You are on page 1of 3

Bài làm :

Trong thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thiên nhiên rất đẹp, rất quyến rũ hồn
người nhưng nó thường bị vây phủ bởi một nỗi buồn. Nhà thơ hay đặt mình con người hữu hạn
vào thời gian vô hạn và không gian vô biên để suy ngẫm về sự sống của vũ trụ, từ những cái
thường ngày nhỏ nhặt mà đề cập tới những vấn đề to lớn của trời đất, trăng sao… Nhưng cảm
quan đó dù có ít nhiều màu sắc triết lý cũng không thoát khỏi nỗi buồn man mác. Đất nước, thiên
nhiên trong bài thơ Tràng giang cũng thấm sâu một nỗi buồn như thế. Bài thơ thể hiện tâm trạng
của “cái tôi trữ tình” cô đơn, thấm đượm nỗi sầu nhân thế trước thiên nhiên mênh mông, hiu
quạnh và tấm lòng yêu nước thầm kín của thi sĩ.
 
Lời đề từ tuy nằm ngoài bài thơ, nhưng lại đúc kết nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác
giả: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Có thể coi hình tượng và cảm xúc trong câu thơ này là
nguồn thi hứng để thi sĩ sáng tác nên bài thơ Tràng giang bất hủ. Nó khiến cho không chỉ “cái tôi
trữ tình” nặng trĩu nhớ nhung, mà đất trời sông núi cũng tràn ngập bâng khuâng, nhung nhớ. Cái
độc đáo của câu thơ này chính là sự giao thoa của cả hai nghĩa ấy. Huy Cận đã triển khai cảm
hứng nêu ở câu thơ để từ một cách hoàn hảo trong suốt bài thơ Tràng giang.
 
Ở khổ thơ thứ nhất, hai câu đầu đặc tả cảnh sông nước quen thuộc trải rộng ra trong một không
gian mênh mông, bát ngát:
 
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
 
Nếu câu trên, sự vô biên được mở ra với hình ảnh những lớp sóng tiếp nối nhau, xô đuổi nhau
điệp điệp thì ở câu dưới nó lại được đặc tả qua hình ảnh con thuyên xuôi mái theo những luồng
nước song song rong ruổi về mãi cuối trời.
 
Sóng gợn nhấp nhô trên mặt sông bao la thì buồn cũng dồn đuổi nhau điệp điệp hết lớp này tới
lớp khác trong hồn người, vần ang trong tràng giang có dư âm vang xa, tạo nên âm hưởng chung
cho bài thơ. Mặt khác, tràng giang còn gợi lên được hình ảnh một con sông không những dài mà
còn rộng. Cái nhỏ nhoi của con thuyền càng làm nổi bật cái rộng dài tưởng chừng vô tận của
dòng sông. Sức mạnh của hai câu thơ trên không chỉ là ở nghệ thuật miêu tả, mà còn ở nghệ
thuật khơi gợi cả xúc cảm và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên theo không gian (tràng giang)
và theo thời gian (điệp điệp).
 
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả; 
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
 
Thuyền về bến, neo lại nghỉ ngơi, mặt sông vắng bóng thuyền, nước đành chia sầu trăm ngả. Củi
một cành khô lạc mấy dòng không biết trôi về nơi nao. Hình ảnh đơn sơ mà có sức gợi sự liên
tưởng sâu xa tới thân phận cô đơn, lênh đênh, sầu thảm của kiếp người thời ấy.
Đến khổ thơ thứ hai, bức tranh tràng giang có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn không vơi
mà như càng thấm sâu vào cảnh vật:
 
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
 
Khung cảnh chứa đầy tâm trạng. Huy Cận đã tập trung tất cả hình ảnh, nhạc điệu để làm nổi bật
lên nỗi buồn thấm thía của con người trước sông dài trời rộng. Nỗi buồn được gợi lên từ mặt
nước mênh mông, đôi bờ hoang vắng, từ một cồn nhỏ lơ thơ heo hút, dăm bụi cây phơ phất trong
gió lạnh đìu hiu.
 
Lắng nghe đâu đây, từ làng xa vẳng lại tiếng chợ chiều đang vãn, tuy có hơi hướng con người
nhưng âm thanh mơ hồ như từ cõi nào vọng lại, làm dấy lên trong lòng lữ khách nỗi khát khao
được gặp gỡ và chia sẻ tâm tình.
 
Nỗi buồn toả ra hết chiều cao, chiều rộng của bến bãi, mặt nước, bầu trời. Ở đây, người đọc bắt
gặp cảm nhận tinh tế, kì diệu của nhà thơ qua một chi tiết hết sức bất ngờ: sự chuyển đổi cảm
giác trời lên cao thành sâu chót vót đặc tả độ cao rợn ngợp của bầu trời và khoảng cách vô tận
giữa trời và nước. Từ đó tạo nên ấn tượng sông thêm dài, trời thêm rộng và bến sông vốn đã
vắng vẻ lại càng cô liêu hơn, quạnh quẽ hơn.
 
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
 
Vẫn trong mạch cảm xúc, nỗi buồn được gợi ra từ hai khổ thơ đầu qua các hình ảnh: những cánh
bèo trôi dạt lênh đênh, những con thuyền, dòng nước như cùng trôi về cõi vô biên, củi một cành
khô lưu lạc bồng bềnh trên sóng nước thì đến khổ thơ này ấn tượng về khung cảnh mênh mông
vắng lặng, về sự chia li tan tác được láy lại và nhấn mạnh bằng hai lần phủ định: Không một
chuyến đò, Không cầu gợi chút niềm thân mật. Người cô đơn gặp cảnh hoang vắng tĩnh mịch
đến lạnh lùng như thế thì nỗi cô đơn càng đậm, càng sâu. Ước mong khao khát tìm được một
chút hơi hướng ấm áp của con người nhưng chỉ thấy toàn bờ xanh tiếp bãi vàng hun hút tới tận
chân trời và chỉ có những cánh bèo không biết sẽ trôi dạt về đâu giữa tràng giang bát ngát. Toàn
là hình ảnh gợi nỗi buồn thương, tan tác, chia li.
 
Sông dài, trời rộng không có bóng dáng con người. Không một chuyến đò và cũng không cầu để
tạo nên cảm giác gần gũi giữa con người với nhau mà chỉ toàn là thiên nhiên (bờ xanh) với thiên
nhiên (bãi vàng) xa vắng, mênh mang. Vì thế, nỗi buồn ở bài thơ này không chỉ là nỗi buồn
mênh mông trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn thời cuộc.
 
Bốn câu cuối thể hiện rất rõ tâm trạng tác giả và ý tưởng chung của toàn bài. Nỗi buồn sâu thẳm
từ con người đã thấm sang cảnh vật:
 
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
 
Cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp nhưng vẫn mang dáng vẻ cô đơn. Mây cao đùn lớp lớp thành
ngọn núi bạc chơ vơ trong hoàng hôn, giống như nỗi buồn chất ngất trong lòng người lữ thứ.
Giữa trời đất bao la chỉ còn lại một cánh chim nhỏ chở nặng bóng chiều sa. Tất cả đều cô đơn, lẻ
loi đến tội  nghiệp và con người dường như chìm ngập trong vũ trụ rộng lớn, bao la. Giữa cảnh
Tràng giang ấy, nỗi buồn của kẻ tha hương lại càng da diết, khắc khoải:
 
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
 
Câu thơ gợi nhớ tới một tứ thơ Đường: Yên ba giang thượng sử nhân sầu (Hoàng Hạc lâu – Thôi
Hiệu). Tản Đà dịch: Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Tuy nhiên, hai câu thơ của Huy Cận
có nét mới hơn. Người khách trong thơ Thôi Hiệu nhìn thấy khói toả, sóng gợn mà nhớ tới quê
hương; còn nhân vật trữ tình trong Tràng giang đứng trước cảnh sông không khói hoàng hôn mà
vẫn rưng rưng nỗi nhớ về một miền quê xa khuất.
Âm điệu thơ trầm buồn có sức lay động tận nơi sâu thẳm của tâm hồn người đọc. Huy Cận đã
tiếp thu thế mạnh của thể thơ bảy chữ, kết hợp với từ ngữ hàm súc, tinh tế để thể hiện sự chân
thành, thiết tha của một tấm lòng nhớ nhung, hoài vọng quê hương. Bao phủ toàn bài thơ là một
nỗi buồn lan rộng và thấm thía. Đó là nỗi buồn của kiếp người nhỏ bé, hữu hạn trước cái vô biên,
vô tận của vũ trụ vĩnh hằng. Tuy nhiên, đó là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm
tâm hồn của bạn đọc.
 
Tràng giang đã kết hợp được những nét cổ điển của thơ Đường, vẻ đẹp của truyền thống thơ ca
dân tộc cùng dáng dấp hiện đại của Thơ mới. Tấm lòng nhà thơ đã dàn trải ra thành những hình
ảnh, âm điệu, màu sắc vừa đơn sơ giản dị, vừa đẹp đẽ thanh cao. Bài thơ phản ánh tâm trạng của
một trái tim cô đơn, một “cái tôi trữ tình” đau đáu nỗi buồn trước cuộc đời. Nỗi buồn sâu xa ấy
đã hòa vào nỗi bơ vơ, cô độc trước khung cảnh thiên nhiên hoang vắng. Tuy vậy nhưng tình cảm
của nhà thơ Huy Cận đối với non sông đất nước thể hiện qua bài thơ cũng thật thiết tha, sâu lắng.
Đúng như nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu: “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất
nước, do đó dọn dường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”.

You might also like