You are on page 1of 11

TRÀNG GIANG

I. Mở bài

Những cảnh đẹp nhất lại mang nỗi sầu buồn khôn xiết, những câu thơ buồn nhất lại chạm đến tâm hồn
con người một cách thấm thía nhất. Nói về nhà thơ của nỗi buồn, có lẽ không ai vượt qua được Huy Cận.
Nói về bài thơ buồn nhất của Thơ mới, của thơ ca không thể không có “Tràng giang”.

Huy Cận là một trong số những nhà thơ có nhiều đóng góp cho phong trào thơ mới. Thơ Huy Cận hàm
súc, giàu chất suy tưởng, triết lí. Hồn thơ luôn khao khát, lắng nghe sự hòa điệu giữa lòng người với tạo
vật, một phong cách thơ hiện đại mà thấm đượm nhiều yếu tố cổ điển.

Tràng giang là bài thơ xuất sắc, được in trong tập Lửa thiêng, rất tiêu biểu cho “nỗi buồn sông núi”
của Huy Cận. Bài thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp thiên nhiên cũng như nỗi buồn nhân thế của tác giả. Hình
ảnh tạo vật thiên nhiên trong bài thơ thấm đẫm tâm trạng cái tôi trữ tình, vừa tiêu biểu cho thời đại Thơ
mới vừa phảng phất phong vị cổ điển

II.Thân bài

1. Nhan đề và câu thơ đề từ: Huy Cận tỏ ra rất nhạy cảm với không gian rộng lớn và thời gian vĩnh
hằng. Những điều ấy có thể thấy rất rõ trong bài “Tràng giang”, từ nhan đề bài thơ đến câu đề từ, hệ thống
hình ảnh.

- Nhan đề: tựa bài thơ là “Tràng giang”, nghĩa là con sông dài. Nhan đề gợi ấn tượng khái quát và
trang trọng, vừa cổ điển vừa thân mật. “Tràng giang” chứ không phải là “trường giang”. Việc đổi âm chữ
“trường” thành “tràng”, hai âm “ang” đi liền với nhau đã gợi lên trước mắt ta một dòng sông chảy dài vô
tận, một nỗi lòng miên man.

- Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”: gói gọn cảm xúc của Huy Cận trong bài thơ. Đó là
nỗi sầu lan tỏa, nhẹ nhàng mà lắng sâu trước cảnh trời đất mênh mang, sông nước bao la.

→ Và như vậy, ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ, tác giả đã gợi nên một nỗi niềm u uất, không biết tỏ
cùng ai trước không gian bao la của dòng sông. Và rồi, trên cái nền của cảm xúc ấy, từng nỗi niềm, từng
xúc cảm, từng cảnh vật cứ thế hiện lên.

2. Khổ 1: Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc cảm nhận được nỗi buồn của chủ thể trữ tình trước sự
rộng lớn, bao la của thiên nhiên

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,


Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

-  Mở đầu bài thơ là hình ảnh 1 con sông dài rộng, bát ngát với những đợt sóng triền miên gợi 1
nỗi buồn âm thầm mà da diết

+ “Sóng gợn” là sóng nhỏ, nhẹ. Sông có sóng nhưng không phải là sóng vỗ dào dạt gọi niềm vui
mà là sóng lăn tăn nối nhau đến vô tận.
+ “ Buồn điệp điệp” là nỗi buồn trào dâng lớp lớp, triền miên, bất tận. Ta có cảm giác như không
chỉ thấy sóng trên sông mà còn thấy sóng lòng trào dâng lên không dứt, mênh mang, hòa cùng sóng nước
vỗ mãi tới tận chân trời.

→ Câu thơ tả sóng nhưng lại gợi lên nhiều hơn một nỗi lòng.

- Trên dòng sông mênh mông ấy có một con thuyền bé nhỏ đang xuôi dòng. Mái chèo rẽ nước, vẽ
thành những đường “nước song song”, mở thêm chiều rộng của bức tranh thơ.

+ Phép đối giữa 2 câu thơ khiến con thuyền hiện lên thật lẻ loi, cô đơn, phép đối trong 2 hình ảnh
dòng sông và con thuyền trong 2 từ láy “điệp điệp” và “song song” tạo cho 2 câu thơ có âm điệu trang
nghiêm, cổ kính  

+ Cảnh có sự chuyển động của sóng, của thuyền nhưng người đọc lại cảm nhận sâu sắc sự tĩnh
lặng, mênh mông của thiên nhiên. Cách dùng hai từ láy “điệp điệp”, “song song” của Huy Cận gợi người
đọc nhớ tới “Thu hứng” của Đỗ Phủ:
“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang  cổn cổn lai”

Đoạn thơ, vì thế, mang sắc thái Đường thi, cổ kính.

→ Dường như, hình ảnh con thuyền hiện lên trên dòng sông ấy càng tô đậm thêm cái vẻ hoang vắng,
cô quạnh của cảnh vật. Thử hỏi, trước khung cảnh bao la như thế, con người sao có thể không cảm thấy cô
đơn, lạc lõng và chủ thể trữ tình trong bài thơ cũng không ngoại lệ.

- Tác giả tiếp tục khắc họa cảm giác buồn bã của sự chia li qua câu thơ thứ 3.

+ Đó là sự chia li giữa thuyền và nước. “Thuyền” và “nước” vốn dĩ là gắn bó, khăng khít với nhau
nhưng qua con mắt của nhân vật trữ tình thì không hề có sự đồng điệu mà là sự chia lìa với nghệ thuật đối
“thuyền về” - “nước lại”

+ Sự chia lìa ấy tạo ra nỗi buồn “sầu trăm ngả”. Cụm từ “sầu trăm ngả” có 2 cách hiểu: nỗi sầu từ
trăm ngả cuộc đời dồn tụ lại hay nỗi sầu lan tỏa ra trăm ngả cuộc đời. Dù hiểu theo nghĩa nào thì nỗi sầu
ấy cũng để lại trong lòng người đọc 1 nỗi buồn lớn lao, sâu sắc

→ Với việc sử dụng hàng loạt từ ngữ diễn tả một cách trực tiếp cảm xúc của con người “buồn điệp
điệp”, “sầu trăm ngả”  tác giả đã diễn tả nỗi buồn dài cùng cực, như không bao giờ nguôi, không bao giờ
dứt trong tâm khảm của nhân vật trữ tình

- Câu thơ “Củi một cảnh khô lạc mấy dòng” có một chi tiết được coi là câu thơ tuyệt bút.

+ Có một cành củi khô lạc loài trôi nổi qua bao ghềnh thác, qua bao va đập giờ đã không còn một
chút sự sống. Phép đối “một – mấy” tăng thêm sự cô đơn, bơ vơ, tội nghiệp của nó. Từ “củi” được đảo lại
đặt ở đầu câu làm thu hút sự chú ý về nó. Nó là 1 cành củi khô héo, bé nhỏ, tầm thường đến vô nghĩa, chứ
không phải là “tùng – cúc – trúc – mai” như trong thơ xưa.

→ Vượt qua những ước lệ của thơ cổ, Huy Cận đã đem lại vào trong bài thơ 1 hình ảnh rất thực của
đời thường, đó là ẩn dụ cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định, lạc lõng giữa thiên nhiên bao la, giữa dòng đời
rộng lớn.

- Đưa hình ảnh cành củi khô vào thơ, Huy Cận đã tạo nên “một cuộc CM trong thơ” góp phần làm cho
Tràng giang trở thành một bài thơ mới rất mới.
⇒ Với âm điệu nhịp nhàng, trầm buồn, các từ láy đặc sắc, đối ý, hình ảnh độc đáo, chi tiết mới mẻ,
Huy Cận đã phác họa nên một nỗi buồn bơ vơ, bế tắc của lòng người trước không gian sông nước mênh
mông, rợn ngợp, hoang vắng.

3. Khổ 2: Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, bức tranh thiên nhiên được vẽ nên bởi hình ảnh của sông, của
sóng, của thuyền thì đến đây, dường như bức tranh đã từng bước hoàn thiện hơn bằng những hình ảnh hết
sức mới mẻ: cồn đất, gió thổi, chợ làng, bến sông. Với những chi tiết đó, bức tranh tưởng như sẽ có sự
sinh động rộng ràng nhưng trái lại, nó làm cho tràng giang càng thêm hiu hắt, khiến nhân vật trữ tình càng
cô đơn, buồn bã.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,


Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

- Giữa dòng tràng giang rộng lớn có vài cồn đất nhỏ, cây cối ít ỏi, thưa thớt → cảm giác trống vắng,
buồn bã. Từ “lơ thơ” giàu tính tạo hình, gợi sự thưa thớt và sự chuyển động chậm, nhẹ của cây cối trên
cồn. Còn có gió nhưng gió đìu hiu, quá nhẹ lại buồn, hơi lạnh càng làm tăng thêm cảm giác cô đơn

- Từ nỗi niềm bơ vơ buồn bã đó, nhà thơ đi tìm hơi ấm của cuộc sống: tiếng chợ chiều.

+ Câu thơ có 2 cách hiểu: Nếu hiểu từ “đâu” là đâu đây thì câu thơ có nghĩa đâu đây có âm thanh
của chợ chiều lúc vãn từ làng xa vọng lại. Nếu hiểu là từ để hỏi thì câu có nghĩa âm thanh của chợ chiều
lúc vãn từ làng xa đâu? → Hiểu theo cách nào, có nghĩa là dù âm thanh đó có hay không thì cũng đều rất
xa xôi, mơ hồ và tràng giang cũng không bớt buồn, bớt quạnh quẽ. Muốn nghe âm thanh cuộc sống nhưng
tất cả đều trở nên hoang vu, muốn chút gần gũi mà càng thêm cách chia. Vì thế sầu buồn càng thêm man
mác...

- Câu thơ 3 miêu tả chiều cao của bầu trời.

+ Có 1 khoảng không gian dãn nở trong cụm từ “nắng xuống trời lên”. 2 động từ ngược hướng
“xuống” và “lên” đem lại cảm giác không gian đang chuyển động rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến
đó. Không gian được mở ra vô biên về chiều cao. Tác giả dùng chữ “sâu” chứ không phải chữ “cao”, dù
“chót vót” là từ tượng hình để chỉ độ cao. Bởi đó không chỉ là chiều kích không gian mà còn gợi lên nỗi
buồn sâu thăm thẳm, không đáy của lòng người.

- Đặc biệt, sự nhỏ bé, cô đơn của con người hiện lên rõ nét qua câu thơ kết thúc khổ thơ “Sông
dài trời rộng bến cô liêu”. Câu thơ được ngắt thành 3 hình ảnh độc lập: sông dài – trời rộng – bến cô liêu.
Sự độc lập của những hình ảnh thơ phải chăng như muốn diễn tả sự phân li của con người trong cuộc đời

+ Câu thơ đã sử dụng thành công thủ pháp tương phản đối lập giữa một bên là cái rộng lớn của
thiên nhiên “sông dài trời rộng” với một bên là “bến cô liêu” từ đó nhấn mạnh cái cô liêu của cảnh vật
và sự lạc lõng, trống vắng, cô đơn của con người.

⇒ Không gian được miêu tả ở nhiều chiều, rộng lớn, cô đơn, thăm thẳm đến vô cùng. Có lẽ khi viết
những câu thơ này, nhà thơ đã nhận thấy cái xa thẳm của thời gian và không gian, đã nghe trong hồn thơ
giá lạnh buốt từ cõi vô cùng đưa đến.

⇒ Nhận xét 2 khổ:


- Hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ bao la, mênh mông, quạnh quẽ, cái tôi cô đơn buồn bã của nhà thơ - đó
là cái tôi mang nỗi sầu từ “vạn cổ”, 1 cái tôi cô đơn bé nhỏ của con người trước không gian vô hạn, vô
cùng.

- Nỗi buồn ấy nào đâu phải chỉ riêng Huy Cận mà là “nỗi buồn thế hệ”, của 1 thời mất nước chưa tìm
thấy lối ra → Biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước

- Thể hiện đặc điểm thơ Huy Cận nói chung và cả bài nói riêng: vừa cổ kính, vừa hiện đại, nhưng
cũng có những nét riêng khác biệt. Chất cổ điển thể hiện ở nhan đề, thể thơ 7 chữ, cách ngắt nhịp, cách
gieo vần, cấu trúc đăng đối, bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi nhiều hơn tả, ở từ Hán Việt cổ kính, hình ảnh
quen thuộc của thơ cổ. Chất hiện đại ở hình ảnh chân thực của đời thường, sự giãi bày trực tiếp cái tôi
trữ tình, từ ngữ sáng tạo, mang dấu ấn xúc cảm cá nhân.

4. Khổ 3: tác giả càng bộc lộ rõ hơn nỗi buồn nhân thế và niềm khát khao giao cảm với đời bằng hàng
loạt các hình ảnh giàu tính biểu tượng.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,


Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Nhà thơ lại nhìn lại về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi
ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng
những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu và lòng người lại rợn lên những lẻ loi, trống vắng.

- Câu thơ đầu là hình ảnh những hàng bèo nối nhau trôi dạt trên sông.

+ Ở các khổ thơ trước, những hình ảnh con thuyền lẻ loi, cành củi khô lưu lạc đã như những ẩn dụ
đầy ấn tượng về kiếp người vô định. Ở đây, hình ảnh những cánh bèo dạt trên sông như 1 lần nữa khắc sâu
ấn tượng đó và càng gợi thêm 1 nỗi buồn mênh mông da diết

→ Gây ám ảnh về kiếp người lạc lõng, trôi nổi vô định của con người trên dòng đời vô tận.

+ Câu hỏi “Về đâu?” giữa câu thơ thể hiện tâm trạng lo âu, boăn khoăn, day dứt

- 2 câu thơ tiếp theo diễn tả những cái không có. Phó từ phủ định “không” lặp đi lặp lại làm cho con
người cảm thấy rợn ngợp và xót xa hơn.

+ Những chuyến đò ngang, những cây cầu nối liền 2 bờ sông gợi lên hình ảnh cuộc sống con
người, tình cảm thân mật giữa con người. Những hình ảnh đó tuyệt nhiên không có. Một loạt từ “không”
xuất hiện liên tiếp đã phủ định tất cả những gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vô cùng: hai bờ bên là
những thế giới xa lạ.

+ 3 chữ niềm thân mật gợi lên tấm lòng thi nhân mong mỏi 1 tâm hồn bầu bạn để gắn bó, sẻ chia

- Câu cuối diễn tả cái có: có “bờ”, có “bãi”, có sắc xanh tươi mát và sắc vàng ấm áp. Nhưng tất cả
đều lặng lẽ, im lìm. Bởi chỉ có thiên nhiên (bờ xanh) nối tiếp với thiên nhiên (bãi vàng) mà không hề thấy
bóng dáng con người. Không có con người, thiên nhiên dù đẹp đến đâu cũng lạnh lẽo, hiu hắt.

+ Từ láy lặng lẽ đảo ra trước đầu câu nhấn mạnh trạng thái gần như tuyệt đối hoang vắng của
trang giang.
⇒ Đến khổ này, trang giang vẫn hoàn toàn hoang vắng, không đò, không cầu, không có con người và
sự sống con người. chỉ có bèo dạt mây trôi, bờ bãi triền miên, lặng lẽ. Nỗi buồn ở nơi đây không chỉ là nỗi
buồn trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời

Ở nơi đây không có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng
hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau

- Nghệ thuật: giúp làm rõ sự hoang vắng của cảnh vật và nỗi buồn nhà thơ. Có nhiều những thanh
bằng nối tiếp thanh bằng miên man ở các khổ thơ trước đó, cả 2 từ láy “mênh mông”, “lặng lẽ” đều được
đặt ở đầu câu thơ hàm ý nhấn mạnh, điệp từ “hàng”, “không”

5. Khổ cuối:   Khổ thơ tiếp tục miêu tả khung cảnh tràng giang và bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc


Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

- Bài thơ mở ra bằng tiếng sóng trên sông nước, kết thúc bằng tiếng sóng trong tâm hồn con người.
Cảnh vật vẫn đìu hiu và quạnh vắng. Con người bởi thế mà trở trăn với bao nỗi niềm. Đó là nỗi niềm nhớ
quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung
của nhiều nhà thơ mới lúc bấy giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

- Hai câu thơ đầu vẽ nên bức tranh tràng giang lúc chiều tà hùng vĩ, tráng lệ

+ Hình ảnh: đám mây trắng trùng điệp phía chân trời, dưới ánh nắng mặt trời phản chiếu lấp lánh
tạo nên liên tưởng về dãy “núi bạc” khổng lồ. Cảnh thật hùng vĩ. Chính Huy Cận cũng đã có lời tự bình về
hình ảnh này: thiên nhiên, tạo vật tuy buồn những đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ. Đó là những cảnh
thực nhưng phải có 1 sự cảm nhận tinh tế và hồn thơ tha thiết với thiên nhiên, đất nước mới có thể tạo
thanh 1 hình ảnh đẹp như vậy

+ Hình ảnh cánh chim nhỏ cô đơn, nhỏ bé đang chở nặng bóng chiều nghiêng cánh cố bay về
chân trời xa vắng. → Hình ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn
gợi lên 1 cái gì đó lạc lõng, cô đơn, tội nghiệp. Và vì thế, nó như ẩn dụ cho kiếp người bé nhỏ.

- Thiên nhiên tạo vật bộc lộ những vẻ đẹp đến lạ lùng: Những buổi chiều mùa hạ, mây trắng như
những búp bông bung nở trên trời cao, ánh nắng buổi chiều trước khi vụt tắt thường rực sáng nên chiếu
vào những núi, những mây chồng chất lên nhau khiến nó lung linh như những núi bạc. Một vẻ khoáng đạt
hoành tráng, mĩ lệ.

⇒ Bức tranh về quê hương, đất nước – một bức tranh vừa quen thuộc,vừa lớn lao, kì vĩ

- 2 câu kết trực tiếp diễn tả nỗi lòng của nhà thơ: Từ cảnh quê hiện lên trong hai câu thơ ấy, tác giả
diễn tả nỗi lòng mình với quê hương, đất nước

+ “Lòng quê” là lòng nhớ quê hương

+ “Dợn”: gợn lên, “dợn dợn”: gợn nhiều lần không dứt. → Gợi cảm giác đã đồng nhất những
con sóng gợn triền miên trên sông với những tiếng sóng dợn ngợp trong lòng tác giả - tiếng sóng của lòng
thương nhớ quê hương.
- Hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của Thôi Hiệu:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị


Yên ba giang thượng sử nhân sầu”

- Hơn 1000 năm trước, đứng trước cảnh Trường Giang nhìn khói sóng trên sông, Thôi Hiệu đã chạnh
lòng nhớ quê. Nhưng ở đây, không có cái mờ ảo của sương khói buổi hoàng hôn, tình quê của Huy Cận
vẫn trào dâng. Bởi tình cảm ấy luôn thường trực trong lòng, không cần chất xúc tác. Rõ ràng nỗi buồn
không phải từ ngoại cảnh vào mà là nỗi buồn nội tâm con ng tràn ra không dứt. Người xưa xa quê mà nhớ
quê còn Huy Cận đang đứng trước quê hương đất nước mà vẫn rưng rưng một nỗi nhớ nhà.

- Cái nhớ nhà ở đây không đơn thuần chỉ là nhớ quê hương Hà Tĩnh mà còn hiểu theo nghĩa rộng là
nhớ quê hương đất nước VN. Đất nước nô lệ, mất chủ quyền nên tuy đang sống trên QH mình mà nhà thơ
vẫn mang tâm trạng “thiếu quê hương”.

* Nhận xét: 2 đoạn cuối

- ND: khắc họa bức tranh thiên nhiên tràng giang độc đáo và tâm trạng của nhà thơ:

+ Bức tranh TN thật rộng lớn, mênh mông, tráng lệ nhưng lại hoang sơ, tĩnh lặng, gần như tuyệt
đối. → 1 bức tranh đậm chất Đường thi nhưng lại có những nét quen thuộc, gần gũi với cảnh vật sông
nước VN. Đằng sau bức tranh là 1 tấm lòng tha thiết gắn bó với TN, QH đất nước

+ Xuyên suốt đoạn thơ là 1 nỗi buồn. Đó là nỗi buồn từ vạn cổ của con người bé nhỏ, hữu hạn
trước thời gian, không gian vô hạn, vô cùng chan chứa trong thơ Đường. Đó cũng là nỗi buồn của cái tôi
cá nhân HC, của cả thế hệ HC, cả dân tộc VN trong những năm tháng ngột ngạt thời Pháp thuộc ⇒ Biểu
hiện tấm lòng yêu nước thầm kín mà tha thiết

- NT: tuy ngắn nhưng thể hiện được những nt chung của cả bài, rõ nhất là sự kết hợp hài hòa giữa chất
cổ điển và hiện đại. Có thể thấy được trên nhiều phương diện: thể loại, bút pháp, từ ngữ, hình ảnh:

+ Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính với cách ngắt nhịp 4/3 quen thuộc tạo nên sự cân đối,
hài hòa. Thủ pháp tương phản sử dụng triệt để, bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi nhiều hơn tả. Vẫn rất mới,
hiện đại qua xu hướng giãi bày trực tiếp cái tôi trữ tình.

+ Từ ngữ: nhiều từ láy, thanh bằng → âm hưởng trôi chảy triền miên của dòng sông và nỗi buồn
vô tận của cảnh vật và lòng người. Hình ảnh: ước lệ thường dùng trong thơ cổ. Nhiều biện pháp tu từ

III. Kết bài

Đây là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận trước cách mạng tháng 8, có sự kết hợp
tuyệt diệu giữa cảnh và tình, hai mà như một, không chỉ gợi lên cảnh sông nước đất Việt mà còn là nỗi
niềm của người con trước giang san đất nước. Hình ảnh thơ, từ ngữ táo bạo, mới mẻ, phối thanh, hòa âm
đăng đối, giọng trầm buồn vừa mang phong vị cổ điển vừa mang phong cách hiện đại thể hiện nỗi lòng
riêng cũng là nỗi lòng chung của lớp thanh niên yêu nước, thương cảm dân tộc, đất nước nhưng lại bất lực
cô đơn trước cuộc đời.
ĐÂY THÔN VĨ DẠ

I. Mở bài:

- Hàn Mặc Tử là nhà thơ nổi tiếng của thơ ca VN hiện đại, là hiện tượng thơ kì lạ bậc nhất của phong
trào Thơ mới. Cuộc đời ông đầy bi thương nhưng sức sáng tạo vẫn dồi dào, mãnh liệt. Thơ ông đầy khát
vọng sống những cũng đầy máu và nước mắt. Hình ảnh thơ vừa gần gũi với cuộc đời vừa kì lạ mang màu
sắc siêu thực.

- “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, được sáng
tác 1937 và in trong tập Thơ điên. Bài thơ được gợi cảm hứng từ bức bưu ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc –
người ông thầm thương trộm nhớ gửi vào từ Huế. Bài thơ tái hiện vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và con
người thôn Vĩ. Qua đó, bộc lộ khát khao được sống, được yêu và được giao hòa với thiên nhiên.

II. Thân bài:

1. Khổ 1: Bức tranh thôn Vĩ Dạ lúc bình minh.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?


Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

a. Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi thiết tha vừa như chào mời vừa như lời trách móc nhẹ
nhàng
- Câu hỏi đó là của ai? Là người con gái xứ Huế chăng hay của Hàn Mặc Tử hay còn ai khác nữa?
Thực ra đây là HMT tự phân thân để hỏi chính mình, trách mình về việc cần làm, lẽ ra phải làm từ lâu
nhưng giờ đây chẳng biết có làm được hay không. Đó là việc về thăm lại thôn Vĩ Dạ.
- “Không về” - hàm ý vĩnh viễn không thực hiện được → Niềm xót xa day dứt, nuối tiếc, cũng là tiếng
nói đầy mặc cảm bởi căn bệnh hiểm nghèo.

⇒ Tiếng lòng của Hàn Mặc Tử , là ước ao thầm kín, là niềm khát khao được trở về thôn Vĩ, được thăm
lại cảnh cũ, người xưa. → Câu thơ là duyên cớ khơi dậy những kỉ niệm sâu sắc, hình ảnh đẹp đẽ về thôn

b. Sau câu hỏi ấy là hình ảnh thiên nhiên, con người thôn Vĩ qua 2 câu thơ tiếp theo:
- Thôn Vĩ nằm cạnh bờ sông Hương là địa danh đẹp của Huế với khung cảnh trời nước mênh mông.
Buổi sáng khi mặt trời mới mọc khung cảnh thiên nhiên rất gợi cảm. Tác giả tập trung miêu tả những hàng
cau trong bình minh rực rỡ:
- Có nắng trên những hàng cau. Đó là những tia nắng ban mai ấm áp, rực rỡ, trong trẻo, tinh khôi trong
buổi bình minh. Điệp từ “nắng” khiến không gian chói lòa, rực rỡ trong ánh nắng. 2 thanh trắc trong 2 chữ
“nắng mới” gợi hình ảnh thân cau cao vút và tư thế kiễng chân ngước lên nhìn của du khách. “Nắng hàng
cau” gợi cảm giác ko phải là mặt trời mà là hàng cau đang tỏa nắng.
- Hình ảnh hàng cau là hình ảnh đặc trưng cho vườn Vĩ Dạ xưa, mang vẻ đẹp bình dị thân thuộc, mang
linh hồn đất Việt, một vẻ đẹp manh dẻ, thanh thoát
- Câu thơ thứ 3 dùng phép so sánh nhấn mạnh vẻ tươi non, đầy sức sống của vườn tược xứ Huế:
+ “Vườn ai” ( đại từ phiếm chỉ) - cảm giác mơ hồ không xác định →gợi ám ảnh, nhớ thương
+ “Mướt”: khu vườn non tơ, tươi tốt, không chỉ tả cái óng ả bên ngoài mà còn tả được sức sống
tiềm ẩn bên trong. “Xanh ngọc” là màu xanh tươi non, trong suốt và lung linh, khác với xanh lơ, xanh
biếc.
+ “Xanh như ngọc”: hình ảnh so sánh mới lạ, đầy sức gợi - vừa gợi màu vừa gợi ánh, vừa óng
chuốt lại thật tinh khôi. → vẻ đẹp lí tưởng, hiện thân cho những gì quý giá
→ Thiên nhiên hiện lên sống động với vẻ đẹp vô cùng ấn tượng
c. Con người thôn Vĩ: Giữa khung cảnh thiên nhiên nên thơ, trữ tình, tinh khôi đó có thấp thoáng bóng
dáng con người. Sự xuất hiện của con người đã hoàn thiện bức tranh thôn Vĩ:
Gương mặt con người ẩn hiện sau khóm trúc với gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền : khuôn mặt
đầy đặn, phúc hậu, ngay thẳng và cương trực. Trúc là một loài cây thanh nhã → Vẻ đẹp kín đáo dịu dàng,
cao quý, thanh nhã
→ Con người chợt xuất hiện trên cái nền thiên nhiên tươi mát làm cho cảnh vật sinh động hẳn lên và
hình ảnh con người cùng thiên nhiên hòa hợp trong vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng.

⇒ Cảnh đẹp - người đẹp – tình đẹp. Thiên nhiên và con người hài hòa tạo nên bức tranh thôn Vĩ bình
dị, tươi sáng, trong trẻo, đầy sức sống ⇒ Nét đặt trưng của cảnh và con người xứ Huế → Nỗi buồn xa
cách, khát khao mong chờ, hi vọng về hạnh phúc của thi nhân
=> Đằng sau bức tranh ấy là con người nhà thơ, 1 con người với tiếng nói bâng khuâng rạo rực,
một tâm hồn yêu đời, khát sống, hướng về cái trong trẻo, thánh thiện → đáng quý, đáng trân trọng
- NT: ngôn ngữ hình ảnh gợi hình, gợi cảm. Nhiều biện pháp tu từ, điệp từ, so sánh... nhấn mạnh vẻ đẹp
của thôn Vĩ và tình cảm tác giả
2. Khổ 2: tiếp tục miêu tả cảnh thiên nhiên xứ Huế nhưng cảnh không còn tươi mới, rạo rực như khổ
đầu mà mang tâm trạng buồn đau, chia lìa 
“ Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.”

a. 2 câu đầu: cảnh gió, mây, sông, nước

- Có gió, có mây nhưng gió, mây xa cách hững hờ.Vốn dĩ mây và gió luôn chung đường với nhau
nhưng trong thơ Hàn Mạc Tử lại là “gió theo lối gió, mây đường mây”. Sự chia lìa còn thể hiện trong hình
thức của câu thơ: Nhịp thơ 4/3 đã cắt đôi câu thơ, ngắt “gió” và “mây” ra thành hai thái cực.Hình ảnh
thiên nhiên không hòa hợp chính là do mặc cảm về thân phận. Hàn Mặc Tử yêu thiên nhiên và cuộc sống
vô cùng, tuy nhiên lại không thể trở về cuộc sống đời thường được nữa (căn bệnh vốn bị người đời xa
lánh).

b. Dòng nước hiện ra với gương mặt “buồn thiu”.

- Nếu như câu đầu tác giả nói về sự chia lìa nhưng bằng cách gián tiếp thì câu tiếp theo nhà thơ đã
nhấn mạnh cảnh vật với tâm trạng sầu thảm bằng động từ “buồn thiu”.
- “Buồn thiu" là tâm trạng buồn đến não nề, tê buốt. Và nhân vật mang tâm trạng này là “dòng nước".
Hình ảnh gợi lên nhịp chảy chậm, lững lờ tưởng chừng như đang đứng yên của sông nước xứ Huế.

- Bằng thủ thuật nhân hóa, tác giả đã ví dòng nước thôn Vĩ như một sinh vật có suy nghĩ, có tâm trạng.
Tác giả đã mượn hình ảnh thiên nhiên để nói đến tình cảnh của mình hiện tại.

- Hình ảnh “hoa bắp lay” nhẹ nhàng và rơi rụng xuống dòng sông khiến cho người đọc có cảm giác có
cái gì đó đang vỡ tan ra. Mà có lẽ rằng “hoa bắp lay” chính là cuộc đời của tác giả, nhạt nhòa, buồn tẻ và
lặng lẽ chán chường.

c. Hai câu thơ cuối là hình ảnh con thuyền chở trăng và bến sông trăng:

Hai câu thơ tả cảnh sông nước dường như đã xóa tan đi cái mộng cảnh biêng biếc, tươi trẻ tràn ngập
sức sống và hơi ấm tình người trong khổ thơ đầu, là sự bừng tỉnh của tác giả trước cảnh ngộ thê lương của
bản thân, trước con đường tăm tối vô hương, vô sắc hiện hiện tại.

- Thuyền chở trăng là hình ảnh không mới, nhưng bến sông trăng là hình ảnh rất mới, rất lạ và đẹp, chỉ
có trong thơ HMT. Xưa đến nay chưa ai viết về trăng nhiều như HMT. Đối với ông, trăng là kết tụ của vẻ
đẹp trắng trong, thánh thiện vĩnh hằng của thiên nhiên, là tri kỷ tri âm suốt đời của tác giả ở chốn cô đơn
này. Trăng xuất hiện rất diễm lệ là cả một dòng sông dát ánh trăng vàng, cả một con thuyền chuyên chở
trăng, trăng đã đem đến cho tác giả một hiện thân về trần thế tươi đẹp, về cuộc đời mà tác khao khát được
chiếm lĩnh hòa nhập.

→ Sự đồng điệu giữa cảnh thực và cảnh mộng, giữa ngoại cảnh và nội tâm thi sĩ.

- Câu hỏi ẩn hiện sự lo lắng, bồn chồn, niềm khao khát được chia sẻ, gặp gỡ đến cháy bỏng. Từ “kịp”
thật đắt, nó hé mở 1 mặc cảm, mặc cảm về hiện tại ngắn ngủi, hé mở 1 cách thức sống: sống là chạy đua
với thời gian. Quỹ thời gian còn lại quá ít ỏi mà khát vọng giao cảm với thiên nhiên và cuộc đời vẫn còn
đong đầy, tha thiết.

→ khát khao níu giữ sự sống của con người trước lưỡi hái của thần chết đang cố níu giữ những giây
phút cuối cùng để sống trọn vẹn những ngày tháng ngắn ngủi ấy. Đó chỉ có thể là một tấm lòng khát khao
yêu đời mãnh liệt của một hồn thơ đau đớn đến thiết tha sống.

3. Khổ 3: Khao khát về cuộc sống trần thế của tác giả càng trở nên nổi bật trong khổ thơ cuối khi đi
vào cụ thể ấy là khao khát về hơi ấm tình người, Hàn Mặc Tử muốn thoát khỏi cái cảm giác cô độc, lạnh
lẽo muốn tận hưởng cuộc sống bằng tình yêu.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa


Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

a. Câu thơ đầu có từ “mơ” đứng đầu nhấn mạnh nỗi khao khát, mơ tưởng của nhà thơ.

Cụm từ “Khách đường xa” được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng khắc khoải chờ đợi và niềm khát
khao đến mãnh liệt. Âm “a” trong từ “xa” có sức lan tỏa kéo dài, diễn tả một cảm giác xa lạ, hình bóng
người con gái ấy đang dần khuất ra khỏi tầm với của tác giả.
b. Câu thơ thứ 2 có 1 hình ảnh đa nghĩa gợi nhiều cách hiểu khác nhau:

- Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng tinh khiết của cô gái Huế. Trong sự đa nghĩa của câu
thơ, màu trắng là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương, đẹp đẽ và hiện hữu nhưng không
thể nắm bắt được.

- Có người hiểu “trắng quá nhìn không ra” bởi cái màu trắng này đang hòa lẫn vào sương khói mờ ảo
của xứ Huế.

⇒ Màu áo trong tâm tưởng vốn trần đầy kỉ niệm nay trở nên nhạt nhòa, xa cách.

c. Câu thơ thứ 3 cũng gợi nhiều cách hiểu:

“Ở đây” là ở đâu? Là Quy Nhơn hay Vĩ Dạ mờ xa? “Ở đây” và “ngoài kia” có xa xôi mấy đâu vậy mà
một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Sương khói thực hay sương khói của kỉ niệm, của một
mối tình mong manh chưa một lời ước hẹn?

⇒ Câu thơ như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đó giai nhân trong mộng
đang lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm làm điên đảo mộng thi
ca.

d. Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng. Đây là
sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết.

Câu hỏi tu từ có từ “ai” thật tài hoa. Nhà thơ trong trạng thái bị dày vò vì khát khao tình yêu, vì trái
tim đang rơi vào trống trải. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn, mang theo nỗi buồn vô vọng và những
uẩn khúc của Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau thương chới với, bất lực trong mặc cảm chia lìa nhưng cũng
hết lòng thiết tha với cuộc đời.

Nghệ thuật: Bài thơ đã thể hiện những đặc điểm thơ Hàn Mặc Tử:

- Từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi


- Nhiều biện pháp tu từ: câu hỏi tu từ, đối, nhân hóa, so sánh,...
- Có những bước nhảy đột ngột về ý nhưng vẫn thống nhất trong 1 mạch tư tưởng, cảm xúc chung:
+ Thôn Vĩ đang xanh mơn mởn bỗng buồn bã hiu hắt rồi mờ xa, hư ảo. Cảnh khổ 1 là thực, khổ 2
vừa thực vừa ảo, khổ 3 là cảnh hư ảo.
+ Tâm trạng con người cũng có bước chuyển: náo nức tươi vui, lo âu, trăn trở, băn khoăn, day dứt
+ Những bước chuyển ấy đều thể hiện tâm tư, tình cảm của nhà thơ: yêu tha thiết con người và
cuộc đời nhưng cũng hiểu rất rõ số phận bi kịch của đời mình.
- 3 khổ thơ đều có những dấu hỏi không lời đáp

III. Kết bài:

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất đỗi
thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. Nhắc đến Huế, ta không thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, và
nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là thôn Vĩ với bức tranh thiên
nhiên tươi đẹp nhưng tĩnh lặng và con người hiền lành, phúc hậu. Bài thơ cũng cho ta thấy được tình yêu
tha thiết với thiên nhiên và cuộc đời dù số phận có nhiều bi kịch nhưng đôi mắt nhìn đời vẫn hết sức xanh
tươi, tình yêu con người vẫn tha thiết cháy bỏng. Đó là điều đáng quý, đáng trân trọng ở người thi sĩ tài
hoa nhưng bạc mệnh này.

You might also like