Professional Documents
Culture Documents
- Huy Cận-
I. MỞ BÀI
Nhận xét về thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, nhà nghiên cứu phê bình Hoài Thanh viết ''Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam
buồn và nhất là xôn xao như thế''. Huy Cận chính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 và trong
dàn đồng ca đa sầu đa cảm của các nhà thơ lãng mạn thì hồn thơ Huy Cận là ảo não nhất. Khi ông xuất hiện trên thi đàn thì người ta thấy dậy
lên một tiếng địch buồn. Thơ của ông thường thể hiện một nỗi buồn lớn, triền miên, vô tận và tưởng chừng kéo dài đến hàng ngàn, hàng vạn
năm. Vì thế người ta mệnh danh ông là nhà thơ của nỗi “sầu vạn cổ” hay “thiên cổ sầu”. “Tràng Giang” ra đời năm 1939, sau đó được đưa
vào tập thơ “Lửa thiêng” in năm 1940 là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước cách mạng. Tác phẩm là bức tranh cảnh vật tràng giang
mênh mông sóng nước và trong bức tranh cảnh vật ấy ẩn chứa một nỗi buồn triền miên, vô tận.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: “Trên cánh đồng văn chương màu mỡ người nghệ sĩ như những hạt cát bụi bay lượn trong không khí để tìm
cho mình những dư vị còn lại”. Và Huy Cận là hạt cát đã bay lượn tìm kiếm vẻ đẹp của quê hương, xứ sở để làm thơ. Người nghệ sĩ ấy đã
đứng trước dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa để nguồn xúc cảm lắng đọng lại ở thi phẩm “Tràng Giang”. Ấy là khi còn là sinh viên của trường
Cao đẳng canh nông, vào các buổi chiều cuối tuần Huy Cận thường đạp xe lên vùng Chèm để vẽ tranh ngoạn cảnh. Vào một buổi chiều mùa
thu năm 1939, ông đã dừng lại để ngắm cảnh sông Hồng. Cảnh vật dòng sông mênh mông sóng nước gợi hứng cho nhà thơ sáng tác bài thơ
“Tràng Giang”. Bài thơ được xem là thi phẩm nổi tiếng thể hiện rõ phong cách thơ của Huy Cận. Mặc dù được gợi ý, gợi tứ từ cảnh vật sông
Hồng nhưng theo nhà thơ thì trong bài thơ này ông không chỉ viết về sông Hồng mà viết về tất cả các dòng sông quê hương. Ban đầu, tác
phẩm có tên là “Chiều trên sông” nhưng về sau đổi thành “Tràng giang”.
Bài thơ có 4 khổ thơ và bức tranh cảnh vật tràng giang không được miêu tả theo trình tự nhất định, bởi nhà thơ không có ý định
khắc họa bức tranh thiên nhiên đầy đủ mà chỉ có ấn tượng về một nỗi buồn trải dài vô tận trong không gian và thời gian.
- Đề từ:
+ Lời đề từ thường là câu, đoạn thơ hay câu, đoạn văn ngắn gọn, cô đọng dẫn ra ở đầu tác phẩm hoặc hoặc một bộ phận của tác
phẩm (chương, hồi, đoạn, phần). Lời đề từ không chỉ có thể là lời của chính tác giả, mà đôi khi là thơ, văn mà tác giả mượn của một tác giả
nào đó. Đề từ xuất hiện đa dạng trong tất cả các văn bản nghệ thuật như thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, văn bản kịch, kí và cả trong những bức
thư nhưng xuất hiện nhiều nhất là trong thơ và truyện ngắn. Đề từ nhằm nêu lên nguồn cảm hứng, chủ đề tư tưởng của tác phẩm, hướng người
đọc vào ý đồ nghệ thuật của tác phẩm nhưng đôi khi nó cũng chỉ là vật trang sức cho tác phẩm mà không đem đến nhiều ý nghĩa.
+ Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” thuộc kiểu lời đề từ có nhiều ý nghĩa. Trước hết, lời đề từ này gợi không
gian rộng lớn, rợn ngợp với cảnh “trời rộng sông dài” và trong không gian ấy hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp. Đồng
thời, lời đề từ còn bộc lộ rõ cảm xúc, cảm hứng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”, nỗi buồn mênh mang, da diết,
khôn nguôi, gợi cả nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc. Lời đề từ này như vậy vừa là cảm hứng vừa có tác dụng định hướng về ý nghĩa,
vừa tạo tính cổ điển, hiện đại cho bài thơ.
2. Khổ thơ 1:
Huy Cận là một nhà thơ mới, ông yêu thích cả thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Pháp. Bởi vậy
thơ Huy Cận vừa mang màu sắc dân tộc vừa có tính cổ điển và vừa rất hiện đại. Những đặc điểm nổi bật của thơ Huy Cận được thể hiện rõ
ngay từ khổ thơ đầu tiên của bài thơ:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
1
Trên mặt nước của dòng đại giang mênh mông, bát ngát là những con sóng lăn tăn, gợn gợn. Những con sóng tuy nhỏ nhưng muôn
vàn con sóng cùng từ láy “điệp điệp” đã gợi tả sự nối tiếp nhau, kéo dài đến vô tận thành bức tranh thiên nhiên rộng mở, kì vĩ. Đứng trước
cảnh vật bao la, vô cùng vô tận ấy nỗi buồn của nhà thơ có trong và trải dài trên từng con sóng. Nỗi buồn vì thế cũng triền miên, vô tận, thành
nỗi sầu vạn kỉ, thiên cổ sầu vẫn thường thấy trong thơ Huy Cận: “Một chiếc linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu”.
* Câu thơ 2 + 3:
Giữa dòng Đại giang còn xuất hiện hình ảnh một con thuyền, con thuyền ấy không có người lái nên mái chèo của nó bị buông lơi.
Con thuyền trôi không định hướng, song song với dòng nước theo kiểu nước chảy thì thuyền trôi. Bởi vậy, hình ảnh con thuyền giữa dòng đại
giang mênh mông sóng nước trong câu thơ trước hết gợi ấn tượng về sự nhỏ bé, trôi dạt, vô phương hướng.
Thuyền và nước đi liền với nhau nên người ta thường nói “nước chảy thuyền trôi”. Nhưng ở câu thơ này thì dòng nước và con
thuyền lại đi song song với nhau, có chuyển động ngược hướng của cảnh “thuyền về nước lại”. Thuyền và nước đi song song với nhau thế
nên không bao giờ gặp gỡ, bỗng trở thành hai cá thể độc lập không có sự gắn bó và gợi tính chất phân ly của cuộc đời. Câu thơ như vậy một
lần nữa nhấn mạnh thêm nỗi buồn khiến khổ thơ quả thật đã nói rất nhiều đến nỗi buồn. Nỗi buồn ở câu thơ trước đã được thể hiện trực tiếp
từ qua từ “buồn” và trải dài theo chiều dài của dòng đại giang thì ở đây nỗi buồn thể hiện qua chữ “sầu” và tỏa ra theo chiều rộng thành “sầu
trăm ngả”. Một nỗi buồn lan tỏa khắp vũ trụ bao la, rộng lớn như thế thì có lẽ chúng ta chỉ tìm thấy ở các nhà thơ lãng mạn 1930-1945 và ở
hồn thơ Huy Cận.
* Câu thơ bốn:
Hình ảnh con thuyền trôi dạt giữa dòng đại giang đã gợi sự nhỏ bé, trôi dạt, vô phương hướng nhưng hình ảnh cành củi khô xuất
hiện trong câu thơ thứ tư còn gợi buồn, gợi sự cô đơn, tội nghiệp hơn rất nhiều. Trên mặt nước Tràng giang đã có những con sóng lăn tăn, gợn
gợn, đã có hình ảnh con thuyền nhỏ bé giờ còn xuất hiện thêm hình ảnh một cành củi khô. Hình ảnh sóng, con thuyền vốn là hình ảnh quen
thuộc trong thơ ca xưa nay nhưng đến thời điểm “Tràng giang” ra đời thì hình ảnh cành củi khô vẫn là một thi liệu mới mẻ chưa từng được
nhắc đến. Cành củi khô vốn là một cành cây đã lìa khỏi cây, nó đã mất đi sự sống và nay lại lạc giữa mấy dòng nước. So với sự mênh mông,
rộng lớn trong dòng Đại giang, hình ảnh con thuyền đã nhỏ bé thì hình ảnh cảnh củi còn nhỏ hơn nhiều. Cả hai hình ảnh con thuyền và cành
củi đều nằm trong hệ thống hình ảnh gợi sự nhỏ bé, trôi dạt… Những hình ảnh đó đều gợi ta liên tưởng về những kiếp người nhỏ bé, vô danh,
trôi dạt giữa dòng đời. Nghệ thuật đối lập giữa các hình ảnh con thuyền, cành củi với sự rộng lớn của dòng Đại giang càng nhấn mạnh thêm
nỗi buồn, tô đậm thêm sự nhỏ bé, vô định của kiếp người. Bút pháp "tả cảnh ngụ tình" của Huy Cận trong khổ thơ cũng thật tài tình, chỉ
thông qua vài hình ảnh giản đơn như “sóng gợn”, “ con thuyền”, “củi một cành khô” mà tác giả có thể truyền tải mạnh mẽ những cảm xúc của
mình đến người đọc khiến khổ thơ không chỉ là bức tranh cảnh vật thiên nhiên mà hơn nữa là cảm xúc vũ trụ, là nỗi buồn nơi đáy hồn nhân
thế.
*Đánh giá chung về khổ thơ
Có thể nói, ở khổ thơ này ta vừa nhận ra dấu ấn của Đường thi vừa nhận ra những đặc điểm ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp.
+ Tính chất cổ điển: được thể hiện trước hết ở thể thơ bảy chữ với những cách ngắt nhịp của thơ truyền thống là 4/3 , bút pháp tả
cảnh ngụ tình trong thơ cổ thế thể hiện rõ qua việc miêu tả bức tranh cảnh vật Tràng Giang và qua bức tranh cảnh vật đó để thể hiểu tâm trạng
là nỗi buồn trước cảnh trời rộng sông dài. Cổ điển ở nghệ thuật đối chủ yếu là đối ý chứ không phải trong câu thiên về niêm luật. Đó là sự đối
lập giữa hình ảnh con thuyền, cành củi với dòng đại giang mênh mông sóng nước; Đối lập với sự nhỏ bé, đơn chiếc với sự rộng lớn vô cùng
vô tận, nghệ thuật đối cũng làm cho giọng điệu của đoạn thơ trở nên uyển chuyển phát huy thế mạnh của thơ đường cùng với việc sử dụng
các từ Hán Việt tạo không khí trang trọng, sự tương xứng nhịp nhàng. Bên cạnh đó việc láy lại vần ang và các từ lấy nguyên gốc “ song
song”,”điệp điệp” cũng là những yếu tố tạo nên cổ điển cho bài thơ.
+ Tính chất hiện đại: Huy Cận giống phần đông các thi sĩ trong phong trào thơ mới đều chịu ảnh hưởng khá rõ của trường phái thơ
tượng trưng Pháp thế kỷ 19. Nhà thơ Xuân Diệu là bạn thân của Huy Cận đã từng viết :
Tôi nhớ Rembô với Veclen
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men
Say thơ xa lạ mơ tình bạn
Khinh rẻ khuôn mòn bỏ lối quen
Xuân Diệu tự ví mình và Huy Cận như hai chàng thi sĩ Pháp say mê sáng tạo, từ bỏ mọi khuôn mòn để tìm đến với “thơ xa lạ”. Vì
vậy, “Tràng giang” của Huy Cận dẫu mang rất nhiều yếu tố cổ điển nhưng trước hết nó vẫn là một bài thơ hiện đại, là một sản phẩm của thơ
ca lãng mạn. Tính chất hiện đại trong khổ thơ được thể hiện ở việc sử dụng các thi liệu rất mới mẻ. Đó chính là hình ảnh cành củi khô lạc
giữa dòng nước gợi nỗi buồn, gợi liên tưởng đến những kiếp người nhỏ bé trôi dạt. Những hiện đại hơn hơn cả là cảm xúc vì chưa bao giờ
người ta thấy thơ lại mang một nỗi buồn lớn đến thế, một nỗi buồn tưởng chừng kéo dài đến hàng ngàn, hàng vạn năm. Đó là nỗi buồn của
một thế hệ nhà thơ mới trong một xã hội mất chủ quyền, họ rơi vào bế tắc trong việc tìm lối thoát vì thế tạo nên những dòng lệ trong văn
chương. Ngoài ra, nỗi buồn còn xuất phát từ quan niệm Mỹ học của các nhà thơ mới, quan niệm mà họ chịu ảnh hưởng từ phương Tây: “ Em
cứ đẹp và em mãi buồn”. Với họ cái đẹp đi liền với cái buồn, phải buồn thì mới đẹp và đó có lẽ cũng là quan niệm mà Huy Cận đã thể hiện
trong bài thơ này.
=> Khổ thơ cũng như toàn bộ bài thơ không chỉ là nỗi buồn mà còn là bức tranh cảnh vật về dòng tràng giang. Tìm hiểu bài thơ từ
góc độ thiên nhiên cảnh vật ta thấy đây là một bài thơ rất đỗi Việt Nam, với những hình ảnh quen thuộc với người Việt Nam như dòng sông,
sóng gợn, con thuyền, cành củi khô dập dềnh... Ở những khổ thơ sau ta còn bắt gặp thêm những hình ảnh những cánh bèo trôi dạt, một buổi
chợ chiều, một chuyến đò ngang. Vì thế xét ở một góc độ nào đó, Tràng giang là một bài thơ ca hát về non sông đất nước, do đó dọn đường
cho lòng yêu Tổ quốc.
Ai đó đã từng nói cuộc sống là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá, là cái đích cuối cùng của thơ ca. Những tác phẩm nghệ thuật
chân chính luôn bắt rễ từ đời sống hiện thực sẽ có sức lan tỏa mãi trong trái tim bạn đọc. “Tràng giang” của Huy Cận bắt nguồn từ hiện thực
đời sống, từ cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước với con thuyền, cành củi trôi dạt, từ tình cảnh đau thương của đất nước và đã thể hiện
được những nỗi niềm nhà thơ muốn ký thác, như một tiếng thở dài bất lực của thi nhân trước cảnh nước mất nhà tan. Nỗi niềm ấy của người
nghệ sĩ chân chính Huy Cận hẳn sẽ còn lắng đọng mãi để những vần thơ có đủ sức sống đi theo năm tháng.
3. Khổ thơ 2:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
2
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.