You are on page 1of 8

GV: Thuỳ Nguyễn

TRÀNG GIANG
( Tác giả: Huy Cận)

I. Mở bài
- Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đưa ta đến những sông, hồ, bờ bãi, biển cồn, núi
cao, đèo dốc… nghĩa là ta sẽ phải đối diện với cái vô cùng, vô tận của không gian, cái vô thuỷ vô chung của
thời gian. Khi ấy, cả những người vô tâm nhất cũng không tránh khỏi cảm giác cô đơn. Bởi người ta thấy rõ hơn
bao giờ hết con người thật nhỏ nhoi, kiếp người chỉ là thoáng chốc. Ta bỗng thấy mình như đang bơ vơ, lạc lõng
giữa cái mênh mông của đất trời, trôi nổi trong cái xa vắng, rợn ngợp của dòng thời gian. Khi ta thấy chơi vơi
giữa thế gian này ấy là lúc ta tìm đến thơ Huy Cận. Bởi thế giới chơi vơi ấy là thế giới của Lửa thiêng, thế giới
của Tràng giang. Thi sĩ đã cất lên giùm ta cái cảm xúc thuộc về nỗi sầu nhân thế cố hữu đó.
- Giới thiệu vấn đề
II. Thân bài
1. Khái quát chung
Huy Cận là nhà thơ lớn, tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại, là một trong số những nhà thơ xuất sắc
bậc nhất với hồn thơ ảo não. Trước CM tháng 8, thơ ông mang cảm hứng vũ trụ, nỗi sầu nhân thế khắc khoải
với những miền không gian. Tiêu biểu nhất cho hồn thơ Huy Cận trước CM tháng 8 là tập Lửa thiêng (1940),
cái buồn của Lửa thiêng là cái buồn toả ra từ lòng người mơ hồ không biết đến ngoại cảnh được bộc bạch qua
những hình ảnh, ngôn từ hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí và có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển
và hiện đại. Tràng giang là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất trong tập Lửa thiêng. Tác giả đã từng tâm
sự: Vào một buổi chiều mùa thu 1939, nhà thơ đạp xe lên triền đê sông Hồng thấy trên sông đẹp quá khi nắng
chiều đã nhạt, mây đùn đùn phía núi xa và man mác một nỗi buồn khó tả, nửa gần gũi nửa xa vời quạnh hiu nên
khi dừng chân bên bến Chèm (bây giờ là chân cầu Thăng Long) trong tâm tưởng nhà thơ đã gợi mấy câu lục
bát: “Tràng giang sóng gợn mênh mông/ Thuyền trôi xuôi mái nước song song buồn”. Từ ý tứ đó, tác phẩm
Tràng giang ra đời với lời đề từ và nhan đề độc đáo. Không khí trầm mặc mênh mang sông nước của tác phẩm
đã được gợi ngay từ nhan đề sử dụng tiếng Hán việt “Tràng giang” và tâm tư, suy ngẫm của thi sĩ được bộc
bạch trọn vẹn trong lời đề từ cô đọng, hàm súc “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
2. Phân tích
a. Khổ 1: Bức tranh rời rạc, đượm buồn
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
- Hình ảnh “sóng gợn”: Gợi mở không gian, tâm trạng của thi sĩ
- Hình ảnh “thuyền – nước” tồn tại nghịch lí “song song” và chuyển động ngược chiều “thuyền về -
nước lại”: Mở rộng không gian, gợi không gian hoang vắng, trống trải
- Hình ảnh đời thường “củi” + đảo ngữ: Tô đậm không gian hoang vắng, kín đáo bộc lộ cảm giác lạc
lõng, chơi vơi
- Từ láy “buồn điệp điệp” và hình ảnh “sầu trăm ngả”: Lan toả nỗi buồn khắp không gian

Qua hai câu thơ đầu tiên, nhà thơ sử dụng bút pháp chấm phá của hội hoạ phương Đông dựa trên thủ pháp
tương phản, đối lập để phác hoạ khung cảnh mênh mông, rộng lớn của sông nước Tràng giang. Hình ảnh “sóng
gợn” giàu tính tạo hình gợi tả những con sóng vô hạn mở rộng không gian tràng giang, đồng thời cũng là cơn
sóng lòng buồn bã đang lan toả, chồng chất “điệp điệp” trong lòng thi sĩ. Phong vị đường thi cổ kính toát lên từ
thi đề, thi tứ, từ tâm trạng bâng khuâng của thi nhân gửi vào không gian chiều hôm cùng dòng sông con nước
vơi đầy như đem ta trở về với khung cảnh đã chảy trôi qua bao áng thơ cổ thi của tiên thơ Lí Bạch:“Duy kiến
Trường giang thiên tế lưu” (Chỉ còn thấy dòng sông Trường giang chảy bên trời) hay trong thơ của thi sĩ Đỗ
Phủ: “Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ/ Bất tận Trường giang cổn cổn lai” (Vô vàn lá xào xạc rụng xuống/ Dòng
sông dài cuồn cuộn chảy vô tận). Thế nhưng cách cảm, biểu đạt của Huy Cận khiến bức tranh thiên nhiên Tràng
giang không nhoè lẫn vào thơ xưa mà vẫn tạo được dấu ấn riêng. Câu thơ từ cảnh chuyển sang tả tình, nói đúng
hơn là hồn đã nhập vào cảnh, cho nên nói đến cảnh là nói đến hồn. Từ láy “điệp điệp” không chỉ làm tăng tính
chất tạo hình cho bức tranh sông nước thêm rộng dài mà còn diễn tả được nỗi buồn sâu thẳm trong tâm can tầng
tầng lớp lớp như muôn vời con sóng. Nỗi buồn chất ngất ấy giờ gặp cảnh lại càng dâng lên không dứt. Quả
thực, Huy Cận đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông Á, khơi dậy cái mạch sầu mấy ngàn năm vẫn ngấm ngầm
trong cõi đất này. Ngòi bút thơ Huy Cận đã vận dụng bút pháp chấm phá đặc trưng khi điểm xuyết “con thuyền
xuôi mái” như một dấu chấm buồn giữa cảnh nền bao la, bất tận. Nếu câu thơ thứ nhất gợi mở cái vô hạn của vũ
trụ thì câu thơ thứ hai làm nổi bật sự bé nhỏ của tạo vật qua nghệ thuật tiểu đối: “Con thuyền xuôi mái/ Nước
song song”. Con thuyền đơn độc, không người chèo lái trong trạng thái thụ động, lênh đênh để lại bao day dứt
về thân phận con người trong xã hội cũ. Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương từng ví phận mình là phận người phụ nữ hẩm
hiu như chiếc bánh trôi nổi giữa bến nước làm xót xa bao lòng người:
“Chiếc bánh buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”
Đi vào thế giới Tràng giang, thi liệu xưa trở nên mới mẻ bởi ở đó ẩn chứa nỗi cô đơn thấm thía của một cái tôi
lãng mạn cảm nhận sâu sắc về kiếp người nhỏ bé bơ vơ trước sự rợn ngợp của không gian.
Đến hai câu sau, cái thế cân xứng hài hoà của bức tranh Tràng giang cổ điển ở hai câu đầu bị phá vỡ trong sự
tan tác, chia lìa thông qua sự chuyển động nghịch lí “thuyền về - nước lại”. Xưa đến nay, thuyền và nước luôn
gắn kết song hành vậy mà ở đây chúng chia đôi ngả, hình ảnh thơ đan chéo xoáy sâu vào nỗi buồn chia li, xa
cách khi con thuyền nhỏ nhoi mờ dần, khuất hẳn, chỉ còn lại dòng nước mênh mông vắng lặng khôn cùng. Đến
đây, sóng buồn nhân lên thành nước sầu, sầu toả ra trăm ngả. Thi nhân bộc lộ trực tiếp cảm nhận của mình về
nỗi sầu thế hệ vì “trăm” không phải số từ đo đếm mà nhằm nhấn mạnh nỗi sầu mất phương hướng, nỗi sầu
muôn phương thấm khắp không gian trời đất. Bởi thế, hình ảnh “củi một cành khô” là nơi gửi gắm nỗi sầu vạn
kỉ của thi nhân trước cuộc đời. Ba câu thơ đầu là cả một hệ thống thi liệu cổ điển đậm chất Đường thi đến câu
thứ tư lại nôm na xuất hiện chi tiết thuần Việt đến “sống sít” đã đánh thức sự trắc ẩn, xót xa trước sự vô định
trên dòng đời chảy trôi. Sự xuất hiện của một cành củi khô trở thành nét vẽ rất hiện đại, bởi Huy Cận đã mạnh
dạn đưa vào thơ Mới những thi liệu sống của đời thường. Cành củi khô nói lên sự nhỏ nhoi của kiếp người, từ
một cành cây tươi xanh ở thượng ngàn đến một cành củi khô lạc lõng thì thân phận đã qua mấy lần tang thương,
khô héo như số phận của những con người trong xã hội cũ: Củi khô xuống nước cũng khó/ Người nghèo đi đến
nơi mô cũng buồn. Phải chăng câu ca dao của quê hương đã ngấm vào trong máu thịt thi sĩ để rồi tất cả gửi vào
đó một miền tâm tưởng đầy vơi nỗi niềm về số phận nhỏ nhoi của thế hệ, như mình đang sống một cách vô định
không biết đi đâu, về đâu. Trải qua bao cân nhắc từ những hình ảnh ước lệ “cánh bèo trôi”, “gỗ lạc rừng xa”…
trôi qua thế giới cảm xúc của thi sĩ rồi mới dừng lại ở “củi một cành khô” mới thật sự đắc ý. Đáng kể là động từ
“lạc” đặt trong mối quan hệ đối lập tương phản giữa số ít “một” và số nhiều “mấy”, giữa sự vật đơn lẻ, kiệt
khô sức sống “củi khô” với không gian bất tận cùng “mấy dòng” càng làm nổi bật nỗi buồn sầu bát ngát dằng
dặc của nhà thơ về bi kịch lạc lõng của bao kiếp người trong hoàn cảnh mất nước. Chẳng thế mà Hoài Thanh đã
cho rằng: Cái “tôi” cô đơn, tội nghiệp của các nhà thơ Mới dường như đã tìm thấy sự tương hợp tuyệt diệu
trong cành củi khô lạc loài của Huy Cận”.
b. Khổ 2: Bức tranh rộng lớn, hiu quạnh
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
- Lấy động tả tĩnh: Không gian hoang vắng, tĩnh lặng
- Chuyển động đối lập “nắng xuống – trời lên”: Mở rộng không gian
- Tính từ độc đáo “sâu chót vót”: Cảm nhận chiều sâu của không gian và chiều sâu của nỗi sầu
- Hình ảnh ước lệ, tượng trưng “bến cô liêu”: Không gian mênh mông, thân phận con người nhỏ bé
Bức tranh thiên nhiên sông nước Tràng giang có thêm nhiều nét phác hoạ mới đều là những cảnh thân thuộc của
làng quê Việt Nam nhưng cảnh lại hoang vắng, cô liêu và nỗi buồn của thi nhân cũng nhân lên, thấm sâu hơn
vào bức tranh ngoại cảnh. Hình ảnh “cồn” hiện lên là doi cát nhỏ, nổi lên giữa dòng sông vốn dĩ trơ trọi lại thêm
lối nói đảo ngữ “lơ thơ cồn nhỏ” càng khiến sự vật thêm bé nhỏ, bơ vơ tội nghiệp trong sự quạnh vắng, buồn bã.
Trong không gian ấy, gió không “hắt hiu” như ở “ao thu Yên Đổ” vùng đồng bằng Bắc Bộ được nho sĩ Nguyễn
Khuyến ghi lại trong tâm cảnh “Thu vịnh”:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầm cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”
Cũng không phấp phới, tràn đầy xúc cảm tình yêu, náo nức như nhà thơ Nguyễn Đình Thi ở mùa thu nơi chiến
khu Việt Bắc:
“Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha”
Mà thu của Huy Cận lúc này vẫn đang trong tình cảnh thu thảm, thu sầu nên ngọn gió ở Tràng giang như đứt
nối, dẫu có chút xao động nhưng chỉ gợi buồn, nỗi buồn của cõi lòng cô đơn thấm cảm giác trống trải giữa
không gian quạnh hiu. Cảm hứng “đìu hiu” trong không gian Huy Cận đã mượn từ tứ thơ trong “Chinh phụ
ngâm”:
“Non kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
Có điều, ngôn ngữ thơ của Huy Cận vượt thoát khỏi lối biểu đạt cũ, bộc lộ cảm quan vũ trụ của một nhà thơ
lãng mạn sống trên quê hương nhưng luôn thấy thiếu vắng quê hương. Cái “tôi” ấy càng cô đơn, lạnh lẽo càng
khát khao bấu víu vào những sự vật nhỏ nhoi để tìm sự đồng cảm trong tâm hồn. Do vậy, cảnh Tràng giang có
cồn cát, có nắng, có gió, có bến, có làng, có chợ chiều nhưng tất cả đều hiu hắt, lơ thơ, tàn tạ “man mác thiên cổ
sầu”.
Trong khoảnh khắc này, cái tôi trữ tình hướng về làng quê xa, khát khao tìm kiếm hơi ấm nhưng những âm
thanh của sự sống ít ỏi, tĩnh lặng biết mấy thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Mượn âm thanh xa vắng của “tiếng chợ chiều” để điểm tô không gian trầm mặc, hiu hắt. Âm thanh tiếng chợ
chiều trong không gian hết sức mơ hồ có như không, như thực, như hư, vừa gần gũi lại vừa xa xăm vô cùng.
Phải có một trái tim nhạy cảm và nặng tình với quê hương, xứ sở đến chừng nào Huy Cận mới có thể nắm bắt
được một thanh âm mơ hồ, lại từ nơi xa vắng đến thế? Có thể nói đây là thứ thanh âm chủ yếu vang vọng nên từ
tâm tưởng, từ nỗi buồn cô đơn của thi sĩ đầy tha thiết, bâng khuâng. “Đâu tiếng làng xa” còn có thể là câu hỏi
có tính phủ định về sự cô liêu, cô tịnh của đất trời để rồi ngay cả một tiếng âm thanh cũng không có. Con người
không biết bám víu vào điều gì trong một không gian bị bỏ hoang. Tác giả đã dùng cái động để nói cái tĩnh,
mượn cái không để nói cái có như cách thơ xưa gửi gắm vào ngoại cảnh nỗi sầu ảo não.
Không gian đã tĩnh lặng, ngột ngạt lại còn được mở rộng đến tận cùng. Nếu ở khổ thơ thứ nhất, cảnh đất trời
sông nước mở ra theo chiều rộng thì đến khổ 2 không gian được mở rộng thêm chiều cao và chiều sâu. Câu trúc
thơ đăng đối: “nắng xuống/ trời lên; sông dài/trời rộng” đem lại cho người đọc cảm nhận về một không gian ba
chiều mà chiều nào cũng mở ra không giới hạn. Hiệu quả của câu thơ đến từ chính các tính từ được tác giả sử
dụng như động từ: dài, rộng, lên, chót vót đã vẽ ra những chuyển động ngược hướng, làm cho sông dài mãi
thêm dài, trời rộng rộng vô biên và bến sông càng cô liêu, hoang sơ. Huy Cận rất tài tình trong việc sử dụng các
tiểu đối: “nắng xuống” >< “trời lên”, “trời rộng” >< “sông dài” kèm theo các dấu phẩy ngắt câu thành cụm
từ biệt lập có tác dụng biểu hiện sự phân cách của cảnh vật cũng là cảnh phân li của con người. Theo Hoài
Thanh, lúc này Huy Cận không phải đang bình thản đứng ngắm trời, ngắm nước mà thi sĩ đang “thấm thía cái
thăm thẳm của không gian, của thời gian để rồi đối diện với chính cái tôi cô đơn vời vợi của lòng mình”.
Có phải vì thế mà tác giả đã có cách liên tưởng độc đáo “sâu chót vót” chăng? Nếu miêu tả “cao chót vót” thi
sĩ chỉ thuần tuý tả cảnh nhưng “sâu” vừa tả cảnh, vừa gợi tình thể hiện tính hàm súc, suy tưởng của nhà thơ.
Đây là sự sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận thể hiện được sắc độ thăm thẳm của bầu trời đồng thời gợi ra được
cả độ sâu trong nỗi buồn của con người. Ý thơ không chỉ gợi cho ta liên tưởng đến không gian vũ trụ khôn
cùng, khôn tận mà còn xoáy sâu vào nỗi buồn cô đơn không đáy của con người khi đối diện với các chiều kích
không gian. Cũng bởi thế, cảnh vật càng bị thu nhỏ lại đến mức “cô liêu”, khơi gợi trong lòng người đọc nỗi
niềm về một miền đất hay thân phận con người bị bỏ quên trong không gian hoang vắng đến cô tịnh.
c. Khổ 3: Bức tranh mênh mông, cô độc
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
- Hình ảnh “bèo”, “bờ bãi” chuyển động rời rạc, vô định: Mở rộng không gian, gợi cảm giác trống
vắng
- Hình ảnh “không cầu”, “không chuyến đò”: Không gian bị chia lìa, đứt gãy
- Điệp ngữ phủ định “không cầu”, “không một chuyến đò”: Gợi cảm giác cô độc, thiếu vắng tình
người

Trên dòng tràng giang lúc này xuất hiện cánh bèo dạt trong sự chuyển động “hàng nối hàng”. Những cánh bèo
nhỏ bé, mong manh trôi dạt vô định không mang lại cảm giác tụ họp khiến nỗi sầu trong lòng người càng thêm
dat dứt về phận bèo cũng như số phận con người. Ta bắt gặp một thi liệu khá quen thuộc trong văn chương
truyền thống mượn cánh bèo hiện thân cho kiếp phù sinh trôi nổi để nói về những thân phận bé nhỏ, bất hạnh
trải qua “mấy cuộc bể dâu” trong đời. Điển hình như trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng thi liệu cánh
bèo với một thái độ đầy thương xót, cảm thông: “Phận bèo bao quản nước sa/ Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh
đênh”. Huy Cận cũng sử dụng thi liệu bèo dạt nhưng một trong những thành công đáng kể của nhà thơ đó là
làm mới thi liệu cổ bằng cách thổi hồn vào những sinh vật nhỏ nhoi, lẻ loi, xoáy sâu vào nỗi sầu của cả một thế
hệ.

Trong không gian bao la rợn ngợp của đất trời, hình ảnh “không cầu”, “không đò” ngắt đứt mọi dấu hiệu của
cuộc sống, ngắt đứt mọi phương tiện để tình người giao hoà, kết nối bỏ mặc lòng người chơi vơi trong nỗi sầu.
Vốn dĩ từ xưa đến nay, ở làng quê Việt Nam hình ảnh con đò, cây cầu đều là những phương tiện kết nối đôi bờ,
lưu giữ bao kỉ niệm xa vắng mang nặng nghĩa tình cha mẹ, làng xóm, quê hương:“Quê hương là con đò nhỏ/
Êm đềm khua nước ven sông”; “Quê hương là cầu tre nhỏ/ Mẹ về nón lá nghiêng che”. Nhưng nay, sự vắng
bóng của cầu, của đò trong không gian đã tuyệt đối hoá cái vô hạn của không gian. Sự phủ định liên tiếp của thi
sĩ xoáy sâu vào lòng người cái “có” rất lớn trong sâu thẳm trái tim, đó là nỗi cô đơn không đáy không chỉ bởi
bâng khuâng trước trời rộng sông dài mà còn bởi khát khao cháy lòng được giao cảm với cuộc đời. Ta hiểu vì
sao Huy Cận từng mượn hình ảnh hòn đảo nhỏ giữa mù khơi để nói lên nỗi lòng mong mỏi một cánh buồm cảm
thông trước cuộc đời:
“Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm”
Lúc này đây, trên dòng sông cuộc đời mênh mông, con người tự cảm thấy xa lạ với hạnh phúc, bị cắt đứt, chia
lìa với cuộc sống an bình khi đứng trước bối cảnh quê hương, đất nước bị giày xéo, mất tự do.
Câu kết tiếp tục tô đậm cảm giác xa lạ, buồn vắng qua hình ảnh bến bãi bờ sông: “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi
vàng”. Những tính từ chỉ màu sắc “xanh, vàng” khiến bức tranh tươi sáng hơn song vẫn không vì thế mà bớt đi
cảm giác buồn bã, ảm đạm. Đó là vì từ láy lặng lẽ được đảo lên đứng đầu câu thơ đã phủ lên toàn cảnh bức
tranh thiên nhiên một sắc thái tĩnh lặng, hoang vắng vô cùng khi bờ tiếp bãi, màu xanh nối tiếp màu vàng, chỉ là
những hình ảnh của thiên nhiên im lìm trải dài như tới vô tận, không có hình bóng, dấu vết và hơi ấm của con
người. Đoạn thơ đã thêm vào nỗi buồn cô đơn một niềm khát khao giao cảm, niềm khát khao mãnh liệt tình đời,
tình người.
d. Khổ 4: Bức tranh hùng vĩ, chứa đựng tình yêu quê hương da diết
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
- Từ láy “lớp lớp”: Mở ra không gian rợn ngợp, hùng vĩ của bầu trời
- Động từ “đùn”: Không gian chuyển động, mở rộng khôn cùng tả thực khung cảnh mây dồn về phía
mặt trời lặn khi chiều xuống. Sự kết hợp giữa ánh hoàng hôn và những dải mây như dát bạc tạo thành
vẻ đẹp tráng lệ.
- Bút pháp chấm phá: “Chim nghiêng cánh nhỏ”: Một cánh chim nhỏ bé xuất hiện giữa không gian bao
la kéo cả hoàng hôn buông xuống tô đậm không gian bao la, tĩnh mịch
- Cánh chim nhỏ bé >< Không gian rộng lớn: Gợi nỗi sầu, cảm giác nhỏ bé, chơi vơi của con người
trước không gian
- Từ láy “dợn dợn”: Nỗi lòng chao đảo, buồn bã, không nơi bám víu
- Cấu trúc phủ định nhằm khẳng định + Mượn tứ thơ Thôi Hiệu: Khẳng định tình yêu quê hương đất
nước luôn thường trực, da diết

Không gian sông nước lúc này được mở rộng đến không gian bao la, hùng vĩ của bầu trời. Từ láy “lớp lớp” kết
hợp với phép đảo ngữ đã hoạ một nét mực mĩ lệ trên nền bức tranh thiên nhiên khi gợi ra khung cảnh những
đám mây trắng hết lớp này đến lớp khác chồng chất thành những khối bông trắng khổng lồ được dát vàng, dát
bạc bởi ánh hoàng hôn rực rỡ cuối ngày. Cảnh thực mà ảo, tĩnh mà động. Huy Cận cho biết ông đã lấy mượn
cảm hứng từ “đùn” trong thơ của Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” (Thu Hứng). Có điều, trong Thu hứng
của vị thánh thơ đời Đường nhấn mạnh về sự hiểm trở, âm u của núi rừng giữa hiện thực đen tối của xã hội
Trung Quốc lúc bấy giờ còn cách sử dụng từ “đùn” của Huy Cận lại đem đến cho bức tranh thiên nhiên của
Tràng giang cả hình khối, đường nét rất đẹp bởi sự khoáng đạt, kì vĩ, nên thơ. Trên nền cảnh trời hùng vĩ ấy, nét
chấm phá “chim nghiêng cánh nhỏ” được tác giả điểm xuyết như một nốt lặng buồn khiến bức hoạ trời mây
thêm trống vắng, hiu quạnh. Các thi nhân xưa vẫn thường mượn cánh chim, áng mây để nói về cảnh chiều tà,
bóng xế cùng nỗi buồn tha hương: “Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn” (Bầy chim cất cánh bay mất
hút/ Chòm mây đơn độc lững lờ trôi” (Đỗ Phủ) nên thi liệu của Huy Cận mang hơi thở, phong vị Đường thi rất
đậm nét. Nhưng cách thi sĩ sử dụng từ ngữ kết hợp dấu hai chấm ngắt đoạn giữa dòng đã gợi ra ý tứ mới mẻ
trong sự chuyển động chao đảo của cánh chim. Theo chiều chuyển động của cánh chim nhỏ, cả hoàng hôn rơi
xuống khiến bóng hình của đôi cánh càng thêm nhỏ bé, mông lung trước sông nước, mây trời bao la, đầy bất an
giữa dòng đời. Bức tranh thiên nhiên từ đó cũng chan chứa nỗi buồn nặng trĩu.
Nếu hai câu thơ đầu là ngoại cảnh thì hai câu sau là nội tâm. Thi sĩ bộc lộ trực tiếp và sâu sắc nỗi lòng với quê
hương. Từ láy “dợn dợn” là sự sáng tạo riêng của Huy Cận tạo nên một hệ thống từ láy kép trong Tràng giang
diễn tả những xao động trong tâm can của con người khi đang day dứt, chạnh lòng nghĩ về quê hương. Để rồi
khi “vời trông con nước” mênh mông, con người đồng điệu với sự lẻ loi, chênh vênh ấy với nỗi lòng nao nao,
chao đảo không nơi bám víu. Văn hoá làng quê Việt Nam luôn gắn liền với dòng sông, mái nhà tranh, cây đa
bến nước… nhưng con nước bây giờ mênh mông, xa lạ, tách khỏi những gì quen thuộc. Con người cũng vậy, bị
bứt ra khỏi nền văn hoá của mình, đơn độc, chơi vơi. Trong không gian vô tận của nỗi sầu, tấm lòng thương nhớ
quê hương được bộc bạch khẳng khái thông qua cấu trúc câu phủ định nhằm khẳng định: “Không khói hoàng
hôn cũng nhớ nhà”. Hình ảnh “khói”, “sóng” trên sông đã từng xuất hiện trong tứ thơ cổ của thi nhân Thôi
Hiệu:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”
Thôi Hiệu đời Đường bên lầu hoàng hạc nhìn thấy khói sóng, bản làng trên sông lúc xế chiều mà thấy nhớ nhà.
Nhưng nay, Huy Cận không cần khói hoàng hôn, nghĩa là không cần sự tác động của ngoại cảnh mà niềm nhớ
nhà vẫn dâng trào, da diết đủ thấy tấm lòng của thi sĩ đối với quê hương vô cùng sâu sắc, mãnh liệt. Đó là ý
thức dân tộc, là thứ tình cảm luôn thường trực của cả một thế hệ thanh niên tiểu tư sản trước CM, tuy sống giữa
quê hương nhưng luôn cảm thấy tha hương, lưu lạc, bơ vơ như kiếp đi đày, như thiếu quê hương.
3. Tổng kết nghệ thuật
Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển và hiện đại hay cụ thể hơn là yếu tố Đường thi với yếu
tố thơ mới được thể hiện xuyên suốt bài thơ, ngay từ nhan đề, lời đề từ cho đến khổ thơ cuối cùng. Nhan đề sử
dụng từ Hán việt đã mở ra không gian cổ kính cho tác phẩm. Âm tiết mở "ang" gợi lên cảnh sông nước mênh
mông dài, rộng, không gian vô tận, vũ trụ bao la. Hình ảnh sóng gợn "tràng giang" vừa là một hình ảnh tiểu đối
đặc sắc vừa làm nổi bật cái nhỏ bé mơ hồ của sóng lẫn cái mênh mang của cảnh tràng giang. Đó là thủ pháp
dùng động tả tĩnh, dùng cái hữu hạn để tả cái vô cùng. Chất cổ điển và hiện đại đã được thể hiện ngay từ cách
đặt nhan đề ấy. Đặc biệt, ở lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài", nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ
thuật của tác giả được thể hiện một cách rõ nét. Hai từ láy "bâng khuâng" gợi lên một nỗi buồn man mác len lỏi
vào trong tâm hồn của con người. Với cách sử dụng biện pháp đảo trật tự cú pháp "bâng khuâng" lên đầu câu,
nhà thơ Huy Cận đã khiến người đọc vướng vào những nỗi niềm tâm sự không biết giãy bày cùng với ai. Từ đó,
bức tranh "Tràng giang" hiện lên với tất cả sự đối lập, tương phản giữa thiên nhiên, không gian vũ trụ bao la với
sự sống đơn lẻ, hiu quạnh, trôi trong vô định, tâm hồn lạc lõng, bơ vỡ giữa dòng.
Qua mỗi khổ thơ, nhà thơ Huy Cận đã vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu
tính tạo hình với hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm nhằm diễn tả sự nỗi sầu vô hạn của người thi sĩ khi đối
diện trước một không gian vô hạn, vô cùng. Những hình ảnh tả không gian “thuyền, nước, bèo, cầu, đò…”
thường được coi là chất liệu sáng tác của thi ca cổ điển nhưng qua cách dùng từ của Huy Cận nó đã mang âm
hưởng, hơi hướng của yếu tố hiện đại. Bởi tác giả đã gửi gắm vào là nỗi lòng thương cảm cho những thân phận
nổi trôi, cô đơn, bèo bọt của con người giữa dòng đời. Những hình ảnh mang tính tạo hình, biểu cảm như : "bờ
xanh tiếp bãi vàng", " mây cao đùn núi bạc", "chim nghiêng cánh nhỏ", “bóng chiều sa" gợi tả một bức tranh
thiên nhiên sắc nét, vừa động vừa tĩnh. Một hình ảnh "Tràng giang" mênh mông vô tận, hoang vu, lạnh lẽo, sự
mờ nhạt trong dấu vết của sự sống con người, của tình người rất mong manh đã được nhà thơ Huy Cận gửi gắm
qua cái nhìn lãng mạn của một hồn thơ thuỷ chung với cảm hứng vũ trụ, luôn khát khao hoà hợp cảm thông
trong tình yêu với đất nước, tình nhân loại. Từ thể thơ, đề tài, cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu, bút pháp, bài
thơ Tràng giang vừa mang một dấu ấn đặc trưng của "cái tôi" thơ mới vừa mang phong vị thi ca cổ điển. Tất cả
đã làm nổi bật nét đặc trưng trong phong cách của thơ Huy Cận.

III. Kết bài


“Tràng giang” là một bài thơ đặc sắc của Huy Cận nói riêng và phong trào Thơ mới nói chung. Bài thơ thể hiện
sâu sắc, tinh tế tâm trạng của cái tôi bơ vơ trước không gian bao la, rộng lớn và tấm lòng thiết tha của thi nhân
đối với quê hương đất nước. Người ta thường nói: “Lòng yêu nước là điểm níu giữ, là nơi neo đậu cho mọi cuộc
phiêu lưu trong cảm xúc của các nhà thơ mới”. Quả đúng như vậy, khi cảm nhận về “Tràng giang”, Xuân Diệu
đã từng khẳng định: “Tràng giang là một bài thơ ca hát với non sông đất nước, do đó nó đã dọn đường cho tình
yêu giang sơn Tổ quốc”.

Tài liệu nâng cao


CHẤT CỔ ĐIỂN VÀ HIỆN ĐẠI TRONG TRÀNG GIANG
1. Chất cổ điển
STT Biểu hiện Thể hiện trong đoạn trích
1 Đề tài Đây là đề tài quen thuộc của thi sĩ muôn đời, đặc biệt là thơ cổ
sông nước
2 Nhan đề Tràng giang là từ Hán Việt è sắc thái trang trọng, cổ kính è phảng phất phong vị Đường
thi.
3 Tứ thơ Mượn không gian hùng vĩ, đượm buồn khi chiều xuống, nhà thơ gửi gắm tâm sự của mình.
ð Không gian càng mênh mông, rợn ngợp, con người càng nhỏ bé, cô đơn; kiếp người lênh
đên giữa dòng đời không biết đi đâu về đâu.
ð Đây là tứ thơ quen thuộc trong thơ cổ.
4 Thể thơ + Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn: có khả năng bày tỏ suy tư, cảm xúc mênh mang
của con người.
+ Tác giả vận dụng tự nhiên, nhuần nhuyễn lối đối hài hòa của thơ cổ.
+ Cách ngắt nhịp truyền thống 2/2/3; 4/3 tạo sắc thái cổ kính, trang trọng.
5 Thi liệu Đọc bài thơ, ta bắt gặp nhiều hình ảnh quen thuộc trở di trở lại trong áng văn thơ cổ điển:
+ Dòng sông dài mênh mông vắt ngang bầu trời cao rộng; bến vắng cô liêu; con thuyền
lênh đênh xuôi ngược; cánh chim nhỏ chao nghiêng dưới ánh hoàng hôn…
+Hình ảnh thơ chia thành hai hệ thống đối lập: một bên là thiên nhiên rộng lớn cao rộng,
một bên là kiếp người bé nhỏ, cô đơn.
6 Bút pháp + Bút pháp họa vân hiển nguyệt của Đường thi: lấy động tả tĩnh, lấy cái vô hạn để tả cái
hữu hạn, lấy cái mênh mông rợn ngợp để tải cái bé nhỏ mong manh…
7 Các từ Từ “đìu hiu”… học từ bản dịch Chinh phụ ngâm:
ngữ học “Non Kì quạnh quẽ trăng treo
từ bản Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
dịch thơ
cổ
2. Các yếu tố hiện đại

STT Biểu hiện Biểu hiện trong đoạn thơ


1 Cách thể hiện trực Mỗi khổ thơ là một nỗi niềm của cái tôi cô đơn trước đất trời:
tiếp cái tôi lãng + Khổ 1: Cái rùng mình của thân phận trôi dạt trăm ngả trước lớp lớp sóng
mạn trước cuộc đời dồn.
+ Khổ 2: Nỗi ngậm ngùi trước sự sống nhỏ nhoi, mong manh trong âm
thanh của tiếng chợ chiều thưa thớt.
2 Nỗi buồn đặc trưng + Đây là nỗi buồn có nguyên cớ từ đặc điểm tâm hồn, đời sống xã hội bấy
của Thơ mới giờ. Đó là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn tất yếu khi nhà thơ đa sầu đa cảm ý
thức được thân phận và cảnh ngộ của đất nước.
+ Nỗi buồn theo quan điểm mỹ học của Thơ mới: Đẹp = buồn.
3 Bức tranh thiên Nếu cảm xúc trong bài thơ là cảm xúc của một cái tôi lãng mạn thì cảnh
nhiên được quan trong bài thơ được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn với cảm quan vũ trụ độc
sát dưới lăng kính đáo.
cảm hứng vũ trụ. + Không gian mở rộng dưới mọi chiều kích (điệp điệp, song song), (nắng
xuống, trời lên, sâu chót vót/ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu)
4 Thi liệu hiện đại - Nhà thơ đã làm mới những thi liệu xưa:
+ “thuyền về nước lại” :thuyền nước không gắn bó như thơ cổ mà tan tác,
chia lìa
- Thi liệu mới mẻ: củi một cành khô lạc mấy dòng.
Các chi tiết trong bức tranh thiên nhiên đậm chất đời thường, có tính chất
cá thể hóa.
5 Sử dụng thủ pháp “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” có hai cách hiểu, dù hiểu theo cách nào
phủ định để nhấn thì đều gợi sự liêu vắng, quạnh hiu
mạnh sự trống trải, “Không cầu”, “không đò”: Phủ định sự kết nối
lạnh lẽo
6 Kết cấu Sắp xếp các hình ảnh thơ, các cách diễn đạt… để tạo nên âm hưởng trôi xuôi
như có một con sông Tràng Giang trong âm điệu bài thơ.

You might also like