You are on page 1of 4

ĐÂY THÔN VĨ DẠ

Raxun Gamzatop từng nhận định: “Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là
một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp.
Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp
của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ.” Trong nền văn học Việt Nam, Hàn Mặc Tử là thi sĩ có
diện mạo thơ vô cùng phức tạp và bí ẩn, đó cũng chính là bút pháp riêng của ông. Trong đó,
“Đây thôn Vĩ Dạ” là niềm cảm hứng vô tận về địa danh quê hương với những đường nét khắc
hoạ độc đáo nhất. Bài thơ là bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh của nhân vật trữ tình.
Hãy cùng giở lại trang sách xưa để có cái nhìn sâu hơn về khổ … của bài thơ.
Hàn Mạc Tử tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, quê làng Lệ Mĩ, Phong Lộc, Quảng Bình.
Đó là một cuộc đời hết sức lãng mạn và đầy bi kịch khi ông qua đời ở tuổi hai mươi tám do
mắc bệnh phong. Thế nhưng, đó cũng là một trong những hồn thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ
nhất trong phong trào Thơ mới với những dòng thơ hồn nhiên, trong trẻo và cả điên loạn.
“Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong tập “Thơ Điên”, được sáng tác năm 1938 khi nhà thơ đã phát
bệnh. Được gợi cảm hứng từ bức bưu ảnh được gửi bởi Hoàng Cúc, bài thơ vừa tả cảnh đẹp
thôn Vĩ Dạ, vừa bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình - thiết tha yêu đời nhưng cũng đầy u
uẩn.
Bức tranh hoài niệm thiên nhiên, về cảnh Vĩ Dạ lúc bình minh hiện lên thật đặc biệt:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Mở đầu là câu hỏi tu từ vừa như một lời chào thân mật vừa như lời mời mọc ân cần tha
thiết, lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ. Song, đây cũng chính là lời nhà thơ tự trách
mình, tác giả như tự phân thân để chất vấn chính mình. Ông tự hỏi đã bấy lâu nay không về
thăm lại vùng đất ấy, bộc lộ niềm khao khát, nỗi nhớ quê hương cứ đau đáu trong lòng. Ngặt
nỗi, lúc ấy Hàn Mặc Tử đang bị bệnh, làm sao có thể trở về được mà cũng có thể mãi không
trở về được. Chẳng phải là “ghé” hay “ra” mà lại là “về”, gợi tình cảm thân thương, thăm lại
thôn Vĩ là về nơi mình đã từng gắn bó, có nhiều kỉ niệm. Lời thư được diễn thành thơ với sáu
thanh bằng, êm dịu như một lời hoài niệm bâng khuâng. Như vậy, về với Vĩ Dạ cũng là về với
cuộc đời “ngoài kia”, khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ nhiều hoài niệm sâu sắc.
“Nắng mới lên” là nắng sớm buổi bình minh khi vườn tược còn ướt đẫm sương đêm.
Ánh sáng tinh khôi đã bừng sáng, soi lên những tán cau thật long lanh, ấm áp và thanh khiết.
Điệp từ “nắng” không chỉ thể hiện sự tràn ngập ánh sáng, sức sống mà còn bộc lộ tâm hồn
luôn hướng về ánh sáng, hướng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Nhịp thơ 1/3/3 như bước chân
khoan thai của bất kỳ vị khách nào về với thôn thôn Vĩ, làm bừng sáng cả một khoảng trời hồi
tưởng.
Bằng ngòi bút tài hoa, Hàn Mặc Tử đã họa lên bức tranh ngôn từ về vẻ đẹp thôn Vĩ có
thấp thoáng hình dáng của con người trong đó:
“Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Thi nhân vẫn mãi mê say đắm cảnh sắc quê hương. “Ai” là cách nói phiếm chỉ, mơ hồi,
gợi nhiều cảm xúc vừa “ngại ngùng” vừa xa xôi, cụ thể, thoáng chút ngỡ ngàng khi nhớ về cảnh
cũ người xưa. “Vườn ai mướt quá” còn như tiếng reo vui của trẻ thơ, như lời trầm trồ, ngạc
nhiên trước vẻ đẹp mượt mà, óng ả, đầy xuân sắc của khu vườn. Ta như có thể nghe thấy
tiếng nhựa sống chuyển mình xôn xao trong tán lá qua biện pháp so sánh “xanh như ngọc”. Vẻ
đẹp được sánh ngang với “ngọc” không chỉ tráng lệ mà còn quý giá vô cùng. Cũng nói về màu
xanh ngọc bích, trước đó Xuân Diệu đã từng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”, tất cả đều
diễn tả khu vườn không chỉ ngời ngợi sắc xanh mà còn tràn đầy sức sống. Như vậy, cảnh Vĩ Dạ
hiện lên thật hài hoà, thanh khiết, đẹp đến độ thành hình, thành ảnh.
Kết lại khổ thơ là vẻ đẹp của con người xứ Huế. “Mặt chữ điền” để chỉ người có khuôn
mặt dịu dàng, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ tài tình, gợi lên hình ảnh gương mặt
thấp thoáng, hư ảo của thiếu nữ ẩn sau lá trúc mảnh mai. Thấy được sự kín đáo, ý nhị, duyên
dáng và nét phúc hậu, khoẻ khoắn của con người. Còn có một ý thơ khác cho rằng cái tôi tâm
tưởng của thi sĩ chỉ dám nép mình ở xa mà nhìn “người yêu”. Dù hiểu theo ý thơ như thế nào
thì tình cảm của nhà thơ với con người xứ Huế không bao giờ thay đổi. Có thể thấy, khổ thơ
thứ nhất là bức tranh hoài niệm nên thơ về thiên nhiên và con người xứ Huế, là tiếng lòng rạo
rực yêu người, yêu đời tha thiết của thi nhân.
Khổ thơ thứ hai mở ra là tâm trạng lo âu, cô đơn của thi sĩ được khắc hoạ qua cảnh mây
trời, sông nước xứ Huế:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Cảnh mở ra theo chiều rộng và tình lại lắng vào chiều sâu. Câu thơ đầu tách nhịp 4/3
như một tiếng thở dài, chia không gian làm hai nửa: một gió một mây, gợi nỗi buồn phân ly, xa
cách. Điệp từ “gió”, “mây” để nhấn mạnh nỗi cô đơn, trong một thế giới chỉ có “gió” hoặc có
“mây”, không thể có cả hai. Gió và mây tưởng như là đôi bạn tâm giao luôn quấn quýt, thế
nhưng ở đây, “gió” và “mây” lại ở hai đầu nỗi nhớ, chia lìa nhau. Câu thơ mang đến một hiện
thực phi lý nhưng rất có lý về hiện thực tâm trạng. “Gió” và “mây” như nhà thơ với người con
gái Huế phúc hậu, hay cũng chính nhà thơ với cuộc đời này. Hàn Mặc Tử đang sống trong cảnh
chia ly, tách biệt như “anh đi đường anh, tôi đường tôi” (Thế Lữ).
Đúng như lời Nguyễn Du trong Truyện Kiều: “người buồn cảnh có vui đây bao giờ”. Dòng
sông Hương là tấm gương phản chiếu nỗi buồn của thi nhân. Tác giả đã cực tả nỗi buồn ấy qua
biện pháp nghệ thuật nhân hoá, dòng sông trở nên có hồn hơn khi có sự xuất hiện của tâm
trạng “buồn thiu”, buồn đến hiu hắt, mất hết sự sống. “Hoa bắp lay” là bút pháp lấy động tả
tĩnh, cơn gió không mạnh mẽ, tươi mát mà chỉ “lay”. Nỗi buồn của nhà thơ như hoà làm một
với cái nhịp điệu chầm chậm, nhè nhẹ, buồn buồn của gió mây sông nước xứ Huế.
Hai câu thơ tiếp là nỗi nhớ, là hoài niệm của nhân vật trữ tình về sông nước, đêm trăng
bộc lộ niềm khao khát hạnh phúc cuộc đời:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Cảnh vật được gợi ra một cách lung linh, huyền hoặc, tràn ngập ánh trăng, mang ý nghĩa
vừa thực vừa ảo. “Thuyền ai” là một đại từ phiếm chỉ, câu hỏi tu từ, con thuyền ấy không đậu
ở bờ bến nào mà lại đậu ở bến của sự hư ảo, “bến sông trăng”. “Sông trăng” có thể hiểu là
dòng sông tràn ngập ánh trăng, cũng có thể là trăng tuôn chảy thành dòng. “Thuyền trăng” là
con thuyền chở đầy trăng, cũng có thể hiểu là trăng giống như hình ảnh một con thuyền. Dù
hiểu theo cách nào thì trăng đã tràn ngập cả không gian, mơ hồ, mộng ảo, tượng trưng cho
niềm khao khát hạnh phúc cuộc đời. Hình ảnh “trăng” có thể là cô gái quê hương ẩn hiện bên
bến sông quê, cũng có thể là khát vọng của tác giả muốn trở về thôn Vĩ tìm tình yêu, tìm hạnh
phúc.
“Tối nay” là thời khắc còn có thể đón nhận cái đẹp. Từ “kịp” là nỗi lo lắng ngờ vực về sự
gặp gỡ, hoà hợp với đời, tượng trưng cho thời gian ngắn ngủi. Với người khác nếu không trở
về tối nay thì còn nhiều những đêm khác, nhưng với Hàn Mặc Tử nếu thuyền không trở về tối
nay, không có sự tri âm thì thi sĩ sẽ ra đi vĩnh viễn trong đau buồn. Đó là tâm trạng bồi hồi,
phấp phỏng bởi khao khát ngóng trông. Đó là cái nhìn thấy trong hiện tại hay điều lo lắng
trong tương lai khi cuộc chia lìa vĩnh viễn có thể đến bất cứ lúc nào. Vì thế, cảnh dù đẹp, vẫn
đau đơn, vẫn khắc khoải. Khổ thơ có nhịp điệu khi khoan, khi nhặt hài hoà, hình ảnh vừa cổ
điển vừa hiện đại thể hiện cho một khát khao tình yêu da diết và tình yêu quê hương xứ sở
thiết tha.
Sang khổ ba, giọng thơ đã trở nên gấp gáp hơn cùng với niềm khao khát được gắn liền
với hình bóng cụ thể:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Thân xác càng đau đớn, cái chết càng đến gần thì mộng ước lại càng cháy bỏng. Điệp
ngữ “khách đường xa” được lặp lại hai lần chất chứa biết bao nhiêu mặc cảm chia li, xa cách,
đồng thời tạo âm tiết vang mênh mang, vời vợi. Thi sĩ tuy đang “mơ” nhưng giấc mộng ấy lại là
khát khao đầy thành thực. “Mơ khách đường xa” là khát khao được một lần gặp lại người xưa
trước khi lìa khỏi cõi đời nhưng càng mong mỏi thì giấc mơ càng trở nên xa vời, khắc khoải.
Nhịp thơ 4/3 cùng với điệp ngữ luyến láy đã tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn. Người đọc
thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, ông chỉ có thể yêu trong mộng,
sống trong mộng.
“Em”, người con gái quê hương hiện lên không phải bằng hình hài, vóc dáng mà trong
màu áo “trắng quá”. Từ “quá” như khắc hoạ sự trầm trồ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của giai nhân
hiện hữu. Màu trắng trong văn học trung đại là màu trắng tang tóc, đau thương nhưng với
quan niệm thẩm mĩ hiện đại của Hàn Mặc Tử, nó lại là sắc trắng mới, tinh khôi, tnh khiết hơn
thể hiện cho một tâm hồn thánh thiện, trinh nguyên. Trắng đến độ nhà thơ “nhìn không ra”,
đó là hình bóng từ chỗ thấp thoáng dần trở nên hư thực khó nắm bắt. Câu thơ thể hiện sự
choáng ngợp, nghẹn ngào lại có chút xót của thi sĩ vì dù cố gắng nhưng chẳng thể nhìn rõ ràng,
sự tồn tại của “em” mãi trong thế giới tâm tưởng mà không thể trở thành hiện thực.
Bài thơ tả cảnh đến đây đã trở thành bài thơ thổ lộ tình yêu đơn phương đầy rung động:
"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
Hai câu thơ cuối dẫn ta vào cõi hoài niệm của nhà thơ. “Ở đây” là ở đâu? Có thể là
không gian hiện thực nơi xứ Huế nhưng cũng có thể là không gian tâm tưởng, nơi nhà thơ
đang “mặc cảm” bệnh tật mà hàng rào số phận được ngăn cách bởi không gian và thơi gian.
“Sương khói mờ nhân ảnh” không phải là sương khói ngoài đời mà là sương khói trong mối
tình đương nhen nơi lòng thi sĩ. Đâu còn cảnh tiên như họa nơi xứ Huế, chỉ còn sương khói che
khuất bóng người. Như vậy, cảnh vật và con người đều trở nên mờ nhạt, xa xôi, hư ảo.
Câu hỏi "Ai biết tình ai có đậm đà?" vang lên đầy khắc khoải về tình cảm đơn phương tội
nghiệp. Kết hợp với đại từ phiếm chỉ "ai" đa nghĩa càng khiến cho ý thơ mênh mang không xác
định. Câu thơ có thể hiểu là “em có biết tình anh vẫn đậm đà”, khẳng định tình cảm tha thiết,
sâu đậm. Hoặc “anh nào có biết tình em có đậm đà hay không?”, như một lời hoài nghi, mong
mỏi, chan chứa niềm tha thiết của tác giả về tình đời, tình người, cuộc sống. Đến đây, ta chợt
nhớ đến bài thơ “Duyên kì ngộ” cũng nói lên nỗi lòng thi nhân:
“Một mai ở bên kia khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm”
(Hàn Mặc Tử)
Bài thơ khép lại trong nỗi hoài nghi, tuyệt vọng nhưng vẫn cuộn trào trong đó niềm khát
khao được mãnh liệt của thi nhân với cuộc đời với tình người.
“Đây thôn Vĩ Dạ” không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn cả về nghệ thuật. Nhiều hình
ảnh độc đáo, giàu sức liên tưởng, có sự hoà quyện giữa thực và ảo ngôn ngữ thơ giàu chất
hoạ, chất nhạc. Bên cạnh đó là hàng loạt các biện pháp nghệ thuật được vận dụng linh hoạt
như so sánh, câu hỏi tu từ, đại từ phiếm chỉ “ai”. Tất cả được dùng để ca ngợi vẻ đẹp thơ
mộng của xứ Huế và gửi gắm khát vọng kín đáo về tình đời, tình yêu bộc lộ cho một tâm hồn
nhạy cảm, yêu tha thiết cái đẹp.
Tóm lại, “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức hoạ đẹp bởi nó là sự hoà quyện giữa tình yêu con người
và cảnh sắc thiên nhiên, là tiếng lòng của con người tha thiết với cuộc sống. Đây là một bài thơ
vừa giàu chất mộng ảo vừa trong sáng hiếm thấy của Hàn Mặc Tử và xứng đáng là một trong
những bài thơ hay nhất của phong trào thơ mới. Thi phẩm kết thúc nhưng vẫn để lại dư âm
sâu lắng trong lòng bạn đọc về một khát vọng được yêu, được hạnh phúc đến cháy bỏng và
mối tình đơn phương chưa trọn vẹn. Những tình cảm ấy đều được hoạ nên từ sâu bên trong
nỗi lòng thi sĩ bởi Victor Hugo từng có câu: “Nghệ thuật chỉ làm ra những vần thơ khéo léo, còn
trái tim mới làm nên tác phẩm thi ca”.

You might also like