You are on page 1of 13

Lật trái trang thơ may ra anh đọc được trên kia đời tôi một ít

Thơ không phản ảnh đời mình thì nó cũng phản ảnh những mùa hoa.
(Chế Lan Viên)
Phải chăng thơ ca là vậy, nó vẫn luôn phản ánh những mùa hoa đẹp như thế. Hơn
hai nghìn năm trước, Trang Tử đã có một triết lí rất hay như thế này: “Biển cả là
nơi mà tất cả các nguồn nước trên thế gian này đều ra đi từ đó, nhưng nó không
vơi, và nó cũng là nơi đón nhận tất cả các nguồn nước nhưng nó không đầy”.Thơ
ca cũng như những nguồn nước đều đi ra từ biển cả cuộc đời. Và hàng ngày, tiếng
sóng thuỷ triều vẫn âm vang chuyên chở sóng biển đời thường đến với những trang
thơ. Những sự chuyên chở ấy có bao giờ ngừng nghỉ? Mảnh đất hiện thực có bao
giờ vơi khi người nghệ sĩ đến đó chở nắng gió cuộc đời tưới mát cho cây. Thơ ca
phải gắn cho mình vào nguồn mạch cuộc sống, là tấm gương phản chiếu con người
và cuộc sống. Bởi thế mà Sóng Hồng đã từng nói: “Thơ là sự thể hiện con người và
thời đại một cách cao đẹp”. Quan niệm ấy của Sóng Hồng đã được nhà thơ Chính
Hữu và Nguyễn Duy thể hiện rất rõ trong tác phẩm “Đồng chí” và “Ánh trăng” của
mình.

Thơ là thể loại trữ tình phù hợp với mọi cung bậc cảm xúc thi nhân. Bao buồn vui
trong đời cảm rung thi sĩ, bao nỗi niềm chất chứa trong tầm can đến lúc mãnh liệt
mà “cất lên trang”. Thơ ca là điệu hồn tâm hồn, là những xúc cảm thiêng liêng,
mãnh liệt nhất của những người cầm bút.

Thơ ca là sáng tạo đặc biệt của con người.Thơ thể hiện con người và thời đại một
cách cao đẹp nó là những sợi tơ rút ra từ cuộc sống và quay trở lại trang điểm cho
cuộc sống bằng vẻ đẹp muôn màu của nó. Thơ ca đã có mặt cùng với sự phát triển
của nhân loại suốt bao thời kì lịch sử và người ta cũng bắt đầu chú ý đến những vai
trò, tác dụng kì diệu của nó đối với cuộc sống, đối với tâm hồn con người. Ý kiến
của nhà thơ Sóng Hồng đã bàn về mối quan hệ giữa thơ với con người và cuộc
sống thời đại đã sản sinh ra nó. Nhưng hiện thực cuộc sống đi vào thơ không phải
là hiện thực trần trụi mà nó được thể hiện một cách cao đẹp, nghĩa là ngợi ca, tự
hào, yêu mến,...bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo. Hai yếu tố con người và
thời đại không tách rời nhau mà gắn bó mật thiết trong cảm xúc và hình tượng thơ.

Với Chính Hữu đó là những người nông dân mặc áo lính ra trận tham gia đánh
Pháp bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được, họ mang vẻ đẹp cao cả của lí tưởng
yêu nước, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh cho Tổ quốc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

Và giữa cái khắc nghiệt của chiến tranh, sự lạc quan tin tưởng vào ngày mai chiến
thắng đã giúp các anh đứng vững kiên cường trong những năm tháng đánh giặc.
Một nụ cười đậm chất lính được Chính Hữu vẽ lại trong thơ:

“ Miệng cười buốt giá chân không giày”

Điều gì khiến cho những chàng trai quanh năm chỉ quen tay cày tay cuốc ấy đã
hăng lên đường cầm súng chiến đấu? Điều gì khiến những chiếc xe không kính
ngày đêm lao đi trong mưa bom bão đạn? Điều gì khiến những cô gái vốn yếu
mềm có thể hiên ngang chạm vào cái chết vô hình từ những quả bom? Đó chính là
lòng chung thủy với quê hương, với mảnh ruộng nhà mình, với vợ con của mình:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày


Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”

Nhà phê bình Nguyễn Đức Quyền đã nhận xét: Ở ngoài mặt trận mà biết gió lay
từng gốc cột ngôi nhà mình ở thì thật không còn từ ngữ nào để diễn tả hết tình cảm
thiết tha của họ đối với gia đình mình. Thế đó, ai mà không mong muốn được sống
yên vui, hạnh phúc trong mái ấm gia đình ? Nhưng vì nghĩa lớn, họ ra đi không
tiếc đời mình, bỏ lại sau lưng tất cả những gì thân yêu nhất. Cũng như vậy, ở ngoài
mặt trận mà biết Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính chứng tỏ họ đang nhớ quê
hương, nhớ người mình thương biết nhường nào! Mối giao cảm đậm đà sâu sắc ấy
đã tiếp thêm sức mạnh cho người lính trên những chặng đường chiến đấu.

Hình ảnh “ Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi” là những biểu hiện cụ thể về căn
bệnh sốt rét rừng nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không có đủ thuốc men để
chạy chữa. Và hiện thực khó khăn ấy không chỉ xuất hiện trong thơ Chính Hữu mà
trong rất nhiều tác phẩm thơ thời chiến cũng đều có sự góp mặt của căn bệnh này:

“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hay trong bài “dấu chân qua trảng cỏ”, Thanh Thảo từng viết:

“ Những người sốt rét đương cơn


Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe”

Không dừng lại ở đó, người lính còn phải đối diện với cả sự thiếu thốn, khó khăn
về vật chất: “Áo rách vai, quần vài mảnh vá” và “chân không giày”. Nhưng trong
hoàn cảnh ấy, những người lính vệ quốc, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng
những hành động chân thành: “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Họ đã truyền
cho nhau hơi ấm của tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, vì mục tiêu
lí tưởng cách mạng lớn lao, vì hòa bình dân tộc. Và có lẽ tình yêu thương nhau đã
lấp đầy khoảng trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Điều ấy đã làm
cho tình đồng chí thêm keo sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh đoàn kết trong suốt
cuộc kháng chiến trường kì.
Nét nổi bật trong bài thơ chính là hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Đây là một sáng
tạo đặc sắc, giàu chất hiện thực và giàu cảm hứng lãng mạn. Hình ảnh “súng-
trăng” được đặt cạnh nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng: giữa thực tại và
mơ mộng, giữa chiến tranh và hòa bình, giữa chiến sĩ và người thi sĩ. Sự đan cài
giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh vất vả lại
vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính:

“Những bông hoa nở trong ngày khói lửa


Vẫn ngát hương và chan chứa niềm tin
Không ngại chi súng đạn với bom mìn
Mang hi vọng trong ánh nhìn sáng rực”

ĐỌC THÊM TỔNG HỢP KIẾN THỨC CƠ BẢN CÁC TÁC PHẨM LỚP 9 HỌC
KÌ 1 (PHẦN 2)

Với “Ánh trăng”, bài thơ phản ánh tâm trạng của người chiến sĩ - một lớp người rất
đông trong xã hội vừa trải qua giai đoạn chiến tranh ác liệt. Trong niềm vui hân
hoan chiến thắng, cuộc sống hiện đại văn minh đôi khi con người đã lãng quên quá
khứ của mình, lãng quên quá khứ vất vả đau thương của dân tộc. Dòng cảm xúc đó
được thể hiện theo thời gian từ quá khứ đến hiện tại và nâng lên thành suy ngẫm
mang tính triết lý.
Kỷ niệm gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị hiền hậu trong quá khứ hiện về
trong hai thời điểm của nhân vật trữ tình:

“Hồi nhỏ sống với đồng


với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”

Khổ thơ đưa người đọc trở về miền quá khứ của người lính. Hàng loạt hình ảnh
được liệt kê: đồng, sông, bể, rừng… những nơi anh từng sống với nó. Những
quãng thời gian anh từng trải: Hồi nhỏ, hồi chiến tranh. Lời thơ chỉ gợi chứ không
tả, nhưng vẫn có thể hình dung cuộc đời của người lính ấy chắc nhiều biến cố, gian
nan. Tuổi thơ của anh từng gắn bó với cánh đồng, với dòng sông quê. Trước và
trong thời chiến tranh, những vùng quê nghèo làm gì có đèn điện. Nên trăng là
món quà vô giá của thiên nhiên. Những đêm trăng làng quê chan hòa ánh sáng và
gió mát. Trẻ con được nô đùa trước ngõ, bà nằm võng hát ngâm nga, hay các bác
láng giềng cùng ngồi uống trà, trò chuyện trong sân… Thơ ca dân gian còn ghi lại
những đêm trăng hội hè, những đêm trăng tát nước đầu đình… thật là hồn hậu,
đáng yêu!

“với sông rồi với bể”

Vẫn biết sông, bể là nơi người ta phải vật lộn với sóng gió để mưu sinh, nhưng
cũng là nơi có những đêm trăng mát mẻ thanh bình. Trăng rơi trên sông, hào tan
vào sóng biển quả là bức tranh tuyệt mỹ. Hẳn tuổi trẻ của anh đã từng đi nhiều nơi,
cũng vất vả bôn ba nhưng những vầng trăng ấy đã làm dịu mát tuổi thơ anh, chiếu
sáng bao kỷ niệm.

Lớn lên anh trở thành chiến sĩ. Hồi chiến tranh ở rừng, xa nhà, sống giữa núi rừng,
hằng ngày đối diện với gian nan, thiếu thốn và hi sinh, mất mát. Chính ánh trăng đã
sưởi ấm tâm hồn anh. Câu thơ gợi nhớ vầng trăng trong thơ Chính Hữu: những
đêm rét chung chăn, nhưng cơn sốt giữa rừng già, những câu chuyện tâm tình của
hai người lính, những đêm trăng trên đường hành quân … Không có gì lạ khi
Nguyễn Duy bộc bạch: vầng trăng là người bạn tri kỷ của anh!

Thời thơ ấu và thời chiến tranh. Dù ở đâu trên quê hương, đồng, sông, rừng bể
người lính vẫn gắn bó với ánh trăng với thiên nhiên như người bạn tri kỉ. Sự gắn bó
ân tình, thủy chung ấy khiến con người nghĩ rằng cả cuộc đời sẽ không bao giờ
quên người bạn tình nghĩa.

Hiện thực trong thơ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan đã được khúc xạ
qua lăng kính thi sĩ. Sự sáng tạo ở đây thể hiện qua góc nhìn mới mẻ, độc đáo và
những phát hiện riêng của người cầm bút trong quá trình khám phá hiện thực cuộc
sống. Có nhà thơ đã nói: “Thơ chỉ bật ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”.
Chất liệu cuộc sống trên đường thâm nhập vào tác phẩm đã mang theo bao nỗi
niềm của người sáng tạo và khi bài thơ trở lại với cuộc đời, nó đã in dấu “tâm hồn
cá biệt” của nhà thơ. Thật chí lí khi một nhà thơ nước ngoài nói đại ý : Thế giới nứt
làm đôi, vết nứt xuyên qua con tim nhà thơ. Nỗi đau ấy, khi đến với chúng ta đã
“nhuốm máu” người nghệ sĩ. Chất cá tính trong thơ làm cho tác phẩm khỏi “kho
khan” và “nhạt nhẽo”, làm cho thơ nói được điều ngàn xưa đã nói mà vẫn mới mẻ
như thường. Đến với “Đồng chí” vẻ đẹp của tình đoàn kết giai cấp, hình ảnh làng
quê ruộng vườn, cái nghèo,....của dân tộc Việt Nam trong suốt những năm tháng
chống giặc là những chi tiết cuộc sống vô cùng chân thực khi tác giả viết bài thơ
này:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua


Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Những người lính cách mạng trong bài thơ tham gia cuộc kháng chiến đều xuất
thân từ nông thôn, chưa từng quen biết nhau từ trước. Đúng như Hồng Nguyên đã
viết: “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ”, họ có người đến từ miền biển, có người đến
từ đồi núi. Nhưng tất cả họ đều lớn lên từ những vùng cơ cực, lớn lên trong cảnh
nghèo khó, lam lũ, vất vả. Sự tương đồng trong xuất thân ấy đã giúp họ gần nhau,
quen nhau và gắn bó với nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày


Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

Trong bài thơ Đồng Chí người lính xuất hiện trên cái nền của hiện thực khốc liệt
những ngày đầu kháng chiến trường kì: “Súng bên súng”, “Rừng hoang sương
muối”, “ Đứng cạnh nhau chờ giặc tới”,...đã thể hiện vẻ đẹp lí tưởng anh hùng của
thời đại cách mạnh Hồ Chí Minh.

Khác với “Đồng chí”, “Ánh trăng” của Nguyễn Duy thể hiện đạo lí sống nghĩa tình
và thủy chung với quá khứ đã bị quên lãng một cách vô tình bởi hoàn cảnh sống
hiện tại. Nơi đô thị, con người làm quen với tiện nghi hiện đại, văn minh “ánh
điện, cửa gương” nên cứ vô tình quên lãng vầng trăng tri kỉ. Đêm nào trăng cũng
sáng trên đầu nhưng bị mờ đi bởi ánh điện rực rỡ. Vô tình trăng và người cứ dửng
dưng như người xa lạ, chưa hề quen biết với nhau dù trước đây là tri âm, tri kỉ.

Một tình huống giản dị bình thường trong cuộc sống đã khiến nhân vật trữ tình tỉnh
ngộ nhận ra sự thay đổi bội bạc đáng lên án đó của mình - thành phố mất điện:

“Thình lình đèn điện tắt


phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.”

Hai tiếng “thình lình” mở đầu cho khổ thơ thật đúng lúc. Nhờ có sự thình lình bất
thường đó ta mới biết rằng hóa ra cái ánh đèn kia không phải là vĩnh cửu, cái ánh
sáng của phòng buyn – đinh kia không là muôn đời. Và hóa ra con người ta cũng
có lúc “vội bật tung cửa sổ” để tìm ánh sáng cho mình. Câu thơ này thật có ý
nghĩa, bởi đây đâu chỉ là cánh cửa sổ bằng sắt hay bằng gỗ của căn phòng mà đây
còn là cánh cửa của tâm hồn, của tình cảm, chính cánh cửa này đang được bật tung.
Phải đồng thời bật tung hai cánh cửa số ấy thì mới có được chuyện “đột ngột vầng
trăng tròn”. Thực ra đột ngột là dành để chỉ tâm trạng con người chứ không phải
trăng chờ người bật tung cửa sổ mới bất ngờ đột ngột xuất hiện. Con người có mở
cửa hay không mở cửa thì vầng trăng vẫn cứ chiếu sáng, vẫn luôn tràn đầy như thế.
Từ “tròn” ở đây không chỉ là một khái niệm hình học, nó còn là sự tròn đầy trọn
vẹn của nghĩa tình. Giây phút ngắn ngủi bất ngờ nhưng thực sự có ý nghĩa như một
bước ngoặt trong dòng tư tưởng của con người để giúp họ thay đổi.

Việc đối diện với vầng trăng - người bạn tri kỷ đã giúp người lính nhớ về kỷ niệm
xưa gắn bó, tươi đẹp và rồi ân hận, xúc động xốn xang. Nỗi ân hận được thể hiện
trong dòng nước mắt rưng rưng, nhẹ nhàng xót xa. Chính mình đã đổi thay và bản
thân không thể chấp nhận được.
Con người suy ngẫm về mối quan hệ của trăng với mình và giật mình, bừng tỉnh,
xót xa Dù thời gian qua đi, dù đất trời thay đổi, trăng vẫn nguyên vẹn, tình nghĩa
thủy chung với con người, không hề trách cứ con người đã đổi thay. Trăng vẫn vị
tha, nhân hậu tỏa sáng cho con người. Sự cao thượng của vầng trăng khiến con
người thức tỉnh lối sống về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc để sống tốt
hơn, người hơn.

“Ánh trăng” không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ, chuyện của một người mà có ý
nghĩa với cả một thế hệ. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều
thời bởi tác phẩm đặt ra vấn đề thái độ đối với quá khứ, với những người đã khuất
và đối với chính mình.

Có thể nói rằng sự liên kết giữa thơ và cuộc sống trước hết chính là cảm xúc thơ, là
tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống
trước, là chỉ khi hiện thực cuộc sống tác động vào tâm hồn của con người khiến nó
rung lên, dao động mãnh liệt khi đó mới xuất hiện lên những vần thơ dạt dào, cảm
xúc. Bản chất của thơ luôn là Ý tại ngôn, cốt lõi thơ là trữ tình. Bởi thế thơ ca bao
giờ cũng là một tấm gương của tâm hồn, tiếng nói của tình cảm, của con người,
những rung động của trái tim trước cuộc đời. Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
“Thơ không cần nhiều từ ngữ, nó cũng không cần quan tâm đến hình xác của đời
sống, nó chỉ cần cảm nhận và truyền đi chút linh hồn của cảnh vật thông qua linh
hồn của thi sĩ”. Thật vậy Thơ không cần đến những từ ngữ dài dòng, cách miêu tả
chi tiết, miên man như văn xuôi, mà chỉ cần vài chữ thôi cũng đủ nói lên được tâm
tư, tình cảm của mình, nói lên được cả một sự vật, sự việc mình muốn nói đến. Rồi
cái đó người ta gọi là một nghệ thuật, mà chỉ thơ là mới làm nên được. Quả thật
văn chương đã tạo ra cho mình một thế đứng riêng còn mạnh hơn lịch sử. Cùng tái
hiện lại một thời đau thương nhưng vĩ đại và hình tượng người chiến sĩ nhưng văn
chương đã đến với người đọc theo con đường của trái tim, gây nên những xung
động thẩm mĩ trong tâm hồn con người, làm thành sự xúc cảm tận đáy tâm hồn và
những ấn tượng không thể nào quên. Đó là những năm đau thương chứng kiến
những con người cao cả kiên cường, những người lính dũng cảm bất khuất. Họ
không khô khan mà bầu nhiệt huyết nung nấu, tràn đầy lòng hy sinh, với tình đồng
đội trong sáng, thân ái.

Ý kiến của nhà thơ Sóng Hồng là một ý kiến đúng đắn vì đã lấy con người và thời
đại làm cảm hứng sáng tạo trong thơ. Con người chính là linh hồn của thời đại và
thời đại tạo ra vẻ đẹp con người. Thơ ca luôn nồng nàn, ấm áp hơi thở cuộc đời và
mang dấu ấn sáng tạo nghệ thuật của người cầm bút. Thơ là dòng sông soi bóng
cuộc đời, len vào tâm hồn con người những mạch nguồn cảm xúc dạt dào chảy mãi
không thôi. Nhà thơ phải “yêu cuộc đời” và trân trọng “nghệ thuật” mới vun đắp
những vần thơ nở ra cánh hoa thơm ngát tô điểm cho cuộc đời và con người.

“Đồng chí” và “Ánh trăng” là những bài thơ độc đáo về anh bộ đội cụ Hồ trong và
sau chiến tranh, những người nông dân mặc áo lính, anh hùng áo vải trong thời đại
Hồ Chí Minh. Ở “Đồng chí” đó là một tượng đài tráng lệ mộc mạc, bình dị mà cao
cả thiêng liêng về con người Việt Nam trong cuộc chiến tranh thần thánh, trường kì
chống Pháp, qua đó cảm hóa ý thức sâu sắc tuổi trẻ hôm nay về lòng yêu nước và
tự hào dân tộc. Còn “Ánh trăng” sẽ đưa ta về một miền kí ức để cảm, để hiểu
những triết lí sâu xa, đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc.

Bài 2
I. Mở bài: dẫn dắt vào vao nhận định cần làm sáng tỏ.
II. Thân bài
1. Giải thích nhận định
- Thơ là thể loại trữ tình phù hợp với mọi cung bậc cảm xúc thi nhân. Bao buồn vui
trong đời cảm rung thi sĩ, bao nỗi niềm chất chứa trong tầm can đến lúc mãnh liệt
mà “cất lên trang”. Thơ ca là điệu hồn tâm hồn, là những xúc cảm thiêng liêng,
mãnh liệt nhất của những người cầm bút.
- Thơ ca là sáng tạo đặc biệt của con người.Thơ thể hiện con người và thời đại một
cách cao đẹp nó là những sợi tơ rút ra từ cuộc sống và quay trở lại trang điểm cho
cuộc sống bằng vẻ đẹp muôn màu của nó. Thơ ca đã có mặt cùng với sự phát triển
của nhân loại suốt bao thời kì lịch sử và người ta cũng bắt đầu chú ý đến những vai
trò, tác dụng kì diệu của nó đối với cuộc sống, đối với tâm hồn con người. Ý kiến
của nhà thơ Sóng Hồng đã bàn về mối quan hệ giữa thơ với con người và cuộc
sống thời đại đã sản sinh ra nó. Nhưng hiện thực cuộc sống đi vào thơ không phải
là hiện thực trần trụi mà nó được thể hiện một cách cao đẹp, nghĩa là ngợi ca, tự
hào, yêu mến,...bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo. Hai yếu tố con người và
thời đại không tách rời nhau mà gắn bó mật thiết trong cảm xúc và hình tượng thơ.
2. Làm sáng tỏ nhận định
a) Phân tích hình tượng người lính thời chiến trong bài thơ “Đồng Chí” của Chính
Hữu. Nêu ý kiến cá nhân về hình tượng này và cách thể hiện của tác giả.
Họ mang vẻ đẹp cao cả của lí tưởng yêu nước, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh cho Tổ
quốc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”
Giữa cái khắc nghiệt của chiến tranh, sự lạc quan tin tưởng vào ngày mai chiến
thắng đã giúp các anh đứng vững kiên cường trong những năm tháng đánh giặc.
Một nụ cười đậm chất lính được Chính Hữu vẽ lại trong thơ:
“ Miệng cười buốt giá chân không giày”
Điều gì khiến cho những chàng trai quanh năm chỉ quen tay cày tay cuốc ấy đã
hăng lên đường cầm súng chiến đấu? Điều gì khiến những chiếc xe không kính
ngày đêm lao đi trong mưa bom bão đạn? Điều gì khiến những cô gái vốn yếu
mềm có thể hiên ngang chạm vào cái chết vô hình từ những quả bom? Đó chính là
lòng chung thủy với quê hương, với mảnh ruộng nhà mình, với vợ con của mình:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”
Vì nghĩa lớn, họ ra đi không tiếc đời mình, bỏ lại sau lưng tất cả những gì thân yêu
nhất. Cũng như vậy, ở ngoài mặt trận mà biết Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
chứng tỏ họ đang nhớ quê hương, nhớ người mình thương biết nhường nào! Mối
giao cảm đậm đà sâu sắc ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho người lính trên những
chặng đường chiến đấu.
Hình ảnh “ Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi” là những biểu hiện cụ thể về căn
bệnh sốt rét rừng nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không có đủ thuốc men để
chạy chữa. Và hiện thực khó khăn ấy không chỉ xuất hiện trong thơ Chính Hữu mà
trong rất nhiều tác phẩm thơ thời chiến cũng đều có sự góp mặt của căn bệnh này.
K
Và không dừng lại ở đó, người lính còn phải đối diện với cả sự thiếu thốn, khó
khăn về vật chất: “Áo rách vai, quần vài mảnh vá” và “chân không giày”. Nhưng
trong hoàn cảnh ấy, những người lính vệ quốc, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau
bằng những hành động chân thành: “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Họ đã
truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, vì
mục tiêu lí tưởng cách mạng lớn lao, vì hòa bình dân tộc. Và có lẽ tình yêu thương
nhau đã lấp đầy khoảng trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Điều ấy
đã làm cho tình đồng chí thêm keo sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh đoàn kết
trong suốt cuộc kháng chiến trường kì.
Nét nổi bật trong bài thơ chính là hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Đây là một sáng
tạo đặc sắc, giàu chất hiện thực và giàu cảm hứng lãng mạn. Hình ảnh “súng-
trăng” được đặt cạnh nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng: giữa thực tại và
mơ mộng, giữa chiến tranh và hòa bình, giữa chiến sĩ và người thi sĩ. Sự đan cài
giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh vất vả lại
vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính.
b) Phân tích hình tượng người lính thời bình trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” của Nguyễn Duy. Nêu ý kiến cá nhân về hình tượng này và cách thể
hiện của tác giả.
Tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm , bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm, niềm
vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu vì miền Nam. Trong bom đạn khốc liệt
của chiến tranh, anh chiến sĩ vẫn dữ vững tư thế hiên ngang hướng về phía trước,
thực hiện khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Câu thơ
chuyển giai điệu, thanh thản, tự tin:
“ Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Những từ ngữ chọn lọc “ung dung”, “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” thể hiện
tư thế, phong cách anh bộ đội lái xe trên đường ra trận. Tư thế hiên ngang, lòng tự
tin của anh bộ đội còn được biệu lộ ở chỗ bất chấp “ bom giật, bom rung” của kẻ
thù, vẫn cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên, của đất nước, những nét đẹp lãng mạng,
mặc dù cái chết còn lẩn quẩn, rình rập đâu đó quanh anh. Hình ảnh thơ đẹp, mạnh
mẽ:
“ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Những thiếu thốn, khó khăn vật chất lại càng không ngăn được con đường anh đi
tới: “ Không có kính, ừ thì có bụi”; “ Không có kính, ừ thì ướt áo” câu thơ mộc
mạc như một lời nói thường ngày đầy dí dỏm, tinh nghịch: “ừ thì có bụi”, “ ừ thì
ướt áo” đã giúp ta hiểu thêm về người lính trước những khó khăn gian khổ. Có khó
khăn nhưng nào đáng kể gì! Có sao đâu, anh chấp nhận tất cả. Cách giải quyết khó
khăn của anh cũng thật bất ngờ, thú vị:
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điêu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”;
“ Chưa cần thay ,lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Ngôn ngữ bình dị, âm điệu vui thể hiện niềm lạc quan yêu đời của tuổi trẻ sống có
lý tưởng. Tư thế hiên nghang, lòng dũng cảm đã làm nên sức mạnh của anh bộ đội.
Sức mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội vì cạnh anh còn có cả tập thể anh hùng.
Từ trong bom đạn hiểm nguy, “tiểu đội xe không kính” được hình thành, bao gồm
những con người từ bốn phương chung lý tưởng, gặp nhau thành bạn bè.
“ Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Các anh đã cùng chung niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ, của tình đồng đội, tình đồng
chí. Hình ảnh sinh hoạt ấm tình đồng đội:
“ Chung bát đũa nghĩa là gia đình
Võng mắc chông chênh đường xe chạy”.
Những câu thơ này như tái hiện được những âm điệu vui tươi của bài hát “ Năm
anh em trên một chiếc xe tăng”. Tuy mỗi người một tính nhưng ta chung một
lòng”. Đọc những câu thơ tiếp theo, ta thấy rõ khó khăn gian khổ càng nhiều hơn
chiến tranh càng ác liệt hơn:
“ Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có nước”.
Nhưng dù khó khăn ác liệt đến mấy, ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của anh
bộ đội vẫn không hề lay chuyển: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Hình ảnh
tượng “Chỉ cần trong xe có một trái tim” của bài thơ đã nêu bật được lòng yêu
nước và ý chí quyết tâm dành chiến thắng của các anh...
c) So sánh và đối chiếu hai hình tượng người lính thời chiến và thời bình trong hai
bài thơ. Nêu những điểm giống và khác nhau về nội dung, hình ảnh, ngôn ngữ,
cảm xúc. Nhận xét về sự phản ánh con người và thời đại của hai hình tượng này
qua hai bài thơ.
III. Kết bài
Khái quát lại và nhấn mạnh.
"Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp!" (Sóng Hồng)
Em hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu.
GỢI Ý:
1. Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, dẫn được vấn đề cần bàn luận.
2. Giải thích nhận định:
– Thơ: thể loại văn học bộc lộ cảm xúc, tình cảm.
– Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp: Ý kiến này bàn về
mối quan hệ giữa thơ với con người và cuộc sống thời đại đã sản sinh ra nó. Nhưng
không phải miêu tả điều đó đơn giản, máy móc mà thể hiện một cách cao đẹp,
nghĩa là ca ngợi, tự hào, yêu mến… bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo. Hai
yếu tố con người và thời đại không tách rời nhau mà gắn bó mật thiết trong cảm
xúc hình tượng thơ.
3. Chứng minh vấn đề: (thí sinh có thể làm nhiều cách, chẳng hạn chỉ cần làm rõ
vấn đề “vẻ đẹp con người mang đậm chất thời đại” trong bài thơ, hoặc có thể tách
hai phần “con người” – “thời đại”như định hướng dưới đây, nhưng phải có có sự
liên hệ khăng khít )
• Con người:
+ Đó là những người nông dân mặc áo lính ra trận tham gia đánh Pháp bảo vệ nền
độc lập vừa mới giành được, họ mang vẻ đẹp cao cả của lí tưởng yêu nước, sẵn
sàng chiến đấu bảo vệ nền độc lập (Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới) và luôn lạc
quan, tin tưởng (Miệng cười buốt giá).
+ Tình đồng chí là một biểu hiện cao đẹp của người lính: cùng chan hòa, sẻ chia
gian lao, niềm vui để gắn bó keo sơn (đôi tri kỉ – Đồng chí…); cùng hiểu những
nỗi niềm riêng thầm kín (gửi bạn thân cày, mặc kệ gió lung lay, nhớ người ra
lính…); cùng giúp nhau vượt qua gian lao, thiếu thốn (sốt run người, áo anh rách
vai – quần tôi có vài mảnh vá…), để rồi (Thương nhau tay nắm lấy bàn tay), đó là
tình cảm xúc động, thiêng liêng của con người Việt Nam trong chiến đấu.
+ Nổi bật trong bài thơ thể hiện một cách cao đẹp tình đồng chí chính là hình ảnh
Đầu súng trăng treo. Đây là một sáng tạo đặc sắc, giàu chất hiện thực và giàu cảm
hứng lãng mạn. Sức gợi liên tưởng giữa súng – chiến tranh, hiện thực khốc liệt và
trăng – yên bình, mơ mộng, lãng mạn, đó là một biểu tượng đẹp về người lính cũng
là kết tinh phẩm chất tâm hồn Việt Nam trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
• Thời đại :
+ Vẻ đẹp của tình đoàn kết giai cấp, hình ảnh làng quê, ruộng đồng, cái nghèo… là
chi tiết cuộc sống rất chân thực những năm 1948 khi tác giả viết bài thơ này (nước
mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá, ruộng nương, cày, gian nhà, giếng nước, gốc
đa…)
+ Trong bài thơ, người lính xuất hiện trên cái nền của hiện thực khốc liệt những
ngày đầu kháng chiến trường kì (Súng bên súng, rừng hoang sương muối, chờ giặc
tới…) đã thể hiện vẻ đẹp lí tưởng anh hùng của thời đại cách mạng Hồ Chí Minh.
*Nghệ thuật thể hiện con người và thời đại:
+ Ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
+ Hình tượng người lính cách mạng độc đáo.
+ Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn, bay bổng.
+ Vận dụng các biện pháp tu từ đặc sắc.
+ Thể thơ và giọng điệu thủ thỉ tâm tình…
4. Đánh giá chung:
– Ý kiến trên rất đúng đắn vì thơ luôn lấy con người và thời đại làm cảm hứng sáng
tạo. Con người chính là linh hồn của thời đại, thời đại đã tạo ra vẻ đẹp cho con
người.
– Đồng chí là bài thơ độc đáo viết về anh bộ đội cụ Hồ, những người nông dân mặc
áo lính, anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh, một tượng đài tráng lệ mộc
mạc, bình dị mà cao cả thiêng liêng về con người Việt Nam trong cuộc chiến tranh
thần thánh, trường kì chống Pháp, qua đó, cảm hóa ý thức sâu sắc tuổi trẻ hôm nay
về lòng yêu nước và tự hào dân tộc.

You might also like