You are on page 1of 5

Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một trong những cái tên nổi bật

với phong cách thơ đặc biệt vừa trẻ trung, lãng mạn vừa buồn đau, tất cả xuất phát
từ một cuộc đời có quá nhiều đau thương, cay đắng. của một nghệ sĩ trẻ. “Đây thôn
Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác tiêu biểu, nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác
của Hàn Mặc Tử, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của
phong trào thơ Mới. Đoạn thơ mang đậm dấu ấn của tác giả khi hàm chứa những
nội dung trong sáng, vô vàn, bộc lộ tình yêu thiên nhiên, tình yêu tha thiết với cuộc
sống, đồng thời bộc lộ những ám ảnh, tiếc nuối của tác giả trước số phận nghiệt
ngã của chính mình qua những vần thơ lạ lẫm, phức tạp đan xen giữa thực và
những cảnh trong mơ.
“ Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong Tập thơ Điên xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ
đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con
người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mạc Tử đã
viết về một tình yêu - tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng
đến huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh
phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.”
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng lại có cuộc đời đầy bất hạnh cay
đắng, khi còn trẻ ông không may mắc phải căn bệnh phong quái ác, đúng vào lúc
sự nghiệp của ông đang ở giai đoạn thăng hoa nhất, đặc biệt là đường tình duyên.
Hàn Mặc Tử cũng là một người kém may mắn khi phải chịu nhiều đau đớn, dằn
vặt. Trong giai đoạn cuối đời, ông về Quy Nhơn chữa bệnh, bất ngờ nhận được tấm
bưu ảnh có hình phong cảnh xứ Huế, trên đó có dòng chữ Kim Cúc, người con gái
mà Hàn Mặc Tử đem lòng yêu. Cái chết thường bỏ lỡ. Chỉ thế thôi đã khơi dậy
trong trái tim cô đơn của người nghệ sĩ những cảm xúc hân hoan vui sướng, lòng
ông trào dâng cảm xúc nhớ Huế, nhớ một Huế đẹp, đồng thời thổ lộ nỗi lòng. khát
vọng sống, khát vọng hạnh phúc đến tột độ qua những câu thơ đầu rất trong sáng,
trong trẻo.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?


Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi mở rất dễ thương đậm chất Huế “Sao anh
không về chơi thôn Vĩ?”, có thể là lời than thở vu vơ của một cô gái đang mong
chờ người yêu về thăm. Đến thăm để thỏa nỗi nhớ nhung, sau đó cũng có thể là lời
mời thân tình của một người bạn phương xa, muốn tác giả một lần trở lại Huế,
thăm lại cố đô yên bình. Để rồi, sâu thẳm trong câu hỏi bỡ ngỡ ấy, ta dường như
cũng nhìn thấu nỗi lòng của tác giả, phải chăng Hàn Mặc Tử cũng đang tự hỏi lòng
mình tại sao không trở về quê cũ, bày tỏ sự bất lực trước bệnh tật, trước hoàn cảnh
của cuộc đời?

Trong dòng hồi tưởng, thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử hiện lên với hình ảnh đặc
trưng, đó là những khu vườn với hàng cau thẳng tắp đón nắng. Hình ảnh “hàng cau
tỏa nắng” là hình ảnh đặc sắc, khái quát và ấn tượng. “Hàng cau” có nghĩa là nắng
sớm, mặt trời đã lên khá cao, ở mức ấm nhất, chưa oi bức như mặt trời. không bật.
Giữa khung cảnh ấy, ánh nắng bao trùm không gian, phủ lên những ngọn cau xanh
mướt một màu vàng nhạt, mở ra một không gian trong trẻo, tràn đầy sức sống cũng
như sự yên bình, tĩnh lặng nơi làng quê. “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, điệp
từ “vườn ai” đã mang đến cho bức tranh thiên nhiên sự ấm áp của tình người, bên
cạnh hơi ấm của nắng sớm, cảnh vật càng trở nên hài hòa hơn khi có sự hòa hợp
giữa con người và thiên nhiên. Những tính từ “mượt mà”, “xanh như ngọc” đều là
nét vẽ tài tình, tinh tế của Hàn Mặc Tử khi nhớ về Đây thôn Vĩ Dạ đã khéo léo mở
ra bức tranh thiên nhiên dịu dàng, sinh động, trong trẻo, tinh khiết và tràn đầy sức
sống. Chính sự non tươi béo ngậy của lá cây, cái mát lành của những giọt sương
mai còn đọng lại sau một đêm dài, nhưng dưới ánh mặt trời ấm áp chúng lại tỏa
sáng đẹp đẽ như những viên ngọc quý, khiến người ta không khỏi ngỡ ngàng. Đến
câu thơ cuối, phong cách thơ Trung Hoa đã thực sự làm rõ và tô đậm vẻ đẹp của
con người xứ Huế trong bức tranh đồng quê “Lá trúc che mặt chữ điền” lấy tiểu
cảnh, cắt ngang làm cảnh “lá trúc” để làm nổi bật gương mặt người phụ nữ đảm
đang, nhân hậu, dịu dàng và thông minh, đó cũng có thể là bóng hình mà Hàn Mặc
Tử thường nhớ nhung, một con người mang nét đẹp cổ kính. cuốn sách có giá trị
và tâm hồn, đại diện cho một vùng đất với những con người thân thương mà tác
giả ngày đêm mong chờ.

Nếu như ở khổ thơ đầu, Hàn Mặc Tử nhìn cuộc sống và con người với tinh
thần tích cực, lạc quan, tràn đầy hi vọng với bức tranh thiên nhiên tươi sáng, trong
trẻo, thì ở khổ thơ tiếp theo, mạch cảm xúc lại được mở rộng. Cảm xúc của tác giả
thay đổi nhanh chóng với sự thay đổi giữa ngày và đêm, giữa hai bức tranh thiên
nhiên hoàn toàn khác biệt với những gam màu mới.

“Gió theo lối gió, mây đường mây


Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Từ một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, với những gam màu ấm áp, mát mẻ,
giản dị, Hàn Mặc Tử lập tức chuyển sang cảnh đêm tối với hình ảnh dòng sông
thăm thẳm lạnh lùng thể hiện sự trống vắng. Nỗi cô đơn đang len lỏi trong lòng tác
giả. Hình ảnh “Gió theo lối gió, mây đường mây” là một hình ảnh buồn, lạc lõng,
gợi sự chia ly, tan rã không hẹn ngày gặp lại. Rõ ràng gió và mây là hai thực thể
luôn gắn bó, gió thổi mây đi, tưởng như dính với nhau như hình với bóng, vậy mà
trong thơ Hàn Mặc Tử gió và mây lại tách biệt, hai nơi dường như không thể tách
rời, ít tiếp xúc. Phải chăng đây là một ẩn ý cho mối tình của anh với Kim Cúc, hai
người nay như cách biệt nhau, mai là âm dương cách biệt. Rồi cảnh mây gió ấy
cũng gợi cho tác giả mối liên hệ với thế giới, dường như lúc này ông cũng bắt đầu
cảm thấy mình không còn bao nhiêu thời gian nữa, như thể cuộc đời là dành cho
ông vậy. Ngày càng xa, cuộc sống trần gian của anh ta có thể không còn bao lâu
nữa. Chính những suy nghĩ và thực tại đã giày vò trái tim Hàn Mặc Tử mới vừa
được thắp lên niềm hy vọng. Một lá bài khiến anh hạnh phúc, tưởng chừng như
anh đã thoát khỏi sự u ám, tăm tối của cuộc đời, nhưng nó vẫn không thể chiến
thắng được sự nghiệt ngã của số phận và chính anh buộc phải tỉnh ngộ, trở về. với
thực tế đau lòng. Trước nỗi buồn của số phận, Hàn Mặc Tử nghĩ về dòng sông
Hương hiền hòa, đã đi qua bao thăng trầm của lịch sử, dường như anh nhìn thấy
dòng nước ấy cũng như hiểu được nỗi buồn của mình, buồn lặng lẽ, một nỗi buồn
âm thầm không thể bày tỏ cùng ai, lẻ loi, lạc lõng không một bóng người. người
chọn bạn. Hình ảnh “hoa bắp lay” là một hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt, bông ngô là
loài hoa không màu, không hương, thoang thoảng, chóng héo. Dường như đó là
hình ảnh của Hàn Mặc Tử về cuối đời, chỉ héo úa mặc cho gió đung đưa mà không
thể chống lại số phận khiến người ta xót xa cho cuộc đời nghệ sĩ. số phận, cũng
như nỗi đau mà ông phải chịu đựng suốt cuộc đời. Trong lúc buồn bã, tuyệt vọng
và cô đơn nhất, Hàn Mặc Tử lại nhớ đến vầng trăng, người bạn tri kỷ duy nhất có
thể tâm sự và thấu hiểu mình. Cảnh bến thuyền, ánh trăng vằng vặc là một trong
những hình ảnh thường xuất hiện trong thơ ca cổ điển, tả cảnh dòng sông yên ả,
phẳng lặng, có phần cô quạnh. Đến thơ Hàn Mặc Tử, khung cảnh ấy còn độc đáo
và sáng tạo hơn với câu hỏi “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp
đêm nay?” một câu hỏi đầy tâm tình, trung dung. của một cảnh sông nước. nước
mênh mông, ánh trăng trải dài trên mặt nước, có con thuyền nằm lặng lẽ, thật nên
thơ và trữ tình biết bao. Lòng Hàn Mặc Tử chẳng mấy bình yên, người vội hỏi
thuyền ai neo đậu, kẻ vội hỏi có đưa trăng về kịp, đưa tri kỷ về có kịp. Dường như
ta thấy Hàn Mặc Tử vội vàng, lo lắng, đầy hoang mang, sợ rằng mình không còn
bao nhiêu thời gian, không còn đợi được ánh trăng rọi vào lòng. Càng đọc, càng
hiểu sâu nỗi lòng nhà thơ, càng biết nỗi ưu tư, cô đơn, bất lực của ông, càng thấy
xót xa cho một kiếp người đau thương, khi cả tình yêu và cuộc đời đang nằm trước
mặt. ngoài tầm với.

Tất cả nỗi đau trong bài thơ và nỗi tuyệt vọng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử
đều bộc lộ rõ nét tâm hồn khao khát sống, khao khát yêu thương dù trong lòng tác
giả đã nhiều lần buông xuôi, chấp nhận số phận, nhưng chỉ cần một chút niềm tin,
trái tim ấy lại rạo rực và hạnh phúc hơn bao giờ hết. Mặc dù mọi thứ giống như
một pháo hoa rực rỡ và đẹp đẽ, nó nở rộ và nhanh chóng tàn lụi.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa


Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”

Từ cõi thực, Hàn Mặc Tử tiến vào cõi mộng, thể hiện rõ nét thơ ông phức
tạp, khó hiểu nhất trong làng thơ Việt Nam đương đại. “Mơ khách đường xa, khách
đường xa”, cũng là một câu thơ mơ hồ, không rõ ràng, “mơ khách đường xa” được
lặp lại hai lần, như nhấn mạnh thêm diện mạo của nhân vật này, nhưng lại càng nổi
bật hơn. thậm chí còn mơ hồ hơn. Vị khách ấy đến từ trong mơ, không rõ mặt,
không rõ mặt, chỉ biết họ ngày càng xa dần, không bao giờ trở lại, ám chỉ sự vô
vọng của Hàn Mặc Tử trong tình yêu dành cho Kim Cúc. Huế, cũng như sự tồn tại
của anh trên cõi đời ngày càng trở nên mong manh và mờ mịt. Tác giả đã xa nhân
gian, dần trở thành khách lạ, đi một chặng đường ngắn chừng 28 năm rồi ra đi
không tiếng động, không màu sắc, sự liên tưởng khiến người ta vừa ám ảnh vừa
xót xa. cho cuộc đời nhà thơ. Đến câu thơ tiếp theo “Áo em trắng quá nhìn không
ra” là hình bóng thấp thoáng của người con gái anh yêu trong tiềm thức, cho thấy
khoảng cách ngày càng xa giữa anh và nàng, đó không chỉ là khoảng cách địa lý. lý
trí, mà còn là khoảng cách tinh thần, sự ngăn cách không thể thay đổi giữa sinh và
tử. Chính những khoảng cách ấy đã khiến Hàn Mặc Tử ngày càng tuyệt vọng, hình
bóng người con gái năm xưa ngày càng nhòe đi, anh không nhìn rõ, không thể
chạm vào, muốn mà không thể chạm vào. Để giải thích cho sự mờ mịt, mông lung
của nhân vật “em”, tác giả viết “Ở đây sương khói”, để giảm bớt khoảng cách, dựa
vào nguyên nhân xứ Huế sương mù khiến anh không nhìn rõ mà nhấn mạnh sự
mông lung, sự bế tắc, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử trước cuộc đời, khi chính đôi tay
mình không thể vén màn sương tìm bóng hình tình yêu. bị thương, không chống
nổi số mệnh không chịu chết.

Nỗi đau đớn, mặc cảm của số phận đã khiến tác giả không thể mở lòng
mình để hiểu được nỗi lòng của Kim Cúc, cũng như không thể bứt mình ra khỏi
những mộng tưởng dày đặc, trước hoàn cảnh đó ông chỉ có thể thốt lên “Ai biết
tình ai có đậm đà” nó như một lời nhắn gửi cho người con gái xa xứ rằng liệu nàng
có còn nhớ đến chàng trai đáng thương này không, đồng thời cũng là một lời trách
móc đau đớn khi trái tim chàng đã sợ hãi. Kim Cúc đã không còn hứng thú với
phần tình cảm này từ lâu. Cuối cùng, đó vẫn có thể là một thông điệp tình yêu anh
muốn gửi một cách thật tế nhị và kín đáo vì anh biết mình không còn sống được
bao lâu với cô gái Huế, anh muốn cô biết tình cảm của mình, và cũng muốn cô
không để. Biết đâu, sự phức tạp và mâu thuẫn đó là do một tâm hồn mang quá
nhiều vết thương, đồng thời đang tiến dần đến những ngày cuối cùng của cuộc đời
trần thế, chính vì thế không thể quá tin tưởng, hay gieo rắc hy vọng, yêu thương
cho một ai khác. Thà rằng một mình ôm lấy nỗi đau, tình yêu tuyệt vọng ấy trong
suốt quãng đời ngắn ngủi còn lại.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu và đặc sắc nhất trong
đời thơ Hàn Mặc Tử khi chứa đựng đầy đủ phong cách sáng tác của ông, đồng thời
nội dung thơ ấn tượng với nhiều cảm xúc phong phú. thể hiện trong tranh thiên
nhiên từ sáng sớm đến chiều tối, từ cảnh thực đến cảnh mộng. Bộc lộ tài năng sáng
tạo, cũng như một tâm hồn dù phải chịu nhiều đau thương, bất hạnh nhưng Hàn
Mặc Tử vẫn vẹn nguyên niềm yêu đời, khát khao hạnh phúc, yêu thương bình dị.
Mặc dù điều đó đối với nghệ sĩ là quá xa vời.

You might also like