You are on page 1of 6

A.

MỞ BÀI
Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều là một thành quả nghệ thuật chứa đầy tâm huyết của người nghệ sĩ.
Dưới mỗi con chữ sáng tạo là biết bao xúc động, biết bao tình yêu cũng như nỗi đau đời trong tâm hồn
nhạy cảm của người cầm bút. Huy Cận cũng vậy, ông đến với thơ những năm 40 của thế kỉ trước mang
trong mình là những xúc cảm về đời, về người khiến tâm hồn của chàng thi sĩ ấy thấm thía một nỗi niềm
khắc khoải khôn nguôi và có lẽ “Tràng giang” – thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước Cách
mạng tháng Tám. Đặc biệt qua hai khổ thơ đầu, từng dòng thơ thấm đượm nỗi sầu nhân thế của cái tôi ảo
não:

B. THÂN BÀI
1. Tiền đề phân tích

a) Tác giả

Huy Cận - một nhà thơ lớn của phong trào thơ Mới giai đoạn 1932 – 1945. Là một tri thức Tây học song
lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho học nên thơ ông vừa phảng phất màu sắc Đường thi, vừa mang hình
ảnh con người cá nhân ảo não, cô đơn của văn học lãng mạn.

b) Tác phẩm

Thi phẩm được trích từ tập “Lửa thiêng” (1940), ngay từ đầu bài thơ Huy Cận đã đưa chúng ta đến với
một nét đẹp cổ điển mà ít ai có, chỉ khi đến với Hay Cận chúng ta mới cảm nhận được. Nhan đề “Tràng
giang” đặt theo từ Hán Việt có nghĩa là sông lớn, sông dài, mênh mông và bát ngát. Điệp vần “ang” vừa
mở ra một bề dài rộng mênh mang cho dòng sông, vừa tạo dư ba cho nỗi buồn bâng khuâng man mác của
thi nhân. Dòng sông như được nới rộng tới vô cùng vô tận, giờ đây nó không chỉ là một dòng sông đơn
thuần mà còn là dòng đời, là dòng chảy thời gian viên mãn, xa xăm của Đường thi vọng về thực tại. Lời
đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” cũng đã mở rộng ra trước mắt chúng ta một không gian rộng
lớn “trời rộng, sông dài”, một nỗi buồn da diết “bâng khuâng ”, mông lung, mơ hồ, không thể gọi tên và
khái quát nên chủ đề của bài thơ về nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh mông
và bao la.

2. Phân tích

a) Khổ 1

Mở đầu bài thơ, Huy Cận đã đưa người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nhiêu là nỗi buồn
sâu thẳm:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả


Củi một cành khô, lạc mấy dòng.”

Mở đầu bằng hình ảnh sông nước mênh mông của “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Tác giả khéo
léo sử dụng âm Hán Việt “ang” cho danh từ “tràng giang” đã gợi ra một không gian rộng lớn, rờn ngợp.
Ông đã sử dụng nhịp thơ 4/3, đó là một cách ngắt nhịp quen thuộc của Đường thi. Động từ “gợn” đã diễn
tả làn sóng nhẹ nhàng có vẻ mong manh, mơ màng nhưng lại lan mãi không thôi. Nỗi buồn trải ra cùng
các gợn sóng, bao nhiêu gợn sóng là có bấy nhiêu nỗi buồn. Với phép điệp ngữ “buồn điệp điệp”, đã gợi
ra cho người đọc 2 cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất là Sóng điệp điệp gối lên nhau mòn mỏi không dứt,
những con sóng ấy hết lớp này đến lớp khác triền miên, vô tận. Còn cách hiểu thứ hai là Nỗi buồn vì nhìn
dòng sông mà gợn sóng lòng. Đây chính là một sự sáng tạo độc đáo, mới mẻ bởi từ láy “điệp điệp”
thường chỉ để miểu tả hình ảnh núi sông kì vĩ, bao la, rộng lớn thì nay Huy Cận lại dùng nó để miêu tả nỗi
buồn. Không chỉ từ láy nguyên "điệp điệp" mà còn từ "song song" ở cuối câu thơ cũng mang đậm sắc thái
cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những
con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man.

Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi chia ly qua câu thơ thứ ba. "Thuyền" và "nước" vốn dĩ là hai hình ảnh gắn
bó, khăng khít với nhau nhưng qua con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này hai hình ảnh ấy không còn
song hành với nhau nữa. Nhưng với Huy Cận thì “thuyền về, nước lại”. Hai thế đối lập gợi ra cái vô lí
trong logic nhưng thực chất, xét ở bề sâu, bề sâu, bề xa, ta càng hiểu được hơn nỗi lòng của người lữ
khách miền sông nước. Thuyền là hiện diện của sự sống con người, nhưng đó chỉ là sự xuất hiện thoáng
qua trong giây lát, “con thuyền xuôi mái” là hình ảnh thực nhưng cũng đầy chất suy tưởng nó gợi cho ta
nhớ tới hình ảnh của những kiếp người trôi nổi, lạc lõng không biết đi đâu. Thế nên Huy Cận “sầu trăm
ngả”,đó là một nỗi buồn, sự u hoài, buồn bã càng ngày càng dâng lên. Với câu thơ thứ tư tác giả sử dụng
biện pháp đảo ngữ "củi một cành khô" để nói về sự cô đơn, trơ trọi của "củi". Số từ "một" chỉ một mình,
cô đơn cùng với tính từ "khô" - hết nhựa sống, càng làm cho hình ảnh khô héo hơn. Tác giả thật tài tình
khi đã sử dụng nghệ thuật đối "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông. "Lạc
mấy dòng" không chỉ diễn tả nỗi niềm cô đơn của củi mà còn nói đến sự bấp bênh, trôi nổi khi "lạc" hết
dòng sông này đến dòng sông khác. Nét độc đáo của câu thơ không chỉ là phép đối mà còn ở cách ngắt
nhịp 1/3/3. Với cách ngắt nhịp ấy "củi" xuất hiện "độc lập" và điều đó càng làm rõ hơn tình cảnh lẻ loi
của sự vật này.

b) Khổ 2

Tiếp đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bội:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Với tài năng cùng ngòi bút khéo léo, Huy Cận đã gây ấn tượng trong lòng độc giả là phép đảo ngữ. Từ láy
“lơ thơ” được đặt lên đầu câu, gợi sự vắng vẻ, ít ỏi và thưa thớt. Lác đác trên dòng tràng giang mênh
mông chỉ có vài cồn nhỏ nhưng vẫn là cái cảm giác thiếu sự sống xuất hiện từ đầu bài thơ đến giờ. Bức
tranh thiên nhiên sông nước ấy có phần tăng thêm sức sống khi có thêm những “cồn nhỏ”. Những gò đất
nổi lên giữa lòng sông ấy lại chỉ “lơ thơ” thưa thớt gợi lên một sự đơn sơ, hoang vắng, “đìu hiu” cô quạnh
khi những làn gió thổi qua. Vần lưng: "nhỏ - gió", kết hợp với láy âm: "lơ thơ" và "đìu hiu", âm hưởng
câu thơ như trĩu lòng người về một nỗi buồn hiu hắt, cô quạnh. Nghệ thuật sử dụng từ láy tài ba, gợi lên
màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc trở về với cổ thi:
"Lơ thơ tơ liễu buông mành..."

(Truyện Kiều).

Thay vì là bức tranh thiên nhiên như khổ một, khổ thơ thứ hai lại tái hiện cuộc sống sinh hoạt hàng ngày
mà tiêu biểu nhất là hình ảnh chợ chiều thời điểm vãn. “Chợ” là nơi mà khi đến đó ta biết được cuộc sống
nơi đây có ấm no sầm uất hay không. Nguyễn Trãi đã từng viết: “Lao xao chợ cá làng Ngư Phủ”, Đủ để
thấy cái vui tươi nhộn nhịp của một phiên chợ. Huy Cận không như thế, ông chọn cho mình thời điểm vãn
chợ như một tín hiệu nghệ thuật đặc sắc. Chợ vãn là khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất
chỉ còn vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…” (Thạch Lam). Chi tiết gợi ra cái hoang tàn, xơ xác, hiu
quạnh, heo hút của làng quê miền sông nước, cũng là gợi mở cái buồn vô hạn trong lòng thi nhân. Chỉ với
một từ “Đâu” đã gợi cho chúng ta cảm giác mơ hồ không biết có phải là có âm thanh đó hay không, tác
giả cũng chỉ nghe thấy cảm nhận thấy chứ không được nhìn thấy. Âm thanh ấy cũng mờ mờ ảo ảo, vừa
thực mà vừa hư. Tưởng chừng như âm thanh xuất hiện làm con người thêm vui nhưng chính nó lại khiến
tác giả thêm cô đơn, lẻ lõi trên chính mảnh đất quê hương mình:

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Nỗi sầu không chỉ nhuốm màu vào không gian mà còn trải dài theo thời gian bất tận. Không gian được
mở ra theo nhiều chiều vừa cao, vừa sâu, vừa rộng… “Nắng xuống” và “trời lên” tạo nên một sự ngăn
cách, chia li theo hai chiều đối nghịch “lên” và “xuống”. Không gian không chỉ được mở rộng theo chiều
rộng, chiều cao mà còn theo chiều sâu. Nắng càng xuống thấp, trời càng trở nên cao hơn ngả bóng xuống
lòng sông sâu “chót vót”. Tác giả đã sử dụng từ rất đặc biệt, không phải cao “chót vót” mà là “sâu chót
vót” để làm nổi bật hai tiểu đối: "nắng xuống" và "trời lên" kia, cái bao la, mênh mông đều rợn ngợp của
dòng sông, bầu trời và bến đò xa vắng. Con người trở nên bó nhỏ cô đơn trước vũ trụ bao la vô tận…
“Sông dài, trời rộng” cảnh vật càng rộng lớn, kì vĩ bao nhiêu thì con người càng bé nhỏ bấy nhiêu với
hình ảnh “bến cô liêu”- bến đã nhỏ lại còn hiu quạnh gợi đến cảm giác trống vắng cô đơn đến tội nghiệp
và trống vắng, trơ trọi.

c) Khổ 3

Trước cái mênh mông hiu quạnh của vũ trụ, con người tìm đến với nhưng gì gần gũi nhất, tìm đến với
chính con người để nương tựa sưởi ấm, tìm hơi ấm của tình người, song tất cả vẫn là một sự hoạng vắng,
lạnh lẽo. Nếu ở 2 khổ đầu còn thoáng thấy những dấu hiệu liên quan đến con người trong hình ảnh "con
thuyền xuôi mái mước sóng song", trong âm thanh “đâu tiếng..." thì đến đây, mọi tín hiệu về sự có mặt
của con người đã vắng bặt:

"Bèo dạt về đâu hàng nổi hàng"

Cl: Tả thực: những cánh bèo trôi trên sông

- Ẩn dụ: Hình ảnh cánh bèo trong văn chương thường gợi những số phận nhỏ bé, thấp hèn:

" Rộng thương có nội hoa hèn

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau"

- Dạt: Trên sông có sóng, cánh bèo trôi nổi trên mặt nước nên bị sóng cuồn trôi. Từ "dạt" gợi lên số phận
kọ tự quyết định, bị tác động bởi yếu tố khác.
- Câu hỏi tu từ: “ về đâu": cánh bèo võ định, ko biết đi đâu về đâu

( So sánh: “Hoa trôi man mác biết là về đâu"

" Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã- Bây giờ tan tác về đâu"

* Hình ảnh: “hàng nối hàng": Hết lớp này đến lớp khác

- Nỗi buồn vô định của một thể hệ->Hiện thân cho những kiếp người lênh đênh trôi nổi không biết đi đâu
về đâu.

- Toàn cảnh “sống dài trời rộng" tuyệt nhiên không có bóng dáng con người:

" Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật"

Cây cầu, con đỏ vốn là phương tiện giao lưu, nối kết, tạo sự gần gũi nối liên hệ giữa con người trong cuộc
sống. Ở đây không có 1 cây cầu, 1 con đò, 2 bờ sông cứ chạy dài về phía chân trời như 2 thế giới cô đoơn
xa lạ không bao giờ gặp gỡ. Tràng giang trở thành 1 vùng đất hoang sơ, có lẽ từ thủa khai thiên lập địa
đến giờ vẫn thể. Thi sĩ như kẻ lữ hành lạc lối giữa trần ai, trơ trọi, cô đơn đến tuyệt đối, khỏng thấy con
người, không thấy cả tỉnh người "ko một chút niềm thân mật".

* Chỉ còn lại sự ngự trị tuyệt đối của thiên nhiên trống trải, hoang vu.

- Bức tranh thiên nhiên có thêm màu sắc nhưng là màu sắc của sự tàn lụi, hẻo ủa “bở xanh tiếp bãi vàng".

+Từ láy “ lặng lề" được đảo lên đầu câu vừa có tác dụng nhấn mạnh bức tranh thiên nhiên mênh mông
hoang vắng, diễn diễn tả nỗi bang khuâng trong lòng người.

+Liệt kê: “ bờ xanh- bãi vàng" Nhìn bề ngoài câu thơ có vẻ gợi lên sắc màu của sự sống nhưng đằng
trước nó lại là “ lặng lẽ" nên chi có cảnh nối tiếp cảnh mà ko có con người. Hơn nữa, sự kết hợp giữa 2
màu xanh, vàng gợi ta nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du:

"Se sè nắm đất bên đường- Rầu rầu ngọn cỏ mửa vàng nửa xanh" từ lâu đã trở thành biểu tượng của sự
chết choc, thê lương.

d) Khổ 4

Cảnh trời chiều được gợi lên qua bút pháp cổ điển rất quen thuộc nhờ hai nét vẽ: làn mây và cánh chim:

“ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cảnh nhỏ bóng chiều sa”

+ Từ láy “lớp lớp" đầu câu thơ kết hợp động từ "đùn" đem đển cho người đọc cảm nhận mây trắng hết lớp
này đến lớp khác chồng xếp lên nhau tạo thành núi mây trên nền trời xanh. Đó là cảnh sắc thực nhưng
đưoc nhin bằng nhản lực tinh tường và tâm hồn nhạy cảm của thi nhân thì hình ảnh đó mới trở thành
“mây đùn núi bạc". Huy Cận đã từng nói về câu thơ này “Tôi nhìn thấy những lớp mây trắng hết lớp này
đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao.Và khi ảnh nắng chiều xuống nó óng ảnh như
là dát bạc"
+ Cũng theo lời tâm sự của nhà thơ, động từ "đùn" là tác giả kế thừa thơ ca cổ điển: "Lung trời sóng rợn
lòng sông thẩm

Mặt đất mây đùn cửa ái xa" ( Đỗ Phủ)

có tác dụng diễn tả sức mạnh chất chứa, dồn nén bên trong tạo vật đang dâng lên mạnh mẽ.

C2 - Đổi lập với hinh ảnh kỷ vĩ ấy là hinh ảnh cánh chim bé nhỏ:

"Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa"

+ Mượn hình ảnh cánh chim báo hiệu buổi chiều là biện pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca cổ xưa
nay

" Ngàn mai giỏ cuốn chim bay mỏi" ( Bà huyện Thanh Quan)

=>Nhưng cánh chim trong thơ HC lại mang đặc điểm của thơ ca lãng mạn: nhỏ bé, đơn độc dưới sức
nặng của bầu trời chiếu. Hai tỉnh từ "nghiêng" " nhỏ" kết hợp với biện pháp tương phản đối lập giữa cái
nhỏ bé: cánh chim và không gian rộng lớn: bầu trời gợi nhiều cảm nhận phong phú

+ Có ý kiến cho rằng đó là cánh chim bay về phía chân trời xa giống như 1 tia nắng chiều rớt xuống.

+ Còn Xuân Diệu lại cho rằng cánh chim đang xòe cánh bay, bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng
cánh.

-> Đặt hình ảnh này trong hệ thống các hình ảnh tương phản đối lập của “Tràng Giang" như: dòng sông,
cánh chim-bầu trời gợi bao cảm nhân về sự nhỏ bé cô đơn. Chính Huy Cân đã nhận xét: Cánh chim bay
liêng tuy gơi lên 1 chút ẩm cúng cho cảnh vật nhưng mệnh mông quá. ( ần dụ cho cái tôi cô đơn nhỏ bé)

* 2 câu kết: Trong nổi cô đơn trống trải, nhà thơ khao khát kiếm tìm điểm tựa về tỉnh thần:

“ Lòng quê dợn dợn với con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Trước cảnh hoàng hôn buông xuống, sông nước mệnh mang trong lòng thi sĩ thức dậy cảm xúc "dợn dợn"
gợi những nôn nao xao động trong tâm hồn. Đó là nỗi nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương-
Tâm trạng chung của các nhà thơ mới nước ta giai đoạn trước CM- trong hoàn cảnh đất nước mất chủ
quyền.

(Liên hệ: Cũng tâm trạng ấy Mười thế kỷ trước ở Trung Quốc, có một nhà thơ đứng bên dòng Trường
Giang ngắm khói sống xa xôi mà nhớ quê da diết, đó chính là tâm hồn của Thôi Hiệu:

"Nhật mộ hương quam hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu"

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khỏi sóng cho buồn lòng ai"


Mười thế kỷ sau, Huy Cận đồng cảm nhưng khác nhau là Huy Cận không nhìn thấy khói cũng nhớ nhà.
Cổ nghĩa là không cần gì tác động, không cần cái gì gợi nhơ mà Huy Cận vẫn nhớ. Như vậy, nỗi nhớ của
tác giả luôn thường trưc, da diết trong côi lòng nhà thơ vì theo ông "lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời
Đường".

-2 chữ nhớ nhà vừa cụ thể vừa trừu tượng. Đây không chỉ là 1 mái nhà, 1 quê hương mà là nỗi khát khao
tim chỗ dựa cho tâm hồn cô đơn.

3. Đánh giá, nhận xét

Thành công của hai khổ thơ chính là sự sáng tạo nghệ thuật, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại.
Sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Góp lại những trang thơ của Huy Cận
ta không khỏi quên được nỗi buồn tê tái của thi sĩ trước cảnh vật, cảnh nước mất nhà tan. Bài thơ mang
một nỗi buồn thấm đẫm vào cả không gian thời gian. Bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang vừa có sự
vận động, vừa hữu hình vừa vô hình, thời gian, không gian phụ họa, hài hòa với nhau khiến cho cảnh vật
càng lúc càng âm u, xa vắng, xúc cảm càng nặng nề. Nỗi buồn của cảnh vật khiến cho lòng người càng
thêm cô quạnh hay chính nỗi buồn của lòng người khiến cho không gian cũng nhuốm màu u ám.

C. KẾT BÀI
Tràng giang là một bài thơ buồn, dòng nào cũng buồn. Cái buồn toát ra từ những vật bé mọn, như những
kiếp người cô đơn, lạc lõng giữa không gian bao la. Nhưng Tràng giang là một bài thơ vẽ lên một phong
cảnh đẹp, giàu màu sắc (núi bạc, bờ xanh, bãi vàng), nhiều đường nét hùng vĩ, mở ra vô tận (buồn điệp
điệp, sâu chót vót, sông dài, trời rộng…) nhiều tương phản, nhiều độngtừ chỉ sức sống rộn ràng: sóng
gợn, mây đùn, thuyền về, nước lại, nắng xuống, trời lên… Cái buồn của bài thơ rõ ràng không phải do
cảnh vật tàn phai, không gian chật hẹp tù túng, mọi vật chết chóc, ngưng đọng. Cái buồn như toát ra từ
cấu tạo của thế giới, từ cái đẹp thiếu tình người, từ một sự mất mát các mối liên hệ có tính phổ quát gây
nên. Nỗi buồn này cũng phản ánh sự đổi thay của đời sống xã hội: xã hội cộng đồng truyền thống với vô
vàn mối dây liên hệ đã đứt tung để thay vào một xã hội đô thị với những cái tôi rời rạc, bơ vơ.

You might also like