You are on page 1of 10

Page |1

Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử là một ngôi sao lạ trên bầu trời với muôn ngàn vì sao của thơ Mới.
Những năm tháng tồn tại trên dương gian ngắn ngủi nhưng đầy đau thương của
Hàn lại là những năm tháng của sáng tạo và thăng hoa. Thơ văn ông vừa chứa
đựng tình yêu cuộc sống mãnh liệt vừa là nỗi tuyệt vọng đến đau thương. Trong
những thi phẩm mà nhà thơ để lại, Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ khá độc đáo. Nó
như một nẻo riêng trong sáng tinh khiết, không có những bóng ma hay máu chảy,
không rên xiết quằn quại mà tràn đầy tình yêu cuộc sống với những hình ảnh tươi
đẹp huyền ảo:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
………………………………
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Đây thôn Vĩ Dạ được gợi cảm hứng từ một câu chuyện có thật của tác giả với
người con gái mang tên Hoàng Thị Kim Cúc. Hai người quen nhau đã lâu. Lúc đó
Hàn Mặc Tử đã thầm yêu nàng Kim Cúc. Khi thi sĩ quay lại Quy Nhơn thì Kim
Cúc lại theo cha về hẳn Huế. Mối tình thầm kín của thi sĩ từ đó đã rơi vào vô vọng.
Khi hay tin Hàn Mặc Tử bị bệnh hiểm nghèo, Kim Cúc có gửi cho chàng thi sĩ si
tình ấy một bức bưu thiếp in hình phong cảnh Huế, với lời thăm hỏi sức khỏe.
Nhận được tấm bưu ảnh ấy, Hàn Mặc Tử vô cùng xúc động và bài thơ Đây thôn Vĩ
Dạ đã ra đời. Có lẽ tấm bưu ảnh đó là tác nhân gọi dậy tiếng lòng thầm kín của thi
sĩ, là tiếng gõ cửa để nỗi khát khao sống, niềm thiết tha được gắn bó với cuộc đời
của Hàn Mặc Tử được tràn ra. Bài thơ được sáng tác năm 1938, in trong tập “Thơ
Điên” sau đổi thành “Đau thương”, một tập thơ với hai cái tên như hai mặt đối lập
mà lại thật hài hòa. Nó là hai cung bậc cảm xúc của một trái tim đã sống trọn vẹn
kiếp người. Bài thơ gồm ba khổ, mỗi khổ như một cảnh sắc riêng mà thoáng nhìn
bề mặt người ta ít thấy sự liên hệ gần gũi. Nhưng nhìn sâu hơn vào mạch ngầm của
thi phẩm bạn đọc sẽ thấy một sợi dây liên kết chặt chẽ. (Trong đó..đề bài..)
Câu hỏi mở đầu chủ yếu là thanh bằng khiến lời thơ thật nhẹ nhàng, êm ái như
nghe văng vẳng bên tai giọng nói của người con gái xứ Huế ngọt ngào:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Nếu xét về phương diện ngữ nghĩa và sắc thái, câu thơ này hàm chứa và giao
thoa cả 3 trường nghĩa: câu hỏi, lời chào mời, vẫy gọi và cũng cả lời trách cứ thiết

1|Page
Page |2

tha! Người hỏi ở đây phải chăng là cô gái xứ Huế muốn nhắn gửi tới chàng trai đã
xa Huế lâu ngày chút trách cứ, lại chút mời gọi quay trở về thăm lại Vĩ Dạ xưa? Và
dường như, đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ đang tự hỏi chính mình, tự trách chính
mình sao bấy lâu chẳng trở về với chốn cũ, người xưa để giờ đây trong cơn bạo
bệnh lại chỉ còn những tiếc nuối, băn khoăn. Hiểu cách nào hẳn nhiên cũng có cái
lý riêng. Nhưng chúng ta đều phải thừa nhận rằng dẫu hiểu ra sao thì nó cũng chỉ
ra một hiện thực đó là “anh” đang ở xa Huế, đang cách biệt với Huế với Vĩ Dạ, câu
hỏi là duyên cớ hồi tưởng và nhớ về một Vĩ Dạ mộng mơ trong hồi ức. Hàn Mặc
Tử dùng hai chữ “về chơi” bởi nó mang sắc thái thân mật, gần gũi thay vì chỉ mang
vẻ xã giao, có khoảng cách như hai chữ “về thăm”. Chẳng phải vô tình mà nhà thơ
viết “không về chơi thôn Vĩ?”, “không về” khác hoàn toàn với “chưa về”. Nó
dường như khép lại mọi nẻo đường về thôn Vĩ, cộm lên biết bao xót xa vì giờ đây
thôn Vĩ chỉ còn trong hoài niệm của quá khứ xa vời. Hố sâu ngăn cách giữa Hàn
Mặc Tử với thế giới ngoài kia chính là căn bệnh hiểm nghèo khiến cho nhà thơ vô
cùng cô đơn, tuyệt vọng. Hơn nữa, hai chữ “không về” còn thể hiện rõ được tình
cảm một phía của Hàn Mặc Tử với Hoàng Cúc. Đó là dòng sông một bờ mà phía
bờ đó lại xuất phát từ Hàn Mặc Tử:
“Có một dòng sông chỉ có một bờ
Phía bờ kia quay mặt
Dòng sông anh không qua được bao giờ”
Câu thơ có 6/7 chữ là thanh bằng như gợi đến những kỉ niệm ngọt ngào, tha
thiết, những hồi ức êm đềm, sâu lắng. Rồi dòng hồi ức ấy cứ chảy ra, cảnh sắc khu
vườn lung linh, tươi đẹp và căng tràn sức sống dần hiện lên qua từng nét bút:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Một thôn Vĩ chỉ còn như vậy thôi, chỉ còn mơ hồ vài nét vẽ nhưng đó hẳn là
những ấn tượng được lưu giữ mãi mãi không phải trong miền kí ức của thi nhân.
Đó là nắng trong trẻo đến tinh khôi của ngày mới. Nó không phải là thứ nắng
chang chang hay ửng hồng ta gặp trong “Mùa xuân chín”:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Chị ấy năm nay còn gánh thóc”
Nó cũng không phải cái “Nắng xuống trời lên sâu chót vót” trong thơ Huy Cận,
không phải cái nắng hạ bừng chiếu như mặt trời chân lý trong thơ Tố Hữu. Trong
Đây thôn Vĩ dạ, Hàn Mặc Tử không tả nắng mà thi nhân muốn gợi nên trong lòng
2|Page
Page |3

bạn đọc cái tinh khôi, trong trẻo. “Nắng hàng cau” trong thi phẩm là những tia
“nắng đầu tiên” của một ngày. Cau là loài cây dân dã cũng là linh hồn của làng quê
Việt Nam. Trong truyện cổ tích, trầu - cau gắn với tình yêu đôi lứa. Trong câu thơ
của Hàn Mặc Tử, cau gắn với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. "Nắng hàng
cau" là một hình ảnh đẹp gợi vẻ tinh khôi, trong trẻo của những tia nắng sớm mai.
Màu nắng hàng cau là màu nắng vô cùng mới mẻ mà trước Hàn Mặc tử chưa có thi
nhân nào gợi ra được màu nắng ấy. Những tàu cau được nắng mới bao trùm, nắng
hòa vào hạt sương đọng trên phiến lá tạo nên vẻ long lanh đến kiều diễm. Thiên
nhiên trở nên thanh thoát, trong trẻo đến lạ lùng, không gian trở nên cao ráo và đầy
khoáng đạt. Từ “nắng” được lặp lại hai lần cho ta cảm giác thôn Vĩ đang bừng sáng
lên trong ánh bình minh. Ánh sáng ấy chiếu qua hàng cau cao chót vót. Để rồi dưới
ánh nắng ấy cả khu vườn như bừng lên một sức sống thanh tân:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Hai chữ “vườn ai” không phải là câu hỏi để tìm chủ nhân khu vườn mà chỉ là
cách thể hiện niềm vui sướng, niềm bất ngờ khi gặp lại dẫu chỉ là trong tưởng
tượng mà thôi. Đại từ phiếm chỉ như mang một sắc thái mơ hồ, mang lại cho cả
câu thơ một chút nhớ nhung, một chút ngậm ngùi và một chút xa vắng bởi tất cả đã
thuộc về thế giới khác, thế giới của ai đó ngoài kia chứ không còn thuộc về mình
nữa… Đặc biệt cách dùng từ và so sánh trong câu thơ này cũng rất tinh tế tài hoa.
Để tả cái xanh của cây lá thi nhân dùng chữ “mướt” chứ không phải “mượt”.
“Mướt” đâu chỉ là màu xanh tươi của cây lá mà còn gợi thêm cái non tơ, mềm mại,
óng ả, cái sức sống thanh xuân căng tràn tươi tốt của khu vườn. Hình ảnh so sánh
“xanh như ngọc” vốn không xa lạ trong thơ văn nhưng trong câu thơ này khi được
cộng hưởng với những câu chữ khác lại tạo ra một hình ảnh mang nét đẹp riêng.
Người đọc như thấy trước mắt cái sắc xanh của khu vườn, nó không chỉ mượt mà,
tươi tốt mà còn có gì đó rất sáng, rất trong như sắc ngọc lung linh. Từ “quá” gợi
như tiếng reo lên trầm trồ mà ngỡ ngàng, như một giây phút thi nhân không thể
nén kìm được cảm xúc trước cái đẹp ngời sáng, thanh tú của cỏ cây. Cả khu vườn
vì thế mà như vừa thực vừa ảo, căng tràn sức sống lại cao quý thanh tân. Một khu
vườn như vậy làm sao có thể không nhớ, không yêu?
Trong cái mướt mát của cây lá ấy thấp thoáng ẩn hiện một gương mặt chữ điền:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Từ một hình ảnh thật trong tấm bưu thiếp, Hàn Mặc Tử đã sáng tạo nên một
hình tượng nghệ thuật độc đáo, thơ mộng, đẹp đẽ. “Mặt chữ điền” chỉ những người
có khuôn mặt vuông vắn, đầy đắn ứng với đức tính thật thà, phúc hậu:

3|Page
Page |4

“Mặt vuông tựa chữ điền


Da em thì trắng, áo em mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa, có lời hiếu trung”
Khuôn mặt ấy trở nên duyên dáng khi được những cành trúc tô điểm, bóng
dáng con người làm cảnh Vĩ Dạ vốn đã đẹp nay lại càng đẹp hơn trong sự hài hòa
giữa cảnh và người, giữa tĩnh và động qua tạo nên nét đẹp e lệ, kín đáo, duyên
dáng của con người xứ Huế. Hàn Mặc Tử đã hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ.
Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Song xưa nay vẫn có nhiều ý kiến tranh luận về cách hiểu gương mặt chữ điền
này. Đó là gương mặt đàn ông hay đàn bà? là gương mặt của cô gái Huế hay của
chàng trai xa Huế, là gương mặt của người Vĩ Dạ hay của người đang nhớ về Vĩ
Dạ. Có một đặc trưng của bút pháp lãng mạn mà chúng ta nên lưu ý để có thể hiểu
đúng về câu thơ này. Các nhà thơ lãng mạn khi tả người thường chỉ gợi những cảm
nhận chung mà ít đi vào miêu tả chỉ tiết đường nét cụ thể. Hàn Mặc Tử cũng không
phải là một ngoại lệ. Gương mặt chữ điền gợi cho người đọc về một vẻ đẹp phúc
hậu, chất phác là cái đẹp của tâm tính hơn là của dung nhan. Vì vậy ở đây dẫu hiểu
thế nào chúng ta đều có thể cảm nhận thấy sự hòa hợp giữa cảnh và người, thấy
được vẻ thấp thoáng như có như không của gương mặt người ẩn lấp sau tàng lá,
như mách bảo ta về một khoảng cách xa xôi, về một không gian chia cắt của người
nơi này và ngoài kia.
Như vậy có thể thấy khổ thơ thứ nhất là những nét vẽ đơn sơ nhưng tinh tế và
tài hoa về vẻ đẹp của Vĩ Dạ của xứ Huế hay của chính cuộc sống tươi đẹp ngoài
kia. Nó là bức tranh về một khu vườn trong ánh nắng ban mai vừa trong trẻo, tinh
khiết vừa tràn đầy sức sống. Tất cả mọi chỉ tiết đều hòa hợp trong sự thanh tân vừa
giản dị gần gũi vừa lôi cuốn người đọc. Khi viết những câu thơ này, nhà thơ đã ở
một nơi rất xa Vĩ Dạ, đang chịu cái đau đớn dày vò của bệnh tật, của mặc cảm và
sự cô đơn. Nhưng những hồi ức về Vĩ Dạ vẫn hiện lên trong trẻo, tươi nguyên, nhà
thơ vẫn hướng về cuộc đời với một tình yêu mãnh liệt. Có lẽ phải yêu lắm, phải
gắn bó lắm, phải nhớ thương lắm, người ta mới có thể quên đi những đau đớn mà
mình đang phải chịu để chỉ nhớ về những tươi đẹp nên thơ. Phải chăng vì tình yêu
mãnh liệt ấy mà độc giả không thể không rung động trước bức tranh thi nhân vẽ
ra?

4|Page
Page |5

Từ cảnh sắc khu vườn trong trẻo ở khổ thơ thứ nhất, khổ thơ thứ hai mở rộng
không gian đến dòng sông Hương với gió mây, sông nước, thuyền trăng:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Ở khổ thơ này, mỗi câu thơ trải ra thật chậm, thanh thót như tâm hồn của con
người xứ Huế. Hai câu thơ đầu ở khổ là bức tranh tả gió mây và mặt nước sông
Hương, hoa bắp lay nhẹ trong gió, giọng thơ nhẹ nhàng man mác. Thiên nhiên tạo
nên bốn phiên cảnh cân đối hài hoà, sống động: gió, mây, dòng sông, hoa bắp lay
gợi nên nhịp sống khoan thai, vẻ đẹp tĩnh lặng trầm mặc của sông Hương xứ Huế.
Gió mây nhè nhẹ trôi đi, sông Hương nước chảy lững lờ, hoa bắp khẽ khàng đu
đưa theo làn gió. Biện pháp điệp từ, nhân hoá đã nên cảnh sông nước mây trời êm
đềm thơ mộng. Thiên nhiên hiện ra thật đẹp, thật thú vị qua trí tưởng tượng phong
phú của một con người yêu tha thiết cuộc sống.
Đằng sau bức tranh thiên nhiên ấy là nỗi niềm, là tâm trạng của HMT. Ngoại
cảnh cũng chính là tâm cảnh bởi đại thi hào Nguyễn Du đã từng khẳng định:
“ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu.
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Trong thoáng chốc khu vườn trong trẻo xinh xắn đã được chuyển sang cảnh
mây trời, sông nước quạnh vắng đượm một nỗi buồn chia lìa. Cảm xúc ấy được gợi
lên ngay từ câu thơ mở đầu khổ thơ. Chúng ta dễ dàng nhận ra sự đứt gãy, chia ly
khi câu thơ bị ngắt làm hai vế với nhịp thơ ¾ như ném hai sự vật về hai phía trái
ngược nhau. Trong tự nhiên, gió và mây là hai sự vật gắn liền với nhau, gió thổi
mây trôi. Vậy mà ở hai câu thơ này hai hình ảnh lại bị tách rời trong hai nhịp thơ
gợi cảm giác chìa lìa, tan tác. Gió theo đường của gió, mây theo đường của mây.
Chúng dường như chẳng còn gắn bó liên quan gì với nhau nữa. Có lẽ bút pháp lãng
mạn đã tạo ra những hình ảnh đầy nghịch lý đi ngược lại quy luật của tự nhiên giúp
nhà thơ diễn tả nỗi niềm tâm sự của mình. Căn bệnh hiểm nghèo mà Hàn Mặc Tử
mắc phải khi tuổi còn quá trẻ, phải sống với những đau thương, mặc cảm và cách
biệt với cuộc đời đã khiến thơ ông luôn phảng phất một nỗi đau, niềm bi ai, sự chia
lìa.

5|Page
Page |6

Từ sự chia ly của mây gió trên bầu trời quạnh vắng đã in bóng xuống dòng Hương
giang:

“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”


Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để thể hiện nỗi buồn từ lòng
người tràn ra cả không gian cảnh vật. Đâu chỉ mây gió chia ly, buồn tan tác mà đến
cả dòng Hương giang cũng đìu hiu, quạnh vắng mang nỗi buồn mênh mang. Vẫn là
dòng Hương giang ấy, vẫn là con sông của biết bao thi phẩm ấy nhưng trong thơ
Hàn lại chứa đựng một nỗi niềm khác, một tâm tư khác. Không chỉ trên dòng nước
phẳng lặng in bóng mây trời buồn thiu, mà hai bên dòng sông những bông hoa bắp
như có như không lay động khe khẽ. Hoa bắp vốn là một thứ hoa dung dị của đời
thường, không sắc, không hương, bông rất nhẹ và mỏng manh. Nhà thơ thật tinh tế
khi dùng từ “lay” để gợi chuyển động của hoa bắp. “Lay” là những chuyển động
rất nhẹ, rất khẽ chỉ là một chút thoáng qua. Nó là một động từ mà dường như ko để
diễn tả hành động mà thể hiện nhiều hơn những tâm tình, xúc cảm. Chúng ta từng
bắt gặp trong thơ hình ảnh những bông hoa lay động bên bờ sông vắng. Từ trong
ca dao:
Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió đưa bông sậy bỏ buồn lòng ai
Đến thơ ca hiện đại sau này:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
(Quang Dũng – Tây Tiến)
Dường như những câu thơ này đều gợi đến một cảm giác chung, trong cái lay
động của hồn hoa là nỗi bi thương của lòng người, là sự tĩnh lặng của không gian.
Trong cái tâm trạng buồn trĩu nặng của cảnh chia lìa ấy thi nhân đắm mình
màu trăng. Nhà thơ chợt cuống quýt trước sự trôi chảy của thời gian:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Các thi liệu trong hai câu thơ là các thi liệu đã rất quen thuộc. Đó là hình ảnh
thuyền, bến, sông, trăng… Những hình ảnh chảy trong thi ca từ ca dao tới thơ
trung đại rồi hiện đại. Các hình ảnh này thường gợi đến một không gian lãng mạn,
6|Page
Page |7

một cảnh sắc nên thơ và thường gắn với những hẹn hò của lứa đôi. Trong thơ Hàn
Mặc Tử trăng cũng là một hình ảnh đặc biệt đã trở thành một mã hóa ám ảnh
những người yêu thơ ông. Hình ảnh trăng trong thơ Hàn có một sự vận động rất rõ
nét qua các thời kì. Có những khi “Trăng nằm sõng soài trên cành liễu”, có những
lúc “mở cửa nhìn trăng trăng tái mặt”, lại có lúc “hôm nay có một nửa trăng thôi/
một nửa trăng ai cắn vỡ rồi”… Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử gắn với những đau
thương tột cùng, khát vọng tột cùng của ông. Vì thế trăng ko chỉ là hình ảnh lãng
mạn mà nhiều khi còn là trăng ứa máu, trăng điên loạn. Nếu nhìn trong sự vận
động ấy, vầng trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ thật đặc biệt. Đó không phải là ánh
trăng gợi tính dục cũng ko phải là ánh trăng đau thương điên loạn như trong nhiều
bài thơ khác của nhà thơ bạc mệnh. Đó là ánh trăng lấp lánh, là ánh trăng huyền ảo,
là ánh trăng cô đơn nhưng không ghê sợ mà gợi một vẻ đẹp đặc biệt. Cả một dòng
sông lấp lánh ánh trăng và những con thuyền như chở đầy trăng đang trôi nhẹ giữa
dòng nước. Một không gian tương phản giữa đêm tối mịt mờ và ánh sáng lấp lánh,
tương phản giữa không gian tĩnh mịch với con thuyền chở trăng. Có cô đơn, có đau
đớn nhưng lộng lẫy và huyền ảo. Đại từ phiếm chỉ “ai” một lần nữa góp phần làm
nên sự hư ảo cho câu thơ. Câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu con
thuyền chở trăng, chở tình yêu có cập bến bờ hạnh phúc hay không? Câu hỏi chất
chứa bao niềm khắc khoải, sự chờ đợi mỏi mòn tình yêu, hạnh phúc của thi nhân.
Cảm xúc chuyển biến đột ngột từ niềm vui của hi vọng gặp gỡ sang trạng thái lo
âu, đau buồn, thất vọng khi tác giả nhớ và mặc cảm về số phận bất hạnh của mình.
Song có lẽ chữ đắt nhất trong hai câu thơ này và cả trong toàn bài thơ chính là
chữ “kịp” ở câu cuối, gợi đến cái khắc khoải và đau thương trong tâm can của thi sĩ
họ Hàn. Chữ “kịp” ấy đã gói trọn những âu lo, tuyệt vọng, đau đớn của nhà thơ, đã
thể hiện trọn vẹn khát vọng sống đến tột cùng nhưng số phận lại bất hạnh và bi
thương. Hàn Mặc Tử đang phải chạy đua với thời gian, với bệnh tật với cái chết.
Trong cuộc chạy đua ấy dường như những nỗ lực của người thi sĩ đã đi đến tuyệt
vọng. Nhưng tình yêu với cuộc đời, khát vọng sống, khát vọng giao cảm với thế
giới ngoài kia vẫn mạnh mẽ cháy bỏng. Chính những thôi thúc đó khiến Hàn Mặc
Tử luôn đau đớn, khắc khoải về cuộc trở về. Như vậy ở khổ thơ thứ hai chúng ta đã
thấy được sự vận động của tứ thơ sự thay đổi không chỉ về không gian, thời gian
mà hơn cả là dòng cảm xúc. Từ hồi ức về thôn Vĩ dường như thi sĩ đã quay trở lại
thực tại để nhìn thấy những bi thương bất hạnh cuộc đời mình. Phải chăng vì thế cả
khổ thơ thấm đẫm sự chia lìa?
Khổ thơ thứ ba là mở đầu bằng hình ảnh khách đường xa

7|Page
Page |8

“Mơ khách đường xa khách đường xa


Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Hình ảnh khách đường xa được lặp lại hai lần như nhấn mạnh một bóng dáng
ngày càng mờ ảo xa xôi. Ở vế thứ hai của câu thơ, chữ “mờ” mất đi hình ảnh khách
đường xa dường như bé nhỏ dần, mờ ảo dần, như ngày một xa hơn, khó nắm bắt
hơn. Phải chăng vì thế mà dù xuất hiện con người nhưng không mang đến cảm
giác vui tươi, sum họp ngược lại càng làm tăng hơn cảm giác chia lìa, xa cách.
Hình ảnh khách đường xa đó hòa cùng với sương khói mờ nhân ảnh với sắc trắng
tới hư vô nhìn không ra. Tất cả tạo nên một không gian của hư ảo, một không gian
của tâm tình sâu lắng nhất của thi sĩ chứ không còn là không gian thực. Xứ Huế
nhiều mưa và lắm sương khói, có lần Nguyễn Bính phải thốt lên:
“Giời mưa ở Huế sao buồn thế .
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày”
(Giời mưa ở Huế)
Sương khói trắng, áo em trắng quá tạo nên bóng dáng mờ ảo của con người là
điều dễ hiểu. HMT là nhà thơ lãng mạn, thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng và gieo vào
lòng người một thoáng bâng khuâng.
“Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
Có lẽ cũng bởi màu trắng là màu của thanh khiết, của trinh nguyên nên Hàn
Mặc Tử dành những xúc cảm đặc biệt trong màu này. Câu thơ thứ hai lạ về cách
diễn đạt, lạ trong cách bộc lộ cảm xúc. Nó vừa như một tiếng reo lên ngỡ ngàng
ngạc nhiên trước vẻ đẹp trắng trong mà như không có thực của “em”. Sắc trắng đó
như xóa mọi ranh giới chỉ còn lại một không gian mờ nhòa trong “mộng trắng
trong”. Bởi thế, em càng xa cách càng mong lung huyền ảo chỉ là giấc mơ không
bao giờ nắm bắt được. Cái đẹp trắng trong ấy vượt lên trên hiện thực và trở thành
ảo ảnh. Cái bóng dáng chập chờn ấy càng làm tăng thêm cảm giác gần mà như xa.
Màu trắng ấy còn là ấn tượng làm cho sự hụt hẫng của nhà thơ tăng lên muốn bấu
víu mà cảnh và người cứ đầy hư ảo, xa xôi chìm vào sương khói.
Không gian ở khổ ba chỉ còn một sự phân định duy nhất “ở đây”. Ở đây có lẽ
là để phân biệt với ở kia, ngoài kia. Vậy là không gian không còn là Vĩ Dạ, là
8|Page
Page |9

Hương giang hay là xứ Huế nữa. Không gian chỉ còn ở đây – nơi của bệnh tật, khổ
đau, tuyệt vọng, mặc cảm và chìa lìa và ngoài kia – cuộc đời với những yêu
thương, khao khát, với kí ức, kỉ niệm và hi vọng. Ta bỗng nhớ một câu thơ khác,
một ý thơ khác mà chung nhiều đau thương:
“Tôi đang ở đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sầu?”
Câu thơ vừa tả thực cảnh đẹp xứ Huế - kinh thành ẩn hiện trong sương khói,
con người như nhoà đi. Xứ Huế mang trong mình vẻ đẹp trầm mặt cổ kính, thơ
mông, trữ tình. Nhà thơ không chỉ tả cảnh mà còn tả tâm trạng của mình. Biết bao
tình cảm chất chứa trong câu thơ ấy. Hình bóng giai nhân mờ ảo trong sương khói
đó cũng chính là khoảng cách của một mối tình vô vọng.
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu hỏi cất lên đầy bâng khuâng da diết, dường như thi nhân thấy mình chơi
vơi hụt hẫng giữa cuộc đời. HMT vốn là một nhà thơ rất mục tài hoa luôn khao
khác được yêu thương nhưng căn bệnh hiếm nghèo đã khiến ông không có một
tình yêu trọn vẹn. Câu kết của bài thơ mở ra hai cách hiểu.“Ai biết tình ai có đậm
đà": HMT bằng khoảng không biết tinh cảm của người xứ Huế có đậm đà với mình
hay không? Hoặc người xứ Huế có biết rằng tình cảm của HMT dành cho xứ Huế
vẫn đậm đà như xưa
Dù hiểu theo cách nào câu thơ cũng toát lên tình yêu tha thiết của HMT đối
với con người và quê hương xứ Huế. HMT là một nhà thơ tài hoa bạc mệnh có lúc
ông phải sống trên một con thuyền nhỏ lệnh đênh không bến bờ, khi thì khắc khoải
ẩn mình bên dãy núi ven thành phố và cuối cùng phải nắm vô vọng ở nhà thương
Quy Hoà chờ cái chết. Hiểu được cuộc đời bất hạnh của nhà thơ, ta càng cảm
thông cho một thoáng dỗi hờn trách móc dường như vô cớ của một cây bút tài hoa
mà bất hạnh.
Nghệ thuật cũng là yếu tố đóng vai trò rất quan trọng trong tác phẩm văn học.
Bằng thể thơ 7 chữ ngôn ngữ trong, sáng tinh tế, nhịp điệu, giọng điệu luôn thay
đổi khi chậm rãi gấp gáp lúc tha thiết hoài nghi tuyệt vọng và đặc biệt với việc kết
hợp các biện pháp nghệ thuật một cách đặc sắc, Hàn Mặc Tử đã giúp cho Đây
Thôn Vĩ Dạ là một thi phẩm rất thành công và luôn khiến người đọc trăn trở.
Phải yêu người Vĩ Dạ hay nói rộng ra là phải yêu con người xứ Huế sâu sắc
đến dường nào thi sĩ mới nói về tình yêu xứ Huế hay như thế. Trải qua bao năm
tháng cái tình của HMT vẫn còn tươi nguyên nóng hổi, hay động và làm day dứt
9|Page
P a g e | 10

tâm hồn người đọc. Tình yêu trong ước mơ của một con người đau thương có sức
bay bổng lạ kỳ. Nó giản dị trong sáng tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Bài thơ
“ĐTVD” thể hiện phong cách thơ của HMT từ cõi thực đi vào cõi hư. Xin chân
thành thấp một nén tâm hương trước linh hồn người nghệ sĩ tài hoa, một trái tin
yêu đời luôn thổn thức về tinh yếu, một tâm hồn thi sĩ đã thăng hoa trong nỗi đau
bất hạnh của cuộc đời mình để tạo nên những đoá hoa thơm trong vườn hoa văn
học dân tộc mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là “Đây thôn Vĩ Dạ”.

10 | P a g e

You might also like