You are on page 1of 5

TRÀNG GIANG

Những dòng sông hiền hòa, thơ mộng hay hùng vĩ, mênh mang, chắt chiu phù sa nuôi bến
bờ xứ sở. Những dòng sông tắm mát, vỗ về, an ủi, nâng đỡ tâm hồn bằng cái bao dung mở
lòng ngọt ngào của nước. Và rồi, sông nuôi nấng tâm hồn thi sĩ. Sông dạo những bản tình
ca êm đềm, những khúc nhạc mạnh mẽ kiêu hùng. Biết ơn những dòng sông để từ đó
Trương Hán Siêu viết “Bạch đằng giang phú”, để Văn Cao làm “Trường ca sông Lô”. Và
để một chiều thu đã xa, Huy Cận đạp xe đến bờ nam bến Chèm, ngắm nhìn dòng sông
miên man nước chảy mà thấy “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” và rồi vẽ nên một
bức tranh quấn quyện, hài hòa giữa phong vị cổ điển và hiện đại của “Tràng giang”.

Tràng giang được xem là một nốt nhạc buồn trong bản giao hưởng đa sầu đa cảm của Lửa
thiêng. Bài thơ được Huy Cận viết vào tháng 9 năm 1939. Khi đó, chàng sinh viên 20 tuổi
Huy Cận đang học trường Cao đẳng Canh nông. Vào những buổi chiều, Huy Cận thường
đạp xe ra bến Chèm nhìn song Hồng cuồn cuộn chảy, nỗi buồn không vơi mà kết tinh lại
thành cảm xúc trào dâng. Mang nỗi buồn u hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ
điển lại vừa đượm nét hiện đại, làm rung động bao con tim của thế hệ bạn đọc.

Ngay khi đọc tên bài thơ "Tràng giang" người ta có thể hình dung được tư tưởng và tâm tư
thi nhân đã gửi gắm vào trong đó. Tiêu đề gợi ra một con sông dài, mênh mông, bát ngát.
Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi, u sầu. Lời
đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã mở rộng ra trước mắt chúng ta một không
gian rộng lớn “trời rộng, sông dài”, trước cảnh mênh mông, bát ngát của thiên nhiên ấy,
lòng người như dấy lên một nỗi buồn da diết “bâng khuâng ”, mông lung, mơ hồ, không
thể gọi tên. Câu đề từ tựa một bức rèm hé mở mang ta vào với vô tận, mà người đọc cần
vén lên; hoặc như một hành lang mở thông vào vô biên, mà người đọc cần dấn bước.

Khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con sông buồn, chất chứa những nỗi niềm
khó tả:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp


Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được khắc họa rõ nét ở ngay 4 câu thơ đầu tiên. Hai từ láy
“điệp điệp”, “song song” mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi, gợi cho ta sự liên
tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan ra, gối lên nhau, để rồi dòng nước cuốn thật ra,
miên man miên man. Trên dòng sông gợn sóng “điệp điệp”, nước “song song” ấy là một
“con thuyền xuôi mái” lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ
thấy vẻ lặng lờ, mênh mông của thiên nhiên, một “tràng giang” bao la đến nhường nào?

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả


Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong
lòng. Hai câu thơ kết hợp làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn theo
chiều dài. Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi chia ly qua câu thơ thứ ba. "Thuyền" và "nước"
vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau nhưng qua con mắt của nhân vật trữ
tình thì lúc này hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa. “Thuyền về, nước lại”,
hai thế đối lập gợi ra cái vô lý nhưng xét ở bề sâu, bề xa, ta càng hiểu được hơn nỗi lòng
của người lữ khách miền sông nước. Nhìn “Con thuyền xuôi mái” ta lại nhớ tới hình ảnh
của những kiếp người trôi nổi, lạc lõng không biết đi đâu. Phải chăng sự mặc cảm chia lìa
trong cảm nhận của Huy Cận khi đứng trước sông dài trời rộng đã khiến ông mang một
nỗi buồn vô hạn “sầu trăm ngả” ? Tâm hồn người thi sĩ như bộc lộ hết ở “củi một cành
khô lạc mấy dòng”. Với biện pháp đảo ngữ cùng số từ “một” và cách ngắt nhịp 1/3/3, hình
ảnh " củi một cành khô" đã phần nào nói lên tâm trạng thi sĩ - một con người tài hoa
nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc sống bộn bề, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu, thiếu sức sống.

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu


Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

Thi nhân thật khéo léo khi sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để miêu tả cảnh
hoang vu, vắng vẻ hai bên bờ sông: "Lơ thơ" - thưa thớt, ít ỏi, " đìu hiu" - vắng lặng, ít
người. Trên "cồn nhỏ" làn gió phảng phất không khí buồn, ảm đạm của chốn ít người,
thiếu sức sống, u sầu đến nỗi không nghe thấy tiếng ồn ào của phiên chợ chiều. "Đâu"
diễn tả cảm giác mơ hồ, không xác định được điểm tựa để bám víu. Chỉ qua vài nét chấm
phá bức tranh quê đã hiện lên một cách thê lương, thiếu sức sống. Hai câu thơ tiếp, tác giả
mở rộng tầm nhìn ra qua "nắng xuống" - "trời lên, không gian mở rộng về chiều cao, có
một khoảng không gian đang giãn nở ra ở giữa. Hai động từ ngược hướng "lên" và
"xuống" mang lại cảm giác chuyển động. Nắng càng xuống thì bầu trời càng được kéo cao
hơn. Và điểm nhấn chính là "sâu chót vót". Chính cách dùng từ ngữ đặc sắc của Huy Cận
đã gợi ra khoảng không vũ trụ sâu thăm thẳm, đó cũng là lúc nỗi buồn, cô đơn của nhà thơ
dâng lên cao, trở nên vô cùng vô tận. Một góc nhìn đầy thú vị, mới mẻ. Câu thơ cuối cùng
thi sĩ dùng không gian rộng để nói về nỗi cô đơn, vắng vẻ. "Bến cô liêu" - buồn, thưa thớt
trơ trọi giữa không gian rộng lớn của sông, trời. Toàn cảnh khổ hai là một màu cô đơn,
vắng vẻ, đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhấn mạnh
hơn nỗi u sầu vạn cổ.

"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng


Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Hình ảnh trong khổ thơ thứ ba đã bước đầu có chuyển động với động từ "dạt”, hình ảnh
bèo được xem là thi liệu quen thuộc trong thơ ca truyền thống của dân tộc ta, tượng trưng
cho sự bấp bênh, chìm nổi, không có nơi ở ổn định. Đã thế cụm từ "hàng nối hàng" càng
diễn tả sự vô định, chông chênh khi hàng này đến hàng khác "nối đuôi" nhau. Không gian
đối lập với thực tại của cảnh vật. Tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy chuyến đò để cảm
nhận được sự sống. Nhưng đáp lại chỉ là "không một chuyến đò ngang". Với câu thơ cuối
của khổ tác giả sử dụng nhiều màu sắc để chấm phá cho bức tranh. "Bờ xanh tiếp bãi
vàng" - sắc tranh tươi sáng, nổi bật nhưng đi kèm với từ láy "lặng lẽ" làm chìm màu sắc
này xuống. Giờ đây hai hình ảnh này chẳng còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của
nó, không khí cũng đìu hiu "lây lan" từ vật này sang vật khác. Tất cả sự vật đều nhấn chìm
trong cô độc.

Nếu như ba khổ thơ đầu tiên là bức tranh thiên nhiên buồn, vắng lặng thì khổ thơ cuối
cùng chính là tâm tư, tấm lòng của thi sĩ
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

Từ láy “lớp lớp” như mở ra bầu trời chiều thu rộng lớn và bừng sáng, những đám mây
trắng “đùn” lên lớp được ánh dương thổi chiều tà, soi lấp lánh như núi bạc, đẹp đến lạ
thường. Hình ảnh "chim nghiêng cánh nhỏ" gợi cảm giác nhỏ bé, bơ vơ. " Trên nền bóng
chiều rộng lớn là hình ảnh cánh chim nhỏ lo âu “nghiêng cánh nhỏ” trên “bóng chiều sa”,
mơ hồ cho con đường tìm nơi trú của mình. Nghệ thuật tương phản giữa không gian, vũ
trụ mênh mông, rộng lớm với cánh chim chìm chiều nhỏ nhoi, lẻ bóng đã khơi nên một
nỗi sầu, nỗi cô đơn thấm vào lòng người : sự sống thì quá nhỏ nhoi, nhưng cái cô đơn thì
lại quá khổng lồ. Tuy nhiên, nét đặc sắc lại nằm ở hai câu thơ cuối cùng. Hơn nghìn năm
trước, Thôi Hiệu cũng từng chạnh lòng nhớ quê mà thốt lên rằng:

"Nhật mộ hương quan hà xứ thị


Yên ba giang thượng sử nhân sầu."

Nếu Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn mà nhớ thì Huy Cận buồn mà không cần
ngoại cảnh. Nỗi buồn của Huy Cận là nỗi sầu nhân thế, nỗi sầu trước thời cuộc. Thế mới
biết được tấm lòng yêu quê hương đến nhường nào của thi nhân hôm nay.

Đặc sắc nghệ thuật trong "Tràng giang" trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa yếu tố Cổ điển và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt
cùng với đó là đề tài thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh
mông mang đậm yếu tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được thể hiện thông qua cái tôi giàu
cảm xúc, hình ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy, phép đối
cũng góp phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ rộng lớn.

Còn nhớ, nhà phê bình Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Đời chúng ta nằm trong một vòng
chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, càng đi sâu ta càng lạnh, ta thoát lên tiên cùng Thế
Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền,
điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Nếu Xuân Diệu gắn liền với đắm say với thiết tha, rạo rực thì nhà thơ Huy Cận lại gắn liền
với nỗi sầu vạn kỷ mênh mang, đa sầu, đa cảm. Bài thơ “Tràng giang” là bài thơ tiêu biểu
cho hồn thơ và tình thơ Huy Cận. Ở đó ta thấy một bức tranh thiên nhiên mênh mông
vương màu buồn thương, hiu quạnh của một cái tôi mang nỗi sầu vạn kỉ của thi nhân.

You might also like