You are on page 1of 23

Chuyên đề

TRÀNG GIANG
- Huy Cận –
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
* Vị trí: Nhà thơ xuất sắc trong phong trào Thơ mới, nhà thơ lớn
trong văn học Việt Nam hiện đại.
* Phong cách nghệ thuật:
- Hồn thơ ảo não, nổi bật với cảm hứng về thiên nhiên, tạo vật.
- Hồn thơ đậm chất cổ điển, giàu suy tưởng, triết lý.
* Nhận định:
- Đỗ Lai Thuý: Nhà thơ mang nỗi khắc khoải không gian.
- Hoài Thanh: 1. Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Ðông
Á,...đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm
trong cõi đất này
2.HC lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi
sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì
không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc
thành bao châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên
đường kia còn ghi lại trong văn thơ những dấu tích không bao
giờ tan được…”
- Xuân Diệu: thơ Huy Cận không gắn đến cái hằng ngày, cái
trước mắt mà là cái ngàn năm. Huy Cận đứng trên thiên văn đài
của linh hồn để nhìn cõi bát ngát.
2. Tác phẩm
* Vị trí: Bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ HC trước cách mạng, tuyệt
tác phong trào Thơ mới
* Hoàn cảnh ra đời:
- Được sáng tác trong một buổi chiều mùa thu năm 1939 khi HC
đứng ở bờ nam bến Chèm nhìn sông Hồng sóng nước mênh
mang, bốn bề bao la, vắng lặng.
- In trong tập Lửa thiêng (1940). Đây là tập thơ đưa HC lên vị trí
nhà thơ hàng đầu trong phong trào Thơ mới.
* Nội dung và nghệ thuật:
- Nội dung: Bài thơ khắc hoạ bức tranh thiên nhiên tràng giang
mênh mang, nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn,
niềm khát khao hòa nhập với đời và lòng yêu quê hương đất nước
thầm kín mà thiết tha.
- Nghệ thuật: sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và hiện đại:
+ Thể thơ thất ngôn
+ Hệ thống hình ảnh ước lệ mang ý vị thơ Đường cùng những
hình ảnh quen thuộc gần gũi phảng phất cảnh vật sông nước của
đất nước Việt Nam
+ Giọng điệu trầm lắng, da diết.
+ Ngôn ngữ giàu sức gợi.
+ Sử dụng kết hợp nhiều biện pháp tu từ: phép đối, phép điệp, ẩn
dụ..
* Nhận định:
- Xuân Diệu: Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước,
dọn đường cho tình yêu giang sơn, tổ quốc.
- Hoài Thanh: Tràng giang là bài thơ ngoại cảnh nhưng ngoại
cảnh phù hợp với tâm hồn nên trở thành một bức tranh tâm cảnh
- một bài thơ tâm hồn.
* Nhan đề: Lúc đầu có tên là Chiều trên sông sau đổi thành
Tràng giang
- Tràng giang nghĩa là sông dài, sông lớn. Hai từ Hán Việt ghép
lại mang sắc thái cổ kính, trang nhã mà chữ sông dài không có
được. Hơn nữa còn gợi nhớ về dòng Trường Giang ngàn dặm của
Trung Quốc từng chảy suốt chiều dài lịch sử và qua bao áng cổ
thi. Nhan đề vì thế có thêm sắc thái Đường thi.
- Hai âm ang đi liền nhau, nối tiếp nhau tạo độ mở của âm thanh,
tô đậm cảm giác bao la, bát ngát của con sông vừa dài vừa rộng,
cảm giác không cùng của không gian vũ trụ, gợi dòng đời viên
miên viễn xa xôi, gợi được nỗi buồn triền miên.
 Ngay nhan đề thi phẩm nhà thơ đã mở ra một cánh cửa bước
vào cõi vô biên. Mặc dù tứ thơ được gợi từ con sông Hồng nhưng
Tràng giang không chỉ là hình ảnh một dòng sông cụ thể mà là
hình ảnh của không gian vũ trụ với rợn ngợp của sông nước
mênh mang. Như vậy nó đã khước từ một địa danh cụ thể để trở
thành tạo vật thiên nhiên có tính phổ quát. Nhan đề cho thấy cảm
xúc, suy tưởng của nhà thơ - cảm xúc suy tưởng về vũ trụ. HC
tìm đến thiên nhiên để thể hiện những ưu tư buồn bã về kiếp
người nhỏ bé cô đơn, để không rơi vào cảm giác:
Cõi đời cúi mặt quên xa biếc
Đi suốt thời gian không nhớ thương
Tràng giang không chỉ là vũ trụ của thiên nhiên mà còn là vũ trụ
của cảm xúc.
* Lời đề từ lời đề từ: tuy nằm ngoài tác phẩm nhưng lại tập
trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả.
Đó là câu thơ được lấy ra từ bài thơ Nhớ hờ
Thôi lạc rừng xa cơn gió đến
Bâng khuâng trời rộng/ nhớ sông dài
Lời đề từ ngắn gọn giản dị, gói gọn cảm hứng chủ đạo của bài
thơ, thâu tóm toàn bộ cảnh và tình của bài thơ. Cảnh là trời rộng
sông dài, là vũ trụ mênh mông, bao la, bát ngát. Tình là tâm trạng
bâng khuâng, buồn nhớ. (Nếu ngắt nhịp 2/5: nỗi nhớ là trời rộng
nhớ sông dài. Nếu ngắt nhịp 4/3: nvtt bâng khuâng trước trời
rộng và nhớ con sông dài). Lời đề từ như đưa ta về thuở hồng
hoang khai thiên lập địa. Lúc ấy đất trời không phân lập và khi
đất trời cách xa trời rộng nhớ sông dài, con người cảm thấy bâng
khuâng. Thi nhân ngẩn ngơ trước vũ trụ mênh mang, cảm thấm
nỗi sầu vạn kỉ. Ngay từ lời đề từ, tâm trạng nhân vật trữ tình đã
tìm được sự hoà cảm với nỗi sầu sông núi.
II. Tìm hiểu tác phẩm
Đề 1: Cảm nhận đoạn thơ sau:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,


Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bài làm
I. Mở bài:
HC là nhà thơ xuất sắc trong phong trào Thơ mới, nhà thơ lớn
của văn học Việt Nam hiện đại. Hồn thơ ông ảo não, nổi bật với
cảm hứng về thiên nhiên, tạo vật, đậm chất cổ điển, giàu suy
tưởng, triết lý. “Tràng giang” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật độc đáo của HC trước cách mạng, là tuyệt tác phong
trào Thơ mới. Hai khổ thơ đầu của bài diễn tả nỗi buồn sầu, cô
đơn rợn ngợp của thi sĩ trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, hiu
quạnh:
II. Thân bài:
1. Khái quát chung:
2. Cảm nhận đoạn thơ:
a. Khổ 1:
Là khổ thơ đầu tạo ra âm hưởng và dòng cảm xúc chi phối
toàn bộ tác phẩm. Bài thơ mở ra cảnh tượng sông nước mênh
mông, bát ngát. Cảnh vừa mang phong vị cổ điển lại vừa có
những nét mới mẻ, hiện đại và phản phất tâm sự buồn của thi sĩ
* Hai câu trên: cảnh mang ý vị cổ điển
- Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh tràng giang, con sông vô định đã
từng xuất hiện từ tiêu đề:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
+ Trên dòng tràng giang mênh mông nhà thơ quan sát được hình
ảnh “sóng gợn” “điệp điệp”. Sóng gợn ở đây không phải là sóng
vỗ dạt dào, cũng không phải là cảnh “trắng xóa tràng giang
phẳng lặng tờ” mà là những con sóng lô xô, lăn tăn nối nhau đến
vô tận, vô cùng. Câu thơ mở đầu bằng hai từ “sóng gợn”, kết
thúc bằng hai chữ “điệp điệp”. Chữ “điệp điệp” gợi hình ảnh
những con sóng loang ra, lan xa hoà mình vào tràng giang rồi
biến mất trong dòng chảy mênh mông.
+ Câu thơ có bảy chữ thì có sáu chữ miêu tả dòng tràng giang,
chỉ có duy nhất một chữ “buồn” diễn tả cảm xúc của thi nhân.
Thế nhưng chữ buồn ấy lan tỏa trên dòng sông theo từng con
sóng làm cho tràng giang ngập đầy tâm trạng và bỗng chốc hóa
thành dòng sông cảm xúc. Sóng của sông, của thiên nhiên trong
giây phút ấy đã hóa thành sóng lòng. Đúng như HC có lần từng
tâm sự: nhìn dòng sông lớn gợn những lớp sóng tôi cảm thấy nỗi
buồn của mình cũng đang trải ra như lớp sóng.
+ Khi viết câu thơ này, có lẽ HC cũng tiếp thu được nghệ thuật
diễn tả của câu ca dao:
Sóng bao nhiêu gợn, dạ em buồn bấy nhiêu
Tuy nhiên câu ca dao có hai vế so sánh rõ rệt “bao nhiêu- bấy
nhiêu” còn câu thơ HC chỉ có sự so sánh ngầm: có bao nhiêu gợn
sóng trên dòng tràng giang là bấy nhiêu nỗi buồn trong lòng thi
sĩ.
- Câu thứ nhất tả sóng, câu thứ hai tả thuyền, tả dòng nước trôi:
Con thuyền xuôi mái nước song song
HC vốn là một nghệ sĩ chịu sự ảnh hưởng đậm nét bởi văn hóa
phương Đông. Câu thơ HC gợi nhớ tới câu thơ của Bà Huyện
Thanh Quan “Gác mái ngư ông về viễn phố”. Trong thơ BHTQ,
dù gác mái nhưng trên thuyền vẫn có bóng ông ngư và con
thuyền vẫn có bến đỗ. Còn trong câu thơ HC, con thuyền vừa
không có bóng dáng con người vừa vô định. Hai chữ “xuôi mái”,
phó mặc, thụ động, cảm giác thuyền nương theo dòng nước mà
trôi hoặc bất lực với cả mái chèo, lênh đênh cho dòng nước cuốn
đi. Có lẽ chất thơ của sông nước đã đưa sự hòa nhập vào những
câu thơ như thế này để phô bày vẻ đẹp của nó. Câu thơ thứ nhất
tả sóng, câu thơ thứ hai tả con thuyền trôi, dòng nước trôi. Nếu
câu thứ nhất gợi tả những gợn sóng đang loang ra, lan xa thì câu
thứ hai lại vẽ ra những dòng nước rong ruổi chạy mãi về phía
cuối trời. Cảnh vật được gợi tả khá quen thuộc, bình dị, phảng
phất âm hưởng Đường thi. Người đọc nhận ra trong hai câu thơ
trên của HC thấp thoáng bóng dáng của những câu thơ trong bài
Đăng cao nổi tiếng của Đỗ Phủ:
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai
HC sử dụng hai từ láy nguyên điệp điệp, song song hòa vào nhau
tạo dư âm vang xa, lời ngừng, câu hết nhưng âm hưởng thì vẫn
còn vang vọng mãi như dội vào vô biên. Cảnh nhờ đó cứ mở
rộng trải dài mênh mang, nỗi buồn vì thế cũng cứ lan toả vô hạn
và vô chừng. Không gian vũ trụ và không gian tâm tưởng cứ thế
hoà quyện vào nhau thành một thứ màu sắc tâm lý đổ bóng
xuống trường giang, nhuốm màu lên tạo vật..
* Hai câu dưới: cảnh có những nét mới mẻ hiện đại nhưng vẫn
thấm đượm nỗi buồn:
Câu thơ thứ ba mang đến ấn tượng về sự chia lìa, xa cách.
Thuyền và nước vốn đi liền với nhau, thuyền trôi được là nhờ có
nước vỗ mạn thuyền. Thế nhưng Huy Cận lại thấy thuyền và
nước hững hờ, không gắn kết với nhau, vận động trái chiều nhau,
ngược đường, ngược hướng với nhau. Ngay cả những dòng nước
trong bản thân con sông cũng không tha thiết, chúng cứ âm thầm
mà chảy song song, vờ như không quen biết nhau trong đời.
Thuyền về thì một đường nước về một hướng nhưng mối sầu thì
lan tỏa, giăng mắc khắp trăm ngả của đất trời. Sầu trăm ngả
không hẳn là do thuyền và nước chia lìa mà do dòng nước đồng
nghĩa với dòng sầu. Dòng sầu thảm trong lòng thi nhân đã tuôn
chảy vào trăm ngả của dòng sông. Cái mới của Huy Cận chính là
ở việc đã thể hiện trọn vẹn nỗi buồn cá nhân của con người qua
hình ảnh con thuyền chở đầy tâm trạng.
- Câu thơ thứ tư mang đến ấn tượng về sự nhỏ bé, lẻ loi:
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Để có được câu thơ này, Huy Cận đã phải trải qua nhiều lần sửa
chữa, lựa chọn: lúc đầu ông viết:
Gỗ lạc rừng xa cuộn siết dòng.
Sau đó ông lại viết :
- Một cánh bèo trôi lạc giữa dòng
- Một chút bèo đơn lạc giữa dòng.
Cuối cùng ông lựa chọn cách viết Củi một cành khô lạc mấy
dòng. Trước hết đây là câu thơ mang yếu tố tả thực. Trên sông
Hồng, nhất là vào mùa lũ về, có thể thấy cây trôi, thân trôi, cánh
bèo trôi vật vã nổi chìm trong nước đục phù sa. Chọn củi hơn là
chọn gỗ, chọn một cành khô sẽ ước lệ hơn một cánh bèo. Xuân
Diệu thì cho rằng đây là hình ảnh hiện thực đến sống sít. Huy
Cận đã dũng cảm chọn hình ảnh cành củi đưa vào thơ, góp phần
hiện đại hóa thơ ca, đưa thơ trở về gần với cuộc đời.
+ Dù HC chỉ sử dụng một hình ảnh thơ tả thực cái tầm thường
nhưng đây vẫn là câu thơ giàu sức gợi, thậm chí còn được nhiều
người đánh giá là một câu thơ tuyệt bút thể hiện ý vị mới mẻ của
Thơ mới. Câu thơ có bảy chữ thì vỡ vụn ra thành sáu mảnh cô
đơn đầy nhức buốt. Củi gợi trạng thái bứt lìa khỏi nguồn cội. Một
gợi lên sự ít tỏi, lẻ loi. Cành gợi sự khô héo, cạn kiệt sức sống.
Mấy dòng gợi cái rộng lớn mênh mông.
Biện pháp đảo ngữ “Củi một cành khô” đã nhấn mạnh vào cái
khô của củi, cái bé nhỏ gầy guộc của cành. Thân phận của cành
củi khô giữa dòng tràng giang ấy chính là biểu tượng cho kiếp
người nhỏ bé lênh đênh nổi trôi giữa dòng đời vô định. Kiếp củi
trở thành biểu tượng cho kiếp người đồng thời cũng là hiện thân
cho cái tôi cá nhân tự thấy mình bơ vơ giữa cõi người, tha hương
ngay trên chính quê hương của mình. Nói như Xuân Diệu thì “cái
tôi bơ vơ của Thơ mới đã tìm thấy sự đồng điệu trong hình ảnh
cành củi khô lạc loài của thơ Huy Cận”.
- Trong hai câu thơ này, sự hô ứng của từ chỉ số ít mấy với từ chỉ
số nhiều trăm cùng với biện pháp nghệ thuật tương phản đối lập
giữa cái nhỏ bé, mong manh với cái mênh mông bao la đã gợi nỗi
ám ảnh sâu sắc về sự nhỏ bé, hữu hạn của số phận con người giữa
không gian rộng lớn của vũ trụ. Sự phá cách, trúc trắc của nhịp
thơ 1/3/1/2 cũng góp phần làm nổi bật tâm trạng buồn sầu của
nhân vật trữ tình.
=> Với bốn câu thơ và một vài chi tiết đường nét, hình ảnh, Huy
Cận đã khắc họa được bức tranh tràng giang rộng lớn mênh
mông. Trên dòng tràng giang ấy, những sự vật nhỏ bé không gặp
gỡ, hội tụ mà đều ngược đường, ngược hướng, lạc dòng, song
song. Tất cả đều tan tác chia ly. Cảnh vật phảng phất, hé mở nỗi
buồn, sự cô đơn đến tận cùng trong cõi lòng thi sĩ.
b. Khổ hai:
Ở khổ thơ thứ nhất Huy Cận nhìn vào mặt sông mà tả, sang khổ
thứ hai nhà thơ nhìn ra xa và bao quát. Bức tranh tràng giang vì
thế có thêm nhiều chi tiết: cồn nhỏ, làng xa, chợ chiều, bến
sông… Tựởng như sự xuất hiện của từng ấy chi tiết thì cảnh sẽ có
thêm sức sống nhưng trái lại tất cả chỉ khiến cho cảnh thêm
quạnh hiu, mênh mang.
* Hai câu trên:
- Cồn vốn là hình ảnh gợi ấn tượng cô lẻ. Cồn nhỏ lại càng gợi sự
bé nhỏ, cô đơn. Lơ thơ gợi sự ít ỏi, “đìu hiu” gợi sự quạnh quẽ.
Huy Cận đã khai thác triệt để sức gợi của hình ảnh, của từ láy
Tiếng Việt để diễn tả sự hoang vắng của thiên nhiên cũng như sự
trống trải của tâm hồn con người. Có lẽ vì vậy những câu thơ này
có phảng phất không khí hoang vắng, thê lương của những câu
thơ trong Chinh phụ ngâm:
Non Kỳ quạnh qũe trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Cảm giác trống trải trước không gian thiên nhiên hoang sơ vắng
lặng tiếp tục được tô đậm khắc sâu trong câu thơ:
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Câu thơ gợi ra ba cách hiểu. “Đâu” có thể là từ chỉ nơi chốn với
nghĩa là ở đâu đó có tiếng làng xa vãn chợ chiều. Đâu cũng có thể
hiểu ra từ phủ định với nghĩa là đâu có, không có tiếng chợ chiều.
Đâu còn hiểu là đâu rồi, gợi khao khát kiếm tìm âm thanh của sự
sống và con người. Dù hiểu theo cách nào thì câu thơ cũng là nhằm
nói đến sự vắng lặng đến tuyệt đối của tràng giang. Hơn thế nữa,
phiên chợ vãn buổi chiều của thôn quê Việt Nam thường lại rất tiêu
điều và ảm đạm. Bởi vậy nếu trong câu thơ có tiếng chợ chiều đã vãn
vọng lại từ xa thì âm thanh xao xác ấy cũng không đủ sức làm cho
không gian sống động hơn mà càng khiến tràng giang thêm buồn bã.
Nhà thơ đã cảm nhận không gian ấy không phải bằng sự an nhiên, tự
tại như người xưa mà bằng sự bơ vơ, cô đơn của cái tôi Thơ mới.
* Hai câu dưới:
- Mạch thơ vận động theo hướng vắng bóng dần dấu vết của con
người để chỉ còn thiên nhiên ngự trị:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
+ Đây là những câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc, khắc họa một
bức tranh thiên nhiên rất đẹp. Hai động từ ngược hướng xuống,
lên đem lại một cảm giác chuyển động rất rõ rệt. Nắng xuống đến
đâu vòm trời lại đẩy lên cao đến đó. Có người hình dung rằng HC
đã tạo nên một trục tọa độ trong thơ mình. Một cái trục tung được
vẽ bởi nắng xuống trời lên. Và có một cách trục hoành cắt ngang
đó là con sông dài. Nhà thơ đã khắc họa một không gian đa
chiều, chiều nào cũng giãn nở đến vô cùng, vô tận. Câu thơ trên
là sự vô biên của chiều cao và chiều sâu, câu thơ dưới là sự vô
biên của chiều dài và chiều rộng.
+ Thi sĩ đã lạ hóa ngôn từ để mang đến cho người đọc sự cảm
nhận sâu sắc về không gian đa chiều. “Sâu chót vót” vốn là từ láy
dùng để diễn tả chiều cao vào thơ HC đã có thêm khả năng diễn
tả chiều sâu. Có lẽ HC đã đồng nhập cụm từ cao chót vót với sâu
thăm thẳm để diễn tả chiều cao của bầu trời và chiều sâu của đáy
vũ trụ. Dường như ánh mắt của nhà thơ không chỉ dừng lại ở đỉnh
trời để cảm nhận chiều cao mà là xuyên vào đáy vũ trụ để cảm
nhận chiều sâu.
+ Giữa không gian rộng lớn đến vô cùng, bất ngờ xuất hiện hình
ảnh bến cô liêu - là bến sông vắng vẻ, hiu quạnh, lẻ loi hay chính
là bến lòng chất chứa nỗi sầu vạn kỉ của thi nhân. Cảnh vật khơi
dậy cả một nỗi buồn cơ hồ không giới hạn nơi lòng người. Trời
sâu làm người ta vô vọng, sông dài khiến người ta hiu quạnh, con
người trở nên bé nhỏ, có phần bị “rợn ngợp trước vũ trụ rộng
lớn” (Hoài Thanh). Không chỉ ở bài thơ này, mà ở tập thơ “Lửa
Thiêng” Huy Cận đã rất nhiều lần đứng chơ vơ giữa cõi đời, giữa
vũ trụ để nhìn xuyên vào lòng trời, ruột đất, để cảm thấm cảm
giác cô đơn của cái tôi bé nhỏ:
Lên bề cao hay đi xuống bề sâu
Không biết nữa, có chút gì làm ngợp
Ở khổ thơ thứ hai, tác giả Huy Cận tiếp tục phát huy nghệ thuật
đối lập, không chỉ là đối ở bề mặt giữa các câu thơ trong khổ mà
là đối ở chiều sâu của ý thơ giữa con người bé nhỏ và vũ trụ
mênh mông. Nhà thơ đã làm nổi bật không gian thiên địa vô cùng
vô tận thực chất là để thể hiện sự cô đơn, bơ vơ của cái tôi lãng
mạn trước cuộc đời.
3. Đánh giá chung:
- Nội dung: Đoạn thơ bộc lộ nỗi buồn sầu, cô đơn của nhân vật
trữ tình khi đứng trước khung cảnh tràng giang rộng lớn, mênh
mông.
- Nghệ thuật: Đoạn thơ thể hiện những nét đặc sắc trong
phong cách nghệ thuật của HC, mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa
hiện đại với thể thơ thất ngôn; hệ thống hình ảnh ước lệ mang ý
vị thơ Đường cùng những hình ảnh quen thuộc gần gũi phảng
phất cảnh vật sông nước của đất nước Việt Nam; giọng điệu trầm
lắng, da diết; ngôn ngữ giàu sức gợi; sử dụng kết hợp nhiều biện
pháp tu từ: phép đối, phép điệp…
III. Kết bài
Đề 2: Cảm nhận đoạn thơ sau:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;


Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,


Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Bài làm
I. Mở bài:
HC là nhà thơ xuất sắc trong phong trào Thơ mới, nhà thơ lớn
của văn học Việt Nam hiện đại. Hồn thơ HC ảo não, nổi bật với
cảm hứng về thiên nhiên, tạo vật, đậm chất cổ điển, giàu suy
tưởng, triết lý. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ HC
trước cách mạng, tuyệt tác phong trào Thơ mới. Hai khổ thơ cuối
của bài thơ diễn tả nỗi buồn mênh mang, sâu lắng của nhà thơ
trước cảnh thiên nhiên lúc hoàng hôn:
II. Thân bài:
1. Khái quát chung:
2. Cảm nhận đoạn thơ:
a. Khổ 3:
- Ánh mắt nhà thơ quay trở lại với dòng sông phải kiếm tìm cảnh
vật, không gian chút hơi ấm cho tâm hồn đang cô đơn, bơ vơ lạc
loài. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả niềm mong mỏi, khát khao ấy
bằng những hình ảnh:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Tràng giang vẫn mênh mang chảy nhưng đã có thêm sự xuất hiện
của những cánh bèo. Bèo dạt là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca
cổ điển gợi liên tưởng những kiếp phù du, kiếp người vô định
giữa dòng đời:
Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh!
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
+ Cánh bèo trong thơ của Huy Cận tượng trưng cho sự trôi dạt
của con người giữa dòng thời gian, giữa đôi bờ vũ trụ. Hơn nữa
bèo trong thơ Huy Cận không phải là một cánh ,hai cánh mà là
hàng nối hàng cho nên nó là tượng trưng cho cả kiếp nhân sinh.
Nó gợi cho người đọc liên tưởng tới hình ảnh một lớp người chưa
tìm được lối đi riêng cho mình trước cảnh nước mất nhà tan. Đây
chính là nỗi buồn của cả một thế hệ.
+ Một con thuyền, một cành củi khô lưu lạc, trôi nổi ở khổthơ
đầu cũng đủ gợi ra một nỗi buồn da diết, sự tiếp nối của hình ảnh
bèo dạt ở khổ này khiến nỗi buồn lại mênh mang hơn. Chữ dạt
đứng sau chữ bèo tạo cảm giác trôi nổi, lênh đênh đi kèm với câu
hỏi về đâu mang lên đầy nhói buốt đã nói được thật nhiều cảm
xúc của thi nhân. Về đâu là câu hỏi tu từ thể hiện sự bế tắc, hoang
mang, vô định kiếp người giữa dòng đời; của Huy Cận nói riêng
và thế hệ các nhà Thơ mới nói chung trước thời cuộc.
- Sự bất tận của tràng giang, của vũ trụ tiếp tục được khắc họa ở
những câu thơ sau:
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Toàn cảnh trời sông, sông dài được tác giả diễn tả một lần nữa
bằng từ mênh mông, sự cô quạnh, vắng vẻ của cảnh được tô đậm
bằng sử dụng cấu trúc phủ định hai lần không cầu, không đò. Cầu
và đò là những vật giao nối đôi bờ để xóa đi khoảng cách về
không gian. Đó đều là tín hiệu của sự giao hòa thân mật, ấm cúng
giữa con người với con người. Hơn thế nữa nó còn gợi tả tình quê
hương:
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông.
Không cầu, không đò đồng nghĩa là không có tính hiệu của sự
sống, không tình người, tình quê. Cảnh sông nước ở đây vắng
lặng, lạnh lẽo hơn cảnh trong Đây mùa thu tới của XD.
Bởi lẽ ở Đây mùa thu tới là đã vắng người sang những chuyến đò
nhưng vẫn có những chuyến đò qua lại trên sông. Từ đã vắng
người sang những chuyến đò trong thơ Xuân Diệu cho đến không
cầu, không đò trong thơ HC là cả một cuộc hành trình “càng đi
sâu càng thấy lạnh” của cái tôi Thơ mới. Sự bơ vơ cái tôi trữ tình
trước cảnh sông nước không chỉ được thể hiện ở bài thơ này mà
còn được nói đến trong một số bài thơ khác của tập thơ “Lửa
thiêng”^ :
Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm.
Như vậy ta có thể thấy một tín hiệu quen thuộc trong thơ Huy
Cận đó là thi nhân thường nói về những cái không để biểu đạt
cái có trong lòng - niềm chờ mong sự khát khao hợp giữa con
người với con người.
- Câu cuối cùng của khổ thơ khắc sâu trong lòng người được cái
lặng lẽ, hoang vắng của đôi bờ tràng giang:
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Cảnh đã có thêm những màu sắc xanh vàng nhưng không sống
động hơn mà chỉ thêm cô quạnh, đìu hiu như cõi không người.
Câu thơ mang được đặc trưng tinh thần của Thơ mới: cái buồn
bao giờ cũng gắn với cái đẹp. Hình ảnh bờ xanh tiếp nối bãi vàng
gợi một bức tranh thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên bất tận. Từ
lặng lẽ đứng ở đầu câu thơ tạo nên vẻ hoang sơ cho bức tranh ấy.
Người đọc có cảm giác như đang trở về với thuở hồng hoang, vũ
trụ không có bóng dáng của con người. Đứng trước đôi bờ tràng
giang của Huy Cận ta như đang đứng trước đôi bờ sông Đà trong
trang văn của Nguyễn Tuân “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
=> Khổ thơ thứ ba đã khắc họa sự vắng lặng, hoang sơ gần như
tuyệt đối của thiên nhiên vũ trụ. Không thấy dấu vết của sự sống,
con người người ta chỉ thấy thiên nhiên thống trị, chiếm lĩnh cả
khổ thơ. Một lần nữa nhân vật trữ tình nữa vào sự cô đơn, ngột
thở trong không gian ba chiều hun hút không giới hạn. Tuy nhiên
đó không phải là sự cô đơn trước thiên nhiên vũ trụ mà còn là nỗi
sầu nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời không chút niềm thân mật.
b. Khổ 4:
* Hai câu trên: phác họa bức tranh thiên nhiên tráng lệ hùng vĩ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Cảnh hoàng hôn được gợi tả bằng bút pháp chấm phá với những
thi liệu quen thuộc trong thơ cổ điển phương Đông là hình ảnh
đám mây và cánh chim.
- Hình ảnh đám mây: những đám mây mùa thu xếp chồng lên
nhau trùng trùng điệp điệp ở phía chân trời được những giọt nắng
huy hoàng của một ngày còn sót lại rọi chiếu vào trở nên lấp lánh
như những hòn núi bạc. Điệp từ lớp lớp kết hợp với cụm từ đùn
núi bạc đã diễn tả thật sống động vẻ đẹp hùng vĩ của khung cảnh
hoàng hôn. Huy Cận vận dụng tài tình từ đùn khiến mây như
chuyển động, như có nội lực từ bên trong. Viết câu thơ này nhà
thơ thú nhận có học chữ đùn trong bài thơ Thu hứng của nhà thơ
Đỗ Phủ
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
(Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Có thể thấy phần phiên âm câu thơ của Đỗ Phủ không có từ đùn.
Đỗ Phủ chỉ miêu tả những đám mây làm cho mặt đất tối sầm lại.
Câu thơ Huy Cận có phần tươi sáng hơn, sống động hơn. Huy
Cận đã làm mới tứ thơ cổ điển vốn quen thuộc với bao người.
+ Hình ảnh cánh chim: Giữa cảnh sông nước mây trời bao la và
hùng vĩ bỗng xuất hiện cánh chim bé bỏng. Hình ảnh này khiến
câu thơ Huy Cận phảng phất phong vị những thơ ca cổ điển Việt
Nam:
- Chim bay về núi tối rồi
- Chim hôm thoi thóp về rừng
- Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Câu thơ cũng mang dấu ấn của cánh chim trong thơ Vương Bột
đời nhà Đường:
Lạc hà dữ cô lộ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc
(Ráng chiều với cánh cò cô độc đang bay
Làn nước thu với bầu trời mênh mông một
màu)
Từ hình ảnh cánh chim có phần ước lệ trong thơ xưa, Huy Cận
tạo dựng hình ảnh cánh chim gần gũi sinh động trong thơ mình.
Dấu hai chấm đặt giữa câu thơ chim và bóng chiều mang đến cho
câu thơ hai cách hiểu: chim nghiêng cánh trút bóng chiều xuống
tràng giang hay bóng chiều đổ ập xuống làm cho chim nghiêng
cánh. Thủ pháp tương phản, đối lập tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về
sự đơn độc, nhỏ bé, yếu đuối của chim trước vũ trụ bao la, hùng
vĩ. Phải chăng sự đối lập ấy làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn,
xa hơn, thoáng hơn và cũng buồn hơn. Bản thân tác giả từng tâm
sự rằng: cánh chim bay liệng tuy gợi sự ấm cúng cho cảnh vật,
nhưng nhỏ bé quá và nỗi buồn đến đây càng da diết trong thương
nhớ. Như vậy cánh chim trong thơ Huy Cận có thêm vẻ đẹp hiện
đại, bởi nó không chỉ chở đầy ráng chiều mà còn chất chứa tâm
trạng nỗi lòng của thi sĩ. Cánh chim ấy là biểu tượng cho cái tôi
nhỏ nhoi, cô độc bơ vơ trong cuộc đời.
*Hai câu dưới: thiên về tả tình, tạo cảm giác khổ thơ như một
bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh.
- Hình ảnh dòng tràng giang vẫn hiện diện qua câu thơ:
Lòng quê dợn dợn vời con nước.
Một lần nữa trong bài thơ này nhà thơ tiếp tục khai thác tối đa
sức gợi của từ láy tiếng Việt. Dợn dợn có nghĩa là gợi lên, vời là
xa. Hai chữ dợn dợn kết hợp với cụm từ vời con nước diễn tả
được những cảnh con sóng gợn nên vời xa tít tắp trên dòng tràng
giang mênh mông đồng thời cũng gợi được nỗi buồn vô hạn cua
một tấm lòng. Từ dợn dợn không ít lần bị nhầm dờn dợn . Tuy
nhiên dờn dợn là từ nghiêng về biểu thị trạng thái tâm lý còn dợn
dợn là từ có khả năng gợi tả được cả cảnh và tình.
- Câu thơ cuối cùng là câu thơ được gợi từ ý thơ của thôi Hiệu
trong bài Hoàng Hạc lâu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng xử nhân sầu.
+ Thôi Hiệu và HC hai nhà thơ cách nhau hàng ngàn năm nhưng
đều có chung cảm giác buồn nhớ nhà, nhớ quê hương khi đứng
trước cảnh sông nước lúc chiều tà.
+ HC mượn tứ thơ của người xưa nhưng vẫn làm mới tưởng thử
đó bằng một lối diễn đạt khác biệt. Xưa Thôi Hiệu nhìn khỏi
bảng lảng trên sông mà nhớ quê hương còn Huy Cận không nhìn
thấy khói mà lòng vẫn trào dâng nỗi nhớ nhà. Thôi Hiệu là một
thi sĩ thời Đường Trung Quốc nên dùng bút pháp tả cảnh ngụ tình
quen thuộc của thơ ca cổ điển để gián tiếp bộc lộ tâm trạng. Ông
mượn khói sóng để tỏ lòng quê. Huy Cận lại là một thi sĩ của
phong chào Thơ mới - phong trào thơ đề cao cảm xúc của cái tôi
cá thể. Vì vậy Huy Cận đã dùng hình ảnh phủ định sự chi phối
của ngoại cảnh vào tâm cảnh để bộc lộ, khẳng định tâm trạng,
phủ định không khói hoàng hôn để bộc lộ thấm thía nỗi nhớ nhà,
nhớ quê. Với HC, ông không cần tới sự tác động của ngoại giới
bởi nỗi nhớ nhà là cảm xúc thường trực trong cõi lòng thi sĩ.
+ Thôi Hiệu đứng ở lầu Hoàng Hạc - nơi có truyền thuyết Phí
Văn Vi cưới vàng bay về trời - để mơ giấc mơ tiên. Cõi tiên mờ
mịt, khói sóng trên sông mờ mịt nên Thôi Hiệu khao khát hướng
về quê hương, về thực tại. Còn Huy Cận đứng trước tràng giang
mênh mông mà nhớ nhà, nhớ quê hương. Đó là nỗi nhớ như da
diết, khắc khoải, là niềm khao khát tìm được chốn nương náu để
không thấy mình bơ vơ lạc lõng giữa trời rộng, sông dài, giữa
dòng đời vô định. Ai đi xa cũng muốn trở về, khổ đau lại càng
muốn được trở về nơi bình yên giúp người ta chống lại tai ương
của số phận. Đến đây ta hiểu nguyên cớ sâu xa của nỗi buồn
trong lòng thi nhân là nỗi buồn nhân thế và còn là nỗi buồn mất
nước. Đó là cảm xúc của cả thế hệ thanh niên trí thức không tìm
được lối ra trong cảnh nước mất nhà tan. Cùng thời với H Cận,
Nguyễn Tuân luôn có cảm giác thiếu quê hương còn Tố Hữu -
nhà thơ cách mạng thì lại thấy thấy Sống giữa quê hương mà bơ
vơ như kiếp đi đày
3. Đánh giá chung:
- Nội dung: Đoạn thơ bộc lộ nỗi buồn sầu, cô đơn của nhân vật
trữ tình khi đứng trước khung cảnh tràng giang rộng lớn, mênh
mông.
- Nghệ thuật: Đoạn thơ thể hiện những nét đặc sắc trong
phong cách nghệ thuật của HC, mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa
hiện đại với thể thơ thất ngôn; hệ thống hình ảnh ước lệ mang ý
vị thơ Đường cùng những hình ảnh quen thuộc gần gũi phảng
phất cảnh vật sông nước của đất nước Việt Nam; giọng điệu trầm
lắng, da diết; ngôn ngữ giàu sức gợi; sử dụng kết hợp nhiều biện
pháp tu từ: phép đối, phép điệp…
III. Kết bài

You might also like