You are on page 1of 4

Huy Cận - một nhà thơ lớn của phong trào thơ Mới giai đoạn 1932 – 1945.

Là một tri thức Tây học song


lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho học nên thơ ông vừa phảng phất màu sắc Đường thi, vừa mang hình
ảnh con người cá nhân ảo não, cô đơn của văn học lãng mạn. Thi phẩm được trích từ tập “Lửa thiêng”
(1940), ngay từ đầu bài thơ Huy Cận đã đưa chúng ta đến với một nét đẹp cổ điển mà ít ai có, chỉ khi đến
với Hay Cận chúng ta mới cảm nhận được. Đó là cách đặt tên nhan đề bài thơ, “Tràng Giang” là sông lớn,
sông dài, mênh mông và bát ngát. Nhưng tại sao ở đây tác giả không dùng “Trường Giang” mà lại là
“Tràng Giang”? Hai chữ “Tràng giang” đều là tiếng Hán cổ, ngay từ nhan đề đã mang đậm màu sắc
Đường thi. “Tràng” là biến âm của từ “Trường”, Huy Cận không gọi là “Trường giang” vì nó trùng với tên
một con sông của Trung Hoa, khác với mục đích mà nhà thơ muốn hướng tới. Điệp vần “ang” vừa mở ra
một bề dài rộng mênh mang cho dòng sông, vừa tạo dư ba cho nỗi buồn bâng khuâng man mác của thi
nhân. Dòng sông như được nới rộng tới vô cùng vô tận, giờ đây nó không chỉ là một dòng sông đơn
thuần mà còn là dòng đời, là dòng chảy thời gian viên mãn, xa xăm của Đường thi vọng về thực tại.
Nhưng rồi con đường về quá khứ đi càng xa, càng cô tịch, tứ bề càng vắng lặng, càng mênh mông.
Nhưng chính tràng giang này cũng gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới những
thân phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên con sông dài tâm tưởng và sông của nỗi u uất như thế.

Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” cũng đã mở rộng ra trước mắt chúng ta một không
gian rộng lớn “trời rộng, sông dài”, một nỗi buồn da diết “bâng khuâng ”, mông lung, mơ hồ, không thể
gọi tên. Một lần nữa lời đề từ lại khái quát nên chủ đề của bài thơ chính là nỗi niềm không biết bày tỏ
cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh mông và bao la. Đó chính là cảm hứng chủ đạo của toàn bài thơ và
cũng đồng thời tô đậm nét riêng trong hồn thơ Huy Cận trước năm 1945: nỗi buồn, nỗi sầu vạn kỉ trước
không gian bao la không cùng của thiên nhiên và vũ trụ.

Mở đầu bài thơ, Huy Cận đã đưa người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nhiêu là nỗi
buồn sâu thẳm:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô, lạc mấy dòng.

Mở đầu bằng hình ảnh sông nước mênh mông của “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Tràng giang
dài rộng đang trải ra từng đợt sóng điệp điệp không dứt. Với tài năng của mình, tác giả khéo léo sử dụng
âm Hán Việt “ang” cho danh từ “tràng giang” đã gợi ra một không gian rộng lớn, rờn ngợp. Đây cũng là
một trong những phong cách làm thơ rất nổi bật của Huy Cận. Ông đã sử dụng nhịp thơ 4/3, đó là một
cách ngắt nhịp quen thuộc của Đường thi. Động từ “gợn” đã diễn tả làn sóng nhẹ nhàng có vẻ mong
manh, mơ màng nhưng lại lan mãi không thôi. Nỗi buồn trải ra cùng các gợn sóng, bao nhiêu gợn sóng là
có bấy nhiêu nỗi buồn. Với phép điệp ngữ “buồn điệp điệp”, đã gợi ra cho người đọc 2 cách hiểu. Cách
hiểu thứ nhất là Sóng điệp điệp gối lên nhau mòn mỏi không dứt, những con sóng ấy hết lớp này đến lớp
khác triền miên, vô tận. Còn cách hiểu thứ hai là Nỗi buồn vì nhìn dòng sông mà gợn sóng lòng. Đây
chính là một sự sáng tạo độc đáo, mới mẻ bởi từ láy “điệp điệp” thường chỉ để miểu tả hình ảnh núi
sông kì vĩ, bao la, rộng lớn thì nay Huy Cận lại dùng nó để miêu tả nỗi buồn. Ở đây nhà thơ miêu tả cái
buồn của thiên nhiên hay cái buồn của con người, có lẽ là cả hai bởi Nguyễn Du từng viết.
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Dường như nỗi buồn của tâm cảnh đã nhuộm vào ngoại cảnh để rồi những nỗi buồn ấy gợi lên theo từng
đợt trong lòng thi nhân. Không chỉ từ láy nguyên "điệp điệp" mà còn từ "song song" ở cuối câu thơ cũng
mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi
liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào,
miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi
mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông
của thiên nhiên, một dòng "Tràng giang " dài và rộng bao la không biết đến nhường nào. Dòng sông thì
bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng. Hai câu thơ kết hợp làm
cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi chia ly
qua câu thơ thứ ba. "Thuyền" và "nước" vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau nhưng qua
con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa. Nhưng với
Huy Cận thì “thuyền về, nước lại”. Hai thế đối lập gợi ra cái vô lí trong logic nhưng thực chất, xét ở bề
sâu, bề sâu, bề xa, ta càng hiểu được hơn nỗi lòng của người lữ khách miền sông nước. Thuyền là hiện
diện của sự sống con người, nhưng đó chỉ là sự xuất hiện thoáng qua trong giây lát, “con thuyền xuôi
mái” là hình ảnh thực nhưng cũng đầy chất suy tưởng nó gợi cho ta nhớ tới hình ảnh của những kiếp
người trôi nổi, lạc lõng không biết đi đâu.

Phải chăng đó là mặc cảm chia lìa trong cảm nhận của Huy Cận khi đứng trước sông dài trời rộng?
Cũng như Hàn Mặc Tử khi còn nằm trên giường bệnh, nhìn ra xa mà thấy “Gió theo lối gió, mây đường
mây”. Đó là nỗi buồn đầy ám ảnh trong mặc cảm chia li. Thế nên Huy Cận “sầu trăm ngả”,đó là một nỗi
buồn, sự u hoài, buồn bã càng ngày càng dâng lên. Với câu thơ thứ tư tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ
"củi một cành khô" để nói về sự cô đơn, trơ trọi của "củi". Số từ "một" chỉ một mình, cô đơn cùng với
tính từ "khô" - hết nhựa sống, càng làm cho hình ảnh khô héo hơn. Tác giả thật tài tình khi đã sử dụng
nghệ thuật đối "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông. "Lạc mấy dòng"
không chỉ diễn tả nỗi niềm cô đơn của củi mà còn nói đến sự bấp bênh, trôi nổi khi "lạc" hết dòng sông
này đến dòng sông khác. Nét độc đáo của câu thơ không chỉ là phép đối mà còn ở cách ngắt nhịp 1/3/3.
Với cách ngắt nhịp ấy "củi" xuất hiện "độc lập" và điều đó càng làm rõ hơn tình cảnh lẻ loi của sự vật này.
Có thể nói, hình ảnh " củi một cành khô" đã phần nào nói lên tâm trạng thi sĩ - một con người tài hoa
nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc sống bộn bề. Như vậy, Toàn bộ nỗi lòng của nhà thơ cuối cùng được
kết đọng cả trong hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Thơ ca từ cổ chí kim, nỗi buồn được cắt
nghĩa dưới vô vàn hình hài góc cạnh khác nhau. Có cái nỗi buồn khi thấy “cây ngô đồng, vàng rơi vàng rơi
thu mênh mông” (Bích Khê), có cái nỗi buồn trước “rặng liễu đìu hiu” (Xuân Diệu), lại có cái buồn khi
nghe thấy tiếng gà gáy não nùng trong thơ Lưu Trọng Lư. Nhưng có lẽ, buồn trước một cành củi khô thì
chưa bao giờ xuất hiện trong kho tàng văn học Việt Nam. Củi chỉ những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh,
cũng trôi lênh đênh vô định trong dòng chảy của cuộc đời. Vậy nên, “củi một cành khô lạc mấy dòng” là
điều không thể tránh khỏi.

Tiếp đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bội:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều


Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Với tài năng cùng ngòi bút khéo léo, Huy Cận đã gây ấn tượng trong lòng độc giả là phép đảo ngữ. Từ
láy “lơ thơ” được đặt lên đầu câu, gợi sự vắng vẻ, ít ỏi và thưa thớt. Lác đác trên dòng tràng giang mênh
mông chỉ có vài cồn nhỏ nhưng vẫn là cái cảm giác thiếu sự sống xuất hiện từ đầu bài thơ đến giờ. Bức
tranh thiên nhiên sông nước ấy có phần tăng thêm sức sống khi có thêm những “cồn nhỏ”. Những gò đất
nổi lên giữa lòng sông ấy lại chỉ “lơ thơ” thưa thớt gợi lên một sự đơn sơ, hoang vắng, “đìu hiu” cô
quạnh khi những làn gió thổi qua. Những cơn gió không ồn ào mà chỉ “đìu hiu” làm cho nỗi buồn của thi
nhân như được nhân lên khi đứng trước một không gian tiêu điều. Nỗi buồn vô hạn ấy lại được miêu tả
qua một không gian bao la. Cái bé nhỏ tương phản với cái mênh mông, vô cùng. Cồn thì nhỏ bé thưa
thớt, buồn bã: "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu". Vần lưng: "nhỏ - gió", kết hợp với láy âm: "lơ thơ" và "đìu
hiu", âm hưởng câu thơ như trĩu lòng người về một nỗi buồn hiu hắt, cô quạnh. Nghệ thuật sử dụng từ
láy tài ba, gợi lên màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc trở về với cổ thi:

"Non Kì quạnh quẽ trăng treo

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò"

(Chinh phụ ngâm),

Hay:

"Lơ thơ tơ liễu buông mành..."

(Truyện Kiều).

Thay vì là bức tranh thiên nhiên như khổ một, khổ thơ thứ hai lại tái hiện cuộc sống sinh hoạt hàng ngày
mà tiêu biểu nhất là hình ảnh chợ chiều thời điểm vãn. “Chợ” là nơi mà khi đến đó ta biết được cuộc
sống nơi đây có ấm no sầm uất hay không. Nguyễn Trãi đã từng viết: “Lao xao chợ cá làng Ngư Phủ”, Đủ
để thấy cái vui tươi nhộn nhịp của một phiên chợ. Huy Cận không như thế, ông chọn cho mình thời điểm
vãn chợ như một tín hiệu nghệ thuật đặc sắc. Chợ vãn là khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên
đất chỉ còn vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…” (Thạch Lam). Chi tiết gợi ra cái hoang tàn, xơ xác, hiu
quạnh, heo hút của làng quê miền sông nước, cũng là gợi mở cái buồn vô hạn trong lòng thi nhân. Chỉ
với một từ “Đâu” đã gợi cho chúng ta cảm giác mơ hồ không biết có phải là có âm thanh đó hay không,
tác giả cũng chỉ nghe thấy cảm nhận thấy chứ không được nhìn thấy. m thanh ấy cũng mờ mờ ảo ảo,
vừa thực mà vừa hư. Tưởng chừng như âm thanh xuất hiện làm con người thêm vui nhưng chính nó lại
khiến tác giả thêm cô đơn, lẻ lõi trên chính mảnh đất quê hương mình.

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Nỗi sầu không chỉ nhuốm màu vào không gian mà còn trải dài theo thời gian bất tận. Không gian được
mở ra theo nhiều chiều vừa cao, vừa sâu, vừa rộng… “Nắng xuống” và “trời lên” tạo nên một sự ngăn
cách, chia li theo hai chiều đối nghịch “lên” và “xuống”. Đây là cảm nhận mà chỉ khi đến với con người
hiện đại chúng ta mới thấy mới cảm nhận được. Không gian không chỉ được mở rộng theo chiều rộng,
chiều cao mà còn theo chiều sâu. Nắng càng xuống thấp, trời càng trở nên cao hơn ngả bóng xuống lòng
sông sâu “chót vót”. Tác giả đã sử dụng từ rất đặc biệt, không phải cao “chót vót” mà là “sâu chót vót” để
làm nổi bật hai tiểu đối: "nắng xuống" và "trời lên" kia, cái bao la, mênh mông đều rợn ngợp của dòng
sông, bầu trời và bến đò xa vắng. Con người trở nên bó nhỏ cô đơn trước vũ trụ bao la vô tận… “Sông
dài, trời rộng” cảnh vật càng rộng lớn, kì vĩ bao nhiêu thì con người càng bé nhỏ bấy nhiêu với hình ảnh
“bến cô liêu”- bến đã nhỏ lại còn hiu quạnh gợi đến cảm giác trống vắng cô đơn đến tội nghiệp và trống
vắng, trơ trọi.

Thành công của hai khổ thơ chính là sự sáng tạo nghệ thuật, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện
đại. Sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Góp lại những trang thơ của Huy
Cận ta không khỏi quên được nỗi buồn tê tái của thi sĩ trước cảnh vật, cảnh nước mất nhà tan. Bài thơ
mang một nỗi buồn thấm đẫm vào cả không gian thời gian. Bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang vừa
có sự vận động, vừa hữu hình vừa vô hình, thời gian, không gian phụ họa, hài hòa với nhau khiến cho
cảnh vật càng lúc càng âm u, xa vắng, xúc cảm càng nặng nề. Nỗi buồn của cảnh vật khiến cho lòng người
càng thêm cô quạnh hay chính nỗi buồn của lòng người khiến cho không gian cũng nhuốm màu u ám.

You might also like