You are on page 1of 15

1.

TÌM HIỂU CHUNG:


1.1. Tác giả (1919-2005)
- Tên thật: Cù Huy Cận. Quê ở Hương Sơn - Hà Tĩnh. Thuở nhỏ học ở quê " Vào Huế học
hết trung học "1939 ra Hà Nội học cao đẳng canh nông.
- 1942 tham gia Cách mạng và giữ nhiều trọng trách trong bộ máy nhà nước.
- Sự nghiệp sáng tác:
Trước Cách mạng tháng Tám Sau Cách mạng tháng Tám
+ Lửa thiêng (1940), Vũ trụ ca (1942)... + Tác phẩm: Bài thơ cuộc đời; Đất nở
+ Nhà thơ hàng đầu của phong trào thơ Mới. hoa; Trời mỗi ngày lại sáng;...
+ Nỗi buồn cô đơn trước thiên nhiên vũ trụ + Hòa nhập với cuộc sống mới, yêu đời,
“thiên cổ sầu”. yêu cuộc sống, yêu đất nước, nhân dân.
- Phong cách thơ: hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lý. Thơ Huy Cận luôn thấm đẫm một
nỗi buồn.
+ Thơ mới vốn buồn, nhưng nỗi buồn trong thơ Huy Cận có một sắc thái riêng: “Cái buồn
toả ra từ đáy hồn một người cơ hồ không biết tới ngoại cảnh.” (Hoài Thanh).
+ Huy Cận là người có khuynh hướng tìm về cảnh xưa, người xưa, tình xưa: “Khi đã buồn
hiện tại, thì quay về tháp xưa” (Chế Lan Viên). Quay về quá khứ, thi nhân có thể tìm lại
nguyên vẹn cái hồn dân tộc và vóc dáng quê hương, một quê hương đã mất và một thời huy
hoàng đã mất.
+ Huy Cận còn là nhà thơ của “niềm khắc khoải không gian” (Đỗ Lai Thuý), hay nói đúng
hơn là không gian vô cùng và thời gian vĩnh hằng.
[ Gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại, được nhà nước tặng giải thưởng Hồ
Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
1.2. Tác phẩm: Tràng giang:
a. Xuất xứ: In trong tập “Lửa thiêng”.
b. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết vào tháng 9/1939 khi tác giả là chàng sinh viên 20
tuổi đang học trường cao đẳng canh nông, những buổi chiều nhớ nhà thường đạp xe ra Bến
Chèm, nhìn dòng sông Hồng mênh mông sóng nước mà nghĩ đến kiếp người trôi nổi " Tác
giả sáng tác bài thơ.
c. Đề tài, chủ đề: Tràng giang là bức tranh thiên nhiên mênh mông, u buồn, qua đó tác giả
thể hiện nỗi sầu buồn vô hạn và lòng yêu nước thầm kín của mình.
d. Mạch cảm xúc của bài thơ:
- Khổ 1: Nỗi sầu vời vợi, triền miên gợi lên từ hình ảnh con thuyền xuôi mái trên dòng sông
thăm thẳm và nỗi buồn của con người tìm được điểm tựa trong hình ảnh “củi một cành khô”.
- Khổ 2: Nỗi buồn vô định bao trùm lên vạn vật, mở rộng đến khôn cùng trong không gian
vô tận.
- Khổ 3: Khổ thơ nhắc đến những gì không có để gợi lên cảm giác của một thế giới từng có.
Sự vô định từ một cành củi khô đơn chiếc đã trở thành tình cảnh chung của cả một lớp
người.
- Khổ 4: Cảnh chiều đẹp nhưng buồn và cảm xúc vô định của Tràng giang cuối cùng cũng
tìm thấy điểm tựa của nó là nỗi “nhớ nhà”, nỗi nhớ quê hương.
2. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:
2.1. Cảm nhận chung:
a. Nhan đề: Tràng giang
- Nhan đề là từ Hán Việt:
- “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang”:
+ Trường mang nghĩa là “dài” nhưng mang sắc thái hùng tráng. Trường giang gợi những con
sông dài và sóng lớn, sóng dữ: “Cổn cổn trường giang đông thệ thuỷ” (Trường giang cuồn
cuộn chảy về đông, Dương Thận). Còn Tràng giang là con sông dài, rộng và xuôi chảy.
+ Cách điệp âm “ang” giúp từ “tràng giang” tạo nên dư âm vang xa, trầm buồn.
+ Xét đến cùng, sức nặng của nhan đề nằm trong sự khơi gợi: Khơi lên cảm xúc và ấn tượng
về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian và thời gian.
=> Gợi cảm giác cổ kính, phảng phất phong vị Đường thi; gợi đề tài cổ: sơn thuỷ. Xét đến
cùng, sức nặng của nhan đề nằm trong sự khơi gợi: Khơi lên cảm xúc và ấn tượng về một nỗi
buồn triền miên kéo dài theo không gian và thời gian.
b. Câu thơ đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”:
- Giải nghĩa:
+ Trời rộng – Sông dài: Không gian mênh mông, vô biên.
+ Bâng khuâng: Tâm trạng buồn, cô đơn, lạc lõng, bơ vơ trước vũ trụ bao la.
- Câu đề từ đã thâu tóm được tư tưởng chủ đạo của bài thơ. Có thể hiểu theo hai nghĩa:
+ Chủ thể là con người đang cảm thấy bâng khuâng, thương nhớ trước cảnh sông dài trời
rộng.
+ Chủ thể là thiên nhiên: trời rộng đang bâng khuâng nhớ đến sông dài.
ð Câu thơ có sự giao thoa của cả hai cách hiểu: Con người và thiên nhiên gắn kết với
nhau bằng bâng khuâng, nhung nhớ. Từ đó phác hoạ tâm trạng chung: mối buồn sầu
của con người trước nỗi buồn sông núi.
c. Âm điệu bài thơ:
- Toàn bài thơ có âm điệu buồn, vừa dư vang vừa sâu lắng. Đó là nỗi buồn ngấm sâu trong
lòng tạo vật và trong tâm hồn nhà thơ. Âm điệu đó còn được tạo nên bởi nhịp điệu và thanh
điệu của thể thơ thất ngôn. Nhịp thơ chủ yếu là 2/2/3, đôi chỗ là 4/3 hoặc 2/5...
- Sự vận dụng luân phiên BB/ TT/ TBB và TT/ BB/ BTT kết hợp việc sử dụng linh hoạt từ
láy tạo nên âm hưởng trôi chảy triền miên cùng với nỗi buông vô tận trong cảnh vật và hồn
người.
- Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang được diễn tả bằng một hệ thống hình ảnh
sinh động với những cảm giác tinh vi, phong phú. Nhưng có thể thấy tạo vật được khắc sâu ở
hai bình diện: mênh mông vô biên và hoang sơ hiu quạnh.
2.2. Khổ 1: Nhìn dòng sông
• Hai câu đầu: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.

- Hai câu thơ đầu nhắc lại ý gợi ra từ nhan đề.


+ Hình ảnh: SÓNG: Thi sĩ đã chạm lấy ngay từ đầu hồn mạch của tạo vật. Bởi lẽ, như đàn
chỉ là đàn khi có ai đó gảy lên, như đèn chỉ là đèn khi ai đó thắp sáng trong đêm, sông nước
chỉ là sông nước khi có sóng gợn nơi nơi. “sóng” là linh hồn của sông nước. Sóng là sóng
trên sông nhưng cũng là sóng trong lòng. Nỗi buồn có ở con sóng nhưng cũng là nỗi sâu
nhân thế đã sẵn có của thi nhân.
+ Đỗ Phủ cũng có một câu tương tự, nhưng cũng thật khác: “Giang gian ba lãng kiêm thiên
dũng” (Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm). Thơ cổ Trung Hoa, nhất là Đỗ Phủ, bao giờ
cũng hùng tráng như thế. Cái buồn của thánh thi là cái buồn của vũ trụ kì vĩ. Cái buồn của
Huy Cận lại là nỗi buồn của con người cá nhân nhỏ bé với tất cả rung động man mác của nó.
Những vòng sóng gợn lên, nối tiếp nhau trên dòng tràng giang đã mở ra độ rộng của dòng
sông đến mênh mông.
+ Từ “tràng giang” được lặp lại từ nhan đề: Chỉ có sóng của “tràng giang”, sóng của con
sông cổ kính mới gợi lên nỗi niềm của người thi sĩ. Vả chăng, hai chữ “tràng giang” nối
tiếp “sóng gợn” chia câu thơ thành nhịp 4/3 cơ hồ cũng kéo dãn cả không giang trong chính
cách đọc của chúng ta.
+ Không gian và tâm trạng nối kết với nhau, gối chồng lên nhau trong một từ thật đắc: “điệp
điệp”.
ü Tả cảnh: những vòng sóng cứ thế dập dờn, nối tiếp nhau không thôi, kéo dài mãi.
ü Tả tình: Nỗi buồn của con người nhìn cảnh sống nước – nỗi buồn trùng điệp mênh
mang.
+ “CON THUYỀN”: Sự xuất hiện mang dáng dấp của con người. Nhưng con thuyền xuất
hiện để rồi biến mất càng làm sự trống vắng nhân lên thêm. “Thuyền người đi một tuần
trăng/ Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ.” (Thuyền đi, Huy Cận)
+ “XUÔI MÁI”: Như là trôi dạt, có chuyển động nhưng vắng sự chủ động.
+ “NƯỚC SONG SONG”:
ü Tả thực: Những luồng nước dài để lại sau con thuyền.
ü Niềm khắc khoải: Không gian mở ra thêm một chiều kích khác: không chỉ rộng mà
còn dài.
+ Sử dụng từ láy ở cuối mỗi câu – điệp điệp, song song – tạo dư ba, gợi lên cái lan toả của
sóng, cái xa vắng của con thuyền. Liên hệ: Hai câu thơ đầu vận dụng khéo léo đặc trưng về
phép đối ngẫu trong thơ Đường cổ để không chỉ tăng thêm chất cổ kính mà còn khiến cho
hai câu thơ như hai bàn tay lồng vào nhau, gợi lên sự rộng lớn của không gian trong nhiều
phương diện. Hai từ láy trong thơ cổ đặt ở giữa còn ở thơ Huy Cận lại đặt cuối câu, đã tạo
được dư ba rất lớn, nó gây được một tiếng vọng đằng sau mỗi câu thơ.
+ Ở câu trên, sự vô biên được mở ra về bề rộng với những con sóng cứ lan toả, xô nhau đến
tận chân trời thì ở câu dưới sự vô biên lại được mở ra về chiều dài với hình ảnh con thuyền
thả mình trôi theo dòng sông. Trong thế tương phản, cái nhỏ càng thêm nhỏ bé, hữu hạn,
cô đơn; cái lớn càng thêm mênh mông rợn ngợp. Câu thơ là một sự mở ra về độ rộng dài
của không gian, cũng là độ rộng dài của tâm trạng.
- Nhận xét về nghệ thuật:
+ Ở khổ thơ đầu cũng như toàn bộ bài Tràng giang, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được
vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu là đối về ý, chứ không bị câu thúc về niêm luật như cách
đối trong thơ cổ.
+ Nghệ thuật đối ý và đối xứng một mặt làm cho giọng điệu bài thơ uyển chuyển, linh hoạt,
tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy ở không ít bài thơ viết theo lối Đường luật hồi
đầu thế kỉ; mặt khác, nó vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của loại thơ này, tạo
nên không khí trang trọng, sự cân xứng, nhịp nhàng. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy
như điệp điệp, song song cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính.
• Hai câu sau: Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

- Cảm thức chia ly có mặt ở hầu khắp các hồn thơ Mới, từ Xuân Diệu với “Những vườn xưa
nay đoạn tuyệt dấu hài” đến Hàn Mặc Tử “gió theo lối gió mây đường mây” và bao giờ cảm
thức ấy cũng làm cho tâm hồn con người thêm lẻ loi, không gian thêm đìu hiu, quạnh quẽ.
Chính vì xuôi mái nên nước rẽ về sau và thuyền cứ thế tiến về phía trước, đó là một hình ảnh
rất thực.
+ Chuyển động: “về”-“lại”: đối về hướng - sự ly biệt của thuyền và nước.
+ Tâm trạng: Con thuyền đi để lại bến bờ, để lại dòng sông với ngàn vạn con sóng “sầu
trăm ngả”. Đây là một hình ảnh vừa cụ thể, trực quan lại vừa trừu tượng.
ü Nghĩa thực: Con thuyền gặp trăm ngã rẽ ở trước mặt, không biết đi đâu về đâu.
ü Nghĩa tượng trưng: đó là cái trăm ngả của mối sầu tạo vật. Nỗi sầu được đo bằng sự
mênh mông của không gian.
+ Chủ thể: Có thể là nỗi sầu của dòng nước và con thuyền khi chúng phải chia phôi, hay nó
cũng có thể là nỗi sầu của chính thi nhân, người đang ngắm nhìn cuộc chia phôi kia?
- “Củi một cành khô”: Để chọn được hình ảnh này, Huy Cận đã phải trải qua bảy lần thay
đổi, điều đó cho thấy sự dụng công của thi nhân.
+ Đảo ngữ: củi-một-cành-khô chứ không phải một-cành-củi-khô có tác dụng tô đậm sắc thái
nghĩa của đối tượng. Bắt đầu bằng “củi”: một tạo vật xác định – cái trôi trên sông chỉ là củi,
một thứ gỗ bỏ đi, một thứ gỗ khô, thậm chí là gỗ mục từ nơi nào rớt xuống lòng sông. Sự
tăng cấp về tính chất: một cành (đã là củi, lại càng lẻ loi và đáng thương hơn khi chỉ có một
cành) – khô (đã là củi, là lẻ loi lại không phải là một cành củi còn xanh, còn tươi mà là một
cành khô, mất cả sức sống). Vào những năm 1930, đây là những hình ảnh mới mẻ vì trong
đó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi, vô nghĩa như củi một cành khô.
ð Bốn từ mà gợi lên trong đó sự nhỏ nhoi, lẻ loi, khô cằn thiếu sức sống.
+ “…lạc mấy dòng”:
ü “Lạc”: Không biết mình đang ở đâu và phải đi về đâu.
ü Phép đối giữa cái đơn lẻ (một) và cái nhiều (mấy dòng): sự bơ vơ, vô định của cành
củi khô, tiếp nối sự xuôi mái là sự trôi dạt.
ð Hình ảnh con người bơ vơ, đơn độc giữa cuộc đời. Đó là tâm trạng mang tính thời đại:
Các nhà thơ Mới khám phá ra chiều kích sâu thẳm của cái tôi, nhưng “càng đi sâu
càng lạnh”, càng tìm vào cái cá thể lại càng thấy đơn độc. Và đó còn là tâm trạng của
lớp thanh niên không có một lí tưởng rõ ràng để theo đuổi trong tình thế đất nước lúc
bấy giờ.
2.3. Khổ 2: Nhìn cảnh vật – nhìn xa: Quá cô độc với cành củi giữa dòng, thi nhân hướng
mắt tìm về nơi nào đó tươi tốt hơn hòng an ủi chính mình:
• Hai câu đầu: Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

- Lơ thơ... đìu hiu: Hình như càng tìm kiếm, thi sĩ lại càng thấy được sự quạnh vắng, mênh
mang của không gian quanh mình.
+ Mở đầu bằng một từ láy - “Lơ thơ”, khép lại bằng một từ láy khác – “đìu hiu”. Theo Huy
Cận, từ đìu hiu ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm: “Bến Phì gió thổi đìu hiu
mấy gò”. “Đìu hiu” là cảm giác hoang sơ, vắng vẻ và lạnh lẽo. Nó gợi nên cơn gió thổi lạnh
bến sông, cái ngọn gió từng làm bơ vơ biết bao tâm hồn thi sĩ – “Bờ sông vẫn gió người
không thấy về…”.
+ Cồn bãi xung quanh “nhỏ”, rải rác đây đó và vì thế trở nên bơ vơ: có nhiều hơn một
nhưng không có sự giao kết. Nỗi cô đơn của cảnh vật càng tôn thêm nỗi cô đơn của con
người. Không ít lần Huy Cận cũng buồn vì những hình ảnh như thế: “Hồn đơn chiếc như
đảo rời dặm biển/ Suốt một đời như núi đứng riêng tây”. Cồn bãi rốt cuộc lại chính là biểu
tượng của sự lẻ loi khi bốn mặt là nước – một sự khép kín tuyệt đối.
- Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” có ba cách hiểu:
[1] Đâu đó vang lên tiếng làng xa đang vãn chợ chiều. Cảnh tà dương tịch lặng vốn chứa nỗi
quạnh hiu, mà lại là chợ vãn trong chiều – sự quạnh vắng được nâng thêm chút nữa, và rồi cả
tiếng vãn chợ ấy có chăng cũng chỉ là âm thanh từ phía xa xăm nào vọng lại.
[2] Đâu có tiếng làng xa vãn chợ (không có), ngay đến cả âm thanh tan vãn của buổi chợ
chiều cũng không có. Tất cả đều vắng lặng, cô tịch. Trong toàn bộ bài thơ, Huy Cận muốn
phủ nhận tất cả những gì thuộc về con người (không tiếng chợ chiều nằm trong hệ thống
không một chuyến đò và không một cây cầu ở khổ thơ sau), chỉ còn cảnh vật, đất trời mênh
mông, xa vắng...
[3] Đâu còn tiếng làng xa vãn chợ. Âm thanh làng nước xa xôi kia gợi lên biết bao nhiêu ý
thơ cổ, một bức tranh sơn thị tình lam (chợ núi lúc vừa hết khói làm chiều), một tiếng trống
dồn buổi hoàng hôn “lác đác bên sông chợ mấy nhà”, một âm thanh của chợ cá “lao xao” nơi
làng ngư phủ,… Nhưng âm thanh ấy giờ đây đâu còn nữa! Cái âm thanh xa xôi như vọng
lên từ đáy thẳm thời gian, như chính Huy Cận từng có hồi nghe được: “Đồn xa quằn quại
bóng cờ/ Phất phơ buồn, tự thuở xưa thổi về” (Đẹp xưa).
ð Dẫu hiểu theo cách nào thì câu thơ cũng gợi thêm một nét buồn. Chợ chiều khi xưa
thường buồn tẻ, không có được cái nhộn nhịp, hào hứng của chợ họp buổi sáng. Hình
ảnh quen thuộc trong thơ cổ khơi lên ý vị cổ kính cho bức tranh thơ. Nhưng cảm giác
của thi nhân đã khác xưa: đó không còn là niềm vui hay nỗi buồn trước âm thanh,
cảnh chợ mà là nỗi trống vắng khôn nguôi.
• Hai câu sau: Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.

- Đây là những câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Hai câu thơ cực tả cái vô biên, không cùng
của tràng giang. Không gian mở được rộng và đẩy cao thêm ở mọi chiều kích với những đối
cực:
+ Đối về hướng: Nắng xuống – Trời lên: Không gian mở ra về chiều cao.
+ Đối về chiều kích: “Sâu chót vót” là sự kết hợp giữa hai đối cực khác, vì “chót vót” vốn là
từ dùng để miêu tả chiều cao, ở đây lại gắn với chiều “sâu”. “Sâu” gợi được ở người đọc ấn
tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. “Chót vót” khắc hoạ được chiều cao dường như vô
tận. Càng rộng, càng sâu, càng cao thì cảnh vật càng thêm vắng lặng. Con người như đứng
giữa trời đất và vì thế chỉ một cụm từ mà khắc hoạ được cùng lúc cái thăm thẳm của đáy
sông và cái chót vót của đỉnh trời. Cái tôi trữ tình bơ vơ trước cái vô biên đến rợn ngợp của
vũ trụ khiến chiều cao và chiều sâu chuyển hoá trong nhau.
+ Đối về phương: Nắng xuống – trời lên là phương dọc, thẳng đứng. Sông dài – trời rộng là
phương ngang.
ð Sông dài trời rộng mở ra chiều rộng mênh mông, vô tận của bầu trời và chiều dài thăm
thẳm của dòng sông. Cùng với “nắng xuống trời lên”, cụm từ này đã mở ra một không
gian ba chiều bao bọc lấy con người.
+ Đối về tầm vóc: Giữa trời rộng, sâu và tràng giang bất tận là một bến vắng cô liêu. Không
gian mênh mông, sông và trời vô cùng vô tận cho nên cái bến lẻ loi kia tất yếu phải “cô liêu”.
“Cái “bến cô liêu” như đã mang nặng nỗi sầu muộn ngàn năm của con người trước cái vô
biên của vũ trụ. Đó là tràng giang được lột tả đến tận cùng.” (Đỗ Kim Hồi), là sự nhỏ bé của
con người giữa không gian vô cùng và thời gian vô tận.
ð Chỉ có sông dài, với bến bờ lẻ loi, xa vắng. Nỗi buồn tựa hồ như thấm vào không gian
ba chiều. Con người ở đây trở nên bé nhỏ, có phần như bị rợn ngợp trước vũ trụ rộng
lớn, vĩnh hằng và không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất
trời, cái xa vắng của thời gian.” (Hoài Thanh).
2.3. Khổ 3: Nhìn cảnh vật – nhìn gần: Sóng nước – cồn bãi – sông dài – trời rộng: tất cả
đều ở cùng một trạng thái tĩnh. Chuyển động thật sự trên dòng sông đến tận khổ thứ ba mới
được Huy Cận phác họa.
- Nhận xét chung: Tràng giang còn là một không gian hoang sơ hiu quạnh. Bóng dáng con
người thưa thớt, mờ nhạt dần rồi mất hút. Ban đầu còn thoáng thấy hình bóng con thuyền
nhưng con thuyền ấy xuất hiện để rồi mất đi. Mọi dấu hiệu của đời sống con người cũng theo
đó mà biến mất: cả âm thanh chợ chiều, những phương tiện giao nối cho đến khói hoàng hôn
cũng đều không có.
- Câu thơ thứ nhất: Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

+ “Bèo”: tạo vật duy nhất chuyển động thật sự trên sông. Nó tô đậm cảm giác trôi dạt, vô
định. Bèo không xuất hiện đơn độc mà là “hàng nối hàng”. Hàng hàng lớp lớp bèo trôi tô
thêm sự hoang vu và gây một chút thương cảm với cảnh vật. Bởi bèo xưa nay vốn là hình
ảnh của những thân phận nhỏ bé nổi trôi. Vậy thì hàng hàng lớp lớp bèo nối nhau trôi trên
sông cũng là hàng hàng lớp lớp thân phận bọt bèo trôi trên dòng tràng giang này mà thôi.
+ Câu thơ đầu được cấu trúc như một câu hỏi, để nhấn mạnh niềm băn khoăn của chính tác
giả: những cánh bèo kia trôi vô định, không ai biết rồi chúng sẽ đi đâu về đâu. Hình ảnh đã
thấm đẫm nỗi băn khoăn của con người.
+ Hình ảnh củi một cành khô lạc mấy dòng ở khổ 1 đã được tiếp nối và phát triển trong câu
thơ này. Sự bơ vơ, lạc lõng giờ đây không chỉ là của một cá nhân nào mà đã trở thành định
mệnh chung của một lớp người Việt Nam đương thời.
- Liên hệ: “Tôi như con nai bị chiều đánh lưới/ Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối” (Khi
chiều giăng lưới, Xuân Diệu) hay đau xót hơn: “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỉ/ Một đôi
người u uất nỗi chơ vơ…” (Phương xa, Vũ Hoàng Chương).
- 3 câu thơ còn lại:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

+ Phép liệt kê kết hợp thủ pháp phủ định để khẳng định, đặc tả sự cô quạnh bằng chính cái
không tồn tại: Không chuyến đò ngang, không cầu giao nối. Có từ “thân mật” nhưng không
có sự thân mật. Cảnh vẫn mỗi lúc một rộng thêm, nhiều sự vật hơn nhưng tất cả những sự
vật ấy lại xa cách nhau.
+ Bên cạnh những hình ảnh thuyền và nước từ khổ thơ thứ nhất đến khổ thơ này; ấn tượng
về sự chia li tan tác được láy lại một lần nữa càng gợi thêm về một nỗi buồn mênh mông.
Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người.
+ “Không một chuyến đò” và cũng không có lấy một cây cầu, nhờ chúng có thể tạo nên sự
gần gũi giữa con người với con người; mà chỉ có thiên nhiên (bờ xanh) với thiên nhiên (bãi
vàng) xa vắng, hoang vu. Vì thế, “nỗi buồn trong bài thơ này không chỉ là nỗi buồn mênh
mông trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời.”
+ Dòng thơ 2 – 4 cũng đã khắc hoạ được 2 đặc điểm của cảnh vật trên dòng tràng giang
thông qua cặp từ láy đặt ở đầu câu (phép đảo ngữ): “Mênh mông” (Rộng lớn) + “lặng lẽ”
(Hoang vắng).
[ Vẫn là một Tràng giang chở nỗi buồn vô định như cánh bèo lênh đênh trôi dạt. Khổ thơ
toàn nhắc đến những gì không có để gợi nên bao nỗi bâng khuâng về những gì đã có: một
con đò trở mũi sang ngang, một chiếc cầu tre lắt lẻo, những nương dâu, bãi bờ trù phú... trên
khắp làng quê đất nước mình. Nỗi sầu trước sông dài biển rộng ở đây chứa đựng cả lòng
bâng khuâng nhớ về một cuộc sống nào đó rất xa xôi: “Đốt điếu thuốc chiêu hồn sương quá
khứ” (Xuân Diệu).
2.5. Khổ thơ 4:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

- Nếu như trong ba khổ thơ đầu, tâm trạng buồn – “nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm
được lối ra nên như kéo dài triền miên” (Huy Cận) của thi nhân dàn trải theo cái mênh mông,
vô định của sông nước thì ở khổ cuối, tâm trạng ấy đã mở ra chiều cao, lan toả trong không
gian hoàng hôn của buổi chiều tàn. Trước khi chấm những nét đậm tô hình ảnh cánh chim
chiều, ông tạo ra một phông nền thật đặc biệt với “lớp lớp mây cao”. Thiên nhiên tuy buồn
nhưng thật tráng lệ.
+ Mùa thu, những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Từ láy “lớp lớp” khắc
hoạ không phải một cụm mây, đám mây mà rất nhiều mây chồng lấp lên nhau, xếp dồn lên
nhau như một toà núi mây. Và rồi ánh dương phản chiếu vào những đám mây đó, phản
chiếu lấp lánh như những núi bạc.
+ Lấy lại ý thơ của người xưa (Mặt đất mây đùn cửa ải xa, Đỗ Phủ), hình ảnh “mây cao đùn
núi bạc” tạo được ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Tuy nhiên, đó không còn là đám
mây thanh thản, cao rộng hay gợi nên sự lãng mạn, mơ màng mà “núi mây” rõ ràng là một
thứ mây có sức nặng, một không gian trĩu nặng sẵn sàng đè ập lên mọi sinh linh nhỏ bé.
Cảm nhận về sức nặng của không gian là một nét đặc trưng trong thơ ca Huy Cận. Nếu với
Xuân Diệu, không gian rất mỏng manh: “Không gian như có dây tơ/ Bước đi sẽ dứt, động hờ
sẽ tiêu” thì không gian của Huy Cận lại là “Tai nương nước giọt mái nhà/ Nghe trời nằng
nặng nghe ta buồn buồn…”. Ta tự hỏi là không gian nặng hay nỗi buồn của con người đã
làm trĩu nặng cả không gian?
- Trước cảnh sông nước, mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim bé
bỏng. Hình ảnh này có hai cách hiểu:
+ Chú chim nhỏ chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều sa xuống. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ
trong buổi chiều tà thường dễ gợi nỗi buồn xa vắng. Nhưng điều đáng nói hơn ở đây chính là
hiệu quả của nghệ thuật đối lập: đối lập giữa cánh chim đơn độc, nhỏ bé với vũ trụ bao la,
hùng vĩ. Điều này đã làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc
biệt cũng buồn hơn.
+ Cánh chim kia nhỏ bé, đơn độc và yếu ớt đến nỗi cả bóng chiều cũng làm nó chao đảo, ngả
nghiêng. Dấu hai chấm giữa câu chính là một sự giải thích. Không phải chim nghiêng cánh
để lượn theo con gió, không phải chim nghiêng cánh để bay trong tự do mà chim nghiêng
cánh trong cái nặng gánh của tà dương phủ kín. Cánh chim gánh cả bầu trời, gánh cả lớp lớp
mây cao như con người đơn độc và nhỏ bé quặn vai những nỗi “đau đời có cứu được đời
đâu”. Mỗi bài thơ của Huy Cận, dù chỉ viết về thiên nhiên nhưng bao giờ cũng thế, bao giờ
cũng phảng phất nỗi lòng “cùng đất nước và nặng buồn sông núi…”
- Huy Cận chia sẻ: “Cánh chim bay liệng tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng
mông lung quá và nỗi buồn đến đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng
khung cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa”.
ð Mượn ý thơ cổ của Đường thi, sử dụng thủ pháp đối lập, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
vừa cổ điển lại vừa hiện đại.
- Hai câu thơ cuối:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

+ Bao nhiêu tâm trạng cùng không gian cứ thế dồn về, ăm ắp trong lòng thi sĩ. Để rồi chính
ông lại tự hỏi: có thật không gian tràn ngập nỗi lòng ta, có thật cái buồn từ cảnh vật nguyên
sơ và thiên nhiên lẻ loi đã chiếm lấy hồn ta hay chính tâm trạng con người đang phủ lấy
không gian?
+ “lòng quê”:
(1) Lòng nhớ quê Hà Tĩnh
(2) Lòng nhớ quê hương, đất nước thầm kín
+ “dợn dợn” là từ láy, bộc lộc tình cảm thương nhớ, nỗi buồn trào dâng trong lòng thi sĩ: Đó
là sóng gợn trên sông của khổ 1 đã trở thành con sóng lòng dợn dợn buồn ở khổ cuối này.
Tràng giang là sông của thiên nhiên cũng là sông của tâm trạng.
+ Hai câu thơ cuối lấy ý từ câu thơ Đường của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ
thị/Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” (Quê hương khuất bóng hoàng hôn/Trên sông khói
sóng cho buồn lòng ai)
+ Thi sĩ mượn cách diễn đạt của người xưa: Thôi Hiệu xưa nhìn khói hoàng hôn trên sông
nước mà dậy lên nỗi buồn. Đối với nhà thơ xưa, nỗi buồn thi nhân được gợi ra từ ngoại
cảnh. Chính nỗi vang động của đời đã khơi lên nguồn mạch cảm xúc trong tâm hồn. Huy
Cận đẩy cảm xúc lên một cấp độ cao hơn: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
+ Bản thân cái tôi của thi sĩ chính là nguồn mạch không bao giờ vơi cạn của thi ca. Không
cần phải có khói hoàng hôn, không cần phải có đất trời với tất cả những nỗi buồn thương cô
quạnh của nó thì thi nhân vẫn cứ thấy thẳm sâu trong bản thân nỗi buồn nhớ không dứt; nó
thường trực trong lòng người, luôn sẵn sàng toả ra, thấm vào vạn vật. Chính Huy Cận cũng
nói: “Lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường”.
+ Nỗi nhớ của con người hiện đại được thể hiện một cách cháy bỏng, da diết hơn. Cuối
cùng thì cảm xúc vô định của Tràng giang cũng tìm được về nơi neo đậu, đó là chốn quê
hương của mỗi tâm hồn – “lòng quê”. Ở đây có thể hiểu là lòng yêu đất nước, yêu non
sông, dẫu cho đất nước ấy có thể chỉ còn vẹn nguyên trong dĩ vãng: “Tôi đâu biết thịt xương
là sông núi/ Chia biệt người ra từng xứ cô đơn.” (Trình bày, Huy Cận).
- Nhận xét: Như vậy, xuyên suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên vô tận. Nỗi buồn trong
bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ Mới, trước hết chính là nỗi buồn
của cả thế hệ Huy Cận, cả dân tộc Việt Nam trong những năm ngột ngạt dưới thời thuộc
Pháp. Nỗi buồn đó còn xuất phát từ chính quan niệm mĩ học của các nhà thơ lãng mạn: cái
đẹp đi đôi với nỗi buồn. Hay nói như Xuân Diệu: “Nỗi buồn đó vốn là nỗi buồn chung của
con người, bọn thi sĩ chúng tôi nhẹ lòng nhẹ dạ, nên lĩnh mang giùm cho tất cả nhân gian.”
§ Tiểu kết:
- “Tràng giang là cảm hứng về một vũ trụ vô cùng vô tận và sự nhỏ nhoi của kiếp người với
nỗi sầu thiên cổ. Trong bài thơ, cảnh thiên nhiên đất nước được gợi lên bằng những hình
ảnh thơ mộng, buồn và đẹp. Không nặng tình với non sông đất nước, không thể viết nên
những vần thơ trĩu nặng cảm xúc như vậy. Vừa khai thác tối đa hiệu quả của thơ Đường
luật, vừa thổi một hồn thơ hiện đại vào trong thi tứ, đó là sáng tạo độc đáo của Huy Cận.”
- Trong Tràng giang, Huy Cận đã kín đáo gửi lòng yêu nước vào nỗi buồn và niềm thiết tha
trước tạo vật thiên nhiên. Đó là nỗi buồn sầu của một người dân thuộc địa trước giang sơn bị
mất chủ quyền (nỗi buồn sông núi) đã hòa lẫn vào nỗi bơ vơ trước tạo vật vô biên hoang
vắng. Tâm trạng buồn vong quốc bao trùm trong tâm trí mọi người dân lúc bấy giờ đã khiến
cho con người sống trên quê hương mà luôn thấy thiếu quê hương, luôn thấy bơ vơ ngay trên
quê hương. Nên ẩn sâu trong nỗi bơ vơ của một cá thể trước trời nước hoang vắng quạnh
hiu, có tâm trạng bơ vơ của một người dân vong quốc. Và thiết tha với tạo vật ở đây cũng
chính là thiết tha với giang sơn Tổ quốc mình.
Khái quát về chất cổ điển và hiện đại trong bài thơ:
Cổ điển Hiện đại
- + Chủ đề thuần túy cổ điển: sông
nước.
- + Khi chọn đề tài là chiều trên sông,
Huy Cận đã chạm đến một trong
những mạch nguồn văn hóa quan
trọng nhất của thơ ca cổ: đề tài sơn
Đề tài thủy.
- + Hình ảnh dòng sông trong bài thơ
này cũng xuất phát từ những nét
nghĩa cơ bản vốn có của thơ cổ:
Tràng giang là con sông buồn, là con
sông của nổi trôi vô định, dòng sông
cũng là dòng đời.
- Mỗi khổ thơ chính là cấu trúc của Thể thơ bảy chữ với số khổ không
một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt xưa. giới hạn; những yêu cầu về vần,
Thể thơ và
nhịp, niêm, luật... ở thơ cổ đã được
kết cấu
cởi bỏ. Các khổ thơ có cách ngắt
nhịp, gieo vần linh hoạt.
- Sử dụng nhiều từ Hán Việt, cách
Ngôn ngữ
dùng từ láy quen thuộc của thơ cổ.
- Đi từ cảnh – tâm cảnh – tình hoặc
- Có một không khí buồn thương bao
ngược lại đi từ tình – tâm cảnh – trùm cả tác phẩm. Nỗi buồn không
cảnh. Bài thơ “Tràng giang” với bốn tách bạch rõ ràng, hoặc gói gọn vào
Kết cấu
khổ cũng được triển khai theo mạch ý một khổ nào nhất định mà như trải
đó. ra, lan tỏa trong từng câu chữ.
“Tràng giang” là con sóng của
thiên nhiên đất trời, cũng là con
sóng của cõi lòng.
- - Hệ thống thi liệu cổ: thuyền, sông, + Song song với những hình ảnh
sóng, đò ngang, chiếc cầu, bèo trôi, quen thuộc của thơ xưa, ta vẫn bắt
cánh chim chiều... gặp những hình ảnh rất thực, rất
- - Mượn ý từ những câu thơ, những mới: một cành củi khô, nắng xuống
cảm thức của thơ Đường. Thậm chí trời lên,…
có thể nói đằng sau mỗi câu thơ của + Đặc biệt là hình ảnh “Nắng
Huy Cận là bóng dáng của một câu xuống, trời lên, sâu chót vót”, Huy
Thi liệu thơ Đường. Cận đã mang cảm thức không gian
Bút pháp của mình đặt vào giữa lòng tràng
giang.
+ Đối với câu thơ cuối, Huy Cận đã
học tập từ câu thơ của Thôi Hiệu,
nhưng ông đã xử lí nó một cách vô
cùng khác biệt: Huy Cận không có
khói hoàng hôn nhưng nỗi nhớ nhà
vẫn cứ thế trào dâng.
- Nhận xét chung: Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo được những dư vang kì lạ do tác giả đã chọn
được thể thơ thích hợp, vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả với tầng cao hệ thống
từ láy, cách ngắt nhịp truyền thống, sử dụng thi liệu cổ điển (mượn ý từ câu thơ của Thôi
Hiệu); tuy nhiên chính cái nhìn và cảm xúc của con người hiện đại đã làm cho tứ thơ có sắc
thái mới lạ.
3. Tổng kết:
3.1. Nội dung: Nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm
đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Trong hoàn cảnh đương
thời, các nghệ sĩ thường bày tỏ tình yêu nước một cách xa xôi, bóng gió. Nỗi buồn trong
Tràng giang là nỗi buồn sông núi, nỗi đau khi sống trên quê hương mà thấy thiếu quê hương.
Nỗi buồn ấy đã hoà vào nỗi bơ vơ trước tạo vật thiên nhiên hoang vắng và niềm thiết tha với
thiên nhiên tạo vật cũng chính là niềm thiết tha với quê hương, đất nước.
3.2. Nghệ thuật:
- Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính.
- Phép đối và phép điệp được sử dụng linh hoạt làm tăng sức gợi của hình ảnh thơ. Các điệp
từ, từ láy đặt cuối câu có tác dụng nối dài âm điệu, tạo dư ba.
- Lối dùng những cụm từ theo cấu trúc thành ngữ bốn tiếng, cả về âm thanh, cả về ý nghĩa:
sóng gợn tràng giang, con thuyền xuôi mái, nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng… Có lối
tạo từ theo phong cách cổ điển: bến cô liêu. Có lối lạ hoá ngôn từ: Sâu chót vót.

You might also like