You are on page 1of 3

Tràng giang – Huy Cận

Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào "Thơ Mới". Vẻ đẹp thiên
nhiên, nỗi ưu sầu nhân thế - một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua
bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu của Huy Cận trước Cách mạng tháng
tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng nhìn cảnh mênh
mông sóng nước, lòng man mác buồn cùng tâm sự kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữa dòng đời vô
định.

Mở đầu bài thơ là những câu thơ đậm phong cách cổ điển giàu hình ảnh và giàu nhạc điệu,
chính những từ láy và cách gieo vần đã tạo nên âm điệu cho cả khổ thơ:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,


Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng".

Tràng giang hiện lên với nhiều hình ảnh đẹp: dòng sông, con thuyền, gợn sóng,... Nhưng cảnh
đẹp lại thấm đượm một nỗi buồn da diết. Trên bức tranh sông nước ấy đã hiện lên hình ảnh
một con thuyền không chèo "xuôi mái"- hình ảnh tĩnh trên một dòng sông tĩnh. Bức tranh thiên
nhiên mở ra theo cả hai chiều, "điệp điệp" gợi ra không gian theo chiều rộng, còn "song song"
lại làm cho ta cảm giác về chiều dài. Sóng của dòng sông, của thiên nhiên trong phút ấy cũng hóa
thành con sóng lòng của thi nhân với từng nỗi buồn trùng điệp như vô tận, da diết khôn nguôi.
Xưa nay, thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước đẩy. Thế mà Huy Cận lại thấy
thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế
mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Nhà thơ dùng từ "trăm ngả" dường như khiến
người đọc cảm nhận mối sầu ấy không có chỗ tận cùng, và nỗi buồn lại càng mênh mang hơn
nữa.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc:

"Củi một cành khô lạc mấy dòng".

Huy Cận đã khéo léo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn,
lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt
nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi trên "mấy dòng" nước rộng lớn. "Cành củi" thôi
đã gợi lên sự nhỏ bé, đơn độc lại còn "củi khô" nữa thì lại càng bé nhỏ tội nghiệp hơn. Phải
chăng hình ảnh cành củi khô trôi nổi phù du trên sóng nước Tràng giang chính là hình ảnh ẩn dụ
để biểu tượng cho kiếp người như thi nhân đang bập bềnh, bơ vơ giữa dòng chảy của cuộc đời?
Nhà thơ đã thổi vào đó một linh hồn: cành củi khô đã vượt qua biết bao dòng nước thể hiện sự
trôi nổi, lạc loài của một kiếp người mang nỗi buồn vô tận giữa dòng đời.

Nối tiếp cái u sầu, buồn bã của khổ đầu, khổ thơ tiếp theo như đẩy con người lên đến đỉnh điểm
của nỗi sầu:
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót.
Sông dài, trời rộng bến cô liêu."

Trên dòng Tràng giang mênh mông, mọc lên "lơ thơ cồn nhỏ", "gió đìu hiu", cảnh hiu quạnh và
cái gì cũng nhỏ bé thưa thớt. Từ láy "lơ thơ" diễn tả sự rời rạc của những cồn đất nhỏ nhoi mọc
lên giữa dòng sông gợi cảm giác hoang vắng, cô tịch, tiêu điều, xơ xác. Hai chữ "đìu hiu" như
càng khắc sâu thêm nỗi buồn hiu hắt làm câu thơ chùng xuống như một tiếng thở dài man mác.

Câu thơ thứ hai đã vẳng lên âm thanh của sự sống, của con người, nhưng âm thanh ấy cũng nhỏ
nhoi, yếu ớt, cô quạnh:

" Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều".

Chỉ một câu thơ thôi mà lại mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ
rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút âm
thanh sự sống của con người. Đọc lên câu thơ chúng ta có cảm giác rất mơ hồ, có lẻ tác giả đã
cảm nhận bằng thính giác chứ không phải chính mắt nhìn thấy khiến cho thanh âm ấy như có
như không, như hư như thực.

Đến câu thơ thứ ba thì không gian được mở ra theo một chiều khác, chiều cao qua hình ảnh của
nắng và bầu trời :

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót


Sông dài trời rộng bến cô liêu".

Hai hình ảnh nắng và trời được đặt trong những chuyển động trái chiều - "lên" và "xuống" tạo
cảm giác về một sự chia rẽ. Nắng xuống và trời lên, để lại một khoảng trống "sâu chót vót". Nếu
dùng từ "cao" thì chỉ tả được độ cao vật lý của bầu trời còn chữ "sâu" vừa tả được độ cao vừa
gợi được cảm giác của con người trước chiều cao ấy. Đó chính là sự nhỏ bé của hồn người trước
cái vô cùng của vũ trụ. "Sông dài, trời rộng" tạo ra một hùng cảnh kì vĩ, còn những gì thuộc về
con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu". Vì thế đọc câu thơ lên ta có cảm giác
hồn mình như đang lạc lõng giữa càn khôn vũ trụ.

Khổ thơ tiếp theo vẫn là một sự buồn thương, u ám trong bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà:

"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;


Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Cảnh vật nơi đây dường như đông đúc hơn bởi những thân phận bèo trôi "hàng nối hàng". Hình
ảnh cánh bèo trong "bèo dạt về đâu" mang thân phận của con người: lạc loài, trôi nổi, không
biết đi về đâu, cũng không thể tự làm chủ cuộc đời của chính mình. Phóng tầm mắt ra sông
rộng, tác giả đá trông thấy: "Mênh mông không một chuyến đò ngang", "Không cầu gợi chút
niềm thân mật" để rồi thấm thía sự đơn độc. Từ "không" hai lần phủ định "không đò", "không
cầu" trong hai câu thơ như hai cái lắc đầu buồn bã. Cuộc đời quá mênh mông, không có một
chút niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín. Cầu hay chuyến đò
ngang vốn dĩ là phương tiện kết nối giữa người với người. Nhưng giờ đây cầu và đò đã bị nhấn
chìm trong sự mênh mông ấy khiến cho thi sĩ cảm thấy cô độc đến tận cùng.

Thiên nhiên như ngủ thiếp đi trong giấc ngủ triền miên và nỗi buồn cô đơn như nhân thêm gấp
bội:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc


Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

Chỉ bảy chữ thôi mà câu thơ đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh cổ xảo diệu: một rặng
núi xa, những đám mây bạc từ mặt đất chầm chậm dâng cao. Cảnh thật hùng vĩ tráng lệ nhưng
đối lập với cái hùng vĩ ấy là hình ảnh cánh chim nhỏ bé đơn côi đang "nghiêng cánh nhỏ". "Cánh
chim" và "bóng chiều" vốn là những hình tượng của buổi hoàng hôn trong thơ ca cổ điển. Bóng
chiều buông xuống đè nặng lên cánh chim bé nhỏ, lạc lõng giữa bầu trời rộng thênh thang.

Chỉ bằng hai câu mà nhà thơ đem lại cho người đọc những xúc cảm thân thương, quen thuộc
của quê hương để nói đến tình quê trong hai câu thơ cuối. "Lòng quê dợn dợn vời con nước",
"dợn dợn" là một từ láy nguyên rất sáng tạo của Huy Cận cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng,
cô đơn của "lòng quê" đang "dợn" lên trong tâm hồn thi nhân làm cho hồn người nôn nao
không yên.

Câu thơ cuối cùng khép lại "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". Huy Cận không nhìn thấy
"khói" nhưng vẫn nhớ nhà da diết. Đó chính là tâm trạng và lòng yêu quê hương sâu kín của nhà
thơ. Từ đó bài thơ mở ra một tình yêu lớn lao, tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về
đất nước. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của thi nhân.

Tràng giang mang đậm chất cổ điển và hiện đại qua những câu thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp,
gieo vần, bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng nhiều từ láy độc đáo, nhiều từ Hán Việt cổ kính,...
Tạo được những hình ảnh song song, kết hợp với âm điệu, nhịp điệu khá uyển chuyển có sự hòa
điệu giữa hồn người và cảnh vật.

"Tràng giang" là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ "Lửa thiêng". Bài thơ không chỉ
là một bức phong cảnh mà còn là "một bài thơ về tâm hồn". Vẻ đẹp của những dòng sông trên
mọi miền đất nước hội tụ trong tâm hồn thi nhân kết hợp hài hòa với vẻ đẹp của tình yêu quê
hương, tình yêu sông núi. Đọc "Tràng giang" ta thêm yêu, thêm nhớ đất trời sông núi quê hương
Việt Nam.

You might also like