường rực rỡ của cha ông, đang
nhịp bước cùng thời đại với tư cách của “Người lính đi đầu” . Vì thế, trong cuộc sống cũng như trong thơ ca, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ
bao giờ cũng chiếm chỗ cao nhất trong tâm hồn quần chúng và trong trái tim của các nhà thơ.
Trước hết, trong thơ ca đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh trung thực của anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Là con đẻ của nhân dân lao động nghèo khổ, anh ra đi từ những miền
quê nghèo khắp mọi miền đất nước:
“Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
(Đồng Chí – Chính Hữu)
Từ những con người vốn xa lạ, khi vào bộ đội các anh đã gắn bó với
nhau trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”.
(Đồng Chí – Chính Hữu)
Anh mang bản chất chất phác, giản dị, trung thực. Thực ra anh là
người nông dân mặc áo lính.
“Anh chiến sỹ hiền lành
Tỳ tay trên mũi súng”.
(Cá nước – Tố Hữu)
Xuất thân từ người lao động, anh bộ đội cụ Hồ rất giàu nghị lực. Anh
dẻo dai bền bỉ hành quân vượt qua “trăm suối ngàn khe”, vượt suốt,
trèo đèo trong cảnh “ngày nắng đốt” chói chang, những “đêm mưa
dầm dề, gió buốt chân tay” quanh năm suốt tháng. Không một khó
khăn, trở lực ngăn được bước tiến của anh:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”.
( Toà
n thắng về ta – Tố Hữu)
Các anh lại viết lên một huyền thoại mới của thời đại, được cả
” Năm châu, chân lý” nhìn theo, cái nhìn trìu mến và khâm phục.
Tuy nhiên, không vì vậy mà anh bị thần thánh hóa, trái lại vẫn là
những con người mang cốt cách bình dị. Dũng sỹ diệt Mỹ qua con mắt
trẻ thơ:
” Cháu nghe chú đánh những đâu
Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi
Đến đây chỉ thấy chú cười
Chú đi gánh nước chú ngồi đánh bi”
( Gửi theo các chú bộ đội – Trần Đăng Khoa)
Anh bộ đội cụ Hồ là kết tinh của bình thường và phi thường, của vĩ
đại và giản dị. Và còn là sự kết tinh của nhiều phẩm chất ” Yêu
thương mênh mông”, ” Căm hờn cháy bỏng”, ” rất mãnh liệt và cũng
rất dịu dàng”. Người chiến sỹ có tầm vóc lớn lao của thời đại, phẩm
chất của anh là ” Thước đo mọi giá trị trên đời”. Đó là vì anh đã
phấn đấu bền bỉ qua hai cuộc kháng chiến, được nhân dân nuôi dưỡng và
truyền cho dòng sữa nhân nghĩa, anh hùng của bốn nghìn năm, được thời
đại cho tư tưởng khoa học và cách mạng Mác – Lê nin, được Đảng, Bác
chăm lo giáo dục và rèn luyện:
” Tổ quốc cho anh dòng sữa tự hào
Thời đại cho anh ánh sao trí tuệ”
( Tố Hữu)
Tiếng súng lại nổ ở hai đầu biên giới. Các anh lại phải ra Bắc vào
Nam thực sự là điểm tựa của lịch sử và của nhân dân để bảo vệ vững
chắc Tổ Quốc thân yêu. Anh là niềm tự hào lớn của dân tộc, là điển
hình cao đẹp cho người anh hùng trong thời đại. Anh mãi và sẽ là
nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn trong những sáng tác thơ ca.
III. Kết luận:
Đọc những trang thơ kháng chiến giai đoạn 1945 – 1975, chúng ta
hiểu thêm cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của con người sống trong
chiến tranh ác liệt. Đồng thời ta thấy được bản chất anh hùng cách
mạng của người lính.
Thơ kháng chiến là tiếng đại bác gầm rung và cũng là tiếng chim ca
hát bình minh. Chất trữ tình và chất anh hùng ca hoà quyện trong hồn
thơ, trong mỗi bài, mỗi câu, mỗi ý thơ. Nó bảo tồn được sức sống
không chỉ vì đó là tiếng nói của thời đại lịch sử mà còn là tiếng nói
trái tim của những phong cách thơ riêng. Thơ trong giai đoạn này đã
phát hiện tư thế người lính đối diẹn với lịch sử, với chân trời tự
nhiên luôn giãn nở. Các anh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến
trường kì. ở các anh có sự hội tụ đầy đủ phẩm chất, tâm hồn và tính
cách, hành động tiêu biểu cho những con người anh hùng dân tộc.
Chiến tranh đã qua đi nhưng kí ức về những con người làm nên lịch sử
còn hằn sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Lớp người của thế
hệ hôm nay xin tiếp nối truyền thống ông cha để làm vẻ vang non sông,
để đất nước Việt Nam mãi là:
“ Đất nước của Nhân dân,
Đất nước của ca dao, thần thoại.”
( Nguyễn Khoa Điềm )
Các thế hệ nhà thơ chống Pháp, chống Mỹ trước hết là những người lính.
Tiếng nói của nhà thơ cũng chính là tiếng nói của người trong cuộc. Thơ ra
đời từ những cánh rừng, chiến hào, mặt trận, trên những chặng đường hành
quân... Chính vì thế, tiếng nói của nhà thơ là tiếng nói của cá nhân nhưng đủ
sức đại diện cho cả thế hệ. Những trải nghiệm khắc nghiệt của chiến tranh,
suy nghĩ về đất nước, nhân dân, về sự hy sinh, lòng yêu nước, trách nhiệm
lịch sử… được thể hiện một cách khái quát, chân thực nhất và ghi đậm dấu
ấn mỗi thế hệ vào đời sống tinh thần dân tộc trong những “tháng năm không
thể nào quên”.
Dù nhiều gian
khó, nhưng trên
môi các chiến sĩ
trẻ luôn phơi
phới nụ cười tin
vào chiến thắng
ở ngày mai của
trong bức ảnh
"Tuổi trẻ ở
Trường Sơn".
Ảnh: Đoàn Công
Tính
Nói về những người lính, trước hết phải nói về “tinh thần nhận lĩnh trách
nhiệm” cao cả của họ trước lịch sử, đất nước, nhân dân. Và ở mọi thế hệ, khi
nhận lĩnh trách nhiệm lịch sử, đều có những tuyên ngôn và tự họa chân dung
riêng của thế hệ mình. Thế hệ chống Pháp nói về ý chí, quyết tâm lên đường,
sẵn sàng bỏ lại cuộc sống bình yên bằng những hình ảnh cụ thể, đầy sức
gợi, nhuốm không khí rất đặc trưng của những ngày đầu cách mạng: Sáng
chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác hơi may/ Người ra đi
đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy (Nguyễn Đình
Thi). Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng là cách nói của Chính Hữu về
họ - các chàng trai Hà Thành. Họ đã rời bỏ sách vở và cuộc sống chốn thị
thành với phố xá êm đềm lưu luyến sau lưng để lên đường đi kháng
Pháp. Người ra đi đầu không ngoảnh lại, cách nói đậm dáng dấp anh hùng,
mang hơi hướng khí chất Kinh Kha, mộng mơ và lãng mạn nhưng đã thể hiện
mạnh mẽ hơn bao giờ hết ý chí, sự dấn thân. Thái độ dứt khoát khi lên
đường đi chiến đấu bảo vệ độc lập của dân tộc còn được thể hiện trong cách
nói chất phác, giản dị nhưng không kém phần quyết liệt của những người lính
nông dân ra đi từ các làng quê: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/ Gian
nhà không mặc kệ gió lung lay (Chính Hữu).
Cũng như những người lính chống Pháp, thế hệ chống Mỹ đã khẳng định sự
xuất hiện kịp thời với một thái độ lựa chọn quyết liệt và ý thức sâu sắc về sự
lựa chọn ấy: Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân chia cắt/ Yêu Tổ quốc mình,
Tổ quốc chia đôi/ Nỗi đau ấy góp đời mình để xóa (Hữu Thỉnh); Ta đi hôm
nay đã không là sớm/ Đất nước hành quân mấy chục năm rồi/ Ta đến hôm
nay cũng không là muộn/ Đất nước còn đánh giặc chưa thôi (Phạm Tiến
Duật); Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/… nhưng ai cũng tiếc tuổi hai
mươi thì còn chi Tổ quốc (Thanh Thảo)... Trực diện và đầy tính suy lý, những
câu thơ của các nhà thơ chống Mỹ đại diện cho tiếng nói chung của triệu triệu
người lính, họ là những người đã dạn dày bom đạn trong kháng chiến chống
Pháp; là thanh niên, sinh viên, học sinh trưởng thành khi cuộc chiến tranh
chống Mỹ bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Và tất cả đều chung ý chí: Dàn
hàng gánh đất nước trên vai (Bằng Việt). Có thể nói, chưa bao giờ sứ mệnh
của người lính đối với đất nước, nhân dân lại được ý thức sâu sắc, được thể
hiện một cách nhiệt thành và ráo riết đến vậy.
Bước tới chiến trường, hòa mình trong cuộc chiến đấu gian khổ và ác liệt,
gương mặt tinh thần của những người lính nhanh chóng hiện diện trong thơ
như một tiếng nói tự ý thức mạnh mẽ. Không chỉ tuyên ngôn về trách nhiệm,
hành động trước lịch sử, những người lính còn tự bạch về bản thân, về đồng
đội, về cuộc sống ở chiến trường... Đó là vẻ đẹp của sức chịu đựng gian khổ,
hy sinh. Những câu thơ hào hoa của Quang Dũng viết về cuộc hành quân
của đoàn quân Tây Tiến: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn
mây súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi (Tây Tiến), hay những câu thơ mộc mạc của Chính Hữu
về nỗi gian khổ của những người lính nông dân: Anh với tôi biết từng cơn ớn
lạnh/ Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi… Áo anh rách vai, quần tôi có vài
mảnh vá/ Miệng cười buốt giá, chân không giày/ Thương nhau tay nắm lấy
bàn tay (Đồng chí)… đã nói lên đầy đủ sức mạnh, sự kiên cường của những
người lính thời chống Pháp. Sự hy sinh là phẩm chất ngời sáng nhất được
ngợi ca và ngưỡng mộ khi viết về người lính. Phẩm chất ấy được phát huy
cao độ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt kéo dài hơn 20 năm. Sự chịu
đựng gian khổ, hy sinh của người lính xuất phát từ lòng yêu nước, những
người lính chống Mỹ đã lý giải, cắt nghĩa mối quan hệ biện chứng ấy bằng
cách nói đầy tính triết lý, từ chối hết ngôn từ, hình ảnh hoa mỹ: Chúng tôi nói
về lòng yêu nước/ Bằng lưỡi xẻng moi hầm/ Bằng khẩu súng cầm tay…
Chúng tôi nói về lòng dũng cảm/ Bằng xác giặc ngổn ngang, khẩu súng đỏ
nòng/ Bằng áo nhuộm mưa dầm, thuốc đạn (Nguyễn Đức Mậu). Cũng từ lòng
yêu nước, tinh thần sẵn sàng đối mặt với gian khó, với cái chết mà mỗi người
lính qua các thế hệ luôn mang một tâm thế lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào
sức mạnh chiến thắng. Tinh thần lạc quan biểu hiện trong câu chuyện hồn
nhiên, mộc mạc của những người lính nông dân: Đằng nớ vợ chưa/ Đằng nớ/
Tớ còn chờ độc lập/ Cả lũ cười vang bên ruộng bắp/ Nhìn o thôn nữ cuối
nương dâu (Hồng Nguyên); hay trong cách nhìn tếu táo, ngang tàng khi nói
về thiếu thốn, hiểm nguy của các chàng lính lái xe: Không có kính không phải
vì xe không có kính/ Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi/… Không có kính, ừ thì
có bụi/ Bụi phun tóc trắng như người già/ Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu
thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha (Phạm Tiến Duật). Tinh thần lạc quan
mang đậm chất lính trở thành nét đẹp tỏa sáng trong những câu thơ viết về
họ.