Professional Documents
Culture Documents
Trên cái xu thế đang trôi đi, bay đi, chảy đi, phiêu tán ấy, Hàn Mặc Tử mong có một thứ có thể ngược
dòng “về” vớí mình, ấy là trăng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Xưa nay, con thuyền và dòng sông là những hình ảnh quen thuộc trong thi ca, nhất là dòng thi ca về Huế.
Nhưng cái lạ, cái hay trong thơ Hàn ấy là hình ảnh con thuyền “chở trăng” trôi trên dòng “sông trăng”. Liên
tưởng phong phú, tinh tế của thi nhân đã tạo ra những hình ảnh trôi giữa đôi bờ thực - ảo. Không biết dòng nước
đang hoá mình thành dòng trăng hay ánh trăng đang tan mình thành nước, tự lúc nào, bến sông trở thành “bến
trăng” . Hình ảnh thực biến thành hình ảnh mộng tưởng, đẹp lung linh, hư thực huyền hồ. Nhưng Hàn Mặc Tử
vẫn khao khát có được trăng, mong con thuyền chở trăng kia có thể về “kịp” với mình trong “tối nay”. Toàn bộ
hi vọng của Hàn đặt cả vào con thuyền chở trăng đó, hi vọng mà sao vẫn có gì phấp phỏng, âu lo. . Hình như
Hàn Mặc Tử đã chờ trăng từ lâu lắm, và đã cảm nhận được sắp đến lúc không thể chờ được nữa, con người có
thể bị bứt lìa khỏi đời sống bất cứ lúc nào. Cho nên cùng với mặc cảm cuộc đời ngắn ngủi, từ “kịp” còn hé mở
cho người đọc thấy một tâm thế sống của Hàn Mặc Tử. nếu Cái tôi Xuân Diệu cảm nhận về “cái chết” luôn chờ
mỗi người ở “cuối con đường”, nên tranh thủ sống mà tận hưởng “tối đa” hạnh phúc trần thế. Còn cái tôi Hàn
Mặc Tử, cảm nhận về “cái chết” đã “cận kề” nên “được sống” không thôi đã là hạnh phúc.
Tiếp nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong cái mênh
mông, bao la của đất trời. Đó là sự hi vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Nếu tình yêu đời ở hai khổ thơ trên chủ yếu hướng tới cảnh, thì khổ thơ cuối bài thơ khép lại bài thơ bằng tình
yêu hướng tới con người, nếu ở trên là vườn đẹp, trăng đẹp thì ở đây là người đẹp. “khách đường xa” ở đây
chính là đối tượng mà cái tôi chủ thể hướng tới. Có thể là Hoàng cúc mà cũng có thể là người đời nói chung. Dù
hiểu con người là ai đi nữa thì ta vẫn thấy giữa thi nhân và họ khoảng cách xa xôi vời vợi. Xa vì là “khách”, xa
hơn chút nữa vì ở trên “đường xa”, lại xa hơn nữa vì sắc áo “trắng quá”, trắng đến không thực, đến hư ảo, đến
nao lòng, và xa xôi vời vợi đến mức không thể nắm bắt, không thể với tới khi lẫn vào “sương khói”. Những
hình ảnh ấy lại không phải là thực, lại chỉ là “mơ”. Tất cả lúc này chỉ còn lại mờ mờ, ảo ảo. Tử cố níu kéo, cố
bám víu nhưng nhưng không được vì cảnh và đời chỉ toàn là “sương” với “khói”. Cảm giác như chới với, hụt
hẫng nên có lúc thi sĩ rơi vào hoài nghi:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Hai đại từ phiếm chỉ “ai” hướng tới hai đối tượng: chủ thể trữ tình và đối tượng mà chủ thể trữ tình muốn giãi
bày, dù hiểu thế nào, dù “ai” có là “ai” đi nữa thì cuối cùng vẫn chỉ là cái tình ấy, của cái tôi ấy – Hàn Mặc Tử,
trên chuyến hành trình bất đắc dĩ đã gần đến cõi “thượng thanh khí”, vẫn cứ đau đáu, tha thiết, khắc khoải
ngoảnh lại cuộc đời để mà yêu, mà gắn bó. Yêu đời đã là quý, yêu trong tuyệt vọng, càng tuyệt vọng lại càng
yêu, một thứ tình yêu được thử thách và vượt lên trên cái chết, tình yêu đó chẳng đáng quý bội phần sao?
Về nghệ thuật, bài thơ được viết ở thể thơ thất ngôn và ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng làm cho bài thơ thêm
sinh động. Bên cạnh đó, bài thơ có sự hòa điệu giữa nhiều bút pháp: tả thực, tượng trưng, lãng mạn, trữ tình.
Cùng với các câu hỏi tu từ ở mỗi khổ thơ mang nỗi niềm da diết khắc khoải. Biện pháp tu từ nhân hóa, phép
điệp, phép so sánh cùng nhịp điệu thơ không theo quy luật nào mà bị chi phối bởi mạch cảm xúc và nội tâm
chính tác giả thể hiện sâu sắc nỗi lòng tác giả muốn gửi gắm.