You are on page 1of 12

Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng khẳng định rằng: 

“Văn học và cuộc sống là hai đường tròn đồng tâm


mà tâm điểm chính là con người”. Thật vậy, văn học chính là “tấm gương” phản ánh cuộc sống con người
và thời đại lịch sử. Văn học xuất hiện với sứ mệnh ghi chép, phản ánh đời thực bằng ngôn từ để từ đó nhắn
nhủ. gửi gắm đến bạn đọc về một điều gì đó. Bàn về vai trò của văn hộc, nhà văn Tô Hoài đã khẳng
định: “Mỗi trang văn đểu soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Còn nhà văn Andre Gide thì nói: “Văn học
không làm – hay không phải chỉ làm công việc của một tấm gương”. Vậy, hai nhận định trên liệu có đồng
nhất hay chăng?
Trước hết ta cần hiểu rõ thông điệp toát lên từ lời nhà văn Tô Hoài – cây đại thụ của nền văn học Việt Nam
hiện đại. “Thời đại mà nó (tác phẩm) ra đời” có thể hiểu theo hai cách. Cách hiểu đơn giản nhất về “thời
đại” chính là bối cảnh xã hội mà tác phẩm ra đời được thể hiện vào trong tác phẩm văn học, là những sự
kiện lịch sử, những biến đồi về mặt chính trị xã hội mà người nghệ sĩ đã quan sát và lồng ghép vào trang văn
cùng với những hình tượng nghệ thuật độc đáo. Bên cạnh đó, “thời đại” của tác phẩm vãn học còn được
hiểu rằng: trong mỗi giai đoạn nhất định, trong sáng tác văn học chia ra làm nhiều khuynh hướng khác nhau
có the có những nét chung nào đó về tư duy nghệ thuật và kì thuật biểu hiện. Dù mồi người có một “gương
mặt” riêng, song tất cả đều làm nên diện mạo chung của giai đoạn văn học đó (chẳng hạn Văn học hiện thực
phê phán 1930 – 1945; Phong trào Thơ mới 1932 – 1945…). Chức năng của văn chương là hướng con người
tới ánh sáng cùa chân – thiện – mỹ, mà muốn cảm hóa con người thì phải xuất phát từ chính con người. Suy
cho cùng Tô Hoài muốn nói với chúng ta ràng: văn chương chăng những phản ánh hiện thực cuộc sống mà
còn ghi dấu ấn về thời điểm lịch sử, xã hội ngay lúc tác phẩm văn học ra đời. Điều này rõ ràng là đúng!
Song, nhà văn Andre Gide lại nói: “Văn học không làm – hay không phải chỉ làm công việc cùa một tấm
gương”. Nhận định này thực chất rất dễ hiểu, “Công việc của một tấm gương” có thể được hiểu rằng công
việc “soi bóng”, sao chép hoàn toàn hình ảnh thật của con người, con vật, đồ vật… mà không hề có sự biến
tấu nào cả. Tác giả nhấn mạnh văn học không phải {“không làm – hay không phái chỉ làm”) tấm gưcmg bê
nguyên xi hiện thực cuộc sống con người vào trong tác phấm một cách thô thiển, cứng nhắc. Hiện thực cuộc
sống khi đi vào tác phẩm phải được lọc qua lăng kính tâm hồn của người nghệ sĩ. Hiện thực phải hiện lên
đầy chất nghệ thuật cùng với những tư tưởng nhân sinh mà nhà văn gửi gắm chứ không phải chỉ là một bản
sao. Văn học không sao chép hiện thực cuộc sống. Văn học chỉ bắt nguồn từ đời sống con người rồi từ đó
người nghệ sĩ thăng hoa trên câu chữ, hiện thực được lồng ghép vào tác phẩm một cách nghệ thuật và đầy ẩn
ý. Mồi nhà văn phải biết chắt lọc những gì tinh túy nhất của cuộc sống, phải chọn cho mình một đôi mắt để
ngắm nghía, khám phá, để họa nên những câu chữ mang ý nghĩa thật sự. Để làm được điều đó, người nghệ sĩ
phải đứng trên mảnh đất hiện thực, phải cảm và thấu đời, hay nói cách khác, khi đứng trước một vấn đề bức
thiết, anh không thể chỉ khoanh tay đứng nhìn, cái anh cần làm là cải tạo xã hội, đưa ra hướng đi, hướng giải
quyết cho vấn đề ấy. Andre Gide đã đề cao vai trò cua hiện thực cuộc sống trong tác phẩm văn học, đồng
thời cũng nhắc nhở người nghệ sĩ không được sao chụp đời sống con người mà phải biến nó thành những
hình tượng nghệ thuật có khả năng tái sinh trong tâm hồn người đọc, gắn liền với những quan niệm quý báu.
Hai nhận định trên tuy bề ngoài có vẻ như đối chọi nhau, nhưng thực chất lại bồ sung cho nhau làm nên đặc
trưng của văn học. Tô Hoài đề cập đến mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Andre Gide giúp ta hiểu rõ
hon mối quan hệ ấy. ông chỉ ra, sao chép cuộc sống không phải mục đích hướng đến của văn học. Tác phẩm
văn học còn dung chứa tâm tình, nỗi niềm, bức thông điệp, sự sáng tạo, … Nói một cách khách quan nhất:
văn học phải thể hiện được dấu ấn cúa thời đại mà tác phẩm ra đời, phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống
nhưng không được mô phỏng lại hiện thực trần trụi, thô ráp một cách nhạt nhẽo. Trên hết tác phẩm vẫn phải
mang tính nghệ thuật, thể hiện sự công phu, khéo léo và dụng công sáng tạo của người nghệ sĩ.

Ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, bài thơ “Đồng chí” của Chính Hừu nhanh
chóng tạo được tiếng vang trong giới độc giả, trở thành bài thơ “bỏ túi” của anh bộ đội Cụ Hồ trên đường ra
mặt trận và sống mãi cho đến ngày hôm nay. Chính Hữu vốn là một người lính hoạt động trong quân đội
suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, bởi thế mà thơ ông mang hơi thở của chiến trường,
mang đậm chất lính của những anh bộ đội Cụ Hồ, những chiến sĩ giải phóng quân với phẩm chất tốt đẹp,
tiêu biểu cho khí phách, lí tưởng của con người Việt Nam thời chinh chiến. Bài thơ “Đồng chí” đáp ứng
được những yêu cầu mà Tô Hoài và Andre Gile đặt ra ở hai quan niệm tưởng chừng như mâu thuẫn trên.

“Đồng chí” là bài thơ “sơ/ bóng thời đại mà nó ra đời”. Bài thơ được Chính Hữu viết vào đầu năm 1948
(cùng thời điểm với những bài thơ bất hủ khác như “Bên kia sông Đuống” của Hoàng cầm. “Tây Tiến” của
Quang Dũng), sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông
1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ viết về một sự kiện
lịch sử có thật trong lịch sử dân tộc, đó là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. “Đồng chí” vừa
mang cảm xúc của “cái tôi” cá nhân. Nhưng cá nhân ấy lại hòa vào dòng người trên những nẻo đường ra mặt
trận, từ sự dấn thân của Chính Hữu, bài thơ mang đậm hào khí của một lớp người thời đại: vừa mang tính
độc đáo của một tâm trạng riêng, vừa mang cảm xúc chung của những con người trong hoàn cảnh mới. Tất
cả đã tạo nên một “Đồng chí” riêng biệt, độc đáo, không hòa lẫn cùng những bài thơ cùng thời đại trong nền
thơ kháng chiến.
Chính Hữu đã phản ánh chân thật đời lính, qua đôi mắt của một nhà thơ quân đội, người lính trong bài thơ
“Đồng chí” hiện lên với những nét hiện đại, mang dáng dấp của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến chống
Pháp. Trong số ít các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến, Chính Hữu là gương mặt tiêu biểu với cảm
xúc thơ dâng trào, với sự dày dặn, đặc sắc về mặt nghệ thuật. Bài thơ “Đồng chí” không mang đậm tính
tuyên truyền như những bài thơ khác, ngược lại nó rất nghệ thuật, rất độc đáo. Chính Hữu không chọn cách
ghi lại khói lửa của chiến tranh, những hi sinh mất mát mà khéo léo đề cập đến tình đồng chí của những
người lính, từ đó khắc họa chân dung người lính Cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp trong lòng mỗi người.

Hình tượng người lính trong bài thơ “Đồng chí” mang vẻ đẹp của sự dũng cảm, anh hùng, bất chấp mọi gian
khổ, thử thách, sẵn sàng xả thân vì lí tưởng cứu nước, sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Tuy các anh ra đi từ những miền quê khác nhau, người thì nơi “nước mặn đồng chua”, người thì chốn “đất
cày lẽn sỏi đá”. Họ chẳng hề quen biết trước, chẳng phải anh em ruột thịt, chẳng cùng xứ sở quê hương. Tuy
nhiên những người lính này đã gặp nhau và tụ nghĩa dưới ngọn cờ cách mạng bởi trái tim yêu nước đỏ rực,
bởi sự tự nguyện ra đi vì lời thề thiêng liêng: “Quyết tử cho Tồ quốc quyết sinh”.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đủ
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chăng hẹn quen nhau ”
Ra đi từ những miền quê nghèo khó của đất nước, ở đấy có “gian nhà không”, có “giếng nước gốc đa”. Tất
cả thật quen thuộc và bình dị, gần gũi và thiêng liêng. Theo tiếng gọi của non sông, các anh đã giã từ quê
hương lên đường đi kháng chiến. Hôm qua là nông dân chân lấm tay bùn, hôm nay đã trớ thành người lính
dũng cảm.
Người lính trong bài thơ “Đồng chí” mang vẻ đẹp thật giản dị, chân chất của những anh bộ đội xuất thân từ
nông dân. Những nét đẹp ấy được thể hiện qua hồn thơ mộc mạc. dân dã của Chính Hữu:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày


Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giêng nước gốc đa nhớ người ra lính ”
Không mang vẻ đẹp kiêu kì “nhất khứ bắt phục hoàn” (một đi không trở lại), cũng không được thể hiện qua
việc xem cái chết nhẹ tựa lông hồng như các tráng sĩ thuở trước. Song người lính trong bài “Đồng chí” lại có
tấm lòng đổi với đất nước thật cảm động. Giặc Pháp đến giày xéo quê hương, các anh đi kháng chiến, gửi lại
làng quê những gì gắn bó nhất, thân thương nhất: mảnh ruộng, ngôi nhà. Tình yêu nước hiện lên tuy giản dị
mà sâu nặng biết bao. Ngay cá nỗi nhớ về quê hương cũng được biểu hiện cụ thể và cảm động. Nghệ thuật
hoán dụ “gian nhà không”, “giếng nước gốc đa” và phép nhân hóa “Giếng nước gốc đa nhớ người ra
lính” được Chính Hữu sự dụng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương của những người ra đi và sự mong đợi của
những người ở lại. Nhưng tình cảm riêng tư bấy giờ chẳng đáng là gì, các anh vẫn dứt khoát ra đi bởi tình
yêu nước còn nồng cháy hơn bội phần.
Cuộc sống chiến đấu đầy khó khăn, nguy hiểm. Trước những gian khổ thiếu thốn đó, người lính đã mạnh mẽ
vượt qua. Chính Hữu nhắc đến những điều đó bằng những chi tiết thật cụ thể. chân thật:

“Anh với tỏi biết từng cơn ớn lạnh


Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Ảo anh rách vai
Ouần tôi có vài mành vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay năm lấy bàn tay ”
Dường như giọng thơ chùng xuống khi Chính Hữu nhắc về những gian khó thời chiến. Đó là căn bệnh sốt
rét rừng khó ai có thể tránh khỏi – nỗi lo sợ lớn nhât của người lính, hơn cả bom đạn quân thù. Nhiều thi sĩ
đã nhắc đến căn bệnh này trong thơ một cách xúc động, với Tố Hữu là “Giọt giọt mồ hôi rơi – Trên má anh
vàng nghệ” (“Cá nước”), với Quang Dũng là “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” (“Tây
Tiến”)…còn với Chính Hữu lại là “từng cơn ớn lạnh”, “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Những chi
tiết này khắc họa hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà người lính phải đối mặt khi đi chiến đấu. Bên cạnh
đó còn là sự thiếu thốn về vật chất: “áo anh rách vai”, “quần tôi có vài mánh vá”, “chân không giày”. Đời
lính hiện lên đầy gian khó! Thế nhưng vẻ đẹp của người lính trong bài thơ được tác giả tập trung ở tình đồng
chí, đồng đội keo sơn gắn bó. Đó là một tình cảm lớn khiến họ từ xa lạ hóa thân quen (“đôi tri kỉ”). Sức
mạnh tinh thần to lớn giúp họ vượt lên hoàn cảnh, coi thường những gian khổ, hi sinh. Chỉ cần “Thương
nhau tay nám lấy bàn tay” trao nhau hơi ấm, sức mạnh là có thê chống chọi được với cơn “sốt run
người”, với những ngày lạnh lẽo “buốt giá”, với những đêm phục kích chờ giặc ở “rừng hoang, sương
muối”.
Quả thật Chính Hừu đà tái hiện lại hiện thực khốc liệt, gian khó mà người lính phải đối mặt trong cuộc
kháng chiến chống Pháp. Hiện thực ây hiện lên sông động, bình dị, đời thường nhưng cũng vô cùng xúc
động, có khả năng in sâu vào lòng người. Chính tình càm. suy nghĩ, tác phong sống giản dị và sự dũng cám
của người lính đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn. Họ thật sự là những người bình thường nhưng không hề
tầm thường. Người lính cách mạng trong bài thơ “Đồng chí” là những người anh hùng của thời đại. sống
nghĩa tình, hồn nhiên cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Ỏ một khía cạnh khác, “bủng dáng thời
đại” trong bài thơ “Đồng chí” còn được thể hiện ờ những đặc trưng cúa thơ ca Việt Nam thời kì đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp mà Chính Hữu nỗ lực thể hiện. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp hiện thực để
phàn ánh đời sống chiến đấu, không hướng tới những cái phi thường tuyệt mĩ mà tô đậm những cái bình
thường, có thật nhưng đầy tính nghệ thuật. Đặc biệt là thơ giàu nhạc tính, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, cô
đọng nhưng vô cùng biểu cảm.
Ra đời năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễn ra ác liệt, truyện ngắn “Những
ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê – cây bút nữ chuyên viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến
đường Trường Sơn máu lửa – lại thể hiện được những đặc trưng về thời đại mà nó ra đời và hiện thực cuộc
kháng chiến chống Mĩ xâm lược. Lê Minh Khuê cũng là một trong những thanh niên xung phong thời chống
Mĩ nên bà hiểu được hoàn cảnh sống và chiến đấu của những người thanh niên trên đường Trường Sơn. Qua
những trang văn “Những ngôi sao xa xôi”, Lê Minh Khuê đã làm hiện lên bức tranh chân thực, cảm động về
cuộc kháng chiến chống Mĩ và hình tượng những thanh niên xung phong tiêu biểu cho vẻ đẹp của tuổi trẻ
Việt Nam những ngày đất nước có giặc.

Cũng như bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, truyện ngán “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê
cũng “sơ/ bóng thời đại mà nó ra đời”. Cùng phản ánh thời điểm lịch sử của đất nước với truyện “Những
ngôi sao xa xôi” là truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyên Ngọc, “Những đứa con trong gia đình” của
Nguyễn Thi, “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu… Tuy khác nhau ở “chất riêng” cúa mồi nhà
văn, song tất cả đã vẽ nên bức tranh chân thật, toàn cảnh về cuộc kháng chiến chống Mĩ đầy máu lửa. Tuyến
đường Trường Sơn thuở ấy trở thành đối tượng cúa sự hủy diệt cùa đế quốc Mĩ. Tuyến đường huyết mạch
này vốn là nơi mà miền Bắc (hậu phương vững chắc) tiếp tế lương thực, súng ống, đạn dược, chở bộ đội vào
Nam (tiền tuyến máu lửa) phục vụ cuộc kháng chiến để nhanh chóng thống nhất đất nước. Lê Minh Khuê đã
tái hiện sự phá hoại của bom Mĩ trên tuyến đường này, sự thương vong của những thanh niên xung phong.
Bút pháp hiện thực được tác giả sử dụng thật độc đáo.
Bên cạnh đó, truyện đã tái hiện chân thật hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Những con đường chính là đối
tượng mà quân Mĩ ném bom phá hoại. Ngay từ những dòng văn mở đầu, dấu ấn về sự phá hoại, hủy diệt đã
được Lê Minh Khuê khéo léo nhắc đến: “Đường bị lở loét”, “những thân cây bị tước khô cháy”, “những
cây nhiều rễ nằm lăn lóc”, “thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất”. Con đường, cây cối, thùng xe…
cũng như con người, cũng bị thương, cũng mang trên mình những vết thương khó mà chữa lành. Thế nhưng
chúng vẫn đứng trơ trơ, vẫn có khả năng hồi sinh như con người trong cuộc chiến. Chỉ với chi tiết nghệ
thuật ngắn gọn: “đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần”, tác giả đã làm nổi rõ sự
nguy hiểm của chiến tranh. Những quả bom từ trên cao cứ lần lượt đổ xuống khốc liệt, có quả đã nổ, có quả
chưa nố. Tiếng “mảy bay đang ầm ì” trở thành âm thanh quen thuộc mà những thanh niên xung phong nghe
được mỗi ngày, dần dần không còn thẩy sợ nữa. Những chi tiết ấy đã nói lên thật nhiều sự khốc liệt của
chiến tranh, sự tàn phá của đế quốc Mĩ – một giai đoạn thương đau mà đất nước Việt Nam, con người Việt
Nam đang trải qua.
Dấu vết của sự hủy diệt còn hiện hình trên cơ thể con người qua những vết thương. Truyện được kể bàng lời
của nhân vật Phương Định – nhân vật chính trong truyện về bản thân mình, về đồng đội mình mà tiêu biểu là
Nho và chị Thao. Những vết thương trên cơ thể của Phương Định đã không còn lạ lẫm nừa: “một vết thương
chưa lành miệng ở đùi”. Khác với Phương Định, bị thương nhưng “không vào viện quân y”, chị Thao sợ
những vết thương chảy máu. Dũng cảm thê nào thì chị Thao cũng là một cô gái, cũng biết sợ hài, cũng giữ
trong sâu thẳm tâm hồn những nét mảnh khảnh của một người phụ nừ thực thụ. Đó là “vết sẹo bóng
lên” trên khuôn mặt chị sau khi phá bom. Còn với Nho, mặc dù bom nổ khiến Nho bị thương “máu tủa ra
từ cánh tay Nho, tủa ra, ngấm vào đất” nhưng vẫn giữ được sự bình tĩnh không hề nao núng: “Không chết
đâu”. Quả là gan dạ. Những vết thương tượng trưng cho sự mất mát, cho thương tích mà chiến tranh ác liệt
đã gây ra còn con người phải hứng chịu. Tuy nhiên họ đã vượt qua tất cả những nỗi đau, sự mất mát ấy bàng
lòng dũng cảm, tình yêu nước thiết tha nồng nàn và những phẩm chất tốt đẹp của người thanh niên xung
phong thời chinh chiến máu lửa.
Hình tượng người thanh niên xung phong với những vẻ đẹp đáng trân trọng được tác giả khắc họa qua nhân
vật Phương Định. Trong khói lửa chiến tranh cô gái này vẫn giữ được nét trẻ trung, xinh đẹp của một cô gái
mới lớn. sống giữa mưa bom bão đạn. Phương Định vẫn quan tâm đến hình thức bên ngoài của mình: “Một
cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đổi mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn”, “có cải nhìn
sao mà xa xăm”. Lại là con gái Hà Thành, Phương Định mang trong mình nét thanh lịch của người Thủ đô,
sự dịu dàng đến đáng yêu: cô yêu âm nhạc, đó là những “hành khúc bội đội hay hát trên nhừng ngả đường
mặt trận”, “dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng”, “Ca chiu sa cua Hồng quân Liên Xô” ; cô đầy mơ mộng,
thường “bó gối mơ màng” và hát vu vơ; cô cũng thường nghĩ về ngôi nhà nhỏ của mình, về Hà Nội “thiệt
xa” trong tâm trí cô… Chính những điều ấy đã giúp Phương Định thêm lạc quan trên bước đường chiến đấu,
giúp cô có thêm sức mạnh đối mặt với những gian khổ, hiểm nguy.
Đáng trân trọng, khâm phục nhất ở Phương Định có lẽ là sự dũng cảm, ngoan cường, sự bình tĩnh và phong
thái ung dung sẵn sàng vượt lên những khó khăn nguy hiểm. Sau mỗi trận bom Phương Định đều cùng đồng
đội lao ra trọng điểm làm nhiệm vụ đo đạc, phá những quả bom chưa nổ. Công việc này rất nguy hiểm và
cận kề cái chết, tuy nhiên Phương Định không hề tỏ ra sợ hãi. Điều này được thể hiện qua hành động “đến
gần quả bom” , thái độ “không sợ nữa”, “không đi khom” mà “cứ đàng hoàng mà bước tới”. Khi nghe
1

lệnh, Phương Định thận bò gói thuốc mìn xuống cái lo đã đào, chám ngòi”. Hành động ấy thật dứt khoát,
chuẩn xác và không kém sự lo sợ. Khi bom nổ rồi, Phương Định “phủi áo, căng mắt nhìn qua khói” như
chưa có chuyện gì xảy ra. Cái chết trong suy nghĩ của Phương Định thật bình thường. Khi phát hiện ra đồng
đội (Nho) bị thương, Phương Định chăm sóc chu đáo: “Rưa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than.
Bông băng tráng” và rồi pha sữa cho Nho. Rõ ràng ngoài sự dũng cảm. Phương Định còn là cô gái giàu tình
cảm với đồng chí, đồng đội, với quê hương, sống ở cái nơi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết cận kề, cô
thanh niên xung phong ấy không cho phép tình yêu thương, tâm hồn mình khô càn đi. Cô mở lòng đón nhận
mọi khó khăn gian khổ bàng sự quả cảm được kế thừa từ những người phụ nữ Việt Nam anh hùng. Cô yêu
thương mọi người, hướng về thủ đô yêu dấu.
Nhân vật Phương Định nói riêng và những cô thanh niên xung phong trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa
xôi” của Lê Minh Khuê gợi liên tưởng đến câu thơ của Huy Cận:

“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử


Nắng cho đời và cũng nắng cho thơ”
Truyện phản ánh chân thực cuộc chiến đấu đầy gian khồ, hi sinh của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ. cụ thể hơn là đời sống chiến đấu của những thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn mà một thuở Tố Hữu đã ngợi ca ràng: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới
dậy tương lai”. Tuy nhiên Lê Minh Khuê đã thể hiện câu chuyện về những nữ thanh niên xung phong bằng
cốt truyện đơn giản, cách kể chuyện tự nhiên, ngôn ngữ sinh động mang hơi thở của chiến trường và đặc biệt
là sự thành công vê miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật cúa nhà văn Lê Minh Khuê.
Hai nhận định trên, một nhận định đề cập đến yếu tố thời đại lịch sử trong tác phẩm văn học, nhận định còn
lại đề cập đến “chất văn”, yếu tố nghệ thuật khi phản ánh hiện thực cuộc sống trong văn chương. Xưa nay,
văn học luôn gắn với đời sống, mang trong mình hơi thở của sự sống. Ngoài ra, văn chương cũng còn mang
trong mình một sứ mệnh cao cả chính là mang ánh sáng cho người đọc. Nhận định của Tô Hoài và Andre
Gide đã rất chính xác khi bàn luận về đặc trưng và thiên chức cúa văn chương nghệ thuật đồng thời nêu lên
phẩm chất mà mồi nhà văn cân có. Đó chính là tiếng nói riêng, phong cách riêng, phải có một sự “độc đáo”.
Đê tác phâm của mình trở thành những kiệt tác, những áng văn thơ bất hu muôn đời, mỗi nhà văn phải trau
dồi năng lực viết và thể nghiệm đời sống, cần trau dồi cái tâm và cái tài của mình, phải “trải niềm đau trên
trang giấy mong manh”. Nhà văn cần phải hướng ngòi bút của mình về cuộc đời. tác phẩm phải truyền thổi
vào lòng bạn đọc nhừng tia sáng cúa niềm tin và hy vọng. Từng câu chữ, lời văn phải len lỏi vào sâu trong
tâm khảm mỗi người để nhằm thanh lọc, nâng đỡ và yêu thương. Mặt khác, tác phẩm chính là thành quà cúa
sự đồng sáng tạo giữa nhà văn và bạn đọc. Độc giả cần có một khả năng tiếp nhận phong phú, khả năng cắt
nghĩa văn bản tốt để có thể hiếu được những vấn đề mà nhà văn đặt ra. Tóm lại, nghệ thuật ngôn từ là hình
thức nghệ thuật cấp cao đòi hỏi tác giả phải huy động nhiều thứ để có được đứa con tinh thần tuyệt vời nhất.
Dầu sao thì trong sáng tác vẫn đề cao phong cách vàn chương của mỗi nhà văn. dù là “.sơ/ bóng thời
đại” hay ”’không phái chi làm công việc của một tam gương”. Phong cách cá nhân và sự sáng tạo luôn là
điều mà văn chương cần có. Dấu ấn của phong cách giúp tên tuổi của tác giả in đậm trong lòng người khó có
thể mờ phai như cách nói đầy hình ảnh của nhà thơ Lê Đạt:
“Moi công dân đểu có một dạng vân tay
Moi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn “
Mỗi nhận định đều có cái lí của tác giả. và thực tế dòng chảy văn học đã chứng minh được tính đúng đắn
của mỗi nhận định, vấn đề trên chẳng những đặt ra những yêu cầu đòi hỏi sự nghiêm túc, công phu và sáng
tạo trong quá trình sáng tác văn chương mà còn đặt ra nhiều điều trong vấn đề tiếp nhận văn chương của độc
giả. Khi khám phá một tác phấm cụ thề người đọc cần nắm rõ những đặc trưng về thời đại mà tác phẩm ra
đời, đồng thời phải khai thác hết những ẩn ý đằng sau các hình tượng nghệ thuật mà nhà văn cố công xây
dựng. Chỉ có như thế chúng ta mới đánh giá khách quan, xác đáng nhất giá trị của tác phẩm văn học mà
chúng ta trải nghiệm.

Trong tiểu thuyết “Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ”, nhà văn Svetlana Alexievich từng trải lòng: “Bởi tinh thần
của con người không mạnh mẽ, cũng không được bảo vệ như ta tưởng. Nó cần được nâng đỡ, cần ta tìm kiếm cho nó sức mạnh từ
đâu đó… Tôi muốn viết về lịch sử của cuộc chiến tranh ấy. Lịch sử của những người phụ nữ”. Có lẽ là vậy, văn chương luôn là
chuyện muôn đời, muôn người. Người nghệ sĩ như kẻ đa đoan ôm trọn vào lòng bao nỗi buồn đau khắc khoải, để rồi rót tất cả lên
từng con chữ, len lỏi vào sâu trong tâm khảm bạn đọc, bầu bạn với những linh hồn đơn côi quạnh quẽ, xóa tan đi những mảng
màu băng giá của trái tim cô độc và chai sạn. Vậy phải chăng sứ mệnh của văn chương nghệ thuật chính là phản ánh đời sống,
thanh lọc đời người và đồng thời tái tạo lại thế giới? Cùng với những dòng suy nghĩ ấy, nhà văn Tô Hoài cho rằng: “Mỗi trang văn
đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Nhưng Marcel Proust lại quan niệm: “Thế giới được tạo lập không phải một lần mà mỗi lần
người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Vậy hai ý kiến trên có ý nghĩa như thế nào?

 Từ cổ chí kim, văn chương vẫn luôn lấy con người và cuộc đời làm cứu cánh. Đến với văn chương là đến với thế giới, là
được thanh lọc, giáo dục, mở rộng tâm hồn. Khi bàn luận về đặc trưng của văn học, Tô Hoài cho rằng: “Mỗi trang văn đều soi
bóng thời đại mà nó ra đời”. Đó chính là lẽ tất yếu của văn chương nghệ thuật. Tác phẩm phải trở thành một tấm gương phản ánh,
soi chiếu đời sống, phải là một khúc xạ của đời sống. Mỗi tác phẩm đều phải “soi bóng thời đại”, phải cho con người ta thấy được
bản chất của sự sống, của cuộc sống thực tại. Nhưng nếu chỉ đơn thuần mang trong mình hơi thở của thời đại thì vẫn chưa đủ làm
nên sức nặng của tác phẩm. Trong mỗi trang văn cũng đồng thời cần hiện lên một thế giới mới – thế giới được tạo lập từ những
người nghệ sĩ tài hoa, là thế giới của ước mơ và hy vọng. Chính vì lẽ đó, Marcel Proust quan niệm rằng: “Thế giới được tạo lập
không phải một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. “Người nghệ sĩ độc đáo” ở
đây chính là muốn nói đến phong cách, tài năng đôc đáo và riêng biệt của mỗi người nghệ sĩ. Thông qua cái tài năng ngòi bút ấy
thì “một lần thế giới được tạo lập”. Đó là sự kiến tạo nên một thế giới với đầy tin yêu và hạnh phúc, là sự tạo lập nên một thế giới
“nó phải là”. Ngoài ra, tạo lập thế giới mới còn được hiểu là sự bổ sung, giáo dục con người những suy nghĩ và tư tưởng tiến bộ,
những lập trường và quan điểm đúng đắn để từ đó con người tác động ngược lại vào cuộc sống, góp phần tạo nên một thế giới mới
tươi đẹp hơn. Như vậy, ý kiến của Tô Hoài và Marcel Proust đã rất chính xác khi bàn luận về đặc trưng của văn học và chức năng
của văn học. Mỗi tác phẩm vừa phải thấm đượm cái hơi thở của thời đại, vừa phải hướng ra một luồng sáng đầy ý nghĩa cho bạn
đọc và đồng thời phải in đậm dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ.

Nhìn chung, hai nhận định trên tưởng chừng như mâu thuẫn, đối lập nhưng thật chất là bổ sung ý nghĩa cho nhau. Chế Lan
Viên đã từng nhận xét: “Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi. Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang”.
Vì thế, mỗi tác phẩm văn học phải là một bức tranh về đời sống, phải chứa trong mình cái nhịp của thời đại, phải in dấu được “dấu
vân tay” nghệ thuật của người nghệ sĩ và đồng thời phải mang trong mình một sự vận động để nhằm kiến tạo nên thế giới mới tốt
đẹp hơn.
Cuộc sống chính là nơi cung cấp chất liệu cho văn chương mà văn chương thì lại được phát khởi từ cuộc sống nên thấm đẫm
trong từng lời thơ, con chữ chính là hơi thở của cuộc sống. Chính vì vậy mà nhà văn Tô Hoài cho rằng: “Mỗi trang văn đều soi
bóng thời đại mà nó ra đời”. Phải chăng có mối liên hệ thầm kín nào giữa sự sáng tạo âm thầm của mỗi cá nhân nghệ sĩ với những
biến động của cuộc đời?  Nhà văn bao đời nay luôn tìm đến hiện thực như một mạch nguồn cảm hứng sáng tác. Họ tìm đến những
đau khổ ai oán, những bi thương cùng cực, những đớn đau đoạn trường như một nguồn tài nguyên vô tận cho tác phẩm của mình.
Sẽ ra sao nếu tác phẩm của anh chỉ là những thứ viển vông, hư ảo, chỉ là những điều giả dối, huyễn hoặc? Victor Hugo có lần tâm
sự về nghề viết của mình: “Bể khổ của nhân loại là nguồn khai thác không bao giờ vơi cạn của đời tôi”. Hay Giáo sư Lê Huy Bắc
đã từng cho rằng: “Nghệ thuật chỉ đạt đến đỉnh cao của nó khi được chắt lọc từ những nỗi đau đích thực của cuộc đời”. Văn
chương bao đời luôn gắn mình với thời đại, với cuộc sống con người. Nó được ra đời từng những cơn rung chấn, biến động của
cuộc đời. Bất kì một sáng tác nào, cho dù được viết theo lối chủ nghĩa hiện thực huyền ảo hay trường phái siêu thực thì tất cả đều
phải gắn liền với cốt lõi của hiện thực. Hiện thực chính là nguồn gốc của nhận thức, của ý thức, là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng
nghệ thuật và đồng thời là chìa khóa lí giải các hiện tượng phức tạp của đời sống. Hiện thực như một bộ phận cấu thành để tạo nên
nghệ thuật. Mặt khác, chức năng của văn học chính là trở thành “thứ vũ khí thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo
một thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Muốn như thế, văn học phải phản
ánh hiện thực cuộc sống, phải cho người ta thấy được bản chất cốt lõi của sự sống, những vấn đề xung quanh con người. Nghệ
thuật tự nó không thể thay thế được cách mạng, không tạo ra nổi những tiến trình lịch sử, nhưng thông qua sự tác động tới những
tư tưởng, tình cảm con người, nó tham dự vào sự vận động chung của xã hội như một nhân tố thúc đẩy hoặc kìm hãm. Tác phẩm
sẽ rơi vào quên lãng nếu nó chỉ là sự sáo rỗng, vô hồn, nếu nó chẳng phản ánh được những gì đang diễn ra trên cuộc sống này. Vì
vậy, để những con chữ kia trở thành những áng văn thơ “lụy phần dư”, để những tác phẩm kia nằm ngoài quy luật phá hủy của
thời gian thì mỗi trang văn đều phải “soi bóng thời đại mà nó ra đời”.

Nhưng thử ngẫm nghĩ xem, nếu văn chương chỉ đơn thuần là khắc họa đời sống, là lát cắt của cuộc đời mà chẳng hề mang lại
giá trị lợi ích nào cho chúng ta thì liệu rằng nó có thể tồn tại lâu bền với thời gian hay không? Mỗi tác phẩm còn phải là sự giáo
dục, hướng tới sự đúng đắn, phải tạo lập nên một” thế giới mới” thông qua tài năng ngòi bút của người nghệ sĩ “độc đáo”. Trong
“Lược khảo văn học”, Giáo sư Nguyễn Văn Trung có viết: “Trước một thế gian tan vỡ hoặc có nguy cơ tan vỡ, nhà văn nhặt
nhạnh từng mảnh vỡ để tái tạo lại chính nó, đồng thời kích hoạt sợi dây đàn cảm xúc của con người”. Theo thuyết phân tâm học
của Sigmund Freud, mỗi tác phẩm trước hết phải là một giấc mơ. Đó là giấc mơ về thế giới mới, cuộc sống mới chứa chan đầy
hạnh phúc và hy vọng. Tác phẩm văn học phải vẽ nên được một thế giới mới trong sự khát vọng và ước ao. Hơn thế nữa, văn
chương phải giúp ta thay đổi nhận thức, tư duy và suy nghĩ của chúng ta để từ đó kiến tạo nên một thế giới “nó nên là và phải là”
(Aristotle). Bản chất vốn đã thế, văn chương mang lại nguồn sáng, nguồn sống cho cuộc đời, nó phải tạo lập nên được một thế
giới mới bẳng những con chữ, lời văn. Văn học phải mang trong mình chức năng giáo dục, thanh lọc, thuần hóa tâm hồn con
người. Nó phải cho ta thấy được sự chân-thiện-mỹ, nó phải gieo vào tâm khảm mỗi người sự đồng điều và yêu thương. Nó phải
xây dựng được ở con người khát vọng vươn lên, biết tự soi mình để có được những nhận thức đúng đắn để rồi tác động ngược lại
vào cuộc sống một cách tích cực:

“Tôi nhìn thấy


trong trang sách chưa đọc
sự vắng mặt của mình
thấy trong cái bóng mất hình
ánh tà dương cũ
tan tình trong sương
tôi nhìn thấy một nỗi buồn”.
                   (“Cái bóng mất hình”, Nhật Chiêu)

Đọc một tác phẩm văn học, ta chẳng cần quan tâm đến quốc tịch, màu da, sắc tộc của nhân vật. Điều mà ta cần chú ý đến
chính là những hình tượng nghệ thuật, tâm lý nhân vật, tính cách, cách ứng xử, …Thông qua những hình tượng ấy, có vẻ dường
như văn chương chất chứa trong mình sự vận động, nó khiến cho mọi người tự soi mình và tự nhận thức mình để từ đó “một lần
nữa thế giới được tạo lập” thông qua ngòi bút sắc sảo của tác giả. Chính vì lẽ đó, để tác phẩm của mình trở thành những tuyệt tác
muôn đời, để tác phẩm “nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết” (Sedrin) thì mỗi nhà văn cần
tạo lập nên một thế giới mới thông qua những ngôn từ nghệ thuật, cần gieo vào lòng bạn đọc những chân lý và tư tưởng.

Ngoài ra, nhận định của Marcel Proust còn nhấn mạnh ở chỗ “người nghệ sĩ độc đáo”. Bên cạnh việc phản ánh hiện thực
cuộc sống và mang lại những giá trị cao cả cho người đọc, tác phẩm văn học còn phải mang đậm cá tính sáng tạo của người nghệ
sĩ. Mỗi người nghệ sĩ cần phải có sự độc đáo trong phong cách sáng tác. “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay,
làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai
khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao). Bản chất của hoạt động sáng tạo chính là phủ nhận cái cũ và tiếp thu cái mới. Để
có thể tác động sâu mạnh tới bạn đọc nhằm xây dựng nên một thế giới mới, tác phẩm phải để lại sức ấn tượng mạnh mẽ trong lòng
bạn đọc. Người nghệ sĩ phải gửi vào trang viết kia những dấu ấn cá nhân, cái tôi hiện sinh, cái tôi bản ngã của chính mình. Anh
phải thể hiện được góc nhìn mới, nội dung mới, chủ đề mới, phải có sự khác biệt với các nhà văn khác và với cả chính mình trong
xưa cũ. Bạn đọc sẽ hoàn toàn phớt lờ đi tác phẩm nếu như cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ hiện lên trên trang văn kia chỉ như
“sương khói mờ nhân ảnh”. Như vậy, trong từng trang thơ hai mặt giấy kia cũng đồng thời phải in đậm “dấu vân tay nghệ thuật”
riêng của người nghệ sĩ.

Văn chương vốn tự thân của nó đã mang trong mình những sứ mệnh cao cả và những đặc trưng riêng biệt. Mỗi trang văn tựa
như một trang đời. Hơn thế nữa trên cái trang văn kia còn hướng ra một luồng ánh sáng cho người đọc, đem đến cho độc giả vô
vàn những giá trị lợi ích cao đẹp thông qua từng con chữ, thông qua ngòi bút “độc đáo” của tác giả. Nhà văn ví như một kẻ diễn
xiếc ngôn từ. Họ giao thoa vào cõi đời vội vã để rồi bật lên từng hồi vang vọng, gột rửa thời đại bằng chính giọt nước mắt của thi
ca.

Bao đời nay, nhà văn luôn tìm kiếm hạt bụi vàng lắng sâu trong lớp vỉa trầm tích của hiện thực như một chất liệu để làm nên
tác phẩm của mình. Từ những chi tiết hiện thực ấy, nhà văn muốn khái quát nên một thời đại, một lịch sử với đầy rẫy những mất
mát và đau thương. Chẳng những vậy, qua những chi tiết ấy, người nghệ sĩ như muốn nhắn gửi đến bạn đọc một thông điệp đầy ý
nghĩa, muốn gieo vào lòng bạn đọc sự đồng cảm và thương xót, muốn vẽ nên một thế giới mới với sự hạnh phúc và an yên. Điều
này có lẽ rất giống với “Tây Tiến” của Quang Dũng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Cảm hứng anh hùng kết hợp với bút pháp lãng mạn đã miêu tả rõ nét những khốn cùng của hiện thực tàn khốc thấm đẫm đau
thương và đồng thời thể hiện được nét đẹp hùng dũng của người lính Tây Tiến. “Quân xanh màu lá” là tượng trưng cho những
khổ đau, bệnh tật, tiều tụy mà chiến tranh, do sốt rét rừng gây ra. Nhưng đối lập với hình ảnh đó chính là một sự hùng dũng “dữ
oai hùm”. Đó là khí phách hiên ngang, chất phác và ngang tang, bất chấp mọi gian khó của đoàn binh Tây Tiến. Dù cho phải chịu
đựng bao cơ cực đắng cay như, dù cho phải chịu bao sự mất mát, hy sinh và ly biệt “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”, “Rải rác
biên cương mồ viễn xứ”,… nhưng hình ảnh người lính hiện lên với một khí chất đầy anh hùng, đầy nhiệt huyết “Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh”. Nếu chỉ đơn thuần là khắc họa hiện thực với đầy khổ đau bất tận thì chẳng thể nào làm nên sức nặng của tác
phẩm, chẳng thể làm nên một khúc tráng ca đầy hào hùng và oanh liệt. Cái “độc đáo”, cái mới lạ của Quang Dũng ở đây chính là
khắc họa hình ảnh chiến trường đầy đau đớn đã làm người lính tiều tụy nhưng không hề gục ngã trước cuộc đời, trước số mệnh. Ở
“Tây Tiến”, ta không chỉ thấy những hình ảnh quen thuộc từ các ngòi bút khác như: “áo anh rách vai/ quần tôi có vài mảnh vá”
(Chính Hữu) hay “áo vải chân không/ đi lùng giặc đánh” (Nguyên Hồng) mà ta còn thấy được một hình ảnh đầy cao thượng “Gục
lên súng mũ bỏ quên đời”, ta còn thấy được tồn tại trong tâm hồn người lính còn có cả những nét lãng mạn nhẹ nhàng “Đêm mơ
Hà Nội dáng kiều thơm”. Bằng ngòi bút điêu luyện và cái nhìn tinh tế, độc đáo của mình, nhà thơ đã khắc họa nên hình ảnh người
lính với đầy nhiệt huyết và tinh thần hăng hái, bất chấp mọi hiểm nguy gian khó, sẵn sàng hướng ra tiền tuyến bảo vệ Tổ quốc.
Qua từng lời thơ, nhà văn muốn khắc họa toàn diện về một chiến tranh với đầy rẫy những đớn đau, chứa đựng bao nỗi cùng cực,
sự chia lìa, ly biệt để rồi từ đó nhen nhóm lên trong lòng độc giả sự thương cảm với những người đã xả thân mình vì sự nghiệp Tổ
quốc, khơi dậy tình yêu quê hương đất nước và đồng thời nói lên những khát khao về đất nước, “thế giới mới” độc lập, yên bình.

Khi bàn luận về quá trình sáng tạo Ivan Turgernev đã từng quan niệm rằng: “Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi
nghĩ rằng cũng có thể có trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói riêng của mình”. Thật vậy, điều làm nên sự
hấp dẫn của tác phẩm chính là sự độc đáo và mới lạ của người nghệ sĩ. Nếu văn chương chỉ là sự lặp lại quen nhàm, chán nản thì
chắc chắn rằng vận mệnh của nó sẽ là cái chết. Thử hỏi xem điều gì đã làm nên một “Truyện Kiều” được vang danh lâu bền đến
tận ngày hôm nay? Phải chăng đó chính là nhờ sự độc đáo trong ngòi bút, trong đề tài của Nguyễn Du khi ông lựa chọn viết về
người phụ nữ phong kiến mà xã hội đương thời hiếm khi nào có? Điều gì đã khiến cho nữ sĩ Hồ Xuân Hương lại có một sức ảnh
hưởng sâu sắc và mạnh mẽ trong lòng bạn đọc? Đó có phải là nhờ sự ý thức nữ quyền, sự phản kháng mạnh mẽ và khí chất ngang
tàng “Nín đi kẻo thẹn với non sông”? Thơ của Hồ Xuân Hương nhuốm chút vị buồn pha vị chua chát nên tình đã phả vào văn một
cách lạ kì, chẳng ai bắt chước được mà cũng chẳng bắt chước được ai. Chính vì vậy, “Nhà văn không có phép thần thông để vượt
ra ngoài thế giới này nhưng thế giới trong con mắt nhà văn phải có hình sắc riêng” (Hoài Thanh). Cái nhìn của mỗi nhà văn về sự
vật phải khác biệt so với chung quanh.

Cùng viết về hiện thực, lịch sử đẫm máu và bi thương nhưng điều gì đã khiến cho “Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ
nữ” của Svetlana Alexievich lại trở nên hấp dẫn và độc đáo đến thế? Sức hấp dẫn lớn lao cho tác phẩm chính là ấn tượng chủ quan
của nhà văn về hiện thực chiến tranh. Nhìn lại lịch sử thông qua lăng kính của một con người từng chịu đau đớn bởi chiến tranh và
may mắn sống sót sau chấn thương, nhìn lại quá khứ với vị trí của con người sống ở thực tại, nhìn lại một thời hoa lửa với góc
nhìn của người phụ nữ từng trực tiếp ra chiến trường, Svetlana Alexievich muốn tố cáo tội ác của chiến tranh đã đay nghiến tâm
hồn lẫn thể xác của con người để rồi vẽ nên một sự thanh bình êm dịu, muốn gieo vào lòng bạn đọc sự căm phẫn về chiến tranh
phi nghĩa, sự thương xót cho những thể xác đã từng chịu đớn đau bằng chính ngòi bút sắc sảo, mới lạ của mình:

Xuyên suốt thiên truyện, nhà văn đã viết về những cô gái xả thân nơi tiền tuyến: “họ mười bảy, mười tám tuổi, phần động
vừa ra trường hoặc năm hai đại học”. Những cô gái tuổi đời còn rất trẻ, tưởng chừng như không thể làm được những việc nặng
nhọc, nhưng họ vẫn quyết định ra đi, bất chấp đối mặt với những gian khó và cơ cực “người ta vội vàng dạy họ cách sử dụng một
khẩu tiểu liên, một khẩu súng máy. Ném bom và đặt mìn. Họ thuần thục tất cả các nhiệm vụ quân sự, thậm chí đó là những nhiệm
vụ dành cho con trai”. Nhưng đó vẫn chưa phải là điều làm nên sức hấp dẫn cho tác phẩm. Svetlana Alexievich đã nhìn nhận
chiến tranh với con mắt của người phụ nữ: thoáng chút đượm buồn phôi pha, nữ tính. Là phái nữ ra chiến trường, họ vẫn chính là
họ, “giành giữ lãnh địa bên trong họ”. Vào mùa xuân, các cô mang về một cành cây con cắm giữ trong nước, như nhìn vào đó mà
tiếp thêm cho mình sức sống, họ luôn chứ ý giữ cho mình nụ cười tươi nhất có thể. Nhưng môi trường kỷ luật và khắc nghiệt của
chiến tranh đã không cho phép họ làm như vậy, họ đành tiếc nuối chôn giấu những mong muốn ấy vào sâu bên trong cái ưu tư của
riêng mình. Cũng chính vì phái nữ tham gia tiền tuyển nên sự tổn thương giày xéo lên họ càng lớn hơn gấp bội phần. “Bọn SS
đang tới rất gần. Không ai dám truyền đạt lệnh của người chỉ huy, nhưng tự người mẹ đoán ra. Cô nhận đứa bé địu trên người
xuống nước và giữ hồi lâu… Đứa bé không còn rống lên nữa. Nó đã chết". Chiến tranh đã hủy diệt con người, hủy diệt sự sống.
Bản chất, thiên chức của người phụ nữ là sản sinh ra sự sống, vun đắp nên sự sống và mang đến tình yêu thương nhưng tại sao
trong chiến tranh, họ buộc phải giết người, giết chết đi cái bản tính yêu thương của mình, giết chết đi sự nữ tính của mình. Chiến
tranh đã khiến cái bản năng giới tính của họ bị giới hạn. Họ như đã bị đánh cắp đi cái nữ tính bên trong của mình. Và đau đớn
không chỉ đơn thuần xảy ra ở chiến tranh mà nó còn di căn đến thực tại, đến hậu chiến tranh. Những thương tổn ấy dường như đã
đeo bám, ám ảnh dài dặc, hằn sâu trong tâm trí người lính nữ: “Tôi giặt quần áo, tôi nấu ăn, nó vẫn ở đấy, nó đeo bám tôi khắp
nơi… đối với tôi, tất cả đều là mùi máu”. Họ đã bị ám ảnh bởi những xác chết, bởi máu, súng trường đạn dược. Tất cả những điều
đó đã gây ra bao thương tổn cho họ. Có thể nói, chiến tranh quốc gia kết thúc cũng là lúc họ phải đối diện với một cuộc chiến
tranh khác, cuộc chiến chống lại những thành kiến, chống lại tuổi già, bệnh tật và cả những nỗi ám ảnh dai dẳng. Đó là cuộc hành
trình đi tìm lại bản ngã của chính mình, hàn gắn lại những tổn thương. Svetlana Alexievich viết những điều ấy để cho độc giả thấy
rằng: đằng sau hào quang chiến thắng của những người anh hùng còn là những góc khuất mà ta chưa thấu rõ, còn là đầy rẫy sự bi
thương mà không thể nào hóa giải. Tự sự về chấn thương là hành trình diễn lại nỗi đau và khắc sâu nỗi đau. Mượn những vấn đề
của xã hội thực tại, mượn những sang chấn tâm lý của những người phụ nữ, bà đã tố cáo cái bỉ ổi, cái phi lý của chiến tranh, nói
lên cái hậu quả nặng nề mà nó mang lại kéo dài dằng dặc lâu bền không chấm dứt. Nỗi thống khổ của chiến tranh không dừng lại
ở việc “quân xanh màu lá”, cũng chẳng còn là “không có kính rồi xe không có đèn/ không có mui xe, thùng xe có xước”. Đó còn
là những nỗi đau đớn về thể xác lẫn tinh thần, là nỗi đau đánh mất đi sự nữ tính và lòng bao dung bên trong mình, là những ám
ảnh chôn sâu vào tâm khảm của mỗi người. Cái độc đáo, cái “hình sắc riêng” của nhà văn ở đây được thể hiện qua con mắt những
người từng tham gia chiến tranh – những người phụ nữ - để tác phẩm trở nữ tính hơn mà hầu hết xưa nay các tác phẩm khác đều
nhìn qua con mắt nam giới, từ đó nhà văn muốn lột tả được chiến tranh đã lấy đi tuổi tác, sức mạnh tinh thần lẫn thể xác và cả bản
tính của con người khiến cho “chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ”. Đó cũng là khát khao cũng muốn tạo lập nên một thế
giới mới, một thế giới hòa bình, mong muốn giành lại bản tính nữ bên trong của những người lính, tìm lại bản ngã, ẩn ức của
những chiến binh Liên Xô. “Con người sau bao nhiêu đau khổ sẽ biết thương xót nhau. Họ sẽ thương yêu nhau. Nhân loại sẽ thay
đổi”. Bằng chính bản thân “người nghệ sĩ độc đáo”, cái “độc đáo” của nhà văn là muốn con người ta nhìn nhận đúng về chiến
tranh, về sự tang thương, đầy tang tóc và tàn khốc của nó chứ không đơn thuần là là những khốn cùng, khó khăn của chiến tranh,
để từ đó khơi vào lòng bạn đọc sự trắc ẩn, thương cảm, góp phần kiến tạo nên thế giới mới. Qua tác phẩm, nhà văn muốn gửi đến
độc giả bức thông điệp về tự do, hòa bình. Thế giới đã đi qua chiến tranh, đã tìm thấy màu xanh hòa bình của nó, nhưng trong con
mắt của những người từng tham gia chiến trường, họ sống giữa thời bình mà kí ức về chiến tranh vẫn ám ảnh mãi. Bầu trời hòa
bình ấy như một món quà mà Thượng Đế ban tặng, đền đáp cho sự hy sinh cao cả, đó cũng đồng thời là lời gợi nhắc về sự biết ơn,
trân trọng sự sống, trân quý sự tự do và hạnh phúc.

Từ xưa đến nay, văn chương luôn phản ánh đời sống, mang trong mình hơi thở của sự sống. Ngoài ra, văn chương cũng còn
mang trong mình một sứ mệnh cao cả chính là mang ánh sáng cho người đọc. Nhận định của Tô Hoài và Marcel Proust đã rất
chính xác khi bàn luận về đặc trưng và thiên chức của văn chương nghệ thuật đồng thời nêu lên phẩm chất mà mỗi nhà văn cần
có. Đó chính là tiếng nói riêng, phong cách riêng, phải có một sự “độc đáo”. Để tác phẩm của mình trở thành những kiệt tác,
những áng văn thơ bất hủ muôn đời, mỗi nhà văn phải trau dồi năng lực viết và thể nghiệm đời sống, cần trau dồi cái tâm và cái
tài của mình, phải “trải niềm đau trên trang giấy mong manh”. Nhà văn cần phải hướng ngòi bút của mình về cuộc đời, tác phẩm
phải truyền thổi vào lòng bạn đọc những tia sáng của niềm tin và hy vọng. Từng câu chữ, lời văn phải len lỏi vào sâu trong tâm
khảm mỗi người để nhằm thanh lọc, nâng đỡ và yêu thương. Mặt khác, tác phẩm chính là thành quả của sự đồng sáng tạo giữa nhà
văn và bạn đọc. Độc giả cần có một khả năng tiếp nhận phong phú, khả năng cắt nghĩa văn bản tốt để có thể hiểu được những vấn
đề mà nhà văn đặt ra.

Dòng thời gian vẫn trôi chảy theo bản chất của nó. Hiện thực rồi cũng thành quá khứ, thời gian rồi cũng trở thành lịch sử.
Duy nhất chỉ có những tác phẩm chân chính, tác phẩm mang trong mình cái nhịp của thời đại, mang đậm dấu ấn bản ngã của
người nghệ sĩ và mang lại giá trị lợi ích cho người đọc thì mới tồn tại mãi với thời gian.
- Ý kiến của nhà văn Tô Hoài:"Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời":
+ Văn học bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, xã hội nào thì văn học ấy. Văn học ở từng giai đoạn lịch sử sẽ không giống
nhau.
+ Chức năng của văn chương là hướng con người tới ánh sáng của chân - thiện - mỹ, mà muốn cảm hóa con người thì phải
xuất phát từ chính con người.
+ "...văn học không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, văn học chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát
ra từ những kiếp lầm than" (Nam Cao) : ánh trăng kia huyền ảo, thơ mộng thật nhưng nó sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không
gắn với đời sống con người, bởi những gì con người cần khi đến với tác phẩm văn chương là sự đồng điệu trong cảm xúc,
sự thấu hiểu trong tinh thần, những gì quá cao xa sẽ không xứng là tác phẩm chân chính.
- Ý kiến của nhà văn Gide "Văn học không làm hay không phải chỉ làm công việc của 1 tấm gương":
+ Văn học phản ánh cuộc sống, nhưng không phải bản photocopy cứng nhắc của đời sống.
+ Mỗi nhà văn phải biết chắt lọc những gì tinh túy nhất của cuộc sống, phải chọn cho mình một đôi mắt để ngắm nghía,
khám phá, để họa nên những câu chữ mang ý nghĩa thật sự.
+ Để làm được điều đó, người nghệ sĩ phải đứng trên mảnh đất hiện thực, phải cảm và thấu đời, hay nói cách khác, khi đứng
trước một vấn đề bức thiết, anh không thể chỉ khoanh tay đứng nhìn, cái anh cần làm là cải tạo xã hội, đưa ra hướng đi,
hướng giải quyết cho vấn đề ấy.
=> Ý kiến của hai nhà văn trên không mâu thuẫn nhau mà hỗ trợ, gắn bó mật thiết với nhau: Văn học phản ánh cuộc sống
chứ không phải những thứ xa vời, nhưng phải phản ánh một cách có chọn lọc nhằm nêu lên một ý nghĩa, một thông điệp.

You might also like