You are on page 1of 5

TRÀNG GIANG

- Huy Cận-

I. MỞ BÀI
Nhận xét về thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, nhà nghiên cứu phê bình Hoài Thanh viết ''Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam
buồn và nhất là xôn xao như thế''. Huy Cận chính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 và trong
dàn đồng ca đa sầu đa cảm của các nhà thơ lãng mạn thì hồn thơ Huy Cận là ảo não nhất. Khi ông xuất hiện trên thi đàn thì người ta thấy dậy
lên một tiếng địch buồn. Thơ của ông thường thể hiện một nỗi buồn lớn, triền miên, vô tận và tưởng chừng kéo dài đến hàng ngàn, hàng vạn
năm. Vì thế người ta mệnh danh ông là nhà thơ của nỗi “sầu vạn cổ” hay “thiên cổ sầu”. “Tràng Giang” ra đời năm 1939, sau đó được đưa
vào tập thơ “Lửa thiêng” in năm 1940 là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước cách mạng. Tác phẩm là bức tranh cảnh vật tràng giang
mênh mông sóng nước và trong bức tranh cảnh vật ấy ẩn chứa một nỗi buồn triền miên, vô tận.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: “Trên cánh đồng văn chương màu mỡ người nghệ sĩ như những hạt cát bụi bay lượn trong không khí để tìm
cho mình những dư vị còn lại”. Và Huy Cận là hạt cát đã bay lượn tìm kiếm vẻ đẹp của quê hương, xứ sở để làm thơ. Người nghệ sĩ ấy đã
đứng trước dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa để nguồn xúc cảm lắng đọng lại ở thi phẩm “Tràng Giang”. Ấy là khi còn là sinh viên của trường
Cao đẳng canh nông, vào các buổi chiều cuối tuần Huy Cận thường đạp xe lên vùng Chèm để vẽ tranh ngoạn cảnh. Vào một buổi chiều mùa
thu năm 1939, ông đã dừng lại để ngắm cảnh sông Hồng. Cảnh vật dòng sông mênh mông sóng nước gợi hứng cho nhà thơ sáng tác bài thơ
“Tràng Giang”. Bài thơ được xem là thi phẩm nổi tiếng thể hiện rõ phong cách thơ của Huy Cận. Mặc dù được gợi ý, gợi tứ từ cảnh vật sông
Hồng nhưng theo nhà thơ thì trong bài thơ này ông không chỉ viết về sông Hồng mà viết về tất cả các dòng sông quê hương. Ban đầu, tác
phẩm có tên là “Chiều trên sông” nhưng về sau đổi thành “Tràng giang”.
Bài thơ có 4 khổ thơ và bức tranh cảnh vật tràng giang không được miêu tả theo trình tự nhất định, bởi nhà thơ không có ý định
khắc họa bức tranh thiên nhiên đầy đủ mà chỉ có ấn tượng về một nỗi buồn trải dài vô tận trong không gian và thời gian.
- Đề từ:
+ Lời đề từ thường là câu, đoạn thơ hay câu, đoạn văn ngắn gọn, cô đọng dẫn ra ở đầu tác phẩm hoặc hoặc một bộ phận của tác
phẩm (chương, hồi, đoạn, phần). Lời đề từ không chỉ có thể là lời của chính tác giả, mà đôi khi là thơ, văn mà tác giả mượn của một tác giả
nào đó. Đề từ xuất hiện đa dạng trong tất cả các văn bản nghệ thuật như thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, văn bản kịch, kí và cả trong những bức
thư nhưng xuất hiện nhiều nhất là trong thơ và truyện ngắn. Đề từ nhằm nêu lên nguồn cảm hứng, chủ đề tư tưởng của tác phẩm, hướng người
đọc vào ý đồ nghệ thuật của tác phẩm nhưng đôi khi nó cũng chỉ là vật trang sức cho tác phẩm mà không đem đến nhiều ý nghĩa.
+ Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” thuộc kiểu lời đề từ có nhiều ý nghĩa. Trước hết, lời đề từ này gợi không
gian rộng lớn, rợn ngợp với cảnh “trời rộng sông dài” và trong không gian ấy hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp. Đồng
thời, lời đề từ còn bộc lộ rõ cảm xúc, cảm hứng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”, nỗi buồn mênh mang, da diết,
khôn nguôi, gợi cả nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc. Lời đề từ này như vậy vừa là cảm hứng vừa có tác dụng định hướng về ý nghĩa,
vừa tạo tính cổ điển, hiện đại cho bài thơ.
2. Khổ thơ 1:
Huy Cận là một nhà thơ mới, ông yêu thích cả thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Pháp. Bởi vậy
thơ Huy Cận vừa mang màu sắc dân tộc vừa có tính cổ điển và vừa rất hiện đại. Những đặc điểm nổi bật của thơ Huy Cận được thể hiện rõ
ngay từ khổ thơ đầu tiên của bài thơ:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

* Câu thơ đầu (bao gồm ý nghĩa nhan đề)


Có biết bao thi sĩ đã mượn thiên nhiên để giải bày lòng mình. Tâm trạng của con người, nhất là nỗi buồn thường được giãi bày ra
trong cảnh vật. Ta đã thấy điều đó trong thơ Nguyễn Du “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, đã thấy một nỗi buồn như thế trong “Chinh
phụ ngâm”:
Người buồn cảnh thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun
Nỗi buồn của con người thì vô vàn, nhất là với các nhà thơ mới thì buồn rất nhiều nên thiên nhiên trong thơ mới thường đẹp nhưng
lại buồn đến da diết. Trong những năm tháng tăm tối của đất nước, Huy Cận cũng buồn và thi sĩ cũng tìm đến phơi trải lòng mình qua các
hình ảnh thiên nhiên đẹp. Vì thế, ngay từ câu thơ đầu tiên, tác giả đã hướng người đọc hình dung ra một dòng sông mênh mang sóng
nước.
Bài thơ ngay từ đầu đã có sự láy lại nhan đề: “Tràng giang”. Trong tiếng Việt hiện hành có hai từ chỉ chiều dài là từ “trường” và từ
“tràng”. Nói như vậy có nghĩa là “Tràng giang” vốn đồng nghĩa với trường giang, cùng có nghĩa là sông dài nhưng trường giang thì chỉ có
nghĩa chỉ chiều dài còn tràng giang không chỉ gợi chiều dài dòng sông mà còn có sức gợi rất lớn, thể hiện sự tinh tế của Huy Cận khi sử dụng
tiếng Việt. Việc láy lại vần “ang” có tác dụng gợi tả cả chiều rộng của dòng sông, bởi thế Tràng giang không chỉ là dòng sông dài mà là Đại
giang (sông lớn). Vần “ang” còn tạo một dư âm vang xa, ngân dài và âm hưởng trầm hùng tạo nên âm hưởng chung của cả bài thơ. Hơn nữa
“Tràng giang” là từ Hán Việt nên còn gợi cho bài thơ một không khí cổ kính, gợi tả một dòng sông từ ngàn xưa chảy qua hàng ngàn năm lịch
sử, văn hóa, chảy qua không biết bao nhiêu áng sử thi. Ngoài ra, nhan đề này còn gợi cả một nỗi buồn triền miên không dứt. Nỗi buồn ấy mở
rộng, mênh mông bát ngát trên dòng tràng giang.

1
Trên mặt nước của dòng đại giang mênh mông, bát ngát là những con sóng lăn tăn, gợn gợn. Những con sóng tuy nhỏ nhưng muôn
vàn con sóng cùng từ láy “điệp điệp” đã gợi tả sự nối tiếp nhau, kéo dài đến vô tận thành bức tranh thiên nhiên rộng mở, kì vĩ. Đứng trước
cảnh vật bao la, vô cùng vô tận ấy nỗi buồn của nhà thơ có trong và trải dài trên từng con sóng. Nỗi buồn vì thế cũng triền miên, vô tận, thành
nỗi sầu vạn kỉ, thiên cổ sầu vẫn thường thấy trong thơ Huy Cận: “Một chiếc linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu”.
* Câu thơ 2 + 3:
Giữa dòng Đại giang còn xuất hiện hình ảnh một con thuyền, con thuyền ấy không có người lái nên mái chèo của nó bị buông lơi.
Con thuyền trôi không định hướng, song song với dòng nước theo kiểu nước chảy thì thuyền trôi. Bởi vậy, hình ảnh con thuyền giữa dòng đại
giang mênh mông sóng nước trong câu thơ trước hết gợi ấn tượng về sự nhỏ bé, trôi dạt, vô phương hướng.
Thuyền và nước đi liền với nhau nên người ta thường nói “nước chảy thuyền trôi”. Nhưng ở câu thơ này thì dòng nước và con
thuyền lại đi song song với nhau, có chuyển động ngược hướng của cảnh “thuyền về nước lại”. Thuyền và nước đi song song với nhau thế
nên không bao giờ gặp gỡ, bỗng trở thành hai cá thể độc lập không có sự gắn bó và gợi tính chất phân ly của cuộc đời. Câu thơ như vậy một
lần nữa nhấn mạnh thêm nỗi buồn khiến khổ thơ quả thật đã nói rất nhiều đến nỗi buồn. Nỗi buồn ở câu thơ trước đã được thể hiện trực tiếp
từ qua từ “buồn” và trải dài theo chiều dài của dòng đại giang thì ở đây nỗi buồn thể hiện qua chữ “sầu” và tỏa ra theo chiều rộng thành “sầu
trăm ngả”. Một nỗi buồn lan tỏa khắp vũ trụ bao la, rộng lớn như thế thì có lẽ chúng ta chỉ tìm thấy ở các nhà thơ lãng mạn 1930-1945 và ở
hồn thơ Huy Cận.
* Câu thơ bốn:
Hình ảnh con thuyền trôi dạt giữa dòng đại giang đã gợi sự nhỏ bé, trôi dạt, vô phương hướng nhưng hình ảnh cành củi khô xuất
hiện trong câu thơ thứ tư còn gợi buồn, gợi sự cô đơn, tội nghiệp hơn rất nhiều. Trên mặt nước Tràng giang đã có những con sóng lăn tăn, gợn
gợn, đã có hình ảnh con thuyền nhỏ bé giờ còn xuất hiện thêm hình ảnh một cành củi khô. Hình ảnh sóng, con thuyền vốn là hình ảnh quen
thuộc trong thơ ca xưa nay nhưng đến thời điểm “Tràng giang” ra đời thì hình ảnh cành củi khô vẫn là một thi liệu mới mẻ chưa từng được
nhắc đến. Cành củi khô vốn là một cành cây đã lìa khỏi cây, nó đã mất đi sự sống và nay lại lạc giữa mấy dòng nước. So với sự mênh mông,
rộng lớn trong dòng Đại giang, hình ảnh con thuyền đã nhỏ bé thì hình ảnh cảnh củi còn nhỏ hơn nhiều. Cả hai hình ảnh con thuyền và cành
củi đều nằm trong hệ thống hình ảnh gợi sự nhỏ bé, trôi dạt… Những hình ảnh đó đều gợi ta liên tưởng về những kiếp người nhỏ bé, vô danh,
trôi dạt giữa dòng đời. Nghệ thuật đối lập giữa các hình ảnh con thuyền, cành củi với sự rộng lớn của dòng Đại giang càng nhấn mạnh thêm
nỗi buồn, tô đậm thêm sự nhỏ bé, vô định của kiếp người. Bút pháp "tả cảnh ngụ tình" của Huy Cận trong khổ thơ cũng thật tài tình, chỉ
thông qua vài hình ảnh giản đơn như “sóng gợn”, “ con thuyền”, “củi một cành khô” mà tác giả có thể truyền tải mạnh mẽ những cảm xúc của
mình đến người đọc khiến khổ thơ không chỉ là bức tranh cảnh vật thiên nhiên mà hơn nữa là cảm xúc vũ trụ, là nỗi buồn nơi đáy hồn nhân
thế.
*Đánh giá chung về khổ thơ
Có thể nói, ở khổ thơ này ta vừa nhận ra dấu ấn của Đường thi vừa nhận ra những đặc điểm ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp.
+ Tính chất cổ điển: được thể hiện trước hết ở thể thơ bảy chữ với những cách ngắt nhịp của thơ truyền thống là 4/3 , bút pháp tả
cảnh ngụ tình trong thơ cổ thế thể hiện rõ qua việc miêu tả bức tranh cảnh vật Tràng Giang và qua bức tranh cảnh vật đó để thể hiểu tâm trạng
là nỗi buồn trước cảnh trời rộng sông dài. Cổ điển ở nghệ thuật đối chủ yếu là đối ý chứ không phải trong câu thiên về niêm luật. Đó là sự đối
lập giữa hình ảnh con thuyền, cành củi với dòng đại giang mênh mông sóng nước; Đối lập với sự nhỏ bé, đơn chiếc với sự rộng lớn vô cùng
vô tận, nghệ thuật đối cũng làm cho giọng điệu của đoạn thơ trở nên uyển chuyển phát huy thế mạnh của thơ đường cùng với việc sử dụng
các từ Hán Việt tạo không khí trang trọng, sự tương xứng nhịp nhàng. Bên cạnh đó việc láy lại vần ang và các từ lấy nguyên gốc “ song
song”,”điệp điệp” cũng là những yếu tố tạo nên cổ điển cho bài thơ.
+ Tính chất hiện đại: Huy Cận giống phần đông các thi sĩ trong phong trào thơ mới đều chịu ảnh hưởng khá rõ của trường phái thơ
tượng trưng Pháp thế kỷ 19. Nhà thơ Xuân Diệu là bạn thân của Huy Cận đã từng viết :
Tôi nhớ Rembô với Veclen
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men
Say thơ xa lạ mơ tình bạn
Khinh rẻ khuôn mòn bỏ lối quen
Xuân Diệu tự ví mình và Huy Cận như hai chàng thi sĩ Pháp say mê sáng tạo, từ bỏ mọi khuôn mòn để tìm đến với “thơ xa lạ”. Vì
vậy, “Tràng giang” của Huy Cận dẫu mang rất nhiều yếu tố cổ điển nhưng trước hết nó vẫn là một bài thơ hiện đại, là một sản phẩm của thơ
ca lãng mạn. Tính chất hiện đại trong khổ thơ được thể hiện ở việc sử dụng các thi liệu rất mới mẻ. Đó chính là hình ảnh cành củi khô lạc
giữa dòng nước gợi nỗi buồn, gợi liên tưởng đến những kiếp người nhỏ bé trôi dạt. Những hiện đại hơn hơn cả là cảm xúc vì chưa bao giờ
người ta thấy thơ lại mang một nỗi buồn lớn đến thế, một nỗi buồn tưởng chừng kéo dài đến hàng ngàn, hàng vạn năm. Đó là nỗi buồn của
một thế hệ nhà thơ mới trong một xã hội mất chủ quyền, họ rơi vào bế tắc trong việc tìm lối thoát vì thế tạo nên những dòng lệ trong văn
chương. Ngoài ra, nỗi buồn còn xuất phát từ quan niệm Mỹ học của các nhà thơ mới, quan niệm mà họ chịu ảnh hưởng từ phương Tây: “ Em
cứ đẹp và em mãi buồn”. Với họ cái đẹp đi liền với cái buồn, phải buồn thì mới đẹp và đó có lẽ cũng là quan niệm mà Huy Cận đã thể hiện
trong bài thơ này.
=> Khổ thơ cũng như toàn bộ bài thơ không chỉ là nỗi buồn mà còn là bức tranh cảnh vật về dòng tràng giang. Tìm hiểu bài thơ từ
góc độ thiên nhiên cảnh vật ta thấy đây là một bài thơ rất đỗi Việt Nam, với những hình ảnh quen thuộc với người Việt Nam như dòng sông,
sóng gợn, con thuyền, cành củi khô dập dềnh... Ở những khổ thơ sau ta còn bắt gặp thêm những hình ảnh những cánh bèo trôi dạt, một buổi
chợ chiều, một chuyến đò ngang. Vì thế xét ở một góc độ nào đó, Tràng giang là một bài thơ ca hát về non sông đất nước, do đó dọn đường
cho lòng yêu Tổ quốc.
Ai đó đã từng nói cuộc sống là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá, là cái đích cuối cùng của thơ ca. Những tác phẩm nghệ thuật
chân chính luôn bắt rễ từ đời sống hiện thực sẽ có sức lan tỏa mãi trong trái tim bạn đọc. “Tràng giang” của Huy Cận bắt nguồn từ hiện thực
đời sống, từ cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước với con thuyền, cành củi trôi dạt, từ tình cảnh đau thương của đất nước và đã thể hiện
được những nỗi niềm nhà thơ muốn ký thác, như một tiếng thở dài bất lực của thi nhân trước cảnh nước mất nhà tan. Nỗi niềm ấy của người
nghệ sĩ chân chính Huy Cận hẳn sẽ còn lắng đọng mãi để những vần thơ có đủ sức sống đi theo năm tháng.
3. Khổ thơ 2:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
2
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

3.1. Hai câu đầu:


Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn của nhịp thở con tim, thơ có thể giúp con người bộc lộ mọi cung bậc cảm xúc như niềm vui,
nỗi buồn sự cô đơn tuyệt vọng… Có những tâm trạng của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ và nỗi buồn của Huy Cận cũng phải tìm đến
thơ và qua các hình ảnh thơ để được giãi bày. Trong khổ thơ này, b ức tranh cảnh vật sông nước được mở rộng về đôi bờ và bầu trời. Những
cồn cát trên sông nhấp nhô, gió chiều nhè nhẹ thổi "đìu hiu" gợi buồn da diết. Cồn là một bãi đất nằm ở giữa sông, nó vốn đã gợi sự đơn độc,
trơ trọi. Đã thế lại là “cồn nhỏ” càng gợi sự lẻ loi, đơn chiếc và gợi buồn. Sự vật hiện diện ở trên cồn chỉ lơ thơ, lác đác và hẳn đó là cỏ cây
lưa thưa, phất phơ trước làn gió nhẹ. Nghệ thuật đảo ngữ đã đảo trật tự cú pháp thông thường đặt từ láy “lơ thơ” lên đầu câu thơ càng gợi sự
hoang vắng của cảnh vật. Riêng về từ “đìu hiu”, Huy Cận nói ông học được trong “Chinh phụ ngâm”:
Non Kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Gió thổi đìu hiu đã gợi sự buồn bã, quạnh vắng của bức tranh cảnh vật nhưng hơi hướng từ ý thơ của “Chinh phụ ngâm” còn gợi cả
âm hồn, tử khí phảng phất trong gió trong cây, càng nhấn mạnh sự quạnh hiu của cảnh vật và nỗi buồn.
Trước cảnh vật hoang vắng, thi sĩ đi tìm dấu hiệu cuộc sống con người như một lẽ tự nhiên. Câu thơ thứ hai của khổ thơ bắt đầu
nhắc đến các dấu hiệu của cuộc sống con người nhưng có vẻ như nhắc đến chỉ là để phủ nhận. Lấy động để tả tĩnh, câu thơ "Đâu tiếng làng xa
vãn chợ chiều" đã làm nổi bật sự ngạc nhiên, chút bâng khuâng của người lữ khách về cái vắng vẻ, cái hoang vắng của đôi bờ tràng giang.
Các nhà thơ mới coi trọng tính nhạc trong thơ, vận dụng nghệ thuật phối âm, hoà thanh rất thần tình, tạo nên những vần thơ giàu âm điệu,
nhạc điệu. Hai câu thơ này của khổ thơ có điệp âm "lơ thơ" và "đìu hiu", có vần lưng: "nhỏ- gió", có vần chân: "hiu- chiều" làm ta liên tưởng
đến câu thơ đầy chất thơ, chất nhạc của Xuân Diệu:
"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều"...
(Thơ duyên)
Dấu hiệu của cuộc sống con người ở đây là âm thanh của một buổi chợ chiều đã vắng người. Một buổi chợ đông, ồn ào náo nhiệt
bao nhiêu thì một buổi chợ chiều hiu hắt, ảm đạm, xao xác bấy nhiêu. Đây lại là âm thanh một buổi chợ chiều ở một cái làng xa nào đó vẳng
lại. Câu thơ có thể hiểu theo hai hướng khác nhau xuất phát từ hai cách hiểu về từ “đâu”. Đâu có nghĩa là đâu đó hoặc có nghĩa là đâu có.
Trước tiên, câu thơ được như một câu hỏi, một lời thở than cảnh vật Tràng giang quạnh vắng đến mức ngay cả âm thanh của một buổi chiều
từ cái làng xa nào đó vẳng lại cũng không có. Vắng lặng đến tuyệt đối, không những không có sự hoạt động của con người mà ngay đến âm
thanh của hoạt động đó cũng không có. Ngoài ra, có thể hiểu theo cách khác là đâu đó giữa không gian cảnh vật tràng giang vẳng lại âm thanh
xao xác của một buổi chợ chiều. Có âm thanh nhưng cảnh vật không trở nên vui tươi và sống động hơn, trái lại càng trở lên nên vắng lặng. Dù
có hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn là để tô đậm nỗi buồn và bức tranh cảnh vật hoang vắng, hiu hắt. Tuy vậy, đặt trong hệ thống toàn bài
thơ thì cách hiểu thứ nhất có phần phù hợp hơn, vì trong suốt bài thơ Huy Cận dường như muốn phủ nhận tất cả những gì thuộc về cuộc sống
con người. Không có âm thanh của buổi chợ chiều cùng hệ thống với các ý thơ như “không một chuyến đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm
thân mật”, “không khói hoàng hôn”.
3.2. Hai câu thơ sau:
Trong bài thơ, bức tranh cảnh vật tràng giang càng lúc càng được mở rộng, đến hai câu thơ sau của khổ thơ thứ hai thì không gian
cảnh vật tràng giang đã vụt lớn lên, mở rộng đến vô cùng, vô tận và cảm xúc vũ trụ được thể hiện một cách mãnh liệt. Tình cảm, cảm xúc
chân thành, mãnh liệt vốn là cơ sở tạo nên một tác phẩm nghệ thuật chân chính, cảm xúc càng mãnh liệt, thăng hoa thơ càng có sức ám ảnh
trái tim bạn đọc. Và ở đây, cảm xúc mãnh liệt của Huy Cận đã đem đến những câu thơ xuất thần. Trời đã về chiều, nắng từ trên cao chiếu rọi
xuống đẩy bầu trời lên cao hơn. Vẻ đẹp của bầu trời cao xanh đã bao lần đi vào thi ca dân tộc: "Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao" (Thu vịnh);
"Trời cao xanh ngắt- Ô kìa..." (Tiếng sáo Thiên Thai); "Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng" (Xuân Diệu). Để diễn tả chiều cao của bầu trời
Tràng giang, thi sĩ Huy Cận không dùng từ cao thông thường mà sử dụng từ “sâu”. Từ “sâu” vừa gợi chiều cao vừa gợi cái thăm thẳm, hun
hút đến vô cùng của bầu trời chiều. Từ láy “chót vót” càng tô đậm hơn chiều cao đến không cùng, không tận ấy.
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót"
Ở đây, một lần nữa nhà thơ lại miêu tả một chuyển động ngược hướng “nắng xuống, trời lên” như để tô đậm thêm tính chất phân li
của cuộc đời vốn đã được nhắc đến trong khổ thơ thứ nhất ở cảnh “Thuyền về nước lại”. Thế nên thi sĩ tả cảnh suy cho cùng là để thể hiện
tâm trạng là nỗi buồn, sự cô đơn, nhỏ bé trước cuộc đời và vũ trụ bao la.
Đến câu thơ cuối của khổ thơ “Sông dài trời rộng bến cô liêu” thì một không gian ba chiều đã được mở ra mà chiều nào cũng không
có giới hạn. Cùng với cái cao, sâu hun hút của bầu trời chiều tràng giang là bề rộng đến bao la, bát ngát của trời đất, vũ trụ và chiều dài đến
vô cùng vô tận của dòng sông. Tất cả gợi bức tranh cảnh vật tràng giang mênh mông đến rợn ngợp. Giữa cảnh vật Tràng giang hùng vĩ, mênh
mông, hoang vắng xuất hiện một cái bến cô liêu, tức là một cái bến trơ trọi, vắng vẻ không có một bóng người. Nghệ thuật đối lập, cụ thể là
đối ý đã đối lập giữa sự mênh mông của cảnh vật tràng giang với sự trơ trọi, nhỏ bé của cái bến để tô đậm thêm cả hai chiều, vừa tô đậm
thêm cái bát ngát của dòng trường giang vừa tô đậm là cái nhỏ bé, hoang vắng của cái bến. Cô liêu ở đây không chỉ là sự cô liêu của cái bến
mà còn được hiểu là sự cô liêu của hồn người. Nỗi buồn của Huy Cận trong khổ thơ này là tâm lý tự nhiên của một con người cảm thấy mình
nhỏ bé trước thiên địa vô thủy vô chung. Cảm xúc ấy cũng giống như nỗi niềm của một nhà thơ Trung Quốc thời trung đại:
Ai người trước đã qua
Ai người sau đã tới
Ngẫm trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ
(Trần Tử Ngang)
Đánh giá về khổ thơ: Nghệ thuật thể thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp quen thuộc 4/3, cách sử dụng từ ngữ đầy sáng tạo như các từ láy lơ thơ,
đìu hiu, chót vót,… cách thể hiện những chuyển động ngược hướng, dấu phẩy phân chia câu thơ thành ba phần rõ rệt là những biện pháp nghệ
3
thuật đặc sắc góp phần làm nổi bật cảm xúc được thể hiện trong khổ thơ. Xuyên suốt trong khổ thơ là một nỗi buồn và nỗi buồn ấy trước hết
là nỗi buồn của con người cảm thấy mình nhỏ bé trước vũ trụ bao la vô tận. Ngoài ra, nỗi buồn nơi đáy hồn nhân thế thể hiện rõ qua việc phủ
nhận hoàn toàn những dấu hiệu của cuộc sống con người. Huy Cận nói riêng, các nhà thơ lãng mạn nói chung, đã đem tâm trạng buồn, cô đơn
của mình “phủ lên thiên nhiên”. Tuy nhiên, ở bề sâu của nỗi sầu vũ trụ ấy vần là tình yêu thắm thiết đối với quê hương đất nước. Điều đó lí
giải vì sao nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: “Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang san Tổ
quốc”.
4. Khổ thơ 3:
Xuân Diệu còn nhận xét về thơ Huy Cận: “thơ ông không phải là rượu đã rót vào chén, thơ ông là men đương lên”. Cái tình trong
thơ Huy Cận trong “Tràng giang” đúng là không phô lộ, không phải “rượu đã rót ra chén” mà đầy sức gợi. Âm hưởng âm trầm, chất ngất u
buồn từ những câu thơ đầu tiên lan rộng đến hai khổ cuối. Từ một cành củi khô, con thuyền trôi dạt ở khổ thơ thứ nhất đến hình ảnh "bèo dạt"
vô định, vô phương ở đây đều gợi lên sự chia li "tan" mà không "hợp":
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Trước cảnh "mênh mông" sông dài trời rộng, cánh bèo xanh nổi như một nét điểm xuyết cho bức tranh cảnh vật. Hình ảnh những
đám bèo nối tiếp nhau trôi dạt trên dòng sông thành “hàng nối hàng” tô đậm thêm hình ảnh dòng sông trải dài miên man, vô tận. Ở đây, ta
thấy có sự gần gũi giữa hình ảnh “bèo dạt về đâu” với hình ảnh “bèo dạt mây trôi” trong dân ca quan họ từng gợi lên trong lòng người bao
cảm xúc. Từng cụm bèo lững lờ trôi vô định trên sông không biết rồi sẽ đi đâu về đâu cũng khiến ta nhớ đến câu ca dao:
Thân em như thể bèo trôi
Sóng dập, gió dồi biết tấp vào đâu?
Hình ảnh ẩn dụ cánh bèo bao giờ cũng gợi lên sự vô định, xa xăm, lênh đênh, bèo bọt. Đại thi hào Nguyễn Du cũng viết về cánh
bèo phiêu bạt:
“Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh”
Hình ảnh cánh bèo trong thơ ca như vậy không phải mới, nó vốn dĩ đã xuất hiện khá nhiều trong ca dao và thơ cổ nhưng đặt trong
dòng "Tràng giang" nó vẫn có ý nghĩa riêng và hình ảnh này cơ bản cũng là để gợi buồn. Nó giúp người đọc cảm nhận rõ rệt thêm cái mênh
mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian, cái vô cùng của thiên nhiên tạo hóa, cái bơ vơ, vô định của kiếp người. Gam màu lạnh, cảnh
quạnh quẽ càng thêm quạnh quẽ, u buồn càng chất ngất u buồn hơn. Cánh bèo trôi hay chính con người đang lạc loài giữa cái mênh mông của
đất trời, cái xa vắng của thời gian? Hình ảnh cánh bèo cùng hệ thống với các hình ảnh cành củi khô, con thuyền xuôi mái, cái bến cô liêu…
đều là để tô đậm sự nhỏ bé, cô đơn của kiếp người. Không chỉ dừng lại ở đó, biện pháp nghệ thuật sử dụng câu hỏi tu từ cùng điệp từ “hàng”
như trải rộng nỗi buồn trên sóng nước tràng giang khiến câu thơ càng gợi buồn, khiến thi nhân đã buồn rồi lại buồn hơn.
Vì buồn nên thi nhân muốn tìm một nơi bấu víu, muốn tìm một chút hơi ấm của sự sống con người nhưng cái nhận được chỉ là sự
hiện diện của những cái không có. Cảnh bao la nhưng vắng bặt bóng dáng con người. Điệp từ "không" như điểm nhấn cho sự vắng mặt:
không có một chuyến đò ngang, không có lấy một cây cầu để nối liền hai bờ, gợi chút niềm thân mật. Không có "đò", không hề có cảnh "cô
chu trấn nhật các sa miên" (Thuyền đơn một chiếc ngủ qua ngày – Bến đò xuân đầu trại của Nguyễn Trãi) hay "Bến My Lăng nằm không,
thuyền đợi khách" (Bến Mi Lăng của Yến Lan). Cả những nhịp cầu "cầu bao nhiêu nhịp thương mình bấy nhiêu" (Ca dao) cũng không hề
xuất hiện. Tất cả bị phủ định: không một cái gì đó gợi về tình người, lòng người muốn gặp gỡ lại qua nơi đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ
thế chạy dài vô tận như hai thế giới cô đơn, không chút “niềm thân mật” của những tâm hồn đồng điệu. Nó giống như là hai thế giới không có
bất kỳ liên hệ nào với nhau. Dẫu ở gần mà cũng thành xa xôi không thể với tới giống câu nói: “gần ngay trước mắt xa tận chân trời”. Giữa đất
trời sông nước bao la không tìm được một người bạn tâm giao tri kỷ, không ai có thể hiểu nỗi lòng của tác giả, làm cho nỗi cô đơn như con
sóng xô từng đợt trong lòng, cảm thấy mình thật bé nhỏ, bất lực. Không có con người, không có sự tương giao, tất cả đều "lặng lẽ", chỉ có
thiên nhiên "bờ xanh" nối tiếp thiên nhiên “bãi vàng” hoang vắng.
5. Khổ thơ 4:
Nếu như ba khổ thơ trước nhà thơ chủ yếu miêu tả cảnh vật Tràng giang mênh mông vô tận với hình ảnh dòng nước, bờ bãi, cái
bến, cồn…rồi mở rộng ra lên bầu trời và qua cảnh vật để nói đến tâm trạng thì trong khổ thơ cuối cùng này, cảnh vật và tâm trạng được miêu
tả chia đều trong bốn câu thơ. Trong đó, hai câu đầu miêu tả cảnh vật và hai câu sau miêu tả tâm trạng.
5.1. Hai câu thơ đầu:
Hai câu thơ đầu của khổ thơ cuối cùng tiếp tục miêu tả bầu trời tràng giang vào thời điểm cụ thể là vào lúc chiều tà. Bức tranh thiên
nhiên được gợi lên trong hai câu thơ thật là kỳ vĩ, hoành tráng. Thường thì buổi chiều hay gợi cho ta sự tàn tạ, ảm đạm nhưng cảnh chiều ở
đây lại thật rạng rỡ. Những đám mây trắng cuộn lên ở phía chân trời thành một không gian rộng lớn bàng bạc. Từ láy “lớp lớp” gợi liên tưởng
đến về những đám mây chiều tầng tầng lớp lớp chồng chất lên nhau. Theo Huy Cận từ “đùn” trong câu thơ được ông học trong bài thơ “Thu
hứng” của nhà thơ Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Từ “đùn” gợi chuyển động của những đám mây cứ cuộn lên và mở rộng ra mãi. Tuy
nhà thơ Huy Cận đã sử dụng hình ảnh trong thơ cổ nhưng câu thơ vẫn có vẻ đẹp riêng rất hiện đại.
Trong bài thơ nghệ thuật đối cũng được nhà thơ Huy Cận cận dụng linh hoạt và với tần số cao. Đó là sự đối lập giữa con thuyền và
cành củi, cánh bèo trôi vô định ở những khổ thơ trước để nhấn mạnh sự nhỏ bé của chúng trước sự mênh mông, rộng lớn bát ngát của cảnh
vật Tràng giang. Còn đến hai câu thơ này, ta lại thấy nghệ thuật đối lập giữa hình ảnh cánh chim và hình ảnh bầu trời tràng giang. Sự đối lập
ấy tô đậm sự khoáng đạt của bầu trời chiều nhưng cũng cho thấy sự bé nhỏ, đơn chiếc của cánh chim. Giữa nền trời màu bạc khoáng đạt ấy
cánh chim chỉ là một chấm đen nhỏ bé, đơn chiếc. Đã là "cánh nhỏ" mà lại chao nghiêng nên nét thanh mảnh của cánh chim càng dễ biến mất
giữa khoảng không vô tận. Huy Cận là người chịu ảnh hưởng khá nhiều của thơ ca truyền thống. Thơ ca xưa nay khi miêu tả buổi chiều
thường nhắc đến hình ảnh cánh chim bay giữa bầu trời chiều. Đó là hình ảnh “Chúng điểu cao phi tận” trong thơ Lí Bạch. Ca dao Việt Nam
có câu:
“Chim bay về núi tối rồi”
Trong thơ Nguyễn Du có hai câu thơ miêu tả cảnh chiều cũng nhắc đến hình ảnh cánh chim:
4
Chim hôm thoi thót về rừng
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành
Cảnh hoàng hôn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng có cánh chim:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Nhưng có lẽ cái hay trong câu thơ miêu tả cánh chim chiều của Huy Cận là màu sắc hiện đại. Sắc hoàng hôn bát ngát trên trang thơ,
cánh chim bé bỏng nghiêng chao gợi lên bao nhiêu xúc cảm. Con chim đường như chao nghiêng đôi cánh để kéo bầu trời xuống hay là đôi
cánh của nó đang chao nghiêng đi vì sức nặng của buổi chiều đang buông, bóng tối đang lấn dần. Đặc biệt, hình ảnh bầu trời và cánh chim ít
nhiều khiến người đọc cảm nhận được sự nhỏ bé của con người trước trời đất vũ trụ bao la. Câu thơ hay là ở chỗ đã hiện đại hóa được một
hình ảnh thơ đậm chất cổ điển. Chất hiện đại của câu thơ còn nằm ở dấu hai chấm thần tình. Dấu hai chấm giữa câu thơ đã gợi mối quan hệ
giữa cánh chim và bóng chiều, thể hiện buổi chiều tối dần, màn đêm bắt đầu buông xuống khiến con chim chao nghiêng cánh, vội vàng tìm về
với tổ ấm. Bức tranh cảnh vật được gợi lên từ hai câu thơ ít nhiều cũng gợi cả tâm trạng và tâm trạng vẫn là nỗi buồn. Có thể nói, nỗi buồn
chính là tâm trạng xuyên suốt trong bài thơ này.
5.2. Hai câu thơ sau:
Hai câu thơ là tâm trạng nhớ nhà nhớ quê của tác giả. Tâm trạng ấy vốn được gợi ra từ hình ảnh cánh chim bay về tổ trong buổi
chiều tà ở hai câu thơ trước nhưng đến hai câu thơ này mới trở nên rõ ràng hơn. Trong thơ ca xưa nay, thi liệu cánh chim nhỏ bé, đơn chiếc
giữa bóng chiều tà luôn gợi cho những kẻ xa nhà, lữ thứ nỗi nhớ nhà nhớ quê và niềm khao khát được sum họp gia đình. Hình ảnh cánh chim
giữa cảnh vật Tràng giang mênh mông bát ngát cũng là sự tiếp nối của thơ ca cổ điển, cũng gợi cho Huy Cận tâm trạng nhớ nhà, nhớ quê. Nối
tiếp mạch thi cảm của người xưa, Huy Cận chính là "một người của đời, một người ở giữa loài người", tình cảm cảm xúc trong thơ ông suy
cho cùng vẫn là những tình cảm cảm xúc của con người nói chung. Sức sống lâu bền của Tràng giang chính là bởi có lẽ nó đúng là một tác
phẩm có giá trị như quan niệm của nhà văn Nam Cao: “Một tác phẩm thật có giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải
là một tác phẩm chung cho cả loài người”. 
Hai câu sau được Huy Cận lấy lại ý trong bài thơ “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khỏi sóng cho buồn lòng ai
Thôi Hiệu là nhà thơ đời Đường và lầu Hoàng Hạc là một di tích lịch sử, một cảnh đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh nằm ngay bên
bờ sông Trường giang ở Trung Quốc. Từ lầu Hoàng Hạc, Thôi Hiệu ngắm cảnh sông Trường Giang vào lúc hoàng hôn, nhìn thấy khói sóng
trên sông, hướng về phía quê hương khuất sau màu hoàng hôn mà nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Hai câu thơ của Huy Cận cũng nói về tâm
trạng của con người trước cảnh sông nước vào buổi chiều tà, cũng là tâm trạng nhớ nhà, nhớ quê hương. Tuy nhiên so với thơ Thôi Hiệu thì
thấy tâm trạng của người xưa là có sự tác động của ngoại cảnh, phải nhìn thấy khói sóng ở trên sông mới thấy nhớ nhà nhớ quê. Còn tâm
trạng nhớ nhà, nhớ quê trong hai câu thơ của Huy Cận thì không hề chịu tác động của yếu tố ngoại cảnh nào. Tâm trạng ấy như thể đã có sẵn
ở trong lòng, có sẵn trong từng con sóng của dòng Tràng giang. Bởi vậy có thể nói cảm xúc thơ của Huy Cận có phần sâu sắc hơn và nỗi nhớ
nhà nhớ quê cũng thường trực hơn. Đúng như nhà thơ Huy Cận tâm sự: Vì lúc đó tôi buồn hơn là Thôi Hiệu buồn. Nhà thơ còn lưu ý người
đọc về hai chữ “dợn dợn”. Theo ông, có người đọc chệch thành “dờn dợn” mà “dờn dợn” thì nó chẳng có ý nghĩa gì. Còn từ láy “dợn dợn” thì
không chỉ thể hiện nỗi buồn, nỗi nhớ nhà nhớ quê có trên từng con sóng của dòng Tràng giang mà hơn nữa,“dợn dợn” còn thể hiện được cảm
giác rợn ngợp của con người trước cảnh đất trời mênh mông, vô tận, tô đậm thêm cảm giác vũ trụ cho bài thơ.
Toàn bộ bài thơ Tràng giang đã miêu tả cảnh vật sông nước mênh mang vô tận. Cảnh vật nhìn chung là vắng lặng không có dấu
hiệu của sự sống con người, không có lấy một âm thanh. Khổ thơ cuối khép lại bài thơ bằng hai nét vẽ động, đó là chuyển động của cánh
chim, của đám mây chiều. Có nét vẽ động nhưng bức tranh cảnh vật không trở nên sinh động hơn, vui tươi hơn mà chỉ tô đậm thêm nỗi buồn
đang đầy vơi trong lòng thi sĩ. Có thể thấy rất rõ, trong nỗi buồn, sự bất lực của chính mình, Huy Cận đã viết lên những dòng thơ ca hát về
non sông đất nước. Ông đúng là người thi sĩ mà B. Shelly từng nhắc đến: “thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những
tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình”.
* Đánh giá:
Với thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3 quen thuộc, mang phong vị đường thi đậm nét, nghệ thuật đối ý giữa cảnh vật Tràng giang
mênh mông bát ngát với cánh chim chiều không chỉ làm nổi bật cảm xúc vũ trụ, cảm giác của con người trước vũ trụ bao la rộng lớn mà còn
tạo giọng thơ, cấu trúc thơ cân đối nhịp nhàng. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ sáng tạo với các từ láy lớp lớp, dợn dợn; nghệ thuật sử dụng dấu
hai chấm trong câu thơ và đặc biệt là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã làm nổi bật ý nghĩa chủ đề của đoạn thơ.
Khổ thơ đã bộc lộ rõ nhất tâm trạng nhớ nhà nhớ quê của Huy Cận, nhớ một cách da diết, nhớ ngay cả khi đang ở trên quê hương
của mình. Đoạn thơ đi thế cũng thể hiện nghĩa chung của cả bài đó là tình yêu quê hương, đất nước rất kín đáo mà sâu nặng.
III. KẾT LUẬN
1. Nghệ thuật
Bài thơ “Tràng giang vừa mang đặc điểm thơ cổ điển vừa mang tính hiện đại rõ nét. Thể thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp truyền
thống là 4/3, bút pháp tả cảnh ngụ tình, nghệ thuật đối chủ yếu là đối ý chứ không phải trong câu thiên về nghiêm luật tạo không khí trang
trọng, sự tương xứng nhịp nhàng. Bên cạnh đó việc láy lại vần “ang” và các từ láy song song, điệp điệp, chót vót, lớp lớp, việc học lại ý thơ
cổ điển … cũng là những yếu tố tạo nên cổ điển cho bài thơ. Tính chất hiện đại thể hiện ở thi liệu rất mới mẻ, quan niệm Mỹ học chịu ảnh
hưởng từ phương Tây, cách kết hợp từ mới lạ “sâu chót vót”…cách thể hiện những chuyển động ngược hướng thể hiện tính chất phân li của
cuộc đời, sử dụng sáng tạo các dấu câu …
2. Nội dung
Bài thơ “Tràng Giang” đã vẽ trước mắt ta những một bức tranh cảnh vật tràng giang hùng vĩ, với cách nhìn độc đáo vừa gần vừa xa,
vừa cao vừa sâu. Bức tranh mà Huy Cận tạo nên với những hình ảnh gần gũi như sông nước, bến, thuyền… vừa mang một vẻ đẹp vừa cổ kính
vừa hiện đại vừa rất Việt Nam. Nhưng bao trùm không gian ấy là một nỗi buồn. Đó không chỉ là nỗi buồn cô đơn lẻ loi của chính tác giả mà
còn là nỗi buồn chung của một thế hệ các nhà thơ mới 1930 – 1945, của những kẻ “bơ vơ như những đứa con lạc mẹ” trước bối cảnh xã hội
đương thời. Nỗi buồn được thể hiện trong bài thơ là nỗi buồn sông núi, gắn với tình yêu quê hương đất nước.

You might also like