You are on page 1of 9

Phân tích Tràng giang học sinh giỏi - Mẫu 1

Phong trào Thơ Mới đánh dấu tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó phải kể đến Huy
Cận- một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của Huy Cận đều chất chứa những nỗi
buồn miên man, sầu bi của nhà thơ trước thời đại, trước xã hội mà ông đang sống.
Đằng sau những nỗi sầu ấy là tiếng lòng của một con người yêu nước. Bài thơ
Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.

Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với
bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả
gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người
trước cảnh bật bao la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương
sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được
giãi bày tự nhiên:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng
đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang”
cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng
sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sông
cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp
điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng
thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và
lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình
ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc
nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó
mặc dòng đời xô đẩy, chảy trôi.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi
liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm
uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ
“củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô
định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi
nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình.

Tưởng như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui ủi an. Nhưng sang
khổ thơ thứ hai, nỗi sầu càng lớn thêm nhiều chút, thấm sâu vào cảnh vật:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều

Cặp từ láy tượng hình “lơ thơ” “đìu hiu” gợi bao buồn vắng, quạnh quẽ, cô đơn. Như
tự nhiên vốn có, không gian chợ búa gợi sự đông vui, tấp nập, nhưng trong đoạn
thơ, hình ảnh chợ xuất hiện mà chẳng thấy chút hơi ấm của cuộc sống, tiếng cười
nói, mua bán của con người. Vạn vật như nằm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt đối,
không gian cũng được mở rộng cả chiều kích sâu rộng:

“Nắng xuống trời lên, sâu chót vót

Sông dài trời rộng, bến cô liêu”

Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá cho thấy được chiều kích vô
cùng của không gian. “Sâu chót vót” gợi sự thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Càng
rộng, càng cao, càng sâu bao nhiêu thì cảnh vật càng buồn vắng, lẻ loi bấy nhiêu.
Sông tuy dài mà bến bờ cô lẻ, nỗi buồn như mở rộng theo chiều kích không gian,
thấm sâu trong từng hơi thở.

Theo mạch cảm xúc của hai khổ thơ trước, khổ thơ thứ ba càng khắc sâu thêm nỗi
buồn tuyệt đối:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cần gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh cánh bèo gợi sự vô định, lênh đênh. Những cánh bèo trôi dạt liên tiếp
“hàng nối hàng” không nơi bấu víu, chẳng chốn trở về hay chính là hình ảnh ẩn dụ
cho những kiếp người nhỏ bé, đơn độc, mất phương hướng lúc bấy giờ. Sông nước
mênh mông, dài rộng, không có lấy một chuyến đò đi qua, cây cầu bắc ngang cũng
chẳng thấy nên dù muốn nhưng nào có chút hy vọng mong manh về sự gắn kết với
con người. Tất cả dường như đang chống đối với lòng người, kẻ cô đơn đang khao
khát giao cảm, thấu hiểu, sẻ chia lại không có một chút tình đời, tình người ở lại.

Khổ thơ cuối bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn
sâu lắng của lòng người:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”.

Bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh mặt trời tạo hoá
trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy
mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành
những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ. Giữa không trung là cánh chim bé nhỏ đang đơn
độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương. Hình ảnh đối lập giữa cánh chim
nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ càng tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng,
khoáng đạt.
Trước cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết,
cồn cào:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Trong thơ Đường Thi cũng đã từng viết:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.

Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà thương nỗi nhớ quê nhà. Trong “Tràng giang”, nỗi nhớ
quê hương của Huy Cận dường như thường trực, dai dẳng và mãnh liệt hơn bởi
“không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Không vì bất cứ điều gì mà nỗi nhớ vẫn “dợn
dợn” trong lòng thi nhân, đó chính là biểu hiện của tình yêu quê hương nói riêng và
tinh thần yêu nước nói chung.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ học sinh giỏi - Mẫu 1


Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một trong những cái tên nổi bật nhất với
lối thơ đặc biệt vừa lãng mạn tươi trẻ, vừa bi thương day dứt, tất cả đều đến từ cuộc
đời có quá nhiều đớn đau, chua xót của người nghệ sĩ trẻ bạc mệnh. Đây thôn Vĩ Dạ
là một trong những sáng tác nổi bật và xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của
Hàn Mặc Tử, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của phong
trào thơ Mới. Bài thơ mang đậm dấu ấn sáng tác của tác giả khi vừa chứa đựng
những nội dung trong sáng, thanh khiết vô ngần, bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên,
yêu cuộc đời tha thiết, đồng thời cũng bộc lộ những nỗi ám ảnh, tiếc nuối của tác giả
trước số phận nghiệt ngã của bản thân thông qua những vần thơ kỳ dị, phức tạp
đan xen giữa cảnh thực và cảnh mơ.

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng nhưng có cuộc đời nhiều bất hạnh đắng cay,
khi ông không may mắc phải căn bệnh phong quái ác khi tuổi đời còn trẻ, sự nghiệp
đang thời kỳ nở rộ nhất, đặc biệt trong tình yêu Hàn Mặc Tử cũng lại là người kém
may mắn khi phải chịu nhiều thương tổn, day dứt. Trong giai đoạn cuối đời, ông trở
về mảnh đất Quy Nhơn để chữa trị thì bỗng nhận được tấm bưu thiếp có in hình
phong cảnh Huế, trên bức thiếp ấy là những dòng chữ nhắn gửi của nàng Kim Cúc,
cô gái mà Hàn Mặc Tử vẫn thường nhung nhớ. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đã dấy lên
trong cõi lòng cô độc của người nghệ sĩ những xúc cảm hạnh phúc, vui tươi, lòng
ông dào dạt những tình cảm nhớ mong Huế, nhớ về một xứ Huế đẹp tươi, đồng thời
bộc lộ tấm lòng khao khát sống, khao khát hạnh phúc đến tột cùng thông qua những
vần thơ đầu thật tươi sáng, trong trẻo.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mở đầu bài thơ là một lời hỏi ngỏ rất dễ thương, đậm chất xứ Huế “Sao anh không
về chơi thôn Vĩ?”, đó có thể là lời hờn trách vu vơ của một người con gái mong
ngóng mãi người thương về thăm Huế, thăm mình cho thỏa nỗi nhớ mong, rồi ấy
cũng có thể là một lời mời mọc thân tình của một người bạn xa, muốn tác giả một
lần về lại Huế, thăm lại chốn cố đô yên bình. Rồi sau thẳm trong lời hỏi ngỏ ấy, ta
cũng dường như nhìn thấu lòng tác giả, Hàn Mặc Tử phải chăng cũng đang hỏi
chính bản thân sao không về thăm lại chốn quê cũ, thể hiện sự bất lực trước bệnh
tật, trước hoàn cảnh éo le của bản thân.

Trong dòng hồi tưởng, thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử đã hiện ra với một hình ảnh đặc
trưng, ấy là những khu vườn với hàng cau thẳng tắp đón nắng lên. Hình ảnh “nắng
hàng cau” là một hình ảnh đặc biệt, có tính khái quát và ấn tượng, nắng hàng cau
tức là nắng buổi sớm, mặt trời đã lên khá cao, đương độ ấm áp nhất, và cũng không
nóng gắt như buổi ban trưa. Giữa khung cảnh ấy, ánh nắng bao trùm không gian,
phủ lên những ngọn cau xanh một màu vàng nhạt, mở ra một không gian trong trẻo,
tràn đầy sức sống, cũng như sự thanh bình, yên tĩnh nơi làng quê. “Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc”, từ phiếm chỉ “vườn ai” đã đem vào cho bức tranh thiên nhiên
thêm sự ấm áp của tình người, bên cạnh cái ấm áp của nắng sớm, khung cảnh
càng trở nên hài hòa khi có sự giao hòa giữa con người với thiên nhiên.

Những tính từ “mướt quá”, “xanh như ngọc” đều là những nét vẽ thật tài tình và đầy
tinh tế của Hàn Mặc Tử khi nhớ về thôn Vĩ Dạ, chúng đã khéo léo, mở ra một bức
tranh thiên nhiên dịu dàng, sinh động, trong trẻo, tinh khiết và tràn đầy sức sống. Ấy
là cái non tươi mỡ màng của cây lá, là sự trong lành mát mẻ của những giọt sương
sớm còn đọng lại sau một đêm dài, mà dưới cái nắng ấm áp chúng ánh lên thật đẹp
như những ngọc ngà châu báu, khiến người ta không khỏi suýt xoa ngỡ ngàng. Đến
câu thơ cuối, bút pháp thi trung hữu họa đã thực sự làm rõ và nổi bật vẻ đẹp của
con người xứ Huế trong bức tranh quê, “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, lấy cái sự
mảnh nhỏ, vắt ngang của lá trúc để làm nổi bật lên khuôn mặt chữ điền, phúc hậu,
dịu dàng và thông minh của người con gái Huế, đó có thể cũng là bóng hình mà Hàn
Mặc Tử vẫn thường nhung nhớ, một con người với những vẻ đẹp cổ điển và tâm
hồn đáng quý, đại diện cho cả một vùng đất với những con người thân thương mà
tác giả ngày đêm hướng về.

Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, Hàn Mặc Tử nhìn đời, nhìn người với tinh thần tích
cực, lạc quan, tràn đầy hy vọng, bằng bức tranh thiên nhiên tươi sáng, trong trẻo, thì
đến khổ thơ tiếp theo, mạch cảm xúc của tác giả đã nhanh chóng thay đổi theo sự
thay đổi giữa ngày và đêm, giữa hai bức tranh thiên nhiên hoàn toàn khác biệt với
những gam màu mới.

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Từ bức tranh thiên nhiên tươi sáng, với những gam màu ấm áp, thanh mát, giản dị,
Hàn Mặc Tử đã chuyển ngay sang khung cảnh đêm tối với bức tranh sông nước
mênh mông lạnh lẽo, sâu kín thể hiện sự trống trải, cô độc đang len lỏi trong lòng tác
giả. Hình ảnh “Gió theo lối gió mây đường mây” là hình ảnh buồn, lạc lõng, gợi sự
chia ly, tan rã không ngày gặp lại. Rõ ràng gió và mây là hai thực thể luôn gắn liền,
gió thổi kéo mây bay, dường như gắn bó như hình với bóng, ấy thế mà trong thơ
Hàn Mặc Tử gió và mây lại tách biệt, hai thứ hai nơi dường như chẳng chút liên hệ.
Phải chăng đây là ẩn ý cho mối tình của ông với nàng Kim Cúc, hai người giờ đây
đã dường như cách biệt phương trời, và rồi mai đây nữa chính là âm dương chia
cắt. Rồi cảnh mây gió ấy cũng lại gợi liên tưởng đến sự liên quan của tác giả với thế
gian, dường như giây phút này, ông cũng đã bắt đầu cảm nhận được bản thân
không còn nhiều thời gian, dường như sự sống đối với ông ngày càng xa cách, cuộc
đời trần thế của ông có lẽ cũng chẳng còn nhiều nữa. Chính những suy nghĩ và hiện
thực đã càng dày vò thêm trái tim mới vừa được thắp lên hy vọng của Hàn Mặc Tử.
Một tấm thiếp đã khiến ông vui, tưởng chừng đã thoát khỏi cái u mê, tăm tối của
cuộc đời, thế nhưng nó vẫn không thể chiến thắng được sự nghiệt ngã của số phận
và bản thân ông bị buộc phải tỉnh mộng quay trở về với thực tại đau thương.

Đến câu thơ tiếp theo “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”, thực đúng với câu “Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của Nguyễn Du, trước nỗi buồn số phận, Hàn Mặc
Tử nghĩ về dòng sông Hương hiền hòa, đã trải qua bao thăng trầm lịch sử, ông
dường như thấy dòng nước ấy cũng như đang hiểu được nỗi buồn của mình, lặng lẽ
buồn thiu, một nỗi buồn âm thầm không biết tỏ bày cùng ai, cô độc, lạc lõng không
một người bầu bạn. Hình ảnh “hoa bắp lay” là một hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt, hoa
bắp vốn là loài hoa không sắc, không hương, mờ nhạt lại nhanh héo tàn. Nó dường
như chính là hình ảnh cuộc đời của Hàn Mặc Tử lúc cuối đời, tàn úa chỉ mặc cho gió
lung lay mà không thể chống đỡ lại số phận, điều đó khiến cho người ta không khỏi
xót xa cho cuộc đời người nghệ sĩ bạc mệnh, cũng như những nỗi đau mà ông đã
phải chịu đựng trong suốt cuộc đời.

Đang trong lúc buồn khổ, tuyệt vọng và cô đơn nhất Hàn Mặc Tử lại nhớ đến trăng,
người bạn tri kỷ duy nhất ông có thể tâm tình và thấu hiểu ông. Cảnh bến thuyền,
ánh trăng sáng là một trong những hình ảnh thường thấy xuất hiện trong thơ ca cổ
điển, miêu tả cảnh sông nước thanh vắng, êm đềm, và có đôi chút hiu quạnh. Đến
trong thơ của Hàn Mặc Tử cảnh tượng này độc đáo và sáng tạo hơn với câu hỏi
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?”, ấy là một câu hỏi
đầy tâm sự, giữa cảnh sông nước mênh mông, ánh trăng loang vàng khắp mặt
nước, có một chiếc thuyền lặng lẽ nằm yên, thật thơ mộng trữ tình biết mấy. Lòng
Hàn Mặc Tử lại không được yên bình như thế, người vội hỏi thuyền ai neo bến,
người vội hỏi có mang trăng về kịp không, có mang người bạn tâm giao về kịp
không. Dường như ta thấy Hàn Mặc Tử đang vội vã, lo lắng, lòng ngập tràn nỗi
hoang mang, sợ rằng bản thân không còn nhiều thời gian nữa, không còn có thể
chờ kịp ánh trăng về chiếu rọi lòng ông. Càng đọc, càng hiểu sâu tấm lòng người thi
sĩ, càng biết được những mối lo, những nỗi cô đơn, bất lực của ông ta lại càng
thương cho một kiếp người nhiều đớn đau, khi cả tình yêu, cả sự sống đều nằm
ngoài tầm tay với. Tất cả những nỗi đau trong thơ, những tuyệt vọng về cuộc đời
của Hàn Mặc Tử đều bộc lộ thực rõ tấm lòng khao khát sự sống, khao khát tình yêu
đến quằn quại, dù rằng trong thâm tâm tác giả đã nhiều lần buông bỏ, chấp nhận số
phận, thế nhưng chỉ cần có một chút niềm tin, thì tấm lòng ấy lại rạo rực, vui sướng
hơn bao giờ hết. Dù rằng tất cả cũng như pháo hoa rực rỡ, đẹp, nhưng chóng nở
chóng tàn.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra


Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

Đang từ cõi thực, Hàn Mặc Tử chuyển bước vào cõi mơ, thể hiện rất rõ cái hông thơ
phức tạp và khó hiểu bậc nhất của mình trong làng thơ ca Việt Nam đương đại. “Mơ
khách đường xa khách đường xa”, đó cũng là một câu thơ mập mờ, không rõ ý,
“khách đường xa” được lặp lại hai lần, như nhấn mạnh sự xuất hiện của nhân vật
này, tuy nhiên càng nêu bật lại càng mờ mịt. Vị khách ấy là từ trong mơ, không rõ
mặt, không rõ diện mạo, chỉ biết là họ đang ngày càng xa tầm với, xa mãi không trở
lại, ám chỉ sự vô vọng của Hàn Mặc Tử trong mối tình với nàng Kim Cúc xứ Huế,
cũng như sự tồn tại của ông trên cõi đời ngày càng trở nên mong manh, mờ mịt. Tác
giả đã cách nhân thế rất xa, dần trở thành một vị khách xa lạ, đi một chặng đường
ngắn ngủi chừng 28 năm, rồi rời đi vô thanh, vô sắc, liên tưởng ấy khiến người ta
vừa ám ảnh, vừa xót xa cho cuộc đời người thi sĩ.

Đến câu thơ tiếp “Áo em trắng quá nhìn không ra”, là bóng dáng chập chờn của
người con gái ông yêu trong tiềm thức, bộc lộ khoảng cách ngày một xa xôi giữa
ông và nàng, đó không chỉ là khoảng cách về địa lý, mà còn là khoảng cách tâm
hồn, khoảng cách sinh ly tử biệt không thể vãn hồi. Chính những khoảng cách ấy,
đã khiến Hàn Mặc Tử ngày càng tuyệt vọng, và bóng dáng cô gái năm xưa ngày
càng trở nên mờ mịt, ông nhìn không rõ, sờ không được, muốn mà không thể chạm
tới đầy xót xa. Để giải thích cho cái sự mờ nhạt, không rõ của nhân vật “em”, tác giả
đã viết “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, nhằm xóa bớt khoảng cách, vịn vào lý do
sương khói mờ mịt xứ Huế làm ông không thể thấy rõ, thế nhưng nó lại càng nhấn
mạnh vào cái sự mờ mịt, bế tắc và tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử trước cuộc đời, khi
chính bàn tay ông cũng chẳng thể nào vén lớp sương mù để tìm thấy bóng hình yêu
thương, cũng chẳng thể chống lại số mệnh từ chối cái chết.

You might also like