You are on page 1of 6

Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đến những nơi

yên tĩnh để lắng đọng tâm hồn. Những lúc ấy người ta cảm thấy mình bé nhỏ
trước không gian mênh mông, vũ trụ rộng lớn. Rồi chợt họ nhận ra kiếp người
sao quá ngắn ngủi, đời người thật phù du và con người nhỏ bé trước vạn vật.
Đọc “Tràng giang" của Huy Cận cảm xúc trong tôi dâng lên nỗi buồn cô quạnh
khi nghĩ về những kiếp người trôi nổi, lênh đênh.

Bài thơ “Tràng giang” ra đời vào năm 1939 khi hồn thơ của Huy Cận
mang nét u sầu, chất chứa nhiều phiền muộn, tâm tư. Chính vì thế mà những từ
ngữ trong bài phản ánh trực tiếp cái sầu của thi sĩ trước thời cuộc và những suy
nghĩ của tác giả trên hành trình đi tìm “Thơ mới”.

Tên tác phẩm “Tràng giang" đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ về con sông
dài, mênh mông. Tựa đề cũng tạo cảm giác hoài cổ khi thi sĩ sử dụng một loạt từ
Hán Việt. Đã có rất nhiều người thử thay thế tên tác phẩm “Tràng giang" thành
“Trường giang" nhưng riêng tôi cho rằng cái tên vốn có của nó vẫn chính xác
nhất vì khi dùng “Trường giang" chỉ mới diễn tả được độ dài của con sông mà
thôi. Thế nhưng khi thay bằng “Tràng giang" con sông không chỉ dài mà còn
rộng. Sông trở nên mênh mông, bát ngát hơn từ đó nói lên được ý đồ của tác giả
trong sự đối lập giữa thiên nhiên rộng lớn và con người bé nhỏ. Câu đề từ tiếp
tục khẳng định về một con sông rộng lớn “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài".
Nhưng cảm giác mang lại là sự lưu luyến, nhớ thương về một con sông trong
quá khứ.

Khổ thơ đầu tiên không chỉ mang đến bức tranh buồn, cô đơn mà thiên
nhiên còn gợi cảnh chia li, tách rời

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả


Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Với những câu thơ đầu tiên, tác giả sử dụng nhiều hình ảnh như sóng, con
thuyền, củi. Sóng đi liền với động từ “gợn" - dịch chuyển nhẹ nhàng, lăn tăn lan
xa. Chỉ với một nét gợn nhẹ ấy cũng đủ làm cho nhân vật trữ tình trở nên buồn
bã. Từ láy “điệp điệp" diễn tả nỗi buồn chồng chất, nối tiếp nhau. Nỗi buồn
không chỉ dâng lên một lúc mà nó còn kéo dài mãi, miên man không dứt. Trên
những gợn sóng ấy xuất hiện “con thuyền xuôi mái" – cô đơn, lạc lõng, bơ vơ.
Không nghe thấy tiếng mái chèo tạo nên tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền chỉ thấy
một con thuyền buông xuôi, lênh đênh mặc cho nước xuôi dòng. Câu thơ còn
độc đáo trong việc khắc họa sự tách rời giữa thuyền và nước. Thiên nhiên không
chỉ gợi buồn mà khung cảnh chia lìa cũng thấy rõ.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả" là câu thơ có thể hiểu nhiều cách. Thứ
nhất có thể hiểu là khi thuyền về nỗi sầu của nước lại nhân lên gấp bội. Cách
thứ hai chỉ rõ hơn về sự chia cắt khi thuyền và nước đi ngược chiều nhau. Lúc
thuyền về lại chốn cũ cũng là lúc nước ở lại với dòng sông cùng nỗi sầu, nhưng
nỗi sầu này không chỉ đi theo nước một nơi mà là nhiều chốn khác nhau. Phép
đối đã được sử dụng thành công để nói về sự chia cách này. Khép lại khổ một
Huy Cận mang đến một hình ảnh đậm nét cô đơn - “củi". Tính chất của hình
ảnh này là “khô" – héo úa, không còn sự sống cùng với phép đối giữa “một cành
khô" – “mấy dòng” càng nhấn mạnh hơn sự chiếc bóng, lẻ loi của củi trên hành
trình của mình. Động từ “lạc" đã nói lên được sự bấp bênh, lênh đênh của sự vật
nhưng tác giả dùng “lạc mấy dòng" thì càng làm rõ hơn sự gian nan, “bảy nổi ba
chìm" của củi. Chỉ với khổ một nhưng tâm trạng mang lại đã buồn bã, u sầu đến
vậy.

Tác giả bắt đầu với khổ thơ đầu tiên trong phạm vi hẹp. Đến với khổ thơ
tiếp theo, không gian bây giờ đã được mở rộng hơn.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu


Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu.”

Hình ảnh “cồn nhỏ" gợi lên không gian vắng lặng, trơ trọi. Tính từ “nhỏ"
làm cho hình ảnh này càng bé nhỏ, chơ vơ kết hợp với từ láy “Lơ thơ" gợi cảm
giác ít ỏi diễn tả bức tranh thiếu sức sống trên cồn cát. Không gian trên cồn
không chỉ buồn mà còn hiu hắt. Đến gió cũng mang cái “đìu hiu" buồn bã, thê
lương như nhấn khung cảnh vào nỗi u sầu. Các câu thơ mà tác giả sử dụng trong
bài đôi khi được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ
chiều" có thể hiểu là một câu hỏi tu từ về vị trí của “tiếng làng xa", trông ngóng
về tiếng họp buổi chiều tà. Tuy nhiên “đâu" cũng là một từ mang nghĩa phủ
định, tức là đến cả tiếng nói cũng những người họp chợ nhà thơ cũng không hề
nghe thấy. Tất cả chỉ còn lại một không gian tĩnh lặng đến lạnh lùng.

Không gian trong khổ thơ thứ hai vừa mở rộng về chiều cao và dài nhưng
đồng thời cũng mở rộng cả chiều sâu vũ trụ. Thủ pháp nghệ thuật tương phản
“Nắng xuống trời lên" đã giúp không gian mở rộng theo chiều cao. Nắng chiếu
xuống tới đâu thì bầu trời càng được đẩy cao tới đó. Chốt lại câu thơ tác giả sử
dụng “sâu chót vót" không những gợi được cái thăm thẳm, hun hút mà còn giúp
cho vũ trụ được kéo dài ra nhấn mạnh hơn sự nhỏ bé của con người trước thiên
hà. Câu thơ cuối cùng của khổ chính là bức tranh thiên nhiên rộng lớn, bát ngát
với “sông dài trời rộng". Trên nền không gian ấy xuất hiện “bến cô liêu". Hình
ảnh này không chỉ lột tả được cái nhỏ nhoi, đơn độc mà “cô liêu" còn là sự
quạnh quẽ, lanh lẽo, chơ vơ. Nghệ thuật tương phản giữa hình ảnh bé nhỏ với
không gian rộng lớn càng tô đậm hơn sự u sầu, buồn bã của tác giả khi nghĩ về
kiếp người trôi nổi, long đong.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng


Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

“Bèo" – sinh vật phù du mang trong mình kiếp sống trôi nổi, bấp bênh, đã
vậy còn kết hợp với động từ “dạt" làm rõ hơn sự chìm nổi của sinh vật này.
“Đâu" từ hỏi về nơi chốn của “bèo". Hình ảnh bèo lạc lõng, bơ vơ, không điểm
tựa không nơi bám vía. “Hàng nối hàng" như khắc họa rõ hơn về số phận của
loài sinh vật này. Đọc câu thơ ta có thể liên tưởng về những kiếp người nổi trôi,
không có nơi nương tựa. Và trong không gian “mênh mông" đó, tác giả mong
ngóng có thể nhìn thấy chuyến đò để cảm nhận được sự sống nhưng dường như
không có tín hiệu đáp lại sự mong chờ ấy. “Không một chuyến đò" cũng đồng
nghĩa không có hoạt động của con người, điều này càng làm cho nỗi cô đơn
dâng lên. Trong khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định nhằm khắc họa sự
cô đơn trống vắng của lòng người. Tiếp sau “không đò” là “không cầu". Chiếc
cầu vốn là hình ảnh đặc trưng của miền quê, mang nét giản dị, thân mật. Nhưng
vì hình ảnh này không có nên có thể thấy thiếu vắng cảm giác quê hương. Câu
thơ cuối tác giả sử dụng màu xanh và vàng nhằm vẽ nên bức tranh tươi sáng
hơn nhưng từ láy “lặng lẽ” đã dìm màu sắc này xuống. Hai hình ảnh “bờ xanh”,
“bãi vàng” không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này
được đưa lên đầu như sự nối tiếp của nỗi cô đơn từ vật này sang vật khác.

Trong ba khổ thơ đầu, tác giả chỉ miêu tả về thiên nhiên thì khổ thơ cuối
cùng thi sĩ đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nước của mình

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh mỏi bóng chiều xa

Lòng quê dợn dợn vời con nước


Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Chỉ với 4 câu thơ nhưng nhà thơ đã cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa cổ
điển và hiện đại. Từ láy hoàn toàn “lớp lớp” diễn tả sự chồng chất, nối tiếp
nhau. Câu thơ đầu tiên khắc họa những đám mây từng lớp đùn lên thành những
dãy núi bạc. Đến đây, ta chợt nhớ tới chữ “đùn” trong bài “Thu hứng” của Đỗ
Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Nếu như với Đỗ Phủ câu thơ trên là hình ảnh mây trắng sà xuống thấp tới
mức tưởng như đùn từ mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Thì trong câu
thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” lại mang tới hình ảnh nhiều lớp mây chồng
chất lên nhau giống như nỗi sầu của thi nhân đã thấm sâu vào cảnh vật, nó chất
chứa trong tâm hồn ông giống như tầng tầng lớp lớp mây kia chất chồng thành
núi bạc vậy. Câu thơ tiếp theo tác giả sử dụng thủ pháp cổ điển để nói về tình
cảnh lẻ loi đơn độc của cánh chim trước “bóng chiều sa”. Hình ảnh “chim
nghiêng cánh nhỏ” không chỉ gợi sự đơn độc mà “nghiêng” còn nói tới trạng
thái mất cân bằng, không rõ nơi trú của mình là đâu, hình ảnh này càng làm nổi
bật hơn sự lận đận của kiếp người trước thiên nhiên. Trong không gian buồn ấy,
thi sĩ bỗng nhớ về quê hương

“Lòng quê dợn dợn vời con nước”

“Dợn dợn" là gợi lên, dấy lên, có những cảm xúc khó nói. Chỉ cần nhìn
thấy “con nước” là lòng thi sĩ là nhớ về quê hương – nỗi nhớ thường trực. Nếu
như ở các câu thơ trên phải có một hình ảnh, chi tiết nào về cố hương thì thi sĩ
mới bộ lộ cảm xúc của mình còn trong câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn
cũng nhớ nhà" thì không cần bất cứ sự vật nào nỗi nhớ ấy vẫn cứ ùa về. Trong
thơ Đường hơn nghìn năm trước cũng từng có tác phẩm nói về nỗi nhớ quê
hương
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trêm sông khói sóng cho buồn lòng ai)

(Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu)

Nhưng Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng liền nhớ về quê nhà của mình còn
Huy Cận không cần thấy gì nỗi nhớ ấy vẫn dấy lên. Nếu như Thôi Hiệu đứng
trên xứ người lòng khắc khoải hướng về cố hương thì Huy Cận lại đặc biệt hơn
khi chính ông đang đứng trên mảnh đất của mình nhưng lòng buồn bã, bâng
khuâng khôn nguôi.

Như vậy, bằng cách kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Đường thi và yếu
tố Thơ mới, cùng với việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật như từ láy, biện
pháp tương phản,… nhà thơ Huy Cận đã giúp người đọc cảm nhận về một bức
tranh thiên nhiên mênh mông. Ở đó con người có thể cảm thấy sự bé nhỏ của
mình trước không gian, kiếp người ngắn ngủi trước vũ trụ. “Tràng giang” còn là
tiếng lòng của một người con yêu quê hương, đất nước sâu nặng.

You might also like