You are on page 1of 4

Trong vườn Thơ mới với trăm hương sắc ngọt ngào, người ta đã phong cho Hàn Mặc Tử là

thống soái của một trường thơ: Thơ điên. Chỉ với 28 tuổi đời (1912 — 1940) mà ông đã để lại cho
nền văn học dân tộc hàng trăm vần thơ đẹp. Đến với thơ Hàn Mặc tử, ta bắt gặp một tâm hổn say
trăng đến kì lạ:
Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt
Khép phòng đốt nến, nến châu rơi
Hồn thơ của ông mãnh liệt nhưng luôn quằn quại đau đớn, dường như có một vật lộn và giằng xé dữ
dội giữa linh hồn và thể xác. Những tưởng bước vào đó chỉ có cuồng điên và bệnh hoạn nhưng
những vần thơ trong trẻo như “Đây thôn Vĩ Dạ” làm cho mỗi độc giả chúng ta phải có cái nhìn khác
đi về nhà thơ đa tài nhưng bạc mệnh này. “Đây thôn Vĩ Dạ” khiến lòng người phải nghiêng nghiêng
về một tình yêu vô bờ bến của tác giả đối với Vĩ Dạ, với những con người Huế. Trong đó ở hai khổ
thơ đầu, người ta thấy một Hàn Mặc Tử với tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống sâu sắc thông qua bức
tranh quê thanh khiết, đậm chất trữ tình.

Hàn Mặc Tử tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, ông sinh ra trong một gia đình viên chức nghèo
theo đạo Thiên chúa. Năm 1936, ông mắc bệnh phong, về Quy Nhơn chữa bệnh và mất ở trại phong
Quy Hoà. Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng tác giả là nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất
trong phong trào Thơ mới. Thơ ông thể hiện tâm trạng riêng của một người bị số phận bất hạnh đẩy
vào hoàn cảnh bế tắc: cách li với cộng đồng, cận kề với cái chết, nhưng không chán chường, tuyệt
vọng mà luôn chứa chan tình yêu cuộc đời. “Đây thôn Vĩ Dạ” là thi phẩm tiêu biểu cho phong cách
sáng tác của tác giả, được viết năm 1938 in trong tập Thơ Điên (Đau Thương). Bài thơ khắc họa bức
tranh xứ Huế đẹp thơ mộng, tràn đầy sức sống, qua đó thể hiện nỗi niềm khắc khoải và tình yêu với
quê hương, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.

Ban đầu, thi phẩm có nhan đề là “Ở đây thôn Vĩ Dạ”, sau đó được đổi tên thành “Đây thôn Vĩ
Dạ” – tạo ấn tượng lạ lùng cho bài thơ. “Đây” có lẽ là tiếng reo vui của Hàn Mặc Tử khi thấy được
thôn Vĩ rất gần qua tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc, nhưng cũng xa, xa vì nhà thơ bệnh tật không thể
quay trở về. Chính nhan đề này đã gắn kết trực tiếp với khổ thơ thứ nhất và đặc biệt là câu thơ đầu
tiên:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Câu thơ đầu tiên mang rất nhiều sắc thái khác nhau. Hiểu theo cách thứ nhất, câu hỏi này là của
cô gái thôn Vĩ, câu hỏi như hàm chứa lời trách yêu rằng: lâu quá rồi “Sao anh không vể chơi thôn
Vĩ, về thăm em?” mà cũng như một lời mời mọc đưa duyên. Cảnh cũ, người xưa vẫn cứ thấp thoáng
gợi lên bao hoài niệm thân quen. Câu hỏi sử dụng từ “chơi” thay cho từ “thăm” càng tạo nên sự gần
gũi, thân thương đối với cảnh vật và con người nơi thôn Vĩ. Sâu xa hơn, ẩn chứa bên trong câu hỏi
là một lời tự vấn của chính bản thân tác giả. Ông mượn những lời thôn nữ Vĩ Dạ hỏi “anh” nhưng
cũng chính là câu hỏi tự đặt ra để hỏi chính bản thân của mình rằng sao lâu quá rồi không về thăm
nơi thôn Vĩ? Đây cùng chính là nỗi giãi bày nỗi niềm thương nhớ của tác giả làm cho bao kỉ niệm xa
xưa nay lại sống dậy trong lòng, trong một hồn thơ. Có lẽ, thôn Vĩ vô cùng quan trọng với Hàn Mặc
Tử, bởi thôn Vĩ không chỉ là một mảnh đất kỷ niệm mà còn là một mảnh đời tuổi hoa niên. Nó gắn
liền với cảnh sắc vườn tược và con người nơi xứ Huế mộng mơ, với những khu vườn tươi tốt, hoa
trái ngọt, phong cảnh hữu tình. Như lời ca ngợi của nhà thơ Bích Khê về Vĩ Dạ:
“Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn!
Biếc che cành trúc không buồn mà say”
Đối với riêng Hàn Mặc Từ, Vĩ Dạ đã từng in đậm dấu ấn của người thương để lại trong lòng bao nỗi
khắc khoải:
“Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước mơ”

Đối với Hàn Mặc Tử lúc này, bệnh tật như một hố sâu ngăn cách giữa ông với cuộc đời, nay lại
nhận được một lời mời, một lời hỏi thăm chân thành nên vì vậy mà hình ảnh của thôn Vĩ xa xưa
bỗng nhiên hiện về thật bừng sáng, sống động.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Cảnh vật được mở ra với muôn cây tươi tốt, một bức tranh thiên nhiên toàn đầy sức sống. Cây
cau là loài cây cao nhất trong khu vườn thôn Vĩ, nó cũng là loài cây đầu tiên đón ánh nắng ban mai
của ngày mới. Cau từng hàng mọc vươn lên trong nắng mới như đón chào những vị khách phương
xa. Cảnh sắc bình minh rực rõ với ánh “nắng mới lên” là những ánh nắng sớm, là những nắng đầu
tiên trong ngày, nắng còn lẫn sương, khơi một cảm giác hư vô trong trẻo tinh khôi đến lạ thường.
Cấu trúc câu thơ rất đẹp (nắng – cau – nắng), gợi sự quân quýt giữa cau thôn Vĩ và ánh nắng ban
mai: cây cau như là thước đo mực nắng, nắng ngập dần các đốt trên cây cau cũng là lúc cả vườn
thôn Vĩ sáng ánh bình mình. Hàng cau được phát sáng nhờ những tia nắng mới và ngược lại, nắng
đẹp hơn lung linh hơn khi chiếu rọi xuống những hàng cau thôn Vĩ, cả hai tô điếm cho nhau làm nên
một ý thơ đầy thi vị.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ vang lên như một tiếng reo vui, trầm trồ. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá, màu xanh
mơn mởn non tơ tỏa lên, bóng lên dưới ánh bình minh trông “mướt quá”. Mướt” là vì mượt mà, óng
ả, mướt của một màu xanh rất đặc trưng được liên tưởng độc đáo “xanh như ngọc”. Xanh như ngọc
chứ không phải là xanh ngọc. Cách so sánh tinh tế khiến cả khu vườn thôn Vĩ đẹp tuyệt vời như một
viên ngọc bích. Câu thơ gợi vẻ quyến rũ, long lanh tươi trẻ đầy sức sống dưới bàn tay chăm sóc của
người Vĩ Dạ cần cù và đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa nên cảnh vật quanh năm tươi tốt, xum xuê.
Nhưng khu vườn ấy là của ai? Có cụ thể không? Với cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai”, thi nhân đã
nhìn cảnh vật bằng đôi mắt trữ tình, bởi lẽ từ ai không xác định cụ thể, rõ ràng, nó gợi lên những
tình cảm sâu kín, những yêu thương e ấp.
“Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.”

Từ “ai” được nhắc đến và cụ thể hơn ở:


“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Lá trúc vốn là một loại lá rất mềm mại, thanh cao và có một sắc xanh bắt nối với câu thơ trước.
Trong khi đó “mặt chữ điền” lại tạo một vẻ vuông vức, phúc hậu, hiền hòa và rất ngay thẳng. Trong
ca dao xứ Huế có một câu nói rất hay về khuôn mặt chữ điền này:
“Mặt em vuông tựa chữ điền,
Dạ em thì trắng, áo em mặc ngoài.
Lòng em có đất, có trời,
Có câu nhân nghĩa, có lời thủy chung”
Vì vậy, khuôn mặt chữ điền có thể coi là thần thái, là vẻ đẹp của con người xứ Huế, một vẻ đẹp thủy
chung, đôn hậu và trung thực thật thà. Sự kết hợp của lá trúc mềm mại che ngang với nét vuông vức
của khuôn mặt chữ điền giúp vẻ đẹp chữ điền ấy được hiện lên một cách kín đáo và rất Huế. Đây là
vẻ đẹp của thiên nhiên hài hòa và cũng là vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo rất riêng của con người nơi xứ
Huế. Bút pháp “thi trung hữu họa”, lấy cái gầy guộc, giản đơn của lá trúc để làm đậm lên những nét
đẹp duyên dáng, hiền từ của khuôn mặt người. Hàn Mặc Tử nhớ người Huế bằng những vẻ đẹp hiền
hòa, đan xen trong đó là những nỗi nhớ xa xôi về một người con gái Huế mang trong mình những
phẩm chất nổi bật, thủy chung, dịu dàng, khuôn mặt xinh xắn phúc hậu.
Có nhiều người đặt ra câu hỏi rằng, khuôn mặt chữ điền này là của ai, của người thôn Vĩ hay
của chính thi sĩ? “Ai” ở đây là giai nhân, người xuất hiện sau lá trúc e lệ, kín đáo và tình tứ - người
con gái xứ Huế mộng mơ. Dùng một vài nét ước lệ, nhà thơ mượn thơ trong nhân gian để gợi tâm
hồn, gợi lên tâm lòng của người thiếu nữ:
“Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng áo em đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung.”
(Ca dao)
Cũng có thể khuôn mặt chữ điền ấy là khuôn mặt mà Hàn Mặc Tử tự họa cho chính mình. Nếu như
đây quả thực là khuôn mặt của thi sĩ, thì hình ảnh thơ này chính là sản phẩm của mặc cảm chia lìa.
Mặc cảm ấy khiến Hàn Mặc Tử họa mình trong thơ như là một kẻ đứng ngoài, kẻ đi ngang qua cuộc
đời, kẻ đã chia lìa thời cuộc, xa rời mọi cuộc vui. Kẻ ấy quay về thôn quê nơi ký ức ghi sâu một
cách thầm lén, vụng trộm, chỉ vin vào một cành trúc mà ngắm nhìn vẻ đẹp thôn Vĩ đắm say. Câu thơ
là sản phẩm của một tình yêu mãnh liệt và cũng là sản phẩm của một tâm hồn đầy mặc cảm về thân
phận mình, một niềm uẩn khúc thật đáng thương.

Sang đến khổ thơ thứ hai vẫn nối tiếp mạch thơ, vẫn là những vần thơ trong trẻo, dịu dàng,
Nhưng một không gian thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm lại được mở ra cảnh vật giờ đây chỉ còn là sự
tan tác chia li:
“Gió theo lới gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Đây là những cảnh rất thật trên dòng sông Hương: nhịp chảy khoan thai, chậm rãi, mây trời
sông nước mênh mang, không gian khoáng đạt, gió nhẹ khẽ lay lay hoa bắp. Đây đều là những hình
ảnh đẹp, nhưng buồn. Trong tứ thơ của Hàn Mặc Tử, câu thơ không chỉ gợi cảnh mà còn gợi cảm
giác chia lìa – hình ảnh không thể cảm nhận bằng thị giác. Làn gió ở đây thổi rất nhẹ không đủ sức
để cuốn trôi mây, không đù sức để làm cho nước gợn, bởi thế nên dòng nước đã phớt lờ nhưng
không buồn cuộn chảy. Gió chỉ đủ sức làm cho hoa bắp lay động càng gợi lên nổi buồn hiu hắt.
Trong tiếng Việt từ “lay” vốn không nảy sinh cảm xúc nhưng đặt trong hoàn cảnh này thì nó lại chất
chứa một nỗi niềm tâm sự. Đã hơn một lần ta bắt gặp động từ này trong ca dao Huế:
“Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em.”
Với giọng thơ nhẹ nhàng thoáng buồn, cảnh vật trở nên êm đềm, không gian vắng lộng, mơ
buồn. Nghệ thuật đối lập “Gió theo lối gió” đối với “mây đường mây” khiến câu thơ như gãy đôi ra
gợi sự chia lìa đôi ngả. Nhưng cái đáng nói ở đây lại là sự chia lìa giữa những hình ảnh thiên nhiên
vốn đi liền với nhau (Gió thổi mây theo về), đằng này thì gió đường gió mây đường mây. Phải
chăng trong hình ảnh thiên nhiên ấy chứa đựng nỗi sầu chia li của lòng người? Nỗi buồn lan tỏa từ
bầu trời xuống mặt nước nên hình ảnh của mặt nước dường như cũng buồn đìu hiu như thế. Dự cảm
buổn của thi nhân như đang hòa vào cảnh vật, khiến dòng nước cũng trở nên buồn thiu trĩu nặng một
tâm sự, một niềm trắc ấn khôn nguôi. Quả là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, cái buồn xa
vắng của con người hòa vào cảnh vật, và nỗi buồn của cảnh vật cũng đang hòa dần vào nỗi buồn của
lòng người. Đó phải chăng là sự im lặng khi dự cảm chia ly, khi thi sĩ đã nhận ra rõ bệnh tật – hoàn
cảnh đau thương của mình.

Nỗi niềm ấy bật lên thành hai câu hỏi da diết, khắc khoải:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Câu thơ gợi tả cảnh Vĩ Dạ đò giang tuyệt đẹp nhưng đượm buồn. Trong đêm trăng, ánh trăng
như tan mình trong dòng nước mà dòng nước cũng đã hóa thành dòng trăng. Hỏi nhưng thật ra tác
giả đang hỏi chính lòng mình khi nhớ đến đò xưa bến cũ. Sông Hương bây giờ là sông trăng, hình
ảnh trăng là hình ảnh quen trong thơ Hàn Mặc Tử. Thơ ông ngập tràn ánh trăng, thừa mứa ánh trăng
đến mức đem đi rao bán. Trăng đối với thi nhân là bạn tri âm tri ki – biết khóc, biết cười, biết tình tứ
lả lơi:
“Trăng nằm sõng soài bên cảnh liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
Nói vậy, ta có thể hiểu trăng theo nghĩa đó. Trăng chính là hình ảnh tượng trưng cho tình người
tình đời mà Hàn Mặc Tử đang khao khát. Trăng sẽ xoa dịu đi tâm hồn đau thương của thi sĩ. Khao
khát lại càng tội nghiệp hơn khi ta chợt nhớ đến bi kịch của thiên tài đang phải đối mặt. Đó chính là
căn bệnh quái ác đang hành hạ linh hồn và thể xác ông. Chính bi kịch ấy khiến cho một người yêu
trăng, say trăng, giờ đây lại đang đói trăng, đang khát thèm trăng. Hai dòng thơ bật lên, vẽ ra hai
không gian đối lập: Ngoài ấy (cuộc đời) và trong này (thi nhân). Nếu ngoài ấy trăng dư giả, đầy tràn
cả không gian (sông trăng, bến trăng, thuyền trăng), cả thời gian (cả một đêm trăng). Thì ngược lại,
trong này, thi nhân đang khao khát trăng đến cháy bỏng đến khắc khoải thành một nỗi niềm băn
khoăn, trăn trở:
“Có chở trăng về kịp tối nay?”
Câu thơ là một nỗi đau, nỗi đau giày vò về thể xác, cơn đau tinh thần giằng xé, bệnh tật, cô độc,
tuyệt vọng:
“Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Trôi thây về xa tận cổ vô biên”
Giữa lớp lớp những dòng thơ điên loạn, ma quái khổ đau đó, chính tác giả đang mang trong
mình một tâm trạng lo lắng. Từ “kịp” làm tăng thêm sự băn khoăn, lo âu, đau buồn của tác giả. “Chở
trăng” như chờ những tình yêu thương nhưng lại phải kịp tối nay. Câu thơ nghe sao mà xót xa lòng.
Phải chăng chỉ tối nay? Chỉ tối nay thôi sao? Đúng vậy. Nếu không kịp tối nay thì rất có thể đây sẽ
là lần chia tay vĩnh viễn. Câu thơ khắc khoải một nồi niềm, một dự cảm xót xa, đồng thời cũng thể
hiện một niềm khát khao muốn được giao cảm với đời của thi nhân. Thật không nỗi khổ đau nào
hơn là phải sống trong xa lánh, cô độc với người đời. Đối với thi nhân thì đây là một án tử mà ông
phải đeo mang, gánh chịu. Ông sợ cuộc sống của ông không thể kéo dài được nữa, ông sợ mình sẽ
không còn cơ hội để về thăm Vĩ Dạ, về thăm những con người nơi xứ Huế. Giũa muôn trùng câu
nhớ và vẻ đẹp hữu tình nơi xứ Huế dã nói lên một tình yêu thầm kín cùa tác giả, một tình yêu kín
đáo dịu dàng. Câu hỏi dù rơi vào hư vô, không có âm vọng hồi đáp nhưng lại cho thấy khát khao
giao cảm, cho thấy một tiếng kêu chất chứa hi vọng của một thi sĩ hoạn nạn nơi trần thế.

Cuộc đời Hàn Mặc Tử ngắn ngủi và đau thương, hồn thơ ông chất chứa nhiều nỗi khát vọng về
tình yêu, về cuộc sống, nhưng ẩn chứa sau đó là những nỗi xót xa, đau đớn đến cùng cực. Chính
điều đó đã làm nên một chất thơ vừa thơ mộng, trong trẻo đến vô ngần, lại cũng cực kỳ phức tạp khi
thường xuyên thấy sự xuất hiện của những yếu tố kỳ dị, liêu trai, điên cuồng mà nói như Hoài
Thanh, có sự đó cũng bởi hồn thơ của Hàn Mặc Tử vốn là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn
vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu... Chỉ trong thơ
Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế. Lời thơ như dính máu”.

Hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là kế thừa thơ ca truyền thống với thể thơ thất ngôn
đồng thời cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ của Hàn Mặc Tử. Những hình ảnh thơ rất mộc mạc, giản
dị, đời thường, ngôn từ như lời ăn tiếng nói thường ngày, tất cả đều tạo nên một nét thơ rất hiện đại.
Qua 2 khổ đầu bài đây thôn vĩ dạ có thể thấy, thành công của hai khổ thơ là nhờ các biện pháp tu từ
như điệp từ, các câu hỏi tu từ, cách so sánh bằng liên tưởng. Qua các bút pháp nghệ thuật, Hàn Mặc
Tử đã khắc họa nên một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống nhưng cũng mang nỗi buồn, nỗi lòng của
người thi sĩ chịu nhiều bất hạnh.

Cảnh sắc thiên nhiên và niềm tha thiết với cuộc sống của thi nhân được thể hiện qua hai khổ thơ
thật trong sáng, độc đáo và giàu sức biểu cảm. Qua đó, ta thấy được một tâm hồn cuộc đời, tha thiết
với cuộc sống mãnh liệt của tác giả, từ đó biết trân quý cuộc sống, trân quý những phút giây của
hiện tại đừng để hối tiếc. “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho
phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử vừa đẹp vừa ẩn chứa những nỗi lòng đau thương tuyệt vọng,
hồn thơ từ ấm chuyển sang lạnh lẽo, cô đơn chỉ trong vài dòng thơ ngắn ngủi, khiến người đời
không khỏi băn khoăn, thấm thía xót thương cho một đời nghệ sĩ ngắn ngủi, nhiều bất hạnh đau
thương.

You might also like