You are on page 1of 3

2 khổ cuối Tràng Giang

Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh).
Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi sầu
nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất cổ
điển và hiện đại, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải kể
đến “Tràng giang”. Bài thơ được ông sáng tác vào một chiều thu năm 1939‚ khi Huy
Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng ngắm cảnh. Chính cái không giang mênh
mông của sông Hồng và nghĩ về kiếp người nhỏ bé ‚ trôi nổi ‚ vô định đã gợi lên cảm
hứng sáng tác bài thơ này và được in trong tập “Lửa thiêng” (1940). Trong đó 2 khổ
cuối nói về cảnh bèo trôi ‚ hoang vắng và tâm sự nhớ quê của tác giả.

Nếu như những khổ thơ đầu, nhà thơ Huy Cận tập trung miêu tả khung cảnh
sông nước, mây trời rộng lớn, rợn ngợp thì ở hai khổ thơ cuối, nhà thơ đã trực tiếp
bộc lộ tâm trạng phiền não và những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, về kiếp người:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh "bèo dạt" không chỉ mang ý nghĩa tả thực về cảnh vật mà nhà thơ bắt
gặp trên sông mà còn gợi ra sự nhỏ bé, trôi nổi lênh đênh của những kiếp người giữa
cuộc đời rộng lớn. Sông nước mênh mông, rộng lớn nhưng buồn vắng đến cùng cực
"Mênh mông không một chuyến đò ngang", dù cố gắng tìm kiếm nhưng nhà thơ
không tìm thấy dù một "chút niềm thân mật". Câu thơ "Không cầu gợi chút niềm thân
mật" tựa như một tiếng thở dài đầy bất lực của nhà thơ khi chẳng thể tìm kiếm được
một chút hơi ấm của con người, của sự sống. Điệp từ "không" đã cực tả sự vắng lặng
của không gian, nó phủ định tất cả những gì gắn kết giữa con người và thiên nhiên
sông nước, không có con đò, không cầu, không chút niềm thân mật. Tất cả mở ra
trước mắt của nhà thơ chỉ có sự rộng lớn, hoang vắng đến rợn ngợp. Từ láy "lặng lẽ"
cực tả sự vắng lặng đồng thời cũng gợi ra sự tồn tại nhạt nhòa, không mang đến ấn
tượng sâu đậm của "bờ xanh", "bãi vàng". Sự xuất hiện của bờ, bãi hai bên sông cùng
những hình ảnh gợi liên tưởng đến sự sống xanh, vàng vẫn không đủ để làm cho bức
tranh sông nước bớt đi phần hiu quạnh, trống vắng bởi bờ xanh, bãi vàng chỉ là những
cảnh vật vô tri, nó không "chút thân mật", giao hòa gì với nhau. Và cũng bởi lẽ, khi
con người mang nỗi sầu muộn thì cảnh vật cũng trở nên ảm đạm, đìu hiu hơn giống
như nhà thơ Nguyễn Du từng nói:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"
Giữa trời đất rộng lớn, mênh mông nhưng nhà thơ Huy Cận lại không tìm được
một tiếng nói đồng cảm, tri âm, không có một ai có thể thấu hiểu được tâm trạng và
những nỗi buồn đang giăng kín trong tâm hồn nhà thơ. Nỗi phiền muộn, u sầu không
thể giãi bày, chỉ có thể tự mình giữ lấy nên nó càng nhức nhối, khắc khoải. Kết thúc
bài thơ, Huy Cận vẽ nên cảnh hoàng hôn về trên vùng sông nước. Nỗi cô đơn vẫn còn
tiếp nối và trải ra cùng những con sóng, lênh đênh theo những con thuyền, theo cành
củi lạc loài, theo những cánh bèo trôi nổi và cho đến cuối cùng, lại kết thụ ở đoạn thơ
cuối:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Trong khổ thơ cuối bài “Tràng giang”, ta thấy Huy Cận chia đôi khổ thơ làm
hai phần rõ rệt. Hai câu thơ trên gợi cảnh trời rộng bao la, hai câu cuối thì miêu tả
cảnh sông dài. Mà song hành cùng với trời rộng, sông dài là nỗi cô đơn u sầu, là niềm
nhớ, nỗi hoài hương da diết của thi nhân, đặc biệt là vào lúc hoàng hôn đang buông
khép lại một ngày.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”
Không thể tìm thấy một chút giao cảm từ khung cảnh sông nước, nhà thơ Huy
Cận hướng sự chú ý của mình đến không gian rộng lớn, khoáng đạt của hoàng hôn.
Từ láy "lớp lớp" gợi liên tưởng đến rất nhiều sự vật chất chồng lên nhau. "Lớp lớp
mây cao đùn núi bạc" mở ra khung cảnh huy hoàng, tráng lệ với những đám mây bàng
đan xen, xếp chồng lên nhau. Động từ "đùn" gợi ra sự tiếp diễn, dâng lên ngày càng
mạnh mẽ. Chúng ta cũng từng bắt gặp trong thơ Nguyễn Trãi:
"Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương"
Câu thơ "Lớp lớp mây cao đùn núi bạc " thật đẹp nhưng cũng thật buồn bởi nó
càng tô đậm thêm sự trống trải, hoang vắng. Hình ảnh những đám mây lớp lớp còn
gợi ra những cảm xúc bộn bề cứ khoắc khoải, xếp chồng lên nhau. Sự xuất hiện của
hình ảnh cánh chim trong "bóng chiều xa" càng tô đậm nỗi trống vắng, cô đơn trong
tâm hồn của nhà thơ. Giữa khung cảnh hùng vĩ, huy hoàng của những đám mây bàng
bạc, cánh chim càng trở nên nhỏ bé, nó cũng giống với tâm trạng cô đơn, lạc lõng của
nhà thơ giữa cuộc đời rộng lớn.
"Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"
Từ láy "dợn dợn" là sáng tạo đặc biệt của nhà thơ Huy Cận, khi được hô ứng
với "vời con nước" đã khắc họa sống động nỗi niềm bâng khuâng, cô quạnh của một
con người đang nhớ về quê hương. Khói hoàng hôn trong thơ ca cổ điển thường là
dấu hiệu gợi nhắc con người ta nhớ về quê hương, trong thơ Thôi Hiệu có viết:
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu".
Thế nhưng, nếu những thi nhân xưa nhìn khói trên sông nhớ về quê nhà thì nỗi
nhớ của Huy Cận da diết, khắc khoải hơn, nhà thơ không nhìn khói hoàng hôn vẫn
nhớ nhà. Có lẽ rằng nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng nhà thơ nên dù không có
"chất xúc tác", nhà thơ vẫn khôn nguôi một tấm lòng quê.
Hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang không chỉ mở ra trước mắt chúng ta
khung cảnh sông nước mênh mông, rợn ngợp mà còn bộc lộ nỗi lòng sầu muộn của
người thi nhân. Hai khổ thơ gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn man mác, thế
nhưng nỗi buồn ấy cũng thật đẹp bởi đó đều là những cảm xúc quen thuộc, có phần
mơ hồ mà chúng ta vẫn thường trải qua, thế nhưng qua ngòi bút của Huy Cận nó lại
thật thơ, thật da diết. Như nhà phê bình Hoài Thanh cũng từng nhận định: "Huy Cận
lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời
sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc
thành bao châu ngọc".

You might also like