Professional Documents
Culture Documents
Tràng Giang
Tràng Giang
Bài thơ có tựa đề Tràng giang, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề, Tràng giang chứ
không phải
Trường giang và Tràng giang đều có cùng một ngữ nghĩa. Nhờ cách điệp vần
ang, Tràng giang góp
phần tạo nên âm hưởng vang xa, trầm hùng của câu thơ mở đầu, tạo nên chỗ
dựa cho toàn bộ giọng
điệu cả bài thơ. Mặt khác, Tràng giang còn gợi lên được hình ảnh con sông vừa
là trường giang vừa
là đại giang. Phải chăng, đấy là sông Hồng, hoặc sông Cửu long, bền bỉ muôn
đời, đã từng chứng
kiến bao thăng trầm của lịch sử? Và suy cho cùng, sức mạnh của hai câu thơ
trên không phải là
nghệ thuật miêu tả. mà ở nghệ thuật khêu gợi; khêu gợi được cả cả xúc và ấn
tượng về một nỗi
buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và theo thời gian (điệp
điệp).
Huy Cận cũng như phần đông các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh
hưởng khá rõ
của thơ tượng trưng phương Tây thể kỉ XIX. Trong bài Tình trai, Xuân Diệu đã
tự ví mình và Huy Cận
như là đôi bạn Rem-bô (1854-1891) và Véc-len (1844-1896) của thơ ca Pháp.
Tuy vậy, Huy Cận còn
là người rất thích thơ Đường và trân trọng vốn thơ ca dân tộc. Ngay từ buổi
thiếu niên, tác giả đã
thuộc lòng khá nhiều ca dao, thơ của Lí Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu…Sau này,
trong sáng tác của ông,
người đọc ít nhiều cảm nhận được dấu ấn của Đường thi cũng như thơ tượng
trưng của Pháp. Có
điều đáng chú ý là chúng đã Việt hóa, nói cho đúng hơn là đã được Huy Cận
hóa một cách thật
nhuần nhị. (trong bài Tràng giang và cũng như trong toàn bộ sáng tác của Huy
Cận trước Cách
mạng, dường như ít nhiều có sự gặp gỡ của hai thành tựu thơ phương Đông và
thơ phương Tây thế
kỉ XIX. Tiếc rằng vấn đề ấy chưa thể đặt ra ở bài này).
Trong khổ thơ đầu cũng như toàn bộ bài Tràng giang nghệ thuật đối của thơ
Đường đã được
vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu đối về ý, chứ không bị câu thúc về niêm,
luật, như cách đối trong
thơ cổ. Chẳng hạn “Sóng gợn trnafg giang buồn điệp điệp” có thể coi là đối với:
“Con thuyền xuôi mái
nước song song”; “Nắng xuống trời lên sâu chót vót” đối với: “Sông dài, trời
rộng, bến cô liêu”. Hoặc,
ở một cấp độ khác: “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng/ Mênh mông không một
chuyến đò ngang” lại
cũng có thể đối với: “Không cầu gợi chút niềm thân mật/ Lặng lẽ bờ xanh
tiếp bãi vàng”…Nghệ thuật
đối ý (và đối xứng) nói trên; một mặt làm cho giọng điệu của bài thơ uyển
chuyển, linh hoạt (tránh
được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với một số tác theo luật Đường
hồi đầu thế kỉ này); mặt
khác vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của thơ Đường luật,
tạo được không khí sang
trọng. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như “điệp điệp”, “song song”
cũng có hiệu quả nhất định
gợi âm hưởng cổ kính, gần với thơ xưa. Nhưng Tràng giang vẫn là một bài
thơ hiện đại. trước hết,
hiện đại ở hình ảnh, ở thi liệu:
Vào những năm 30, đây là những câu thơ mới mẻ; bởi trong đó xuất hiện
cái tầm thường nhỏ
nhoi, vô nghĩa như: “Củi một cnafh khô”. Thơ xưa hầu như thiếu vắng cái
hiện thực thô ráp, sống sít
của đời thường. Đến các nhà Thơ mới, nó có mặt trong thi ca. Điều này
được coi là một trong những
biểu hiện của “cuộc cách mạng trong thơ” (Hoài Thanh). Hình ảnh một
cành củi khô đơn lẻ trôi bồng
bềnh, trên dòng sông mênh mông sóng nước gợi lên nỗi buồn về kiếp người
nhỏ bé, vô định.
Đến khổ thơ thứ hai, nỗi buồn càng như thấm sâu vào cảnh vật:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Theo Huy Cận, từ “đìu hiu” ông học được trong bản dịch Chinh phụ
ngâm: "Non kỳ quạnh quẽ
trăng treo/ Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò". "Đìu hiu"
gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn... Chợ
chiều thường buồn tẻ, không có được cái nhộn nhịp, hào hứng của chợ
sáng, chợ trưa. Đoàn Văn
Cừ đã đặc tả thành công nét buồn này bằng những câu kết của bài thơ Chợ
Tết nổi tiếng: "Ánh
dương vàng trên cỏ kéo lê thê/ Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ".
Thế mà, trong Tràng giang, tiếng
chợ chiều đã vãn từ một làng xa nào đấy cũng không còn nữa, tất cả đều
vắng lặng, cô tịch:
Là những câu thơ có giá trị tạo hình. Không gian được mở rộng, và đẩy cao
thêm. "Sâu" gợi ởlên
cho người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng, "chót
vót" khắc họa chiều cao vô tận. Có lẽ,
vòm trời trong xanh của mùa thu được lòng sôn mênh mông phản chiếu,
cho nên ta có ấn tượng cả
về chiều rộng, chiều sâu và chiều cao. Càng rộng, càng sâu, càng cao, thì
cảnh vật càng thêm vắng
lặng; chỉ có sông dài, với bến bờ lẻ loi, xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ
thấm vào không gian ba
chiều. Con người trở nên bé bỏng, có phần rợn ngợp trước vũ trụ vĩnh
hằng, rộng lớn, không khỏi
thấy "lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời
gian". Ấn tượng nói trên lại được
tô đậm thêm ở khổ thơ tiếp theo:
Vẫn trong mạch cảm xúc ở hai khổ đầu, nỗi buồn càng được khắc sâu qua
hình ảnh những cánh
bèo trôi dạt lênh đênh. Bên cạnh những hình ảnh thuyền và nước như cùng
trôi về cõi vô định, hình
ảnh cành củi khô bập bềnh trên sông nước ở khổ một, đến khổ thơ này, ấn
tượng về sự li tán, tan
tác được láy lại một lần nữa, càng gợi thêm một nỗi buồn mênh mông.
Toàn cảnh sông dài, trời rộng
tuyệt nhiên không có bóng con người; "không một chuyến đò",
đồng thời cũng không có lấy một cây
cầu - nhờ chúng có thể tạo nên sự gần gũi giữa con người, với con người;
mà chỉ có thiên nhiên (bờ
xanh) nối tiếp với thiên nhiên (bài vàng) xa vắng.
Như vậy, sự cô quạnh đã được thi sĩ đặc tả độc đáo bằng chính cái không
tồn tại. Thực ra, điều
này còn có thể nhận thấy ở khổ hai (“Đâu tiếng làng xa…”) và ở cả khổ
bốn ("Không khói hoàng
hôn..."), nhưng rõ nhất vẫn là ở khổ ba. Bởi vậy, có thể nói, thái độ
phủ định thực tại của tác giả nằm
ngay ở trong kết cấu của bài thơ.
Khổ kết bài thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường, mà vẫn giữ
được nét riêng biệt của
Thơ Mới, và vẫn thể hiện nét độc đáo của hồn thơ Huy Cận:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiềụ sa,
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thiên nhiên buồn, nhưng cũng thật tráng lệ. Mùa thu, những đám mây
trắng đùn lên trùng điệp ở
phía chân trời. Ánh dương phản chiếu trông những đám mây ấy lấp lánh
như những núi bạc. Nét đặc
trưng của mùa thu này đã được Đỗ Phủ (712-770) mô tả trong bài Thu
hứng: "Giang gian ba lãng
kiêm thiên dũng/ Tái thượng phong vân tiếp địa âm", Nguyễn Công
Trứ đã dịch một cách tài hoa:
"Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm/ Mặt đất mây đùn cửa ải
xa". Lấy lại ý thơ của người xưa, hình
ảnh "mây cao đùn núi bạc" tạo được ấn tượng về sự hùng vĩ
của thiên nhiên. Trước cảnh sông nước
mây trời bao la và hùng vĩ, bỗng hiện lên một cánh chim bé bỏng, nghiêng
cánh báo hiệu bóng chiều.
Hình ảnh cánh chim đơn lẻ, trong một buổi chiều ta cũng dễ gợi lên một
nỗi buồn xa vắng. Nhưng
điều đáng nói hơn ở đây chính là hiệu quả của nghệ thuật đối lập, đối lập
giữa cánh chim nhỏ bé với
vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng, điều này đã làm cho cảnh thiên nhiên
rộng, thoáng, và đặc biệt
cũng buồn hơn?.
Như vậy, đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn ở bài
thơ này cũng như
phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới, trước hết, chính là nỗi buồn của
cả thế hệ, của cả dân tộc,
trong những năm ngột ngạt, đen tối, dưới thời thuộc Pháp. Vả chăng, có lẽ
nỗi buồn nói trên còn xuất
phát từ chính quan niệm mĩ học tự giác, hoặc chưa tự giác của các nhà thơ
lãng mạn đương thời.
Theo họ, cái đẹp thường đi sóng đôi với cái buồn. Sác-lơ Bô-đơ-le(1821-
1867) người được Rem-bô
mệnh danh là "hoàng đế của các nhà thơ" có ảnh hưởng khá
rõ đến các nhà thơ Việt Nam trong
phong trào Thơ mới đã từng có câu thơ nổi tiếng: "Em cứ đẹp, và em
cứ buồn". Và nói cho công
bằng, cái buồn của Huy Cận ở bài thơ này, trước sau vẫn là cái buồn trong
sáng, góp phần làm
phong phú thêm tâm hồn của bạn đọc; nó cũng giống "cái buồn đã
làm nên sức hấp dẫn mê hồn của
thơ ca dân gian Nga", như Bê-lin-xki (1811-1848) đã nhận xét.
Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo nên được những vang hưởng kỳ lạ do tác giả đã
chọn được thể thơ
thích hợp (gần với thể cổ phong), vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu
quả, với tần số cao hệ
thống từ láy (10 lần trong 16 dòng thơ ), và cách ngắt nhịp truyền
thống...Chất cổ điển đặc biệt rõ ở
câu kết. Thôi Hiệu(704-754) nhìn khói sóng nhớ đến quê hương
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị?/
Yên ba giang thượng sử nhân sầu" (Hoàng Hạc lâu), Tản Đà dịch:
"Quê hương khuất bóng hoàng
hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?". Huy Cận không cần có
"khói sóng"- cái gợi nhớ- mà
lòng vẫn ”dợn dợn" nhớ nhà. Rõ ràng, nỗi nhớ của Huy Cận da diết
hơn, thường trực hơn và cháy
bỏng hơn; do đó, hiện đại hơn!
Cổ kính, trang nghiêm, Tràng giang còn là một bài thơ rất Việt Nam. Dòng
sông sóng gợn, con
thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng bềnh, cánh bèo lênh đênh, chợ
chiều của làng quê, cánh
chim trong buổi chiều tà ...thật gần gũi với chúng ta. Đọc bài thơ này, nhiều
người nhớ đến cái làng
sơn cước heo hút bên bờ sông Thâm, cạnh núi Mồng Gà, thuộc đất Hương
Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nơi
chôn rau cắt rốn của nhà thơ. Suy cho cùng, "Tràng giang là một bài
thơ ca ngợi non sông đất nước,
do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc" (Xuân Diệu).
VẺ ĐẸP CỔ ĐIỂN và HIỆN ĐẠI TRONG TRÀNG GIANG của HUY CẬN
Gợi ý:
1. Đề tài cảm hứng:
- “Tràng giang” mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người nhỏ bé hữu hạn trước thời gian, không
gian vô hạn của đất trời.
- “Tràng giang” đồng thời thể hiện nỗi buồn thế hệ của một cái tôi thơ Mới thời mất nước chưa
tìm thấy lối ra:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”
2. Chất liệu thi ca:
- Ở “Tràng giang” ta bắt gặp hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ( tràng giang, bờ bãi đìu hiu, cánh
chim trong bóng chiều, khói hoàng hôn...). Nhiều hình ảnh, tứ thơ được gợi lên từ thơ cổ (lớp lớp
mây cao...)
- Mặt khác, “Tràng giang” cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường,
không ước lệ (củi khô, tiếng vãn chợ chiều...)
3. Thể loại và bút pháp
- “Tràng giang” mang đậm phong vị cổ điển qua việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ bảy chữ với
cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối, bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi nhiều hơn tả, những từ
Hán Việt cổ.
- Song “Tràng giang” lại cũng rất mới qua xu hướng bày trực tiếp cái tôi trữ tình (buồn điệp điệp,
sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà) qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn cảm
xúc cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn dợn).
KẾT LUẬN:
“Tràng giang” của Huy cận không chỉ là một bức tranh phong cảnh, mà còn là một bài thơ về tâm
hồn. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, trước cuộc đời, luôn luôn khao khát hoà hợp
cảm thông trong tình đất nước, tình nhân loại. Từ đề tài, cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu, bút
pháp, “Tràng giang” vừa mang phong vị thi ca cổ
điển, vừa mang chất liệu hiện đại của thơ. Vẻ đẹp ấy cũng là nét đặc trưng của phong cách Huy
Cận.
Nguồn: sưu tầm
VỀ BÀI THƠ TRÀNG GIANG
Ngày câu đầu bài thơ không chỉ nói sông, mà nói buồn, nói về một nỗi buồn bất
tận, bằng một
hình ảnh ẩn dụ: sóng gợn tràng giang trùng trùng điệp điệp, như nỗi buồn trùng
trùng điệp điệp. Giữa
tràng giang mà điểm nhìn nhà thơ tụ vào con sông nhỏ, rát nhiều, hiện ra rồi tan,
muôn thuở. Con
thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, cô đơn, vô định.
Ở đây con thuyền
buông mái chèo xuôi theo dòng nước, nhưng thuyền và nước chỉ “song song”
với nhau chứ không
gắn bó với nhau, bởi nước xuôi trăm ngả, thuyền theo ngả nào? Thuyền đi với
dòng để rồi chia li với
dòng. Câu thứ ba đã nói tới sự chia li: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”.
Thuyền buồn vì phải rẽ
dòng. Nước buồn như không biết trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện
tập trung cho kiếp
người nhỏ nhoi, lạc lõng, vô định: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Cái nhìn
của nhà thơ vẫn tập
trung vào các vật nhỏ: “sông, thuyền, củi khô”.
Tác giả lưu ý, không phải cây gỗ, mà chỉ là “củi một cành khô”, một mảnh rơi
gẫy, khô xác của
thân cây.
Cả khổ thơ đầu đã vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ
hững. Những
đường nét: “nước song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng”
không hứa hẹn gì về hội
tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa vời. Trên con sông đó một con thuyền, một
nhánh củi lênh đênh
Thích Văn Học – thichvanhoc.com – sưu tầm và biên soạn tài liệu Ngữ Văn
2
càng tỏ ra nhỏ nhoi, bất lực. Ở đây không chỉ thuyền buồn, cành củi khô buồn,
mà cả sóng gợn, sông
nước đều buồn.
Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ khổ đầu:
Vẫn các sự vật đặt bên nhau: bèo nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng, hai bờ sông
mênh mông
không cầu, không đò ngang, tạo thành một thế giới không liên hệ. Từ sóng,
thuyền, củi, dòng trôi,
đến cồn nhỏ, làng xa chợ chiều, rồi nắng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng, bến
vắng…mọi vật thì
vẫn có nhưng không có vật nào có ý tìm nhau, đến với nhau, cần đến nhau.
Lớp lớp mây cao đùn ra thành từng núi mây bạc. Chữ “đùn” mượn từ thơ cổ của
Đỗ Phủ, nói
rằng mây trồi ra, lừng lững như núi trên trời có một vẻ đe dọa. Cánh chim bé
nhỏ (lại bé nhỏ!)
nghiêng nghiêng bay về tổ ấm được cảm nhận như chịu sức nặng của bóng
chiều đè xuống. Bóng
Thích Văn Học – thichvanhoc.com – sưu tầm và biên soạn tài liệu Ngữ Văn
3
chiều mông lung bỗng trở thành có hình khối như có thể cảm nhận được bằng
đôi cánh chim nhỏ. Và
cánh chim bay đi đâu cho thoát khỏi cái bóng chiều đang đè nặng xuống mình?
Lòng quê là lòng nhớ quê hương, lấy từ hai chữ hương tâm, chứ không phải là
tấm lòng chất
phác, quê mùa. Dợn là gợi lê, như ta nói sóng dợn, chỉ một chất lỏng xao động
chuyển động dâng
lên, uốn xuống. Dợn dơn là dợn liên tục, nhiều lần, không phải là dờn dợn, chỉ
mức độ xao động
thấp. Ý nói hô ứng với mấy chữ “sóng gợn”, ‘điệp điệp” ở dòng đầu bài thơ.
Chính vì vậy mà nhà thơ
phiền lòng khi thấy người ta đọc chệch thành dờn dợn hay rờn rợn, làm mất
nghĩa câu thơ.
Cả câu này có nghĩa là lòng nhớ quê hương dâng mãi lên khi phóng tầm mắt
nhìn con nước.
Chữ “vời”, cũng hay, ta cảm thấy như gặp ý câu Kiều:
Lòng nhớ quê được gợi lên từ mây trắng, từ cánh chim chiều, nhưng mạnh hơn
là từ con nước.
Và nhà thơ kết thúc bài thơ bằng câu: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Viêt câu thơ này
chứng tỏ Huy Cận đã biết có câu thơ Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu do Tản
Đà dịch: “Quê
hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Nhà thơ
dựa ý thơ Thôi Hiệu
để nói ý mình.
Nhiều người, kể cả nhà thơ, khi đọc đến câu này đều nói rằng Huy Cận buồn
hơn Thôi Hiệu, bởi
Thôi Hiệu trông “khói sóng” mới nhớ nhà, còn Huy Cận thì ngược lại, “Không
khói hoàng hôn cũng
nhớ nhà”. Thực ra, ai buồn hơn ai làm sao mà xác định được. Điều quan trọng là
Huy Cận có một ý
thơ khác. Xưa Thôi Hiệu buồn vì cõi tiên mờ mịt, quê nhà cách xa, khói sóng
trên sông gợi lên cảnh
mờ mịt mà sầu. Nay Huy Cận buồn trước không gian hoang vắng, sóng gợn
tràng giang khiến ông
nhớ tới quê hương như một nguồn ấm áp. Xưa Thôi Hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ
thấy hư vô, lòng khát
khao một cõi quê hương thực tại. Nay Huy Cận một mình đối diện với khung
cảnh vô tình, dợn lên
nỗi khát khao quê nhà ấm áp. Một đằng là ý thức về thực tại, một đằng là ý thức
về tình người.
Tràng giang là một bài thơ buồn, dòng nào cũng buồn. Cái buồn toát ra từ
những vật bé mọn,
như những kiếp người cô đơn, lạc lõng giữa không gian bao la. Nhưng Tràng
giang là một bài thơ vẽ
lên một phong cảnh đẹp, giàu màu sắc (núi bạc, bờ xanh, bãi vàng), nhiều
đường nét hùng vĩ, mở ra
vô tận (buồn điệp điệp, sâu chót vót, sông dài, trời rộng…) nhiều tương phản,
nhiều độngtừ chỉ sức
sống rộn ràng: sóng gợn, mây đùn, thuyền về, nước lại, nắng xuống, trời lên…
Cái buồn của bài thơ
rõ ràng không phải do cảnh vật tàn phai, không gian chật hẹp tù túng, mọi vật
chết chóc, ngưng
đọng. Cái buồn như toát ra từ cấu tạo của thế giới, từ cái đẹp thiếu tình người,
từ một sự mất mát
các mối liên hệ có tính phổ quát gây nên. Một cái buồn đậm màu triết lí. Nỗi
buồn này cũng phản ánh
sự đổi thay của đời sống xã hội: xã hội cộng đồng truyền thống với vô vàn mối
dây liên hệ đã đứt
tung để thay vào một xã hội đô thị với những cái tôi rời rạc, bơ vơ.
Phân tích hai khổ thơ đầu thi phẩm “Tràng giang” của Huy Cận.
Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều là một thành quả nghệ thuật chứa đầy tâm huyết của người
nghệ sĩ. Bởi đó là nơi để họ gửi gắm những tình cảm sâu lắng nhất, những cảm xúc, khát
vọng chân thành nhất, mãnh liệt nhất về con người và về cuộc đời. Dưới mỗi con chữ sáng
tạo là biết bao xúc động, biết bao tình yêu cũng như nỗi đau đời trong tâm hồn nhạy cảm của
người cầm bút. Để rồi những tác phẩm văn chương đích thực ra đời từ những cảm xúc, những
chân thành và khát khao sáng tạo mãnh liệt của người nghệ sĩ, chứ không thể là một sản
phẩm hời hợt, máy móc hay áp đặt, nhạt nhẽo, nịnh bợ hay lòe bịp, mị dân hay là bởi chỉ để
thỏa mãn những thứ tầm thường. Huy Cận cũng vậy, ông đến với thơ những năm 40 của thế
kỉ trước mang trong mình là những xúc cảm về đời, về người khiến tâm hồn của chàng thi sĩ
ấy thấm thía một nỗi niềm khắc khoải khôn nguôi và có lẽ “Tràng giang” – thi phẩm tiêu biểu
cho hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt qua hai khổ thơ đầu, từng dòng
thơ thấm đượm nỗi sầu nhân thế của cái tôi ảo não:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
……………………………………
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Huy Cận - một nhà thơ lớn của phong trào thơ Mới giai đoạn 1932 – 1945. Là một tri thức
Tây học song lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho học nên thơ ông vừa phảng phất màu sắc
Đường thi, vừa mang hình ảnh con người cá nhân ảo não, cô đơn của văn học lãng mạn. Thi
phẩm được trích từ tập “Lửa thiêng” (1940), ngay từ đầu bài thơ Huy Cận đã đưa chúng ta
đến với một nét đẹp cổ điển mà ít ai có, chỉ khi đến với Hay Cận chúng ta mới cảm nhận
được. Đó là cách đặt tên nhan đề bài thơ, “Tràng Giang” là sông lớn, sông dài, mênh mông và
bát ngát. Nhưng tại sao ở đây tác giả không dùng “Trường Giang” mà lại là “Tràng Giang”?
Hai chữ “Tràng giang” đều là tiếng Hán cổ, ngay từ nhan đề đã mang đậm màu sắc Đường
thi. “Tràng” là biến âm của từ “Trường”, Huy Cận không gọi là “Trường giang” vì nó trùng
với tên một con sông của Trung Hoa, khác với mục đích mà nhà thơ muốn hướng tới. Điệp
vần “ang” vừa mở ra một bề dài rộng mênh mang cho dòng sông, vừa tạo dư ba cho nỗi buồn
bâng khuâng man mác của thi nhân. Dòng sông như được nới rộng tới vô cùng vô tận, giờ
đây nó không chỉ là một dòng sông đơn thuần mà còn là dòng đời, là dòng chảy thời gian
viên mãn, xa xăm của Đường thi vọng về thực tại. Nhưng rồi con đường về quá khứ đi càng
xa, càng cô tịch, tứ bề càng vắng lặng, càng mênh mông. Nhưng chính tràng giang này cũng
gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới những thân phận nổi trôi, bé nhỏ
sống lênh đênh trên con sông dài tâm tưởng và sông của nỗi u uất như thế. Lời đề từ “Bâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài” cũng đã mở rộng ra trước mắt chúng ta một không gian rộng
lớn “trời rộng, sông dài”, một nỗi buồn da diết “bâng khuâng ”, mông lung, mơ hồ, không thể
gọi tên. Một lần nữa lời đề từ lại khái quát nên chủ đề của bài thơ chính là nỗi niềm không
biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh mông và bao la. Đó chính là cảm hứng chủ
đạo của toàn bài thơ và cũng đồng thời tô đậm nét riêng trong hồn thơ Huy Cận trước năm
1945: nỗi buồn, nỗi sầu vạn kỉ trước không gian bao la không cùng của thiên nhiên và vũ trụ.
Mở đầu bài thơ, Huy Cận đã đưa người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nhiêu
là nỗi buồn sâu thẳm:
Mở đầu bằng hình ảnh sông nước mênh mông của “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”.
Tràng giang dài rộng đang trải ra từng đợt sóng điệp điệp không dứt. Với tài năng của mình,
tác giả khéo léo sử dụng âm Hán Việt “ang” cho danh từ “tràng giang” đã gợi ra một không
gian rộng lớn, rờn ngợp. Đây cũng là một trong những phong cách làm thơ rất nổi bật của
Huy Cận. Ông đã sử dụng nhịp thơ 4/3, đó là một cách ngắt nhịp quen thuộc của Đường thi.
Động từ “gợn” đã diễn tả làn sóng nhẹ nhàng có vẻ mong manh, mơ màng nhưng lại lan mãi
không thôi. Nỗi buồn trải ra cùng các gợn sóng, bao nhiêu gợn sóng là có bấy nhiêu nỗi buồn.
Với phép điệp ngữ “buồn điệp điệp”, đã gợi ra cho người đọc 2 cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất
là Sóng điệp điệp gối lên nhau mòn mỏi không dứt, những con sóng ấy hết lớp này đến lớp
khác triền miên, vô tận. Còn cách hiểu thứ hai là Nỗi buồn vì nhìn dòng sông mà gợn sóng
lòng. Đây chính là một sự sáng tạo độc đáo, mới mẻ bởi từ láy “điệp điệp” thường chỉ để
miểu tả hình ảnh núi sông kì vĩ, bao la, rộng lớn thì nay Huy Cận lại dùng nó để miêu tả nỗi
buồn. Ở đây nhà thơ miêu tả cái buồn của thiên nhiên hay cái buồn của con người, có lẽ là cả
hai bởi Nguyễn Du từng viết:
Dường như nỗi buồn của tâm cảnh đã nhuộm vào ngoại cảnh để rồi những nỗi buồn ấy gợi
lên theo từng đợt trong lòng thi nhân. Không chỉ từ láy nguyên "điệp điệp" mà còn từ "song
song" ở cuối câu thơ cũng mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét
đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên
nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng
"điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh
có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một
dòng "Tràng giang " dài và rộng bao la không biết đến nhường nào. Dòng sông thì bát ngát
vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng. Hai câu thơ kết hợp làm
cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Tác giả tiếp tục khắc họa
nỗi chia ly qua câu thơ thứ ba. "Thuyền" và "nước" vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít
với nhau nhưng qua con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này hai hình ảnh ấy không còn song
hành với nhau nữa. Nhưng với Huy Cận thì “thuyền về, nước lại”. Hai thế đối lập gợi ra cái
vô lí trong logic nhưng thực chất, xét ở bề sâu, bề sâu, bề xa, ta càng hiểu được hơn nỗi lòng
của người lữ khách miền sông nước. Thuyền là hiện diện của sự sống con người, nhưng đó
chỉ là sự xuất hiện thoáng qua trong giây lát, “con thuyền xuôi mái” là hình ảnh thực nhưng
cũng đầy chất suy tưởng nó gợi cho ta nhớ tới hình ảnh của những kiếp người trôi nổi, lạc
lõng không biết đi đâu. Phải chăng đó là mặc cảm chia lìa trong cảm nhận của Huy Cận khi
đứng trước sông dài trời rộng? Cũng như Hàn Mặc Tử khi còn nằm trên giường bệnh, nhìn ra
xa mà thấy “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Đó là nỗi buồn đầy ám ảnh trong mặc cảm
chia li. Thế nên Huy Cận “sầu trăm ngả”,đó là một nỗi buồn, sự u hoài, buồn bã càng ngày
càng dâng lên. Với câu thơ thứ tư tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ "củi một cành khô" để
nói về sự cô đơn, trơ trọi của "củi". Số từ "một" chỉ một mình, cô đơn cùng với tính từ "khô"
- hết nhựa sống, càng làm cho hình ảnh khô héo hơn. Tác giả thật tài tình khi đã sử dụng nghệ
thuật đối "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông. "Lạc mấy
dòng" không chỉ diễn tả nỗi niềm cô đơn của củi mà còn nói đến sự bấp bênh, trôi nổi khi
"lạc" hết dòng sông này đến dòng sông khác. Nét độc đáo của câu thơ không chỉ là phép đối
mà còn ở cách ngắt nhịp 1/3/3. Với cách ngắt nhịp ấy "củi" xuất hiện "độc lập" và điều đó
càng làm rõ hơn tình cảnh lẻ loi của sự vật này. Có thể nói, hình ảnh " củi một cành khô" đã
phần nào nói lên tâm trạng thi sĩ - một con người tài hoa nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc
sống bộn bề. Như vậy, Toàn bộ nỗi lòng của nhà thơ cuối cùng được kết đọng cả trong hình
ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Thơ ca từ cổ chí kim, nỗi buồn được cắt nghĩa dưới vô
vàn hình hài góc cạnh khác nhau. Có cái nỗi buồn khi thấy “cây ngô đồng, vàng rơi vàng rơi
thu mênh mông” (Bích Khê), có cái nỗi buồn trước “rặng liễu đìu hiu” (Xuân Diệu), lại có cái
buồn khi nghe thấy tiếng gà gáy não nùng trong thơ Lưu Trọng Lư. Nhưng có lẽ, buồn trước
một cành củi khô thì chưa bao giờ xuất hiện trong kho tàng văn học Việt Nam. Củi chỉ những
kiếp người nhỏ bé, bất hạnh, cũng trôi lênh đênh vô định trong dòng chảy của cuộc đời. Vậy
nên, “củi một cành khô lạc mấy dòng” là điều không thể tránh khỏi.
Tiếp đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bội:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Với tài năng cùng ngòi bút khéo léo, Huy Cận đã gây ấn tượng trong lòng độc giả là phép đảo
ngữ. Từ láy “lơ thơ” được đặt lên đầu câu, gợi sự vắng vẻ, ít ỏi và thưa thớt. Lác đác trên
dòng tràng giang mênh mông chỉ có vài cồn nhỏ nhưng vẫn là cái cảm giác thiếu sự sống xuất
hiện từ đầu bài thơ đến giờ. Bức tranh thiên nhiên sông nước ấy có phần tăng thêm sức sống
khi có thêm những “cồn nhỏ”. Những gò đất nổi lên giữa lòng sông ấy lại chỉ “lơ thơ” thưa
thớt gợi lên một sự đơn sơ, hoang vắng, “đìu hiu” cô quạnh khi những làn gió thổi qua.
Những cơn gió không ồn ào mà chỉ “đìu hiu” làm cho nỗi buồn của thi nhân như được nhân
lên khi đứng trước một không gian tiêu điều. Nỗi buồn vô hạn ấy lại được miêu tả qua một
không gian bao la. Cái bé nhỏ tương phản với cái mênh mông, vô cùng. Cồn thì nhỏ bé thưa
thớt, buồn bã: "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu". Vần lưng: "nhỏ - gió", kết hợp với láy âm: "lơ
thơ" và "đìu hiu", âm hưởng câu thơ như trĩu lòng người về một nỗi buồn hiu hắt, cô quạnh.
Nghệ thuật sử dụng từ láy tài ba, gợi lên màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc trở về với cổ
thi:
Hay:
Thay vì là bức tranh thiên nhiên như khổ một, khổ thơ thứ hai lại tái hiện cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày mà tiêu biểu nhất là hình ảnh chợ chiều thời điểm vãn. “Chợ” là nơi mà khi đến đó
ta biết được cuộc sống nơi đây có ấm no sầm uất hay không. Nguyễn Trãi đã từng viết: “Lao
xao chợ cá làng Ngư Phủ”, Đủ để thấy cái vui tươi nhộn nhịp của một phiên chợ. Huy Cận
không như thế, ông chọn cho mình thời điểm vãn chợ như một tín hiệu nghệ thuật đặc sắc.
Chợ vãn là khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn vỏ bưởi, vỏ thị, lá
nhãn và lá mía…” (Thạch Lam). Chi tiết gợi ra cái hoang tàn, xơ xác, hiu quạnh, heo hút của
làng quê miền sông nước, cũng là gợi mở cái buồn vô hạn trong lòng thi nhân. Chỉ với một từ
“Đâu” đã gợi cho chúng ta cảm giác mơ hồ không biết có phải là có âm thanh đó hay không,
tác giả cũng chỉ nghe thấy cảm nhận thấy chứ không được nhìn thấy. Âm thanh ấy cũng mờ
mờ ảo ảo, vừa thực mà vừa hư. Tưởng chừng như âm thanh xuất hiện làm con người thêm vui
nhưng chính nó lại khiến tác giả thêm cô đơn, lẻ lõi trên chính mảnh đất quê hương mình:
Nỗi sầu không chỉ nhuốm màu vào không gian mà còn trải dài theo thời gian bất tận. Không
gian được mở ra theo nhiều chiều vừa cao, vừa sâu, vừa rộng… “Nắng xuống” và “trời lên”
tạo nên một sự ngăn cách, chia li theo hai chiều đối nghịch “lên” và “xuống”. Đây là cảm
nhận mà chỉ khi đến với con người hiện đại chúng ta mới thấy mới cảm nhận được. Không
gian không chỉ được mở rộng theo chiều rộng, chiều cao mà còn theo chiều sâu. Nắng càng
xuống thấp, trời càng trở nên cao hơn ngả bóng xuống lòng sông sâu “chót vót”. Tác giả đã
sử dụng từ rất đặc biệt, không phải cao “chót vót” mà là “sâu chót vót” để làm nổi bật hai tiểu
đối: "nắng xuống" và "trời lên" kia, cái bao la, mênh mông đều rợn ngợp của dòng sông, bầu
trời và bến đò xa vắng. Con người trở nên bó nhỏ cô đơn trước vũ trụ bao la vô tận… “Sông
dài, trời rộng” cảnh vật càng rộng lớn, kì vĩ bao nhiêu thì con người càng bé nhỏ bấy nhiêu
với hình ảnh “bến cô liêu”- bến đã nhỏ lại còn hiu quạnh gợi đến cảm giác trống vắng cô đơn
đến tội nghiệp và trống vắng, trơ trọi.
Thành công của hai khổ thơ chính là sự sáng tạo nghệ thuật, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển
và hiện đại. Sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Góp lại những
trang thơ của Huy Cận ta không khỏi quên được nỗi buồn tê tái của thi sĩ trước cảnh vật, cảnh
nước mất nhà tan. Bài thơ mang một nỗi buồn thấm đẫm vào cả không gian thời gian. Bức
tranh thiên nhiên trong Tràng giang vừa có sự vận động, vừa hữu hình vừa vô hình, thời gian,
không gian phụ họa, hài hòa với nhau khiến cho cảnh vật càng lúc càng âm u, xa vắng, xúc
cảm càng nặng nề. Nỗi buồn của cảnh vật khiến cho lòng người càng thêm cô quạnh hay
chính nỗi buồn của lòng người khiến cho không gian cũng nhuốm màu u ám.
CHUYÊN MỤC REUP: Kiến thức TRÀNG GIANG – HUY CẬN. (Có liên hệ)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả.
- Trước CM : mang mang thiên cổ sầu (nhuốm cả không và thời gian).
- Sau CM : thay da, đổi thịt, đi từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui, từ chân trời
của 1 người đến chân trời của mọi người.
--> Tác giả mở rộng tấm lòng, đón những vang động của trời đất (sau CM).
- Sự nghiệp : Buồn đêm mưa, Nhớ hờ, Cuộc đời,..
2. Tác phẩm.
- Nhan đề : Tràng giang.
Tràng --> Trường.
Điệp vần --> sông dài ra.
Dòng chảy --> dòng đời.
Sử dụng từ Hán – Việt --> màu cổ điển.
==> Gợi dài rộng của địa lí, chiều sâu của văn hóa.
- Lời đề từ : Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
--> Cảm hứng không gian và nỗi buồn thiên cổ, định hướng cho bạn đọc trong tác phẩm có 2 bức
tranh : bức tranh thiên nhiên vũ trụ và bức tranh tâm trạng.
- Bố cục : chia 2 : 3 khổ thơ đầu và 1 khổ cuối.
II. Đọc – hiểu tác phẩm.
1. 3 khổ đầu.
a) Khổ thơ đầu.
Sóng gợn tràng giang/buồn điệp điệp (1)
Con thuyền xuôi mái nước song song, (2)
Thuyền về nước lại/sầu trăm ngả (3)
Củi một cành khô/lạc mấy dòng. (4)
(1) : Nhắc đến 2 đối tượng : sóng – tràng giang (thiên nhiên), con người (buồn điệp
điệp).
--> Khái quát nội dung, chủ đề chính (do triển khai theo cấu trúc diễn dịch).
Gợn : chuyển động lăn tan, nhẹ nhàng trên mặt nước. gợi lên sự đối lập giữa những con sóng
nhỏ bé, lăn tăn với 1 dòng trường giang dài rộng mênh mông.
==> Bức tranh gợi lên sự cô đơn, bé nhỏ, đơn chiếc, đó dường như không chỉ là sự cô đơn của
những con sóng, mà còn là sự cô đơn nhỏ bé của con ng trước vũ trụ rộng lớn, mênh mông.
--> Học tập tứ thơ nổi tiếng :
“Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến trường giang thiên tuế lưu”.
--> tiếp nhận từ thơ ca phương đông.
Buồn điệp điệp : bức tranh thiên nhiên và con người hòa quyện.
Điệp điệp --> miêu tả rõ trạng thái của nỗi buồn.
--> Sáng tạo độc đáo --> bình thường người ta chỉ dùng từ “điệp điệp” để miêu tả hình ảnh núi
sông, cho nên khi HC dùng từ này để miêu tả tâm trạng của con người thì người đọc có thể hình
dung được nỗi buồn trở đi trở lại, lan tỏa và kéo dài mãi không dứt.
--> Liên tưởng đến ca dao.
“Chiều chiều bước xuống ghe thuyền
Sông bao nhiêu sóng, dạ em buồn bấy nhiêu.”
(2) Thuyền và nước : thi liệu quen thuộc trong thơ ca phương Đông.
Nước song song : bị chia cắt, dù thuyền và nước ở cạnh nhau nhưng thể gặp nhau, thể hiện sự
chia xa, chia phôi.
--> Đến câu (3) khổ 1, thuyền lại được lặp lại.
HC đã tài tình đặt dấu phẩy ngay giữa câu thơ, đây là dấu câu đầy ẩn ý, nếu không có dấu câu thì
người đọc sẽ lầm tưởng là nỗi sầu trăm ngả đấy là của nước, sẽ hiểu sai, “đọc nhầm” tứ thơ. Phải
có dấu phẩy ngăn cách để thấy rằng thuyền và nước chuyển động : thuyền trở về, nước quay lại
muốn hội tụ và gặp gỡ nhưng lại bị nỗi sầu trăm ngả cuốn đi.
(4) Củi : thi liệu hoàn toàn mới mẻ, tuyệt chưa xuất hiện trong thơ ca cổ điển trước đó.
--> “Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước/Chọn một dòng hay để nước trôi”. (Tố Hữu)
Tố Hữu còn có quyền lựa chọn nhưng HC thì bị động, “củi” này không chỉ tượng trưng cho 1
người, mà còn tượng trưng cho lớp lớp những con người của thời đại bấy giờ.
b) Khổ 2.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu (1)
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều (2)
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót (3)
Sông dài trời rộng bến cô liêu. (4)
- Nhịp thơ 4/3 --> nhịp thơ cổ điển.
(1) Sự hiu hắt, sự quạnh vắng, xa vắng.
(2) Đâu đây vẳng lại, xa vắng, như có như k, vừa mơ hồ, vừa hoài nghi --> thủ pháp lấy động tả
tĩnh, dùng âm thanh để miêu tả sự tĩnh lặng --> vì chỉ có 1 không gian im ắng, tĩnh lặng mới có
thể nghiêng tai lắng nghe những âm thanh xa xôi và nhỏ bé, bức tranh này không vì có sự xuất
hiện của âm thanh mà trở nên sống động, ngược lại, vì có âm thanh nên càng thêm xa vắng, bởi vì
thanh âm này không phải là thanh âm “Lao xao chợ cá làng Ngư Phủ” mà là thanh âm vãn chợ
chiều.
(3) + (4) xây dựng cặp hình ảnh nắng xuống trời lên gợi 2 chuyển động ngược chiều nhau, nắng
càng đổ xuống, bầu trời càng cao lên, cặp hình ảnh này nó mở ra chiều rộng và chiều cao đến tận
cùng. 3 chữ tiếp theo “sâu chót vót” mở thêm chiều sâu của không gian.
Như vậy trong 1 câu thơ nhà thơ đã mở bung đến 3 chiều kích của không gian : cao rộng sâu.
Đến câu thơ cuối, HC tiếp tục mở tiếp chiều dài qua hình ảnh sông dài, từ đó tất cả các chiều
không gian đều mở đến tận cùng và nó gợi đến sự vô cùng, vô tận của vũ trụ. Nếu câu thơ dừng
lại ở đây, thì ng đọc sẽ chỉ cảm nhận được sự kì vĩ của vũ trụ mà không cảm nhận được nỗi buồn
của con người, nên HC thêm vào bức tranh hình ảnh “bến cô liêu”. Bến bãi nhỏ bé đặt trong
tương quan vũ trụ gợi đến cảm giác trống vắng cô đơn đến tội nghiệp và nhà thơ đã thêm 1 tính
từ “cô liêu” chỉ sự trống vắng, trơ trọi.
==> Cảm thức chung của mọi thế hệ.
c) Khổ 3.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng (1)
Mênh mông không một chuyến đò ngang (2)
Không cầu gợi chút niềm thân mật (3)
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. (4)
(1) bèo bị xô dạt, không tự làm chủ được phương hướng của mình, câu thơ được ngăn đôi bởi dấu
phẩy và chia làm 2 vế. Nếu vế 1 là chỉ có 1 thì vế 2 số lượng nhân đến nhiều lần, không chỉ có 1
cá thể, mà là cả 1 tập thể, cả 1 thế hệ đang không biết đi đâu về đâu. Đó là số phận của hàng hàng
lớp lớp con ng trong thời đại lúc bấy giờ.
Không ở (2) + (3) : điệp.
--> phủ định hàng loạt --> không có sự giao hòa, không có sự sống thân mật.
--> khẳng định 1 điều là không có bất kì 1 chuyến đò hay cây cầu nào cả, không có bất cứ 1 sự
kết nối nào giữa đôi bờ, tất cả đều chia lìa và tách biệt nhau.
==> Hình ảnh chuyến đò và cây cầu nó còn là biểu tượng về sự sống con người. Nhưng khi mà
đã phủ định là k có 2 hình ảnh này thì tức là tác giả đã khẳng định trong bức tranh mênh mông
của sông nước tràng giang, thì không có bất kì 1 dấu hiệu nào của sự tồn tại của con người.
(4) câu thơ cuối cùng của khổ 3 đã chốt lại toàn bộ sự lặng lẽ, mênh mông, quạnh hiu, hoang
vắng của cảnh sắc. Dường như ẩn sau bức tranh đấy là 1 khao khát đau đáu muốn tìm được hơi
ấm và sự kết nối không chỉ giữa con ng với tự nhiên mà còn là con người với con người.
2. Khổ cuối.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc (1)
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa (2)
Lòng quê dợn dợn vời con nước (3)
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. (4)
(1) + (2) :
Tăng cấp --> 2 câu đầu chuyển đổi điểm nhìn từ xa đến cao --> lồng lộng.
Người xưa nói “Thi trung hữu họa” và có lẽ 2 câu thơ này của HC là minh chứng tiêu biểu cho
điều đó, bằng ngôn ngữ, tác giả đã vẽ nên 1 bức tranh mĩ lệ, cảnh chiều tà đẹp, êm ả, thơ mộng.
(1) Mây cao đùn núi bạc, mở ra 1 bức tranh hùng vĩ, bầu trời cao, lớp mây trắng, đùn núi bạc, học
tập tứ thơ của Đỗ Phủ :
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. (Thu hứng)
(2) trong không gian đó nổi bật là hình ảnh cánh chim cô lẻ, tác giả sử dụng biện pháp tăng cấp,
cánh chim so với bầu trời cao rộng đã nhỏ bé, bây giờ lại càng trở nên bé nhỏ hơn.
Khi nghiêng cánh giữa bầu trời, tác giả đã dùng dấu “:” --> vế 2 giải thích nghĩa vế 1.
--> Bóng chiều, hoàng hôn đã đè nặng lên chú chim đấy khiến nó phải nghiêng cánh, đây không
chỉ là hoàng hôn của thiên nhiên, mà còn là hoàng hôn của thời đại, con người trong xã hội cũ
cũng giống như cánh chim, trĩu nặng 2 vai bởi những tầng áp bức của cuộc sống.
(3) + (4) : sóng nước thấm sóng lòng --> tràng giang không chỉ là 1 dòng sông mà còn là 1 dòng
cảm xúc.
- Nỗi nhớ của con người hiện tại nhưng dùng điểm nhìn hướng về quá khứ, vì hiện tại chỉ là chia
cắt, chỉ còn ly biệt, bức bối, chia phôi, còn quá khứ thì vàng son, huy hoàng, vang bóng.
--> Đứng trên quê hương mà nhớ quê hương.
==> Tâm sự của cả 1 thế hệ -> vượt qua ranh giới của quốc gia.
“chim đỗ quyên kêu
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô”. (Basho)
(4) Mượn ý thơ của Thôi Hiệu :
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu".
--> Nỗi nhớ nhà của HC không phải gợi lên từ ngoại cảnh mà là dâng trào từ nơi sâu thẳm trong
tâm hồn nhà thơ.
==> Có ý kiến cho rằng nỗi buồn cho rằng nỗi buồn trong Thơ mới là sự ủy mị, bi lụy, bi cảm,
nhưng HC đã chứng minh điều ngược lại, nỗi buồn trong TM xuất phát từ cảm thức bơ vơ của
những con ng nặng lòng vì quê hương, nhà thơ Xuân Diệu cũng viết “Tràng giang đã dọn đường
cho lòng yêu giang san tổ quốc”.
==> Chiêu tuyết cho Thơ mới.
Bài viết số #11 : “Một thời đại trong thi ca”.
Chào mọi người, mình là TT. Hôm nay mình sẽ giới thiệu cho mọi người về Thơ Mới (hay
còn gọi là Thơ mới lãng mạn) để tạo tiền đề cho hai bài phân tích của mình về “Tràng giang”
của Huy Cận và “Vội vàng” của Xuân Diệu. Tiêu đề bài viết này của mình là một trong
những tên bài viết trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh – Hoài Chân.
1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội.
Thơ Mới ra đời và phát triển trong khoảng từ 1932 – 1945, đây là tiếng nói của giai cấp tư
sản và tiểu tư sản của thời bấy giờ. Sự xuất hiện của hai giai cấp này đã hình thành những tư
tưởng mới, những thị hiếu thẩm mĩ mới cùng với sự giao lưu văn học Đông Tây là nguyên
nhân chính dẫn đến sự ra đời của Phong trào Thơ Mới. Cùng với sự ra đời của hai giai cấp tư
sản và tiểu tư sản thì còn có sự xuất hiện của tầng lớp trí thức Tây học. Đây là nhân vật trung
tâm trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thông qua tầng lớp này mà sự ảnh hưởng của các
luồng tư tưởng văn hóa, văn học phương Tây càng thấm sâu vào ý thức của người sáng tác.
2. Các thời kì phát triển của phong trào Thơ Mới.
Thơ mới được thai nghén từ trước 1932 và thi sĩ Tản Đà chính là người dạo nhạc đầu tiên
trong bản hòa tấu của phong trào Thơ Mới. Tản Đà chính là “gạch nối” của hai thời đại thi ca
Việt Nam, được Hoài Thanh – Hoài Chân xếp đầu tiên trong 46 tên tuổi lớn của phong trào
Thơ Mới.
Ngày 10/3/1932, khi Phan Khôi cho đăng bài thơ “Tình già” cùng với bài tự giới thiệu “Một
lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” thì phát súng lệnh của phong trào Thơ Mới chính thức
bắt đầu.
Chúng ta có thể chia Thơ Mới làm 3 giai đoạn :
a) Giai đoạn 1 : 1932 – 1935.
Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ Mới và Thơ Cũ. Lưu Trọng Lư đã kêu gọi
các nhà thơ như sau “Đem những ý tưởng mới, những tình cảm mới, thay vào những ý tưởng
cũ, những tình cảm cũ.” Đến năm 1935 thì cuộc đấu tranh tạm lắng lại, phần thắng nghiêng
về Thơ Mới.
Các nhà thơ tiêu biểu : Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên,...
b) Giai đoạn 2 : 1936 – 1939.
Đây là giai đoạn Thơ Mới gặt hát được nhiều thành công với rất nhiều các tên tuổi lớn :
- Xuân Diệu với “Thơ thơ”.
- Hàn Mặc Tử với “Gái quê”, “Đau thương”.
- Chế Lan Viên với “Điêu tàn”.
Ở giai đoạn này, các nhà thơ bắt đầu phân hóa ra nhiều khuynh hướng sáng tác khác nhau, do
đó tạo nên cái tôi cá nhân và phong cách riêng của từng nhà thơ.
c) Giai đoạn 3 : 1940 – 1945.
Đây là giai đoạn Thơ Mới đi vào thoái trào, các nhà thơ có xu hướng thoát li hiện thực, tìm
vào ảo mộng và bế tắc.
Khuynh hướng tiêu biểu : Dạ Đài gồm Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Đinh Hùng,... ; nhóm
Xuân Thu Nhã Tập có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung,... ; nhóm
Trường thơ Loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê,...
2. Đóng góp về nội dung.
a) Cá tính sáng tạo, cái tôi cá nhân.
Thơ Mới đã giải phóng cái tôi cá nhân của các nhà thơ, chưa bao giờ phong cách cá nhân và
cá tính sáng tạo lại biểu hiện một cách mãnh liệt như trong Thơ Mới.
Điển hình là Cái Tôi đã xuất hiện với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và
phản ánh của thơ ca, Xuân Diệu đã thể hiện Cái Tôi trong thơ của mình với “Tôi là con chim
đến từ núi lạ...” hay “Tôi là con nai bị chiều đánh lười/Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”.
b) Tình yêu quê hương thầm kín.
Thơ Mới ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, của làng cảnh. Ví dụ :
- Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử.
- Chợ tết – Đoàn Văn Cừ.
- Quê hương – Tế Hanh.
Các thi sĩ đã mang đến cho thơ hương vị đậm đà của làng quê, không khí mộc mạc, quen
thuộc của ca dao. Đó là hình ảnh của thôn Đoài, thôn Đông, gốc đa, bến nước.
Bất hòa với thực tại, thể hiện nỗi buồn thường trực sâu lắng. Ví dụ :
- Chiều – Xuân Diệu.
- Tràng giang – Huy Cận.
c) Cảm hứng về thiên nhiên, tình yêu.
Ngay từ khi ra đời, Thơ Mới đã đổi mới được cảm xúc, đã đưa ra một cách nhìn mới về cuộc
đời, về thiên nhiên. Đó là một vẻ đẹp tươi mới đầy màu sắc, âm thanh, tràn đầy sự sống. Ví
dụ :
“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”.
Tình yêu : Thơ Mới biểu hiện tất cả các cung bậc của tình yêu, có cái tình xa xôi, có cái tình
gần gũi, có cái tình cảm giác, cũng có cái giao hòa giữa thể xác.
d) Nỗi buồn, nỗi cô đơn.
Cái Tôi trong Thơ Mới trốn vào nhiều nẻo đường khác nhau, ở đâu cũng thấy buồn và cô
đơn. Ví dụ trong bài “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư :
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”.
Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các nhà Thơ Mới, nỗi buồn ấy
còn là cách giải thoát tâm hồn, là niềm mong ước được trải lòng với đời và với chính mình.
3. Đóng góp về nghệ thuật.
a) Thể loại.
Đây là đóng góp lớn nhất của Thơ Mới, bởi Thơ Mới đã làm nên một cuộc cách mạng về thể
loại, nó đã phá vỡ thành trì của thể loại thơ theo niêm luật và vần điệu.
b) Ngôn ngữ, nhạc điệu, sự xâm nhập văn xuôi.
Thơ Mới đã thoát khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ dày đặc, thay vào đó, Thơ
Mới đem lại cho người đọc một thế giới nghệ thuật giàu giá trị tạo hình và giàu nhạc điệu. Ví
dụ như 2 câu thơ toàn thanh bằng trong bài “Nhị hồ” của Xuân Diệu :
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời,
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi...”
Một hình tượng hình thức đáng chú ý nữa của Thơ Mới đó là hiện tượng xâm nhập của văn
xuôi (Hoài Thanh) như câu thơ vắt dòng, câu thơ mang tính chất lập luận, cầu khiến.
“Đưa người ta không đưa sang sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?”
c) Sự tiếp thu từ thơ Đường, thơ Pháp.
Thơ Mới chịu ảnh hưởng của thơ Đường rất rõ, chủ yếu là ở đề tài, thi liệu. Tiêu biểu có
Tràng giang (Huy Cận), Tống biệt hành (Thâm Tâm),...
Thơ Mới cũng chịu ảnh hưởng lãng mạn của thơ Pháp, cụ thể là ảnh hưởng thơ tượng trưng
và siêu thực (như Chế Lan Viên, Xuân Diệu).
d) Chất liệu dân gian.
Một số nhà thơ trong phong trào Thơ Mới lại quay về những chất liệu rất dân gian, bình dị
như Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ.
LƯU Ý : Lý do mình chọn “Tràng giang” và “Vội vàng” là vì hai bài thơ có hai màu sắc khác
nhau và trong hai bài này thì ảnh hưởng của thơ Đường luật và thơ Pháp cũng khác nhau. Vì
không có nhiều thời gian nên nếu viết về Thơ Mới, mình sẽ chỉ đi phân tích hai bài này.
Đề bài: Phân tích bài thơ Tràng giang để làm nổi bật nỗi buồn mênh mang, sâu lắng của Huy
Cận. Nỗi buồn đó thấm sâu vào cảnh vật đất trời sông nước, đến từng hình ảnh, chi tiết, từng
câu thơ, chữ thơ. Nỗi buồn được nói lên bằng giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn mang nét
riêng của hồn thơ Huy Cận: một hồn thơ ảo não mang nỗi buồn nhân thế, nỗi sầu nhân gian
và mang cảm hứng vũ trụ.
Bài làm tham khảo
Xuân Diệu đã tự ví mình và Huy Cận như Rim-bô và Véc-len:
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men
Say thơ xa lạ mê tình bạn
Khinh rẻ khuôn mòn bỏ lối quen!
“Say thơ xa lạ” – đó là thơ lãng mạn phương Tây của thế kỉ XIX. Tuy vậy, Huy Cận còn là
người rất thích thơ Đường và trân trọng vốn thơ ca dân tộc. Từ buổi thiếu niên, tác giả đã
thuộc lòng khá nhiều ca dao, thơ Đường, thơ Nguyễn Du,… Lẽ vậy chăng, trong những câu
thơ tuyệt đỉnh của Huy Cận có cá những vần thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn. Nét cổ điển và
hiện đại đan cài vào nhau, kết hợp hài hoà với nhau, trong thơ và trong con người thi sĩ Huy
Cận – sự kết tinh của hai nền văn hoá Đông và Tây nhưng lại giao nhau ở một tâm hồn nghệ
sĩ đa cảm đa sầu. Lần đầu tiên, Huy Cận mang tác phẩm Lửa thiêng bỡ ngỡ theo Xuân Diệu
bước chân vào hội Tao Đàn thì “trong thơ Việt Nam nghe bừng dậy một tiếng địch buồn”.
Điệu buồn ảo não ở Huy Cận đă tự tìm đến một cảm hứng riêng để kí thác: cảm hứng vũ trụ.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Như Voltaire từng nói: “Thơ là âm nhạc của tâm hồn nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”.
Và Tràng giang mang nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng
mạn, rất tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước cách mạng. Xuân Diệu đã có nhận xét rất tinh
tế: “bài thơ hầu như đã trở thành cổ điển của một nhà thơ mới”. Nét cổ điển được thể hiện
ngay từ tiêu đề tác phẩm: Tràng giang – “Tràng” là một âm khác “Trường” – có nghĩa là dài.
Tuy nhiên, Huy Cận đã chọn Tràng giang vì nó chẳng những đã chứa trong mình cả Tràng
giang mà nhờ âm “ang” đã gồm cả nét nghĩa sông rộng, sông lớn, mở ra một khoảng không
gian bao la vô tận vô cùng. Dường như cảnh càng bát ngát thì tình càng miên man, và Huy
Cận, bởi “quá cảm nghe với mênh mông thì giọng thơ của người cũng lây cái sầu của vù trụ”.
Bài thơ mở ra bằng lời đề từ:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Dường như đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Đó là nỗi niềm cảm nhận sâu xa của
cái tôi cô đơn trước cái vô cùng của trời đất. Trong nỗi niềm ấy, Tràng giang đầy nỗi nhớ
không gian, khao khát được giao cảm giữa con người với vũ trụ, đồng thời muốn hoà nhập
giữa cái tiểu ngã hữu hạn với cái đại ngã vô hạn. Thơ xưa các thi nhân tìm đến thiên nhiên vũ
trụ luôn nhận mối đồng cảm tương giao. Huy Cận cũng đến với vũ trụ. Thế nhưng khác xưa
là, tác giả chỉ thấy thấm thìa nỗi buồn của cái tôi cô độc, với cảm giác “bâng khuâng”, “dợn
dợn” trước không gian bao la. Phải chăng, nguồn mạch thơ mới của bài Tràng giang cũng
chính là ở đó.
Trước hết, ta bắt gặp một không gian vũ trụ mênh mông:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp.
Sắc thái cổ điển và hiện đại hoà quyện nhau, nhuần nhuyễn để làm nổi rõ cảnh thiên nhiên
vắng lặng và buồn. Tràng giang đó, bình thản suy tư qua bao lớp sóng “buồn điệp điệp”, qua
dòng khơi “nước song song”, cảm giác buồn ấy lại gửi trong vần điệu, trong những từ gợi
hình mỏng manh càng làm tăng thêm mỗi lúc và trải dài mải không thôi, càng như thấm đẫm
trong từng cảnh vật.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót.
Không gian như vụt lớn hơn. Trên bức tranh sông dài lại hiện lên bầu trời thăm thẳm: “Sâu
chót vót” – “sâu” đã gợi lên cho người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút, khôn cùng, mà lại là
“sâu chót vót” thì chiều cao càng vô tận. Câu thơ bảy chữ thì có ba chữ vần bằng nằm giữa
bốn vần trắc, dường như nhấn mạnh thêm không gian vô tận giữa mặt đất sâu thẳm và trời
cao chót vót. Cái đẹp ở đây chính là tác giả đã đặt những hình ảnh ấy trong một thế giới hài
hoà nghệ thuật tuyệt diệu “nắng xuống” – “trời lên” càng cao rộng, cảnh vật càng thêm vắng
lặng. Nỗi buồn tựa hồ như thấm vào không gian ba chiều. Con người như trở nên nhỏ bé và
rợn ngợp trước cái bao la vĩnh hằng của vũ trụ, cái xa vắng của thời gian:
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Cũng như trong câu thơ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Thiên nhiên hiện ra buồn nhưng cũng thật tráng lệ. Nét đặc trưng này của không gian đã được
Đỗ Phủ miêu tả trong bài Thu hứng:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt dất mây ùn cửa ải xa.
Lấy lại ý thơ người xưa, hình ảnh “mây cao đùn núi bạc” trong bài thơ gợi lên ấn tượng về sự
mênh mông của vũ trụ. Nếu trên kia là sông nước Tràng giang “điệp điệp”, “song song” thì
bây giờ là “lớp lớp” mây cao – những đám mây trắng cứ đùn lên, trùng điệp phía chân trời.
Huy Cận không viết: “đùn sóng bạc” – nghĩa là những áng mây như muôn ngàn con sóng
tung bọt trắng, mà viết “đùn núi bạc” khiến cho không gian vũ trụ không chỉ hiện lên bao la,
vô tận mà còn hùng vĩ nữa… Thế nhưng, cũng khác thơ xưa, cảnh vật mỗi lúc một bao la thì
hồn người trong bài Tràng giang càng thêm cô độc, lạc loài. Thi nhân vôn “sớm vương nỗi
sầu thiên cổ mang mang” hẳn không khỏi khát khao được giao cảm, tương thông với trời đất
vô cùng.
Nếu không gian vũ trụ qua Tràng giang hiện lên với tất cả vẻ đẹp bao la, kì vĩ mênh mông thì
đối lập với nó không gian của cõi nhân thế lại bé nhỏ, đơn côi, lạc loài:
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Con thuyền giữa sông nước mênh mông
Đó là hình ảnh của con thuyền côi cút và cành khô lạc loài giữa sông nước mênh mông. Vào
những năm ba mươi, đây là những câu thơ mới mẻ, bởi nó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi
vô nghĩa như “một cành củi khô”. “Trong cảm thức xa vắng về không gian, đối với Huy Cận,
con thuyền, cành khô chỉ gợi lên sự đơn lẻ thấm thìa nỗi buồn chia lìa lạc loài đang đón đợi.
Thuyền “về” mà nước thì “lại” nghĩa là nghịch chiều nhau. Tuy chỉ có hai hướng thôi nhưng
lại tạo nên mối “sầu trăm ngả” và cành cây chỉ còn là “củi một cành khô”. Nếu nói như Huy-
gô “ngôn ngừ cùng chỉ là một sinh vật” thì ở đây sinh vật ấy đang bơ vơ, đau xót, bất lực vì
nước xô đẩy: “Lạc mấy dòng” nó hàm chứa cả cái gì đó côi cút, tan tác đến tội nghiệp. Với
cách đặt từ “một” ở giữa hai số từ “trăm” và “mấy” trong những câu thơ khiến hình ảnh cõi
nhân thế dường như càng nhỏ lại, bế tắc tột cùng. Tất cả như vây bủa lấy cảnh vật trong sự
lạc lõng, đơn côi. Nỗi buồn đó càng như da diết mãi không thôi:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Vài dải đất giữa sông dài, vài ngọn gió hiu hiu nhưng không đủ làm sống động cảnh vật, và
âm thanh của tiếng “làng xa vãn chợ chiều” thì mơ hồ, mong manh lắm không làm bớt đi sự
vắng lặng của cảnh. Bây nhiêu hình ảnh dường như chỉ là những nét chấm phá, tô đậm thêm
không gian cao rộng của vù trụ mà thôi.
Thơ Bà huyện Thanh Quan tả Tràng giang chỉ qua một vài nét châm phá đơn sơ, bình lặng,
hiền hoà, không đi sâu vào chi tiết:
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
Huy Cận cũng miêu tả Tràng giang theo trường phái phương Đông truyền thông. Nhưng
Tràng giang vẫn là một bài thơ hiện đại, không chỉ hiện đại ở hình ảnh, thi liệu mà còn ở cảm
xúc của nhà thơ lãng mạn. Huy Cận đã soi “chiếc linh hồn nhỏ” của mình trên sông nước
Tràng giang:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến dò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ hờ xanh tiếp bãi vàng.
Một loạt tính từ “mênh mông”, “lặng lẽ” đã gợi lên không khí vắng vẻ, u buồn. Nỗi buồn như
càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo dạt trôi nổi lênh đênh. Hình ảnh đó là ngẫu
nhiên nhìn thấy hay vì thi nhân đã liên tưởng đến thân phận “hoa trôi bèo dạt” của những
kiếp người chìm nổi long đong trong xã hội. Tâm trạng chung của lớp trẻ những năm 30 là
thế. Nhưng không phải vì vậy mà họ quên hết chất thơ chất đẹp ở đời. Ngay cả khi phủ định
tất cả “không một chuyên đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm thân mật” cùng chính là bộc
lộ tấm lòng thi nhân yêu cuộc sống, tha thiết mong mỏi niềm giao cảm. Không gian trần thế
vì vậy qua cái nhìn thi sĩ dù sầu tư lai láng nhưng vẫn lung linh có hồn. Tình càng sâu thì
cảnh càng đẹp:
Chìm nghiêng cánh nhỏ hóng chiều sa.
Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà càng gợi lên những nỗi buồn xa vắng của lòng
người. Nhưng cánh chim ấy lại chao xuống vì sức nặng của hoàng hôn nhịp nhàng với buổi
chiều bóng xế. Hình ảnh đẹp vừa cổ điển, vừa lãng mạn. Nếu như Nguyễn Du thấy “Bên cầu
tơ liễu bóng chiều thướt tha”, Hàn Mặc Tử cũng nhận ra “bóng xuân sang” trên một giàn
thiên lý thì Huy Cận, thi nhân cùng rất tinh tế nhận thấy bóng chiều trong một cánh chim
nghiêng. Chính là, nhà thơ đã phá lô-gíc của cuộc sông để đạt đến lô-gíc của nghệ thuật.
Cũng vì vậy, cánh chim dường như hiện lên sinh động hơn, đẹp hơn và đặc biệt cũng buồn da
diết trước cái nhỏ bé, cô đơn giữa vũ trụ bao la.
Từ những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống thế gian, một cành củi khô, cồn nhỏ lơ thơ, con
thuyền nhỏ, cánh chim… đã hắt vào tác phẩm vẻ tử biệt sinh li, vẻ sầu bi của nó. Chỉ vài nét
chấm phá thôi, Huy Cận đã khơi gợi cảm giác lẻ loi, chia li trong lòng người, trong cảnh vật.
Đó cũng là tâm lí tự nhiên của con người, cảm thấy nhỏ bé trước thiên địa vô thuỷ vô chung:
Ai người trước đã qua
Ai người sau dã tới
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ.
(Trần Tử Ngang)
Cảnh tình ấy khiến thi nhân không thể không bâng khuâng và thầm mong ước. Nó kết tinh
thành tình quê hương tha thiết:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Âm hưởng Đường thi triền miên trong câu thơ. Huy Cận lấy lại ý xưa của Thôi Hiệu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Nhưng Huy Cận khác, trong buổi hoàng hôn ấy không hề có “trên sông khói sóng”, tạo điều
kiện phản xạ gợi nhớ “hương quan” (cổng làng – đường về quê cù) như tác giả Hoàng Hạc
lâu. Phải chăng chính cảm giác “dợn dợn” của chủ thể lãng mạn đã làm nảy sinh tâm lí nhớ
nhà. Nhớ nhà, muôn được trở về có mặt giữa gia đình, quê cha là để hoá giải cảm giác “dợn
dợn” bơ vơ của kẻ tha hương. Tình quê trong bài Tràng giang vì vậy da diết hơn, thường trực
hơn. Nó không chỉ là những dòng ý nghĩ lộ thiên đơn giản, mà là xuất phát từ quy luật thầm
kín tự đáy thẳm tâm linh của con người.
Tuy vậy, ý thơ không chỉ dừng lại ở một tình quê hương thuần tuý. Phải chăng, “lòng quê
dợn dợn vời con nước” còn thổ hiện nỗi niềm của một cái tôi cô độc, nhỏ bé trước vũ trụ
đang tìm về giao hoà, nương tựa với cái ta rộng lớn hơn. Chất lãng mạn của bài Tràng giang
là đấy, bôn cạnh nỗi niềm quê hương là nỗi niềm nhân thế:
Đạm đạm trường giang thuỷ
Du du viễn khách tình.
Có thể nói, Tràng giang là một bài thơ chứa đầy không gian và tâm trạng; là không gian vũ
trụ, cảnh sắc bao la, vô tận mà cũng thật tráng lệ; là. không gian nhân thế, cảnh lại hiện lên cô
đơn, lạc loài. Bao trùm lên bức tranh thiên nhiên là sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối. Duy chỉ có
tiếng lòng nhà thơ đang thầm vọng trong xa thẳm:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sồng dài.
Hai mươi năm sau, cũng đứng trước một không gian vô tận của đại dương vào lúc hoàng hôn,
Huy Cận đã viết những vần thơ vui tươi, khoẻ khoắn:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi.
Nhưng đó là sau này, khi Huy Cận đang viết Trời mỗi ngày lại sáng. Còn ở đây, cảm giác vũ
trụ ở Huy Cận là sự khắc khoải cô đơn khi đối diện với trời đất vô tận vô cùng. Bài thơ Tràng
giang vì thế mang nỗi buồn mênh mang sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn.
Nỗi buồn của Huy Cận trước sau vẫn là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú hồn
người và làm nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.
Nguồn : Sưu tầm
Phân tích bài thơ “Tràng giang” của thi sĩ Huy Cận(Ngữ Văn 11, Cơ bản, NXB Giáo dục)
HƯỚNG DẪN CHI TIẾT
MỞ BÀI
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong tràoThơ Mới. Ông nổi tiếng với
các tác phẩm như:Lửa Thiêng, Vũ trụ ca, Kinh cầu tự… Bạn đọc biết đến ông nhiều nhất qua
bài thơ “Tràng giang”rút từ tập “Lửa thiêng”là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của
Huy Cận trước cách mạng. Bài thơ “Tràng Giang” mang đậm nét cổ điển và hiện đại.
THÂN BÀI
Khái quát: Huy Cận tâm sự về hoàn cảnh ra đời bài thơ:“Một chiều mùa thu năm 1939, tôi đi
dạo trên bờ sông Cái bằng xe đạp, có đoạn dắt xe đi bộ thấy buổi chiều trên đê và sông đẹp
quá: nắng chiều đã nhạt, mây đùn phía núi xa và man mác một nỗi buồn khó tả, nửa như gần
gũi, nửa như xa vời, quạnh hiu. Tôi dừng ở quãng bến Chèm và vang lên trong tâm tưởng
mấy câu lục bát:
Tràng giang sóng gợn mênh mông
Thuyền trôi xuôi mái nước song song buồn
Rêu trôi luồng lại nối luồng
Về đâu bèo dạt, mây lồng núi xa
Tôi còn định làm tiếp bài thơ bằng lục bát và đặt tên bài là “Chiều trên sông”… nhưng đạp xe
về nhà ở số 40 Hàng Than lại vang vang trong đầu nhạc điệu thơ bảy chữ, âm hưởng Đường
luật như quyến rũ tai tôi, cổ họng tôi và tôi liền chuyển mấy câu đầu sang thể bảy âm. Từ đó
“Tràng giang”ra đời”.[Thầy Phan Danh Hiếu – Chủ biên nhiều sách tham khảo Ngữ văn
luyện thi]
Nội dung phân tích:
Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ mang vẻ đẹp thiên nhiên đậm chất cổ thi.Cảnh vật thiên nhiên
ấy lại được cảm nhận qua tâm hồn “sầu vạn kỷ” của nhà thơ:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng [Thầy Phan Danh Hiếu – Chủ biên nhiều sách tham khảo
Ngữ văn luyện thi]
Ngay từ nhan đề“Tràng giang” gợi nên vẻ đẹp cổ thi: nhà thơ sử dụng âm Hán Việt: “Tràng”
là đọc chệch đi của chữ “trường” (nghĩa là dài), “giang” là sông. Tuy nhiên, “Tràng
giang”không chỉ có ý nghĩa là sông dài mà còn rộng là vì nhờ vào âm “ang” gợi cảm giác
mênh mang. Cùng với đó là câu đề từ mang cảm xúc chủ đạo cho toàn bài gợi nhiều bâng
khuâng man mác“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Câu đề từ ấy chính là cảm xúc chủ
đạo của bài thơ, là chiếc chìa khóa vạn năng mở cánh cửa vào bài thơ.
Ở khổ thơ thứ nhất, nhà thơ sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường như thuyền, nước,
sóng, củi khô… Đây là một bức tranh đẹp như bức tranh thủy mặc nhưng đẹp mà buồn đến
tái tê. Nhà phê bình Hoài Thanh nhận xét:“Thiên nhiên trong thơ Mới đẹp nhưng lại thấm
đượm nỗi buồn da diết bâng khuâng”.Nỗi buồn đó được Huy Cận lý giải rằng“Chúng tôi lúc
đó có một nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên kéo dài triền miên”. Đó chính
là nỗi buồn của thi nhân sống trong cảnh nước mất nhà tan, và có lẽ vì người buồn nên“cảnh
có vui đâu bao giờ”. Dòng tràng giang vì thế chỉ thấy một dải buồn bát ngát:[Thầy Phan Danh
Hiếu – Chủ biên nhiều sách tham khảo Ngữ văn luyện thi]
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Trong “Đăng Cao”của Đỗ Phủ viết:
“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận Trường Giang cổn cổn lai”
So với“Đăng cao”của Đỗ Phủ và“Tràng giang”của Huy Cận thì cảnh tượng trong thơ Đỗ Phủ
hùng vĩ, tráng lệ nhưng trong thế giới của Huy Cận thì những con sóng không phải cuồn cuộn
trôi mà làsóng gợnlàm ta hình dung ra những con sóng nhẹ lăn tăn trên tràng giang, lan nhẹ
và mất hút giữa dòng chảy bao la. “Buồn điệp điệp”miêu tả cái buồn thiên nhiên nhưng kỳ
thực là đang diễn tả nỗi buồn chất ngất trong lòng nhà thơ. Phải chăng nỗi buồn thi nhân đang
gợn lên từng đợt nỗi buồn như những lớp sóng, như Huy Cận viết:“Nhìn dòng sông lớn gợn
những lớp sóng, tôi cũng thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra như những lớp
sóng”.Dòng sông ấy, nhìn đâu cũng toàn một màu buồn bã: cảnh vật thì chia ly tan tác,
thuyền và nước luôn gắn bó không bao giờ xa cách nhau nhưng trong mắt Huy Cận thì
thuyền và nước không ăn nhập với nhau, cảnh vật chia lìa và từ đó mà nỗi sầu nhà thơ tỏa ra
vũ trụ“sầu trăm ngả”.“Con thuyền cũng không buồn lái, để mặc xuôi theo dòng nước lặng lờ.
Ngay cả dòng nước trong bản thân con sông cũng không thiết đến nhau, cứ âm thầm mà chảy
“song song”, vờ không quen biết nhau trong đời”.
Và đặc biệt, câu thơ cuối cùng mang hình ảnh cái “tôi”:Củi một cành khô lạc mấy dòng. Nhà
phê bình Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét rằng:“Lần đầu tiên trong lịch sử thơ ca nhân loại có
một cành củi khô trôi dạt trong thơ Huy Cận như nỗi cô đơn của một kiếp người trong xã hội
cũ”.Cành củi đã nhỏ bé, lại là “cành củi khô” thì thật tội nghiệp không gì bằng, phải chăng nó
là ẩn dụ của lớp người như thi nhân đang bấp bênh, trôi nổi giữa dòng xoáy của một đất nước
mất chủ quyền?[Thầy Phan Danh Hiếu – Chủ biên nhiều sách tham khảo Ngữ văn luyện thi]
Khổ thơ tiếp theo vẫn là nỗi buồn tiếp nối khổ một, cảnh vật vẫn được nhìn qua đôi mắt “sầu
vạn kỷ” của nhà thơ:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Huy Cận nói, ông học được hai chữ“đìu hiu”từ Chinh Phụ ngâm:
“Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”[Thầy Phan Danh Hiếu – Chủ biên nhiều sách tham khảo
Ngữ văn luyện thi]
Cảnh sắc trong Chinh Phụ ngâm đã vắng lặng hiu hắt nhưng cảnh trong“Tràng giang”lại vắng
vẻ, hiu hắt, tàn tạ hơn nữa. Từ láy“lơ thơ”diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn đất nhỏ
nhoi mọc lên giữa dòng tràng giang. Trên những cồn đất nhỏ đó, mọc lên những cây lau, sậy,
khi gió thổi qua thì âm thanh phát ra nghe man mác, nghe“đìu hiu”não nuột. Câu thơ từ đó
cũng chùng xuống nặng trĩu tâm tư con người.
Nhà thơ muốn tìm hơi ấm con người nhưng bất lực“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.Đâu là
ở đâu? Không xác định. Âm thanh nghe mơ hồ quá, lại là âm thanh chợ chiều đã vãn thì lại
càng nghe hiu hắt, buồn bã. Xưa Nguyễn Trãi cũng viết về âm thanh ấy:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu Tịch Dương”[Thầy Phan Danh Hiếu – Chủ biên nhiều sách tham khảo
Ngữ văn luyện thi]
Nhưng đấy lại là thanh âm của phiên chợ đông đúc của một cuộc sống no đủ, nhưng âm thanh
trong thơ Huy Cận là âm thanh thoảng trong chiều gió xa xôi rồi biến mất. Vui nhất là âm
thanh chợ đông, buồn nhất là âm thanh lúc chợ vãn. Nhà thơ nói“đâu tiếng”tức là âm thanh
mơ hồ không xác định và chính âm thanh mơ hồ đó càng tô thêm vẻ hiu quạnh cho bức tranh
thiên nhiên và cái hiu quạnh của hồn người.[Thầy Phan Danh Hiếu – Chủ biên nhiều sách
tham khảo Ngữ văn luyện thi]
Hai câu sau, không gian mở ra bát ngát:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn, “trời lên” là chiều cao,
“sông dài” là chiều dài, “trời rộng” là chiều rộng, nhà thơ thì lại đứng giữa “bến cô liêu” –
nơi giao nhau của vũ trụ. Vũ trụ thì bao la, vô tận. Con người thì bé nhỏ, hữu hạn. Nhà thơ
nhìn lên bầu trời và thấy bầu trời “sâu chót vót”. Cách dùng từ “sâu” độc đáo, nhà thơ không
dùng “cao” mà dùng “sâu”. “Cao” chỉ tả được độ cao vật lý của bầu trời. Còn “sâu” không
chỉ diễn tả được độ cao vật lý mà còn diễn tả được sự rợn ngợp trước không gian ấy. Đó
chính là sự rợn ngợp trong tâm hồn thi nhân trước cái vô cùng của vũ trụ, nhà thơ gọi nơi
mình đứng là“bến cô liêu”hay chính tâm hồn nhà thơ là“bến cô liêu” (hoang vắng, lẻ loi),đó
là cách dùng từ tinh tế của thi nhân là vì nó diễn tả sự cô đơn tâm hồn, cách liên tưởng này
giống với cách liên tưởng của Xuân Diệu:“Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề”hay gợi nhớ bài
thơU Châu Đăng Đài Cacủa nhà thơ Trần Tử Ngang:[Thầy Phan Danh Hiếu – Chủ biên nhiều
sách tham khảo Ngữ văn luyện thi]
“Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thiên nhiên nhi thế hạ”
(Người trước chẳng thấy đâu
Người sau thì chưa tới
Ngẫm trời đất thật vô cùng
Riêng lòng đau mà lệ chảy)
Như vậy mỗi thi nhân tuy có một cách diễn đạt khác nhau nhưng đều giống nhau ở một điểm
đó chính là nỗi cô đơn, nỗi buồn trước cái không cùng của vũ trụ.
Nhưng chưa dừng lại ở đó, cái tôi cô đơn của thi nhân còn mênh mang rợn ngợp hơn nữa qua
hai lần phủ định:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. [Thầy Phan Danh Hiếu – Chủ biên nhiều sách tham khảo Ngữ
văn luyện thi]
Hình ảnh thơ gợi cho người đọc sự trống vắng đặc biệt là gợi lên nỗi buồn thấm thía với hình
ảnh bèo dạt làm hiện lên kiếp đời bấp bênh trong xã hội cũ. Bèo dạt gắn liền với mây trôi, lớp
người này lớp người kia nối đuôi nhau trong dòng chảy. Cảm giác cô đơn khiến nhà thơ
muốn tìm sự kết nối, gần gũi và gắn bó nhưng không tìm thấy. Hai câu thơ với hai lần phủ
định “không đò”, “không cầu” – không có tín hiệu sự sống mà chỉ có cái mênh mông của vũ
trụ mà vũ trụ càng mênh mông thì con người càng nhỏ bé, chỉ là những bãi cát dài hút tầm
mắt. Cảm giác cô đơn khiến nhà thơ muốn tìm đến một sự gần gũi, một sự kết nối. Phóng tầm
mắt ra sông rộng thấy“Mênh mông không một chuyến đò ngang”;“Không cầu gợi chút niềm
thân mật”để rồi thấm thía một sự đơn độc trọn vẹn. Chỉ có con người đơn độc giữa không
gian, thời gian vô thủy vô chung. Nhìn đâu cũng chỉ thấy“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Khổ cuốikhép lại chất chứa niềm tâm sự sâu kín của thi nhân về tình yêu với quê hương xứ
sở.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói, hoàng hôn cũng nhớ nhà[Thầy Phan Danh Hiếu – Chủ biên nhiều sách tham
khảo Ngữ văn luyện thi]
Cảnh tượng hùng vĩ và tráng lệ, phía cuối chân trời xa mây trắng đùn ra như những hòn núi
bạc khổng lồ. Cảnh tượng hùng vĩ này khiến ta liên tưởng đến bài“Thu hứng”của Đỗ Phủ:
“Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Nhưng đối lập với cảnh hùng vĩ đó, ta lại bắt gặp một cánh chim chiều cô đơn“chim nghiêng
cánh nhỏ bóng chiều sa”đang bị bóng chiều và sự vô cùng của vũ trụ nuốt trôi đi sự bé nhỏ
của nó. Hình ảnh cánh chim nhỏ bé như đang chở nặng nỗi niềm thi nhân lạc lõng giữa bầu
trời rộng thênh thang. Và lúc này đây nhà thơ không nhìn vào vũ trụ, bầu trời nữa mà nhìn
vào lòng mình, thi nhân gọi lòng mình là“lòng quê”.Chữ “vời” khiến ta liên tưởng tới tâm
trạng Thúy Kiều“Bốn phương mây trắng một màu/ Trông vời cố quốc biết đâu là nhà”. Hai
chữ “dợn dợn” là từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận diễn tả tâm trạng nôn nao, day dứt của
lòng người đang dợn lên trong tâm hồn, đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa
quê hương nhưng quê hương mình không còn, đây là những tâm trạng chung của các nhà thơ
mới nước ta. Cũng tâm trạng Mười thế kỷ trước ở Trung Quốc, có một nhà thơ đứng bên
dòng Trường Giang ngắm khói sóng xa xôi mà nhớ quê da diết, đó chính là tâm hồn của Thôi
Hiệu:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)[Thầy Phan Danh Hiếu – Chủ biên nhiều sách tham
khảo Ngữ văn luyện thi]
Mười thế kỷ sau, Huy Cận đồng cảm nhưng khác nhau là Huy Cận không nhìn thấy khói
cũng nhớ nhà. “Xưa kia nhà thơ Thôi Hiệu buồn vì cõi tiên mù mịt, quê nhà cách xa, khói
sóng trên sông gợi cho tác giả thấy mờ mịt mà sầu. Nhưng nay Huy Cận buồn trước cảnh
không gian hoang vắng, sóng “gợn tràng giang” khíến ông nhớ tới quê hương như một nguồn
ấm áp và là tổ ấm hạnh phúc đối với ông. Thôi Hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ thấy hư vô, đó là
lòng khát khao một cõi quê hương thực tại còn Huy Cận một mình đối diện với khung cảnh
vô tình, hoang vắng lòng ông lại muốn được trở về với quê hương là cái hương tâm (lòng
quê)” (Lời bình sưu tầm từ Internet)
Nghệ thuật: Tràng giang mang đậm phong vị cổ điển và hiện đại qua việc vận dụng nhuần
nhuyễn thể thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối; bút pháp tả cảnh ngụ
tình, gợi hơn là tả …nhiều từ Hán Việt cổ kính còn tình cảm thi nhân mang màu sắc hiện đại.
[Thầy Phan Danh Hiếu – Chủ biên nhiều sách tham khảo Ngữ văn luyện thi]
III. KẾT BÀI
“Tràng giang”là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ“Lửa thiêng”.Nó là ngọn lửa
thiêng liêng, ngọn lửa vĩnh cửu toả sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ thất ngôn
với bốn khổ thơ, như một bức hoạ tứ bình tuyệt tác. Như Xuân Diệu đã từng nói“Tràng giang
là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn Tổ quốc”.
Đọc“Tràng giang”ta thêm yêu, thêm nhớ đất trời sông núi quê hương Việt Nam.
Nguồn : [Thầy Phan Danh Hiếu – Chủ biên nhiều sách tham khảo Ngữ văn luyện thi]
Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Huy Cận.
1.“Đã giáp một năm nay, Huy Cận đi tới giữa chúng ta với những bài thơ đặc biệt, với một
tâm hồn có nhiều hương vị, một kho tàng tuy đương hỗn tạp nhưng thực là giàu. Bổn phận
của chúng ta đối với văn chương Nam Việt, chẳng phải là ráng thấu hiểu để yêu mến những
văn tài mới lên hay sao? Thơ Huy Cận cũng thuộc về hạng thơ vừa xem qua thì dường như
khó khăn, nhưng kỳ thực không có gì bí hiểm. Huy Cận cũng là "một người của đời, một
người ở giữa loài người", ông không đi với lối thơ phù phiếm, mộng mơ. Ông chỉ nói lòng
người của ông, hồn người của ông, và thơ ông càng đẹp, càng xinh, khi chứa đầy hương vị
của đời, của sự sống” (Xuân Diệu)
2.“Huy Cận đa tình, tâm hồn ông là một cô gái xưa rón rén ung dung, trông rất nết na dè dặt,
kỳ thực hay liếc trộm và ưa viết thư tình. Ông thu hợp cái rụt rè của Á Đông và cái tươi đậm
của u Tây, để làm nên cái "mạnh thầm" đặc biệt của Huy Cận. Ông yêu biết bao, yêu mãnh
liệt, nhưng hay giấu, rồi khi "tình mất", ông ngồi trách mình sao đã quá rụt rè. Huy Cận góp
bao nhiêu đẹp tốt của Á Đông, nhất là cái lửa tro nồng ấm ở bên trong, và cái xa vắng mênh
mông của thời cũ” (Xuân Diệu)
3.“Với những câu thơ cổ kính, phảng phất một linh hồn Đường thi, Huy Cận thành thực nhớ
và ngơ ngẩn yêu những cái vu vơ mờ mịt. Ông gợi cảnh cũ, không biết rõ là cảnh Tàu hay
Việt Nam, chỉ thấy xưa, thấy xa, thấy vắng lặng: đó là cả nỗi buồn mênh mang của thời gian:
Buồn gieo theo gió veo hồ,
Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa.
Đồn xa quằn quại bóng cờ,
Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về.
(Chiều xưa)
Nói sao hết, nói sao rõ được cái man mác rất thiết thực và rất vẩn vơ trong thơ Huy Cận? Đó
chẳng phải là đáy sâu thẳm của linh hồn ta ư?” (Xuân Diệu)
4.“Ông thân mật, ông ái ân, nhưng bao giờ cũng có cái vụng về, cái thầm kín của ông, cái
ngậm ngùi vô cớ. Huy Cận! Một tâm hồn đặc biệt quá, nồng cháy bên trong, e lệ bên ngoài,
hay nói nhỏ và hay làm thinh, để cho men lòng càng rạo rực hơn nữa; một tâm hồn hãy lặng
yên để nước mắt chảy, không biết khóc vì cái gì; vừa mạnh, vừa yếu, rất mới và rất xưa, rất u
Tây và rất Á Đông: nghĩa là cả con người, con người phức tạp của muôn thuở” (Xuân Diệu)
5.“Linh hồn Huy Cận là một linh hồn trời đất; nói thế không sai đâu! Xem suốt tập Lửa
thiêng, cái cảm giác trội nhất của ta là một cảm giác không gian: tự nghe xa vắng quanh
mình; trên thiên văn đài của linh hồn, nhìn cõi bát ngát; một cái buồn vời vợi dàn ra cho đến
hư vô. Huy Cận quá cảm nghe cái mênh mông, thì giọng thơ của người cũng lây cái sầu của
vũ trụ. Những bài thơ đôi khi vắng vẻ quá: "Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa", "Mái
nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người", hay là "Sầu thu lên vút song song"; chỉ có trời đất
ngơ ngẩn với nhau. (…) Chàng than nỗi tháng ngày vùn vụt, bảo rằng hoa xuân không đậu,
đời thoảng mùi ôi, trong khi mình chưa sống hết tuổi xuân, đang còn ở giữa độ măng trẻ của
đời người! Cái tiếc sớm, cái thương ngừa ấy chẳng qua là sự trá hình của lòng ham đời, là cái
tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống. Không yêu sự sống hay sao, một người thường có những cái
nghiêng tai kỳ diệu: khi mùa xuân cựa mình, khi những ý tươi lên rún rẩy trong cổ chim, khi
"nhạc vươn lên trời"... lòng ông cũng theo hăng hái; và thơ ông mang ngầm sinh lực như men
ủ nắng, tưởng chừng câu thơ có nhựa, sắp nứt ra như một cái mầm căng” (Xuân Diệu)
6.“Huy Cận nói hộ cho ta đó; những giọt nước mắt thường đến quanh mí rồi ngừng, Huy Cận
đã vì ta để rơi xuống má; cái linh hồn ấy bơ vơ không kể hết, kiếp người lang thang, đất trời
trôi nổi, lạnh lắm, nhân gian ôi! Ta thấy người thơ đi trốn cô đơn; trốn ở đâu bây giờ? Hồn
bọn thi nhân thường là một món hàng ế; bán thì người ta không biết giá, mà cho, họ nhận
cũng chẳng ra tuồng" (Xuân Diệu)
7.“Chàng cũng yêu tất cả, nhớ tất cả. Tâm hồn chàng là một khu vườn cũng theo mùa mà nở
hoa hoặc hiu quạnh. Tâm hồn chàng bây giờ là đối tượng của những hiện tượng của thời tiết.
Một điều đáng chú ý là cái nhớ của chàng rất đỗi mênh mông và ôm trùm cả vũ trụ” (Nhà phê
bình Lương An)
8.“Tả một phong cảnh tráng lệ biết bao. Mây đùn núi bạc, chim nghiêng cánh nhỏ, nhẹ nhẹ
ánh chiều sa, tưởng ngần ấy cũng đã đầy đủ như một bức tranh của một họa sĩ tài hoa. Chính
thi nhân cũng nhận rằng cái cảnh tràng giang ấy đã làm cho mình ca tụng và mê mẩn. Ta hãy
nghe thi nhân nói cảm giác của mình: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Thơ Huy Cận
nhờ thế mà trong như thủy tinh và đẹp như ngọc thạch. Đọc Xuân Diệu thấy trong người sôi
nổi ngọn trào lòng rào rạt; đọc Huy Cận thấy trong người lâng lâng, tâm hồn khoan khoái. Trí
phán đoán sáng suốt, mắt nhận xét tinh vi, cách dùng chữ thần tình. Đó là ba đặc điểm của
Huy Cận…Đừng thấy chàng buồn buồn mà cho chàng là người lạnh nhạt hững hờ; đừng thấy
văn chàng chạm trổ quá mà cho là mất vẻ tự nhiên. Huy Cận viết văn rất điêu luyện; song
không bao giờ để rơi những ý niệm của mình. Bởi vậy khi đọc thơ Huy Cận ta thấy trong
người nhẹ nhàng khoan khoái. Đã lâu lắm từ ngày Thơ thơ ra đời đến nay mới lại có một tập
thơ đã khiến người phải đọc đến mà sinh vô hạn cảm tình với tác giả” (Nhà phê bình Lương
An)
9.“Với ông Huy Cận, trường “Thơ mới” tiến vượt lên một bậc nữa. Qua những bài thơ,
những bài “lục bát” đặc sắc (…). Ta thấy tâm hồn thi sĩ rung động. Một tâm hồn phiền toái
hơn tâm hồn ông Thế Lữ và Xuân Diệu, một tâm hồn có nhuốm màu thần bí… Muốn dập thơ
theo kiểu Tây phương, muốn theo hình thức của thơ Pháp, những hộ tinh xoay quanh ba ngôi
định tinh đang lúc chói lòa (Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận) cũng a dua đả phá niêm luật, đả
phá âm hưởng. Họ có ngờ đàn ba ngôi “sao” ấy đã từng hiểu biết, mới có ý định cải cách, có
ý định phá bỏ lề luật của người xưa”. (Lương Đức Thiệp)
10.“Huy Cận đi lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não.
Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thi nhân lại có thể đúc
thành bao nhiêu châu ngọc (…). Nhưng con đường về quá khứ đi càng xa, càng cô tịch; tứ bề
càng vắng lặng, mênh mông. Có lẽ thi nhân trong cuộc viễn du đã có lần nhác thấy cái xa
thẳm của thời gian và không gian, có lẽ người đã nghe trong hồn hơi gió lạnh buốt từ vô cùng
đưa đến. Một Pascal hay một Hugo trong lúc đó sẽ rùng mình, sẽ hốt hoảng. Với cái điềm
đạm của người phương Đông thời trước, Huy Cận chỉ lặng lẽ buồn:
Một chiếc linh hồn nhỏ:
Mang mang thiên cổ sầu”. (Hoài Thanh)
11.“Cũng là vẩn vơ, nỗi buồn của Huy Cận không hẳn là nỗi buồn của tuổi hai mươi. Lòng
ông quạnh hiu, vũ trụ bao la, phải đâu chỉ vì ông chưa hề “đón được tí hương ân ái”. Huy Cận
buồn những nỗi buồn chung của nhân thế: buồn tiễn đưa, buồn nhớ bạn, buồn nhớ nhà, buồn
chuyện đời quanh quẩn…” (Trương Chính)
12.“Điều đáng để ý là về nghệ thuật, Huy Cận tuy hưởng thụ nền học vấn phương Tây mà lại
có một cốt cách rất Á Đông. Thơ ông bao la, vắng vẻ như những bức tranh Tầu, trong đó trời,
mây, sông, núi choán cả phần chính. Huy Cận chú ý đến linh hồn hơn là nét vẽ và màu sắc,
nên tranh ông thanh đạm lặng lẽ lạ thường. Thơ ông lại súc tích, kết đọng như thơ cổ. Nhất là
về thể lục bát. Ý thơ như dồn thúc lại” (Trương Chính)
13.“Tác giả Lửa thiêng thật đã không giống Xuân Diệu và cũng đã khác hẳn Lưu Trọng Lư.
Ở Huy Cận, ta không thấy những tiếng kêu ầm ỹ, nóng nẩy như ở tác giả Thơ thơ và ta cũng
không thấy cái buồn vơ vẩn và nhẹ nhàng như ở tác giả Tiếng thu. Huy Cận than thân thì ít
mà góp tiếng khóc với đời thì nhiều. Cái giọng nhớ hờ, thương hão của ông đôi khi có hơi
giống Tản Đà, nhưng ông lại khác Tản Đà ở chỗ có lòng tin tưởng ở đấng tối cao. (…) Huy
Cận hơn Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu ở sự chọn chữ, lựa câu, ở sự hiểu cái ma lực của mỗi
chữ (…) nhưng lại thua Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu về thành thực” (Vũ Ngọc Phan)
Từ ấy
[GÁC CHIA SẺ | PHONG CÁCH NHÀ THƠ HIỆN ĐẠI - TỐ HỮU]
Phong cách của nhà thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị
Đây được xem là phong cách bao trùm, là đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật của nhà
thơ Tố Hữu. Là một người chiến sĩ, cũng đồng thời là người thi sĩ, thơ của ông có sự thống nhất
giữa tuyên truyền cách mạng và những cảm xúc trữ tình.
Có thể thấy, mảng đề tài mà tác giả khai thác không chỉ đi sâu vào cuộc sống riêng tư, cá nhân
mà còn hướng đến tình cảm lớn,mang tính đoàn kết nhằm thôi thúc tinh thần của người dân, thể
hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.
Với Tố Hữu, mọi sự kiện, vấn đề của đời sống cách mạng đều có thể trở thành cảm hứng nghệ
thuật của nhà thơ. Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản. Thơ Tố Hữu trước hết là để phục vụ
sự ngiệp các mạng. Chính vì thế, những chặng đường thơ Tố Hữu cũng là chặng đường cách
mạng.
Hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới cá “ta” chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn. Cái tôi
trong thơ Tố Hữu là cái tôi chiến sĩ, sau đó là cái tôi nhân danh Đảng và cả dân tộc. Những niềm
vui trong thơ ông không nhỏ bé, tầm thường mà là niềm vui lớn, là sự sổi nổi, hân hoan và tươi
sáng:
“Tôi lại nhìn như đôi mắt trẻ thơ
Tổ quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ
Xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh bể
Xanh trời xanh của những ước mơ”.
Thơ Tố Hữu là sự kết hợp của khuynh hướng sử thi và cảm hững lãng mạn
Chặng đường sáng tác thơ của nhà thơ Tố Hữu tương đương với chặng đường cách mạng.
Những sự kiện lịch sử lớn luôn là nguồn cảm hứng chính trong thơ Tố Hữu. Ông luôn đề cập
đến những vấn đề lịch sử mang tính toàn dân.
Có thể thấy, càm hứng chủ đạo trong thơ Tố Hữu là cảm hứng lịch sử, dân tộc chứ không
phải cảm hứng thế sự, đời tư. Nhân vật trữ tình trong thơ ông luôn đại diện cho phẩm chất
giai cấp, dân tộc, mang vẻ đẹp của lý tưởng cách mạng.
Sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, thơ Tố Hữu luôn hướng tới ngày
mai, khơi dậy niềm vui lý tưởng và sự say mê đối với con đường cách mạng, khẳng định lý
tưởng, niềm tin vào tương lai, cách mạng:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”.
Phong cách thơ Tố Hữu còn được thể hiện ở giọng điệu tâm tình, ngọt ngào:
Bên cạnh nội dung và chủ đề, giọng điệu cũng là điểm đặc biệt tạo nên phong cách nghệ thuật
thơ Tố Hữu. Giọng điệu đó được thừa hưởng từ điều hồn con người xứ Huế, từ câu ca, giọng
hò, câu hát nam ai nam bình. .. Đặc biệt, nó được thể hiện ở cách xưng hô than mật, gần gũi
với nhiều từ ngữ địa phương.
Nhà thơ Tố Hữu còn thể hiện phong cách đậm tính dân tộc
Không chỉ có giọng điều tâm tình ngọt ngào, thiết tha, thơ Tố Hữu còn đậm đà tính dân tộc.
Tính dân tộc trong tơ Tố Hữu được thể hiện ở nhiều yếu tố như thể thơ, nghệ thuật, qua ngôn
ngữ và nhạc điệu.
Về nội dung, thơ phản ánh đời sống dân tộc, công cuộc chiến đấu của quần chúng cách mạng
với thể thơ truyền thống. Tố Hữu đặc biệt thành công với thể thơ lục bát. Thơ lục bát của Tố
Hữu mang cả sắc thái lục bát ca dao và lục bát cổ điển, giúp nhà thơ thể hiện tâm tình và ý
biểu đạt. Bên cạnh đó, Tố Hữu còn sử dụng thể thơ thất ngôn vớ những biến tấu linh hoạt và
tạo nhịp phù hợp.
Thơ Tố Hữu cũng rất giàu chất nhạc với biệt tài sử dụng từ láy cùng vần, phối thanh, phát
nhịp. Thơ ông tọa nhạc điệu trong tâm hồn con người cũng như chiều sâu trong tính dân tộc.
‘’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’
Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Với Tố Hữu tả cảnh hay tả tình, khóc mình hay khóc
người, viết về vấn đề lớn hay vấn đề nhỏ đều là để nói cho hết cái lí tưởng cộng sản ấy thôi”.
Chỉ
vài dòng nhận xét ấy thôi đã đủ cho ta hiểu về Tố Hữu- nhà thơ tình cách mạng lớn nhất trong
thơ Hiện đại. Giữa bao ngọn cờ sai lạc dưới sự thống trị của thực dân Pháp, Tố Hữu hiện lên
như
lá cờ Đảng mang cái lí tưởng, cái lối sống, cái triết học đúng đắn nhất đương thời thấm nhuần
vào từng dòng thơ của mình. Ngay cả khi đến cái tuổi “gần đất xa trời” trong ông vẫn nồng nàn
chung thủy với Cách mạng:
“Thuyền có vượt sóng không nghiêng ngả
Nghĩa lớn xuôi dòng lộng ước mơ
Mới nửa đường thôi, còn bước tiếp
Trăm năm duyên kiếp Đảng và Thơ”
Hiện lên như một vệt sáng giữa bầu trời tăm tối, bài thơ “Từ ấy” được coi là tuyên ngôn về
cuộcsống của chàng thanh niên 16-17 tuổi đầy nhiệt huyết, vạch ra cho người thanh niên ấy một lẽ
sống, một lí tưởng giữa những cám dỗ lúc bấy giờ. Tố Hữu đã có lần tâm sự: “Nếu không có “Từ
ấy” thì không biết tôi đã trở thành thế nào. May mắn lắm là một người vô tội.”
Bài thơ “Từ ấy” được sáng tác năm 1938 in trong phần “Máu lửa” thuộc tập “Từ ấy” mang
những sắc thái riêng tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu, thể hiện niềm vui cũng như tâm
nguyện của người thanh niên trẻ khi đến với con đường Cách mạng.
Bài thơ mở ra là niềm say mê, vui sướng của tác giả khi bắt gặp lí tưởng của Đảng trong lúc
còn “Băn khoăn đi tìm lẽ yêu đời”. Hai câu thơ đầu được nhà thơ khéo léo sử dụng bút pháp tự
sự kết hợp với bút pháp trữ tình, lời thơ đầy niềm say mê, nao nức của ông khi đón nhận lí tưởng
cách mạng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
“Từ ấy” không chỉ đơn thuần là cột mốc thời gian. Nó đứng đầu khổ thơ còn giữ sứ mệnh là cột
mốc thiêng liêng của cả cuộc đời, là bước ngoặt quan trọng trong lẽ sống và tâm hồn nhà thơ. Nó
chấm dứt những tháng ngày dài quanh quẩn đi tìm lẽ yêu đời. Hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt
trời chân lí” đã diễn tả niềm hạnh phúc của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cộng sản. Đây là những
hình ảnh rực rỡ, chói chang vừa làm bừng tỉnh, vừa chiếu sáng tâm hồn nhà thơ và xua tan đi
bóng tối của chủ nghĩa cá nhân trong tâm hồn thi sĩ. Không ít lần ánh sáng huy hoàng của chân
lí đã soi sáng vào thơ Tố Hữu:
“Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng
Ta đi tới chỉ một đường cách mạng”
Những động từ mạnh “bừng”, “chói” góp phần khẳng định vai trò của lí tưởng cuộc sống đối với
đời cách mạng, đời thơ của Tố Hữu. Một bên là ánh sáng đột ngột (bừng), một bên là ánh sáng
xuyên thấu rất mạnh, rất rực rỡ (chói) nó như bao kín đôi mắt nhà thơ và như soi sáng trong lòng
tác giả. Ánh sáng ấy đã hoàn toàn xua đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong
tâm hồn nhà thơ một chân trời như nhà thơ Chế Lan Viết từng viết:
“Nếp rêu con cũng chói lòa ánh sáng
Khi mặt trời tư tưởng rọi hang sâu”
Ở đây còn có cái gì tỏa sáng giống như cô gái gặp được người yêu trong bài ca dao xưa:
“Thấy anh như thấy mặt trời
Chói chang khó ngó trao lời khó trao”
Có lẽ ánh sáng lí tưởng đã hồi sinh một đời người, đã xua tan màn đêm của u mê, đã mở ra cho
nhà thơ một chân trời mới mẻ của tư tưởng tình cảm.
Hai câu thơ tiếp theo được viết theo bút pháp trữ tình lãng mạn diễn tả niềm vui sướng vô hạn
của nhà thơ trong buổi đầu đến với cách mạng:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Tố Hữu ví tâm hồn mình như “một vườn hoa lá”, ông đã lấy cái cụ thể để diễn tả cái trừu tượng
thật sống động tạo ra phép so sánh chính xác, độc đáo, bất ngờ và mang tính thẩm mĩ cao. Trong
khu vườn ấy là một cuộc sống đầy màu sắc, âm thanh, mùi vị. Đó là màu xanh của lá, là hương
thơm ngây ngất của hoa, là âm thanh tiếng chim ríu rít rộn ràng. Tất cả âm vang của cuộc sống
đã được nhà thơ chắt lọc để nuôi dưỡng tâm hôn. Xuân Diệu- một đại biểu xuất sắc của thơ ca
lãng mạn thời ấy cũng có hình ảnh tương tự khi diễn tả tình cảm trong trẻo, hồn nhiên của cặp
tình nhân:
“Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi”
“Đậm” là sự ngào ngạt của hương thơm, “rộn” là cái ríu rít của âm thanh, hai tính từ đã diễn tả
sức sống mãnh liệt, niềm vui và hạnh phúc tột đỉnh của tâm hồn thi sĩ Các giác quan đã được
đánh thức, khu vườn ảo của tâm trạng đã thêm phần cụ thể, tràn đầy âm thanh, hương vị,…
Trong sự tỏa sáng của chân lí, ngôn từ thơ Tố Hữu cũng như cựa mình trỗi dậy. Sự sống cứ ăm
ắp dâng lên, nhà thơ sung sướng đón nhận cái chân lí như cỏ cây hoa lá đón ánh nắng mặt trời.
Mượn hình ảnh thiên nhiên để thể hiện tâm hồn vừa nhấn mạnh tính tất yếu của cách mạng,
vừa tạo nên những hình ảnh thơ lấp lánh, sống động. Ở Tố Hữu, lí tưởng sống là nguồn sống của
đời người, nguồn sống của thơ ca cũng giống như M.Gorki từng nói: “Văn học giúp con người
hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát
vọng hướng tới chân lí”.
Không chỉ giác ngộ được lí tưởng cách mạng, Tố Hữu đồng thời còn thể hiện nhận thức mới
mẻ về lẽ sống:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Với Tố Hữu ánh sáng lí tưởng đã tạo nên những biến đổi sâu sắc khiến một thanh niên tiểu tư
sản đã trở thành nhà thơ của nhân dân. Tình yêu thương con người của Tố Hữu là tình cảm hữu
ái giai cấp, ông đã đặt mình giữa dòng đời để thấy được niềm vui và sức mạnh. Qua đó Tố Hữu
khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống: “Cuộc đời là nơi xuất bản, cũng là
nơi đi tới của văn học”.
Từ sự gắn bó khăng khít đầy tình cảm, Tố Hữu đã nâng tình cảm giai cấp lên thành tình cảm
ruột thịt, ông coi quần chúng nhân dân như những người trong gia đình:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…”
Khổ thơ tiếp nối ý tưởng của khổ thơ thứ hai, tiếp tục bắc cây cầu từ cái “tôi” đến cái “ta”. Tôi
hướng về “vạn nhà”, “vạn kiếp phôi pha”, “vạn đầu em nhỏ”, hình ảnh thơ hiện lên cụ thể hơn,
sinh động hơn và cũng xúc động hơn. Từ “vạn” được lặp lại ba lần vừa nhấn mạnh số đông, vừa
tràn đầy nhiệt huyết của nhà thơ muốn bứt khỏi cái tôi riêng tư để đến với chân trời rộng lớn. Nó
cũng là số từ mang tính ước lệ để một lần nữa khẳng định sự đoàn kết, đàm ấm, thân thiết như
một gia đình. Điệp từ “là” gắn với những đại từ chỉ quan hệ thân thuộc (em, con, anh) một mặt
thể hiện mối quan hệ tự nhiên mà gắn bó sâu sắc, mặt khác khẳng định nhiệm vụ, vai trò lớn lao
của người thanh niên đối với cộng đồng. Tố Hữu nhận thấy bản thân mình là một thành viên của
đại gia đình quần chúng lao khổ. Đến đây làm ta nhớ đến những dòng thơ xúc động khi Tố Hữu
viết về Bác Hồ:
“Người là cha là bác là anh
Quả tim lớn bọc trong dòng máu đỏ”
Khổ thơ vừa như lời tâm niệm của người chiến sĩ trẻ, vừa thể hiện niềm vui của nhà thơ khi chủ
động tìm đến đại gia đình mới của mình. Tấm lòng nhà thơ đồng cảm, xót thương khi nói tới
những con người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả (vạn kiếp phôi pha). Tấm lòng
nhà thơ thông cảm, chia sẻ khi nói tới những em nhỏ lang thang tội nghiệp, không nơi nương tựa
(cù bất cù bơ). “Cù bất cù bơ” là tính từ khá mới lạ nhưng người đọc vẫn cảm nhận được hoàn
cảnh nay đây mai đó, bơ vơ của đồng bào ta trong đói khổ. Tâm trạng của nhà thơ đã có sự
chuyển biến mạnh mẽ từ đồng cảm, sẻ chia đến căm giận trước sự bất công ngang trái của cuộc
đời. Tố Hữu đến với nhân dân lao động không chỉ là nhận thức mà còn là giao cảm lớn giữa cá
nhân với cộng đồng. Xét đến cùng, cách mạng chính là cuộc giao cảm vĩ đại của con người với
nhau như Lenin đã dùng hình ảnh: “em là ngày hội của quần chúng”.
Khép lại bài thơ là sự chân thành, thái độ quyết tâm cũng như trách nhiệm của Tố Hữu với sự
nghiệp cách mạng nước nhà đúng như Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Tố Hữu là nhà thi sĩ làm
cách mạng và là nhà cách mạng làm thơ”. Còn Chế Lan Viên thì cho rằng: “Thơ Tố Hữu là thơ
cách mạng chứ không phải thơ tình yêu… nhưng thơ anh là thơ của một tình nhân. Anh nói các
vấn đề bằng tình yêu say đắm”
“Từ ấy” chính là tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí tưởng của chàng thanh niên trẻ. Bài
thơ vừa có chất triết lí, vừa gần gũi thân thuộc. Từng câu thơ như nung nấu ý chí quyết tâm của
người cộng sản luôn cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và có lẽ suốt cuộc đời
chàng thanh niên trẻ đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp ấy:
“Tạm biệt đời ta yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ một nắm tro
Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất
Sống là cho, chết cũng là cho”
"Từ ấy" của Tố Hữu
Từ ấy là bản đàn dạo khúc vui đầu tiên của người cộng sản khi gặp lí tưởng Đảng. Đó là lúc tâm
hồn được hồi sinh, trí tuệ bừng sáng, nhận thức trách nhiệm lớn lao với cuộc đời. Thơ Tố Hữu
hay khi kết hợp sâu sắc lí tưởng cộng sản, tình thương yêu con người và niềm vui hướng về tương
lai. Từ ẩy đã kết tinh cái hay ấy và tạo nên sức hút lớn đối với những con người chân chính đã và
đang đi theo lí tưởng của mình. Nhà thơ khơi lên lòng nhiệt huyết, quyết tâm của biết bao thế hệ
để họ hôm nay và mai sau thực hiện ước nguyện xây dựng cuộc sông tốt đẹp hơn.
BÌNH BÀI THƠ “TỪ ẤY” CỦA TỐ HỮU
Bài thơ Từ ấy đã ghi lại giây phút mê say của nhà thơ khi bắt gặp ánh sáng của Đảng soi đường.
Đó không chỉ là cảm xúc vui sướng, phấn khởi mà còn là phẩm chất cao đẹp cúa người cộng sản
muốn hòa nhập và cống hiến hết mình cho đời.
Tố Hữu là nhà thơ lớn, gần gũi với bao thế hệ người Việt Nam. Thơ Tố Hữu có sức sống lâu bền
trong lòng bạn đọc bởi chất men say lí tướng cao cả, của tình yêu thương chân thành cho con
người, của niềm tin bất diệt vào tương lai. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại giây phút mê say của nhà thơ
khi bắt gặp ánh sáng của Đảng soi đường. Đó không chỉ là cảm xúc vui sướng, phấn khởi mà còn
là phẩm chất cao đẹp cúa người cộng sản muốn hòa nhập và cống hiến hết mình cho đời.
Mỗi người đều có những giây phút trọng đại, thiêng liêng trong cuộc đời. Với người mẹ đó là đứa
con yêu ra đời và bập bẹ biết nói, biết đi. Với người yêu nhau là khi họ bắt gặp nhau lần đầu tiên
tưởng chừng như quen biết tự bao giờ. Nhà thơ Xuân Diệu từng có giây phút đó:
Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.
Còn riêng Tố Hữu, hạnh phúc lớn nhất là lúc nhận ra con đường đi đúng đắn của mình, bắt gặp
ánh sáng lí tưởng của Đảng. Đó là cái mới đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời người thanh niên
yêu nước đầy nhiệt tình, hăm hở. Tố Hữu vào Đảng khi còn rất trẻ - mười bảy tuổi, vậy mà mối
duyên với cách mạng sớm đưa lại những đổi thay kì diệu về tình cảm và tâm hồn, nhận thức.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Từ ấy đặt ngay đầu bài thơ như bức tường vạch chia ranh giới rõ ràng giữa hai khoảng thời gian.
Thời gian cuộc đời của nhà thơ tự phân làm hai nửa trước và nửa sau từ ấy cho chúng ta sự khác
biệt trong một con người. Trước Từ ấy là cuộc sống bế tắc không lối thoát, cô đơn tuyệt vọng
chán chường.
Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Băng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời
Vẫn vơ theo mãi dòng quanh quẩn
Muốn thoát than ôi, bước chẳng rời.
(Nhở đổng)
Đó không phải là tâm trạng của riêng mình nhà thơ mà là chung cho cả thế hệ trẻ lúc bấy giờ vừa
rời ghế nhà trường liền va đập ngay với những cảnh đời trớ trêu. Họ bi quan, không xác định cho
mình một hướng đi, hay một lí tưởng dứt khoát. Báng khuâng đứng giữa hai dòng nước, chọn
một dòng hay đế nước trôi.
Từ ấy khép lại chuỗi ngày dằn vặt, đau khổ, bóng tối, mở ra một cuộc sống mới đầy hứa hẹn. Nó
toát lên từ sức sống mạnh mẽ bên trong, từ sự thức tỉnh kì diệu. Tố Hữu ghi lại giây phút đổi thay
ấy bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng bừng nắng hạ, thứ ánh nắng sáng tươi, rực rỡ chiếu
soi tỏ khắp nơi đặc biệt soi sáng cả những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn, trí tuệ, nhận thức.
Mặt trời chân lí là hình ảnh ẩn dụ cho lí tưởng Đảng, nó có sức mạnh vừa cảm hóa, lay động vừa
thức tỉnh không chỉ nhận thức, lí trí mà cả tình cảm, con tim của nhà thơ. Dường như có một cuộc
đổi thay nhanh chóng giống như người đang sống trong đêm tối mò, tâm hồn khô kiệt bỗng chốc
đèn pha bật sáng như ngày mai lên, mọi vật hiện ra, rõ ràng đến từng chi tiết và cảm xúc nảy sinh.
Niềm vui sướng thật sự dâng trào khi nhà thơ có cuộc sống mới tươi vui, rộn rã:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Hình ảnh so sánh hồn thơ - vườn hoa lá diễn tả quá đầy đú về cuộc sống, sức sống dào dạt, sinh
sôi. Những xao xuyến, hứng khởi trong tâm hồn sâu kín của nhà thơ được phơi trải ra thật sống
động. Đó là cuộc sống đầy màu sắc, âm thanh và mùi vị, có màu xanh yên bình của lá, của hoa,
có hương thơm của hoa và tiếng chim rộn ràng. Tất cả những âm vang của cuộc sống được nhà
thơ chắt lọc để nuôi dưỡng sức sống của hồn người. Nó được đẩy đến ngưỡng cao nhất. Bằng
việc sử dụng các tính từ chỉ mức độ như bừng, chói, rất, đậm, rộn. Tố Hữu cho ta thấy sự say mê,
ngây ngất của người chiến sĩ cộng sản khi bước theo ánh sáng lí tưởng đời mình. Ghi lại bước
chuyến quan trọng trong đời nhưng nhà thơ không lên gân, vẫn giọng thơ nhẹ nhàng dứt khoát
mà thấm đầm cảm xúc vui tươi, tha thiết như mạch sống lan tỏa khắp nơi và ngay cả nơi sâu kín
nhất.
Từ ẩy là sự đánh dấu một cuộc đổi đời, cao hơn là sự hồi sinh của một con người. Từ đây, sức
sống đó sẽ được nhân lên mạnh mẽ, tâm hồn sẽ như một vườn hoa lá: trong sáng, hồn nhiên:
Rồi một hôm nào tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi.
Say đồng hương vắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời.
Sau những phút giây sung sướng nhận ra lí tưởng cao cả cần di, người chiến sĩ cộng sản phải xác
định một tâm thế, một hành động cho xứng đáng. Đó trước hết là ý thức trách nhiệm trước cuộc
đời. Nhà thơ thay lời cái tôi chiến sĩ nói lên tâm nguyện, khát vọng ấy:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tỉnh trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Con người cá nhân đến đây tan biến dần nhường chỗ cho cái tôi rộng lớn - cái tôi hướng đến cuộc
đời và mọi người. Những ích kỉ, hẹp hòi ngàn cách cái tôi đến với mọi người không còn nữa, con
đường hòa nhập rộng mở thênh thang. Làm được điều đó không phải dễ dàng, cần phải đâu tranh,
cản nhắc, lựa chọn bằng ý thức trách nhiệm xuất phát từ sự chân thành, tự nguyện. Tôi - nhà thơ
tự buộc lòng mình với mọi người. Đó là thái độ dứt khoát, mạnh mẽ xác định bởi lí trí sáng suốt.
Mối dây ràng buộc với mọi người đả xóa bỏ sự đối lập chất chứa, đầy căm phẫn ngự trị trong tâm
hồn tôi trước đây đồng thời thiết lập tình yêu thương, gắn kết giữa người và người. Đó là sự cảm
thông, chia sẻ trước nỗi đau, vui buồn của bao kiếp người. Tinh thần tự nguyện buộc để tạo nên
khối đời, gần gũi, mạnh mẽ là mục đích cuối cùng nâng cao phẩm chất của người cách mạng.
Tình nhân ái làm cho mỗi người hòa vào cuộc đời trở thành con người theo đúng nghĩa của nó
Khổ thơ cuối tiếp tục nhấn mạnh ý thức trách nhiệm của con người cụ thể trước cuộc đời rộng
lớn:
Tôi đã la con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cam cù bất cù bơ
Ba từ là xuất hiện liên tiếp trong đoạn thơ như lời khẳng định chắc nịch, rắn rỏi, dứt khoát cho sự
hòa nhập tuyệt đối. Người chiến sĩ đã ở giữa đời và mọi người rất khiêm tốn mà không làm mất
đi vẻ tự nhiên vốn có, là con của gia đình, là em của kiếp đời phôi pha, là anh của các em thơ
nghèo khổ, đói cơm rách áo. Khối đời to lớn ở đây tạo bởi từng số phận với những cảnh ngộ riêng
là em bé Phước trong bài Đi đi em sớm chịu cảnh nô lệ, cả người vú em để con mình đói khát
phải đi chăm con người và biết bao người khác nữa. Nhà thơ bắt gặp cuộc đời mình trong những
mảnh đời cơ cực ấy. Số từ được sử dụng tảng dần từ một, mọi, trăm, khối, vạn như mở rộng khối
đời đồng thời kết nối tì nil cảm yêu thương gân bó giữa họ. ơ dó không còn là sự cảm thông mà
cao hơn nhà thơ tự thấy mình là thành viên của gia đình rộng lớn phải truyền cho họ tình yêu và
trách nhiệm trước số phận của mình. Phải chiến đấu để đem lại cuộc sống tốt hơn cho gia đình,
cho mọi người và dìu dắt, bảo ban những em thơ. Đến đây phẩm chất của người cách mạng được
soi sáng. Tâm hồn nhận thức, quan hệ đều (được soi chiếu nhờ ánh sáng lí tướng Đảng, không có
sự trải nghiệm, người cộng sản - nhà thơ không thể có những thay đổi lớn lao như vậy.
Từ ấy là bản đàn dạo khúc vui đầu tiên của người cộng sản khi gặp lí tưởng Đảng. Đó là lúc tâm
hồn được hồi sinh, trí tuệ bừng sáng, nhận thức trách nhiệm lớn lao với cuộc đời. Thơ Tố Hữu
hay khi kết hợp sâu sắc lí tưởng cộng sản, tình thương yêu con người và niềm vui hướng về tương
lai. Từ ẩy đã kết tinh cái hay ấy và tạo nên sức hút lớn đối với những con người chân chính đã và
đang đi theo lí tưởng của mình. Nhà thơ khơi lên lòng nhiệt huyết, quyết tâm của biết bao thế hệ
để họ hôm nay và mai sau thực hiện ước nguyện xây dựng cuộc sông tốt đẹp hơn.
Nguồn: Sưu tầm (MH)
Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu để làm sáng tỏ đặc điểm: Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính
trị.
1. Mở bài
– Nhà thơ Tố Hữu được coi là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ của
ông mang đậm chất trữ tình chính trị, dường như cả cuộc đời thơ Tố Hữu dành để ngợi ca đất
nước, ngợi ca nhân dân, ngợi ca lí tưởng cách mạng thể hiện một cái tôi say mê với lí tưởng, một
cái tôi công dân đầy trách nhiệm đối với nhân dân, đối với đất nước.
– Nhắc đến ông, ta không thể không nhắc đến những tập thơ nổi tiếng như: Từ ấy, Việt Bắc, Gió
lộng, Ra trận, Máu và hoa... trong đó tập thơ đầu tay Từ ấy là tập thơ mang một sắc thái riêng,
tiêu biểu cho phong cách thơ của Tố Hữu, thể hiện niềm vui và mối duyên đầu của người thanh
niên trẻ khi đến với cách mạng. Tác phẩm là cột mốc quan trọng mở đầu cho chặng đường đời,
chặng đường thơ của Tố Hữu.
2. Thân bài
2.1. Khái quát chung
– Tập thơ Từ ấy là tiếng hát trong trểo, phấn chấn, say mê của người thanh niên cộng sản khi mới
bắt gặp lí tưởng cách mạng. Tập thơ này gồm 71 bài thơ được chia làm ba phần: Máu lửa, Xiềng
xích, Giải phóng. Trong đó bài thơ Từ ấy được rút từ phần một, phần Máu lửa, được coi là bài thơ
hay nhất, ấn tượng nhất trong tập thơ.
– Bài thơ được Tố Hữu viết vào năm 1938, đó là thời điểm Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng
sản Đông Dương. Nó là một mốc son đánh dấu sự chuyển biến trong cuộc đời, trong thơ Tố Hữu.
Như chính nhà thơ đã từng viết: Từ ấy là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám đôi mươi, đi
theo lí tưởng cao đẹp dám sống, dám đấu tranh. Toàn bộ bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh
liệt của nhà thơ Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cuộc sống và tác dụng kì diệu của lí tưởng
cách mạng đối với quá trình nhận thức cũng như đối với đời thơ Tố Hữu.
2.2. Giải thích
– Nói thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị có nghĩa là những sự kiện chính trị có ý nghĩa lớn với
đất nước, với cá nhân, làm thay đổi cả một đời người đều trở thành nguồn cảm hứng trong thơ Tố
Hữu. Chất trữ tình cùng cảm xúc chân thành của nhà thơ quyện vào nhau, làm nên những vần thơ
ca ngợi Đảng, ca ngợi cách mạng.
– Bài thơ Từ ấy là bài thơ đánh dấu mốc son quan trọng, có ý nghĩa nhất đối với cuộc đời của nhà
thơ, chính giây phút nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng ấy đã làm nên sự thay đổi kì
diệu về nhận thức, lí tưởng của một hồn thơ thuộc về cách mạng, thuộc về nhân dân.
2.3. Phân tích
. Khổ một
– Khổ một của bài thơ tập trung diễn tả niềm vui sướng, say mê của tác giả khi bắt gặp lí tưởng
của Đảng cộng sản.
– Ở khổ thơ đầu có sự kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp tự sự và trữ tình. Hai câu thơ đầu được
tác giả viết theo bút pháp tự sự. Lời thơ như một lời kể về một kỉ niệm không thể nào quên trong
cuộc đời của người chiến sĩ cách mạng trẻ:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim.
+ "Từ ấy" là chỉ cái mốc thời gian đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và trong cuộc đời thơ Tố
Hữu. Đó là khi Tố Hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong Đoàn thanh niên cộng sản Huế.
Được giác ngộ lí tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ông đã hoạt động cách mạng một
cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh
dự của những con người tiên phong.
+ Cụm từ "bừng nắng hạ" là biểu tượng cho cảm xúc của bài thơ. "Bừng nắng hạ" là bừng lên vui
sướng hân hoan, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lí tỏa sáng cho cuộc đời của mình.
Hình ảnh: Mặt trời chân lí chói qua tim là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lí tưởng cách mạng.
Những từ ngữ được sử dụng chính xác, giàu sức gợi ở đây là từ "bừng" và từ "chói". Từ "bừng"
chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ "chói" chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Vậy hình ảnh "bừng nắng hạ",
"chói qua tim" đã diễn tả được niêm vui đột ngột của nhà thơ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng
cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chân lí cách
mạng là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng
đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ
thành kính của nhà thơ đối với cách mạng.
+ Từ "chói qua tim" là tác giả nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó
xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời
mới của nhận thức, của tư tưởng.
– Hai câu thơ sau tác giả viết bằng bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh
rất sinh động, giàu hình tượng để diễn tả niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu tiếp xúc với lí
tưởng cộng sản:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
+ Hình ảnh "vườn hoa lá" và "rộn tiếng chim" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một thế giới tươi
sáng, rộn rã, tràn đầy sức sống. Nhà thơ so sánh: Hồn tôi là một vườn hoa lá, một cách so sánh
lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Để từ đó bạn đọc chúng ta có thể cảm nhận
được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ khi đến với cách mạng. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng
không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ.
Đó là nhà thơ say mê ca ngợi nhân dân, ca ngợi đất nước, say mê hoạt động cống hiến cho cách
mạng.
=> Như vậy, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niềm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong
tâm hồn nhà thơ từ khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng, được kết nạp vào Đảng cộng sản.
Những câu thơ trên được viết bằng cảm xúc dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình
ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấn tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mạng đương
thời và trước đó. Xong cái hấp dẫn lớn nhất trong thơ Tố Hữu là con người chân thành, tâm hồn
trong trẻo, nồng nhiệt đã tìm được một cách diễn đạt rất phù hợp. Soi tỏ vào khổ thơ này ta mới
thấy hết được nguồn cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước ánh sáng huy hoàng của chân lí:
b. Khổ hai - những nhận thức mới về lẽ sống
– Khi giác ngộ lí tưởng Tố Hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa
giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
+ Động từ "buộc" thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua
giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. "Buộc" còn có nghĩa là tự mình phải
có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người
cùng chung giai cấp vô sản.
+ Từ "trang trải" khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra
khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.
– Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời là tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. "Khối đời" là hình ảnh
ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một cảnh ngộ, cùng chung một lí tưởng, đoàn kết
với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại
quyền sống và quyền độc lập dân tộc.
=> Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã
gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của
Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết,
câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập
thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội. Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới
về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy
niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lí tưởng
của nhà thơ Tố Hữu.
c. Khổ ba - sự chuyển biến của tình cảm trong nhà thơ Tố Hữu
– Từ thay đổi về nhận thức dẫn đến sự thay đổi về tình cảm.
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ.
– Ở khổ thơ này, nhà thơ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động thể
hiện trong quan hệ với các tầng lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng
định tình cảm gắn bó với "vạn nhà" (Tôi đã là con của vạn nhà: "vạn nhà là một tập thể lớn lao,
rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, "vạn kiếp phôi pha" là những
người sống nghèo khố, sa sút, vất vả, cơ cực, "vạn đầu em nhỏ" là những em bé lang thang vất
vưởng nay đây mai đó).
– Tình cảm của tác giả thể hiện qua cách xưng hô: "con", "anh và em", cho ta thấy tình hữu ái
giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp từ "đã là" là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu
sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một
thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu
được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi cá nhân, ích kỉ, hẹp hòi.
– Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình để đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và
điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức
tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ cảm hóa Tố Hữu mà còn thay đổi cả một thế hệ trí thức
tiểu tư sản như Xuân Diệu, Huy Cận. Họ vốn là những thi sĩ lãng mạn rồi trở thành những nhà
thơ cách mạng, sáng tác phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Điều đó thể hiện sự thay đổi quan
niệm trong sáng tác của họ. Các nhà thơ lãng mạn quan niệm:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.
(Cảm xúc - Xuân Diệu)
Nhưng quan niệm của các nhà thơ cách mạng, nhà thơ, nhà văn phải là người chiến sĩ trên mặt
trận văn hóa tư tưởng. Như Sóng Hồng đã từng viết:
Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền.
(Là thi sĩ)
Hay Hồ Chí Minh đã viết:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
(Cảm tưởng đọc "Thiên gia thi")
2.4. Nhận xét chung
– Từ ấy là lời tâm nguyện của thanh niên yêu nước giác ngộ và say mê lí tưởng cách mạng. Sự
vận động của tâm trạng nhà thơ được hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, bằng các
biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.
– Với cách sử dụng linh hoạt các bút pháp tự sự/ trữ tình và lãng mạn, sử dụng linh hoạt và hiệu
quả các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ rồi sử dụng từ ngữ giàu tình cảm, giàu hình
ảnh. Bài thơ đã thể hiện được một cách sâu sắc, tinh tế sự thay đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm
của một thanh niên ưu tú khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng và được vinh dự đứng trong hàng
ngũ lãnh đạo của Đảng.
3. Kết bài
– Bài thơ cũng thể hiện những nhận thức mới về lẽ sống, đó là lẽ sống gắn bó hài hòa giữa cái tôi
riêng với cái ta chung của mọi người. Cũng như sự chuyển biến sâu sắc của nhà thơ, bài thơ cũng
có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thơ ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn
về lẽ sống của người chiến sĩ cách mạng và cũng là tuyên ngôn của nhà thơ chiến sĩ.
– Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, có sự kết hợp hài hòa giữa trữ
tình và chính trị, sử dụng nhuần nhuyễn các thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca truyền
thống nhưng giàu hình ảnh và giàu nhịp điệu lời thơ giản dị khiến nó dễ đi vào lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Từ ấy – Tố Hữu
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng: “Văn hóa nghệ thuật cũng
là một mặt trận, anh chị em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, trong
những năm trường kì kháng chiến chống Pháp có biết bao con người đã ra
mặt trận, đã cống hiến và hy sinh cho Tổ Quốc. “Mặt trận nghệ thuật” là
“một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa
thay đổi thế giới giả dối, tàn ác vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và
phong phú hơn” (Thạch Lam). Và một trong những chiến sĩ – nghệ sĩ tích
cực trong cả mặt trận kháng chiến và mặt trận nghệ thuật chính là Tố Hữu
và bài thơ “Từ ấy” là tác phẩm đã ghi dấu một kỉ niệm sâu đậm trong cuộc
đời ông – một tiếng reo vui đầy tự hào của nhà thơ khi đã giác ngộ lí tưởng
cách mạng:
Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ diễn tả niềm vui sướng, niềm hạnh phúc tột
đỉnh và sự say mê khi bắt gặp lí tưởng Đảng của cái tôi trẻ trung tràn đầy
nhiệt huyết:
Sau thời gian hoạt động tích cực trong Đoàn thanh niên cộng sản Huế, Tố
Hữu vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Hai chữ “Từ ấy” là mốc
thời gian có ý nghĩa đặc biệt trong đời cách mạng và đời thơ Tố Hữu khi
mới 18 tuổi, đang “băn khoăn tìm lẽ yêu đời” nhà thơ được giác ngộ lí
tưởng cộng sản. Sự kiện thiên liêng khi ông được kết nạp vào Đảng cộng
sản Việt Nam đã khiến nhà thơ bàng hoàng vì hạnh phúc, sung sướng.
Nhà thơ diễn tả ánh sáng của Đảng bằng một hình ảnh thơ rất chói chang
và ấm nóng: “bừng nắng hạ”. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột:
bừng sáng, bừng ngộ, bừng tỉnh. Ánh sáng ấy không chỉ tràn ngập không
gian bên ngoài mà còn tỏa ra từ tâm hồn nhà thơ, nó đánh thức một tâm
hồn đang lạc lối để vượt qua u tối và vươn tới ánh sáng của ngày mới:
Hình ảnh cùng ý nghĩa ánh sáng còn được làm rõ hơn trong câu thơ:
Khi đến với hai câu tiếp theo, người đọc sẽ thấy được cụ thể hơn niềm vui
sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản:
Tố Hữu đã thành công trong việc dùng bút pháp so sánh “vườn hoa lá –
đậm hương và rộn tiếng chim” để hữu hóa niềm vui sướng trong lòng
người, đó là một thế giới tràn đầy sức sống với cả hình ảnh hoa lá xanh
tươi, cả hương thơm trái cây nồng đượm, cả âm thanh rộn rã, say đắm
của tiếng chim ca hót. Và đó là do ánh sáng chói chang ấp áp của mặt trời
– sự hòa quyện giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ đã khẳng định tác
động mạnh mẽ, kì diệu của lí tưởng cộng sản với trái tim con người. Hơn
nữa Tố Hữu còn là một nhà thơ nên niềm yêu đời và sức sống mới chan
chứa trong tầm hồn cũng trở thành cảm hứng mãnh liệt cho thi ca. Cách
mạng không hề đối lập với nghệ thuật mà trái lại, ánh sáng kì diệu của lí
tưởng cách mạng đã khơi dậy sức sống sáng tạo mới mẻ cho hồn thơ:
Khổ tiếp theo của bài thơ biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới của cái
tôi trữ tình:
Hai câu thơ sau khẳng định tình hữu ái giai cấp trong tình yêu thương của
Tố Hữu với con người và cuộc đời:
Nhà thơ hướng tình yêu thương của mình tới “mọi người”, “trăm nơi”,… ;
nhưng cụ thể hơn, đó là những con người thuộc giai cấp cần lao, những
kiếp sống khốn khổ, bất hạnh đói nghèo. Câu thơ cuối khẳng định sức
mạnh của tình đoàn kết qua hình ảnh ẩn dụ về “khối đời” – đó là một cộng
đồng chung cảnh ngộ. số phận, khát khao và ý chí để cùng nhau hướng tới
một lí tưởng cao đẹp… những cái chung ấy sẽ đem lại cho họ một sức
mạnh vô địch.
Khổ thơ cuối cùng khép lại là sự chuyển biến sâu trong tình cảm của thi
nhân. Là sự hóa thân của cái tôi vào cái ta chung của “kiếp phôi pha”:
Tố Hữu đã khẳng định sự chuyển biến tình cảm của mình. Tác giả tự nhận
mình là một thành viên thân thiết ruột thịt trong đại gia đình quần chúng bị
áp bức, đau khổ trong xã hội cũ. Các điệp từ “là” cùng với các từ “con”,
“em”, “anh” đã khẳng định điều đó. Số từ ước lệ “vạn” chỉ số lượng hết sức
đông đảo. Họ là kiếp phôi pha là chị vú em với nỗi buồn thân phận:
Hay là hình ảnh lảo đầy tớ với nỗi cơ cực thân già; là cô gái giang hồ trên
sông Hương với bao nỗi nhọc nhằn của kiếp người:
Chính vì những “người anh” phải sống “kiếp phôi pha”, những người “em”
… “cù bất cù bơ” ấy mà người thanh niên cộng sản Tố Hữu say mê hoạt
động cách mạnh, và họ cúng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà
thơ Tố Hữu. Không phải ngẫu nhiên mà từ đây, Tố Hữu đã bày tỏ niềm
cảm thông sâu sắc với những “em bé mồ côi”, “em bé bán dạo”, “chị vú
em”, “cô gái giang hô”, “lão đầy tớ”,… những con người mà tác giả cho
rằng đó là “những tù nhân khốn nạn của bần cùng”.
Bài thơ “Từ ấy” là một bài thơ sâu sắc về nội dung và độc đáo và nghệ
thuật. Ngòi bút tinh tế, dùng hình tượng thơ táo bạn, chói sáng, giàu khát
vọng lãng mạn bay bổng, say mê. Câu thơ mạnh, cảm xúc thơ tràn đầy.
Nhạc thơ biến đổi sinh động, hãm hở, dồn dập say sưa, lôi cuốn. Các biện
pháp tu từ được sử dụng nhuần nhuyễn như: điệp từ, so sánh, ẩn dụ,.. tất
cả làm nên một bài thơ hay và lôi cuốn người đọc.
Với “Đảng và thơ”, ở tuổi lục tuần, Tố Hữu vẫn nồng nàn tâm sự như thế.
Đã hơn 80 năm từ ngày Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt
Nam, tình yêu cách mạnh, chặng đường cách mạnh và hào khí trong thơ
ông vẫn chưa tìm được đến điểm dừng, hay phải chăng điểm dừng ấy đã
nằm ở vô cực của cuộc đời với ông. Bài thơ “Từ ấy” là một bài thơ của một
cái tôi tràn đầy cảm xúc. Đó chính là cái tôi lần đầu được giác ngộ lý tưởng
và nguyện đem cả tinh thần và tuổi trẻ của mình cho lý tưởng cao cả ấy.
Bài thơ còn là một tuyên ngôn nghệ thuật và mang đậm phong cách thơ
của Tố Hữu. Nó xứng đáng là một tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí
tưởng, ngày nay vẫn làm xúc động hàng triệu trái tim độc giả.
CHIỀU TỐI
CHIỀU TỐI-bài văn đạt giải HSG cấp thành phố
"Chiều tối" là bài thơ được viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ
là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng - cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con
người. Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng
nhân hậu đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương
lai. Hay nói đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và tinh
thần hiện đại.
Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ
sinh tình vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ
chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian,
hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ở đây, bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ
tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
“Cánh chim” và “chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa và
nay. Cho nên, đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian. Cánh
chim ở đây được lấy từ thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Trong thế giới thẩm mỹ ấy, hình ảnh
cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ diễn tả cảnh chiều: “Phi yến thu
lâm”; “Quyện điểu quy lâm” là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện
Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về
rừng: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió
cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang
nghiêng dần về cuối chân trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình như trong cảm
nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnh cánh chim thì bóng
chiều chưa rõ.
Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế
thôi và thường gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:
“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch
“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên
Chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”,
“Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi
lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương
hướng, điểm dừng, mục đích bay rõ ràng:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)
Như vậy Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực. Ta nhận thấy
trong cách nhìn của Bác là một cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của
sự sống. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày
đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm quan
của Bác chính là cảm quan nhân đạo.
Câu thơ thứ hai cũng mang đậm nét Đường thi. Nó rất gần với câu thơ: “Cô vân độc khứ nhàn”
của Lí Bạch. Hình ảnh chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời đã trở thành một mô tuýp quen thuộc
trong thơ xưa, nó thường gợi lên cái cô độc thanh cao, sự phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải
của con người trước cõi hư không. Còn trong bài “Chiều tối” của Bác, hình ảnh chòm mây cô độc
trôi nhè nhẹ qua bầu trời chỉ là một nét vẽ tạo nên cái không gian cao rộng của cảnh trời chiều nơi
miền rừng núi. Bầu trời hôm ấy phải thật cao, thật trong xanh ta mới thấy được hình ảnh chòm
mây cô độc ấy gợi nên hình ảnh cô độc nơi đất khách, quê người của Bác. Mỗi một chi tiết của
cảnh chiều đều nhuốm màu tâm trạng. Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù thì mệt mỏi sau
một ngày đường mà vẫn chưa có được chỗ dừng chân. Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng
không, còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách. Hai câu thơ đạt đến mức vi
diệu của lối tả cảnh ngụ tình. Ơ đó ta bắt gặp một tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên và sự
sống. Từ đó ta thấy được một nghị lực phi thường và đó cũng chính là chất thép trong thơ của
Bác.
Nếu như ở hai câu thơ đầu bằng bút pháp cổ điển Bác đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho
bức tranh, thì trong hai câu thơ sau, Bác tập trung làm nổi bật hình tượng trung tâm của bức
tranh. Từ bút pháp cổ điển Bác chuyển hẳn sang bút pháp hiện đại.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng)
“xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp
hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ
với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng
lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người
thiếu nữ trong thơ xưa. Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và
sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ. Còn người thiếu nữ
trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống.
Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếụ nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh.
Trong thơ xưa, những bức tranh vẻ cảnh chiều đều có bóng dáng con người nhưng sao lẻ loi, cô
độc và hiu hắt quá. Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn:
“Lom khom dưới núi tều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
Hay:
“Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn”
(Chiều Hôm Nhớ Nhà – Bà Huyện Thanh Quan)
... còn con người trong thơ Bác, lại là con người lao động đầy sức sống. Chính hai từ “thiếu nữ”
đã làm bừng lên sức sống của bức tranh. Cô gái miệt mài xay ngô và hình như cô không chú ý
đến những gì xung quanh mình. Cối xay vẫn cứ quay và quay tít “ma bao túc” rồi “bao túc ma”
và khi ngô đã xay xong “bao túc ma hoàn” thì cô mới nhìn thấy “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh
“lò than đã rực hồng” hiện lên trong đêm tối càng làm nổi bật hình ảnh người thiếu nữ. Toàn bộ
cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối. Cũng vì thế hình ảnh lò
than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt. Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”, có thể nói đó chính là
chỗ đẹp nhất của bài thơ. Đó chính là ánh lửa hồng của cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc gia đình,
ánh lửa hồng của sự sống, của niềm lạc quan. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của
người thiếu nữ, toả ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của bức tranh chiều tối nơi rừng núi.
Hai câu thơ đã cho ta thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương, trân trọng của Bác đối với con
người lao động. Buổi “Chiều tối” nơi miền rừng núi quạnh hiu, hoang vắng, lẽ ra rất đỗi buồn bã,
thê lương trước mắt người tù bị xiềng xích, bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả, nhưng trái
lại đó là tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên tiếng reo vui ấy, tạo cho bài thơ âm
hưởng nồng ấm, dạt dào.
“Chiều tối” là một tác phẩm đậm đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại, thể hiện một cách tự
nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù – thi sĩ, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh.
Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Điều đặc biệt ở đây là cảm quan thiên
nhiên của Bác gắn liền với cảm quan nhân đạo, cảm quan về sự sống.
CHIỀU TỐI - Bài viết của Lê Đức
Ai đó đã nói rằng: “Điều kì diệu tuyệt đỉnh của nghệ thuật, đặc biệt thi ca, là ở nơi đó ta có
thể tự do sắp đặt một thế giới riêng như mình khao khát. Thế giới ấy dẫu ảo huyền hay u ám tới
đâu cũng phải thấm đẫm tính nhân văn cao cả, hướng nhân loại tới sự cao đẹp.” Thi ca bao giờ
cũng thế, phải gắn mình vào nguồn mạch cuộc sống, nếu thi nhân quay lưng với cuộc sống, mải
mê với chuyện đúc chữ, luyện câu, mọi giá trị văn chương chỉ còn là kỹ xảo. Sức nặng của
những trang thơ chính từ cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia mà tạo thành, nhà thơ phải đến đó để
viết lên từ thứ mực được chưng cất từ chính hiện thực cuộc sống, dù nó có thế nào đi chăng nữa
thì thơ anh vẫn phải “thấm đẫm tính nhân văn cao cả” và phải “hướng nhân loại tới sự cao
đẹp”. Hồ Chí Minh đến với thơ ca cũng vậy, những trang thơ của Người mang đậm trong mình
chất “thép”, đó chính là cảm hứng đấu tranh tích cực, là tính chiến đấu của thơ ca và văn học
nghệ thuật. Người luôn biến những thứ tầm thường thành thú vui tiêu khiển, tạm quên đi cảm
giác khó nhọc bị tra tấn nơi đất khách quê người, đặc biệt qua bài thơ “Chiều tối” đã cho ta thấy
tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt đầy phi thường của
người tù cách mạng:
Không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh còn là nhà văn, nhà thơ
lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Với Bác, người nghệ sĩ phải là một chiến sĩ chủ động tích cực
trên mặt trận với vũ khí đặc biệt là các tác phẩm văn chương: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một
mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Ta vẫn thường thấy những thi phẩm nghệ
thuật thường ra đời trong hoàn cảnh rất đỗi nên thơ, khi trà dư tửu hậu hoặc lúc tức cảnh sinh
tình, nhưng thơ Bác ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất vẫn vươn mình để trở thành áng
thơ tuyệt bút. “Mộ” (Chiều tối) được Bác lấy cảm hứng từ khung cảnh miền sơn cước vào một
buổi chiều trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo cuối tháng 10 năm 1942. Đây được
coi là một trong những thi phẩm đặc sắc trích từ tập “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù), bài
thơ mang đậm màu sắc cổ điển song cũng thấm đượm tinh thần hiện đại qua đó góp phần làm nổi
bật cốt cách của “bậc đại trí, đại nhân, đại dũng” (Viên Ưng – Trung Quốc).
Ngay từ những nét phác hoạ đầu tiên ta đã thấy hiện lên bức tranh cổ kính, đậm nét của thi ca
cổ điển:
Bằng bút phát chấm phá, Bác điểm trong bức tranh chiều tà là hình ảnh cánh chim – hình ảnh
ước lệ thường thấy trong văn học cổ có nhiều ý nghĩa biểu tượng, Nguyễn Du đã từng viết:
và đến tận sau này cánh chim ấy vẫn làm xao xác cả hoàng hôn trong thơ Huy Cận:
Cảnh vật vùng sơn cước là những hình ảnh thực được hiện lên rõ nét qua con mắt và tâm trạng
của người tù nơi đất khách quê người. Chiều tối là lúc ánh sáng ban ngày gần vụt tắt hẳn, người
đi đường ngước mắt nhìn lên bầu trời - nơi vẫn có chút ánh sáng ban ngày còn sót lại và chợt
nhận thấy một cánh chim lẻ bầy mỏi mệt (quyện điểu) đang bay về rừng tìm nơi trú ngụ. Chẳng
lẽ tự nhiên mà cánh chim ấy rơi vào điểm nhìn của Bác, sự cảm nhận đó xuất phát trên cơ sở ý
thức sâu sắc của cái tôi cá nhân trước ngoại cảnh, và trên cơ sở sự gần gũi, tương đồng: suốt một
ngày bay đi kiếm ăn, cánh chim đã mỏi mệt, người tù cũng mệt mỏi sau một ngày vất vả lê bước
trên đường trường. Những cánh chim kia còn biết tìm về tổ ấm khi màn đêm buông xuống còn
người tù tha hương nơi đất khách vẫn phải rảo bước trên con đường gian khổ mà chẳng biết điểm
dừng chân sẽ là ở đâu. Sẵn có một tâm hồn nhạy cảm nên Người không thể không chạnh lòng và
gợi lên nỗi nhớ quê hương cồn cào, da diết, dường như Bác cũng muốn dừng chân sau một hành
trình nhọc nhằn đầy khó khăn:
Ngược dòng thời gian, ta sẽ bắt gặp tứ thơ tương tự qua những vần thơ của Lí Bạch:
Cũng là cánh chim, chòm mây lẻ nhưng thơ Lý Bạch và thơ Bác chỉ giống nhau ở hình xác thi
liệu, còn hai thế giới cảm xúc là hoàn toàn khác nhau: Thơ Lí Bạch tái hiện hình ảnh cánh chim
bay vào cõi hư vô lạnh buốt mang cảm hứng thoát tục lánh đời còn cánh chim trong thơ Bác có
điểm đến rất rõ ràng: về rừng – về với cõi trần gian gần gũi, về với tổ ấm thật thân thương. Nhìn
cánh chim mà Người thấy trong dáng bay của nó có cả sự mệt mỏi. Phải chăng đó chính là tình
cảm nhân đạo, là tấm lòng cảm thương cho cánh chim sau một ngày vất vả lam lũ. Cái nhìn ấy
thể hiện sự nhân ái, bao la của Người đối với vạn vật như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
Trong câu thơ sau “Cô vân mạn mạn độ thiên không” mang đậm đà phong vị cổ thi và đẹp như
một câu thơ Đường, cũng mượn thi liệu quen thuộc là hình ảnh chòm mây để miêu tả cảnh chiều
tà:
song những áng mây trong thơ Bác không phong lưu, cao sang mà rất bình dị, êm ả của bầu trời
miền sơn cước. Đối chiếu với bản dịch thơ, rất tiếc người dịch đã làm mất đi sự cô đơn, lẻ loi của
đám mây (cô vân) và dáng vẻ lững lờ như chất chứa nỗi niềm, giúp ta hình dung ra cả một
khoảng trời trong trẻo, mênh mang, tĩnh lặng cùng chút gió thu nhè nhẹ hiu hắt buồn (mạn mạn).
Hai hình ảnh tương phản ở đầu và cuối câu thơ: “cô vân” – “thiên không”, đối lập giữa không
gian cao rộng, thoáng đạt của bầu trời với sự lẻ loi của áng mây khiến cho không gian càng rộng
mở mênh mông, rợn ngợp và cánh chim càng nhỏ bé, đơn độc, đáng thương. Lối vẽ chấm phá cổ
điển không làm cho hình ảnh chòm mây rơi vào ước lệ giống với thơ xưa mà ngược lại giúp
chúng sống động như mang tâm tình, xúc cảm. Áng mây dường như không biết đi đâu, về đâu
trong cảnh chiều tàn đang dần khép cửa, nó khiến người tù cách mạng nghĩ đến thân phận bơ vơ
nơi đất khách quê người của mình, đó vừa là nỗi buồn cố hữu trước cảnh thiên nhiên vừa là nỗi
buồn phải xa quê nhưng lúc nào cũng nhớ về quê hương:
“Năm tròn cố quốc thân vô tội
Hóa lệ thành thơ tả nỗi này”
Bằng những thi liệu cổ điển quen thuộc, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và bút pháp chấm phá
chỉ gợi mà ít tả, thi nhân đã dựng lên bức tranh chiều muộn thanh bình miền sơn cước. Bức tranh
ấy hoàn toàn không có dây trói hay gông xiềng, tư thế một tù nhân đã thay thế hoàn toàn bởi tư
thế của một hành nhân, một thi nhân. Cảnh vật được cảm nhận từ điểm nhìn cao rộng khoáng
đạt, vì vậy cảnh tuy hoang vắng, phảng phất chút buồn nhưng không cô liêu, tuyệt vọng. Và
người tù cách mạng đã dành những tình cảm yêu thương, trìu mến cho vạn vật, cho tự nhiên vốn
dĩ rất thơ mộng này. Tự chủ trong cái nhìn thiên nhiên và đồng thời con người cũng tự chủ trong
cả những cảm xúc vui buồn. Hai câu thơ không khẩu khí mà lại làm ta rung động. Người tù đang
tự do tự tại trước cảnh ngộ éo le như Bác đã từng viết khi mới bước vào nơi bị giam cầm:
Hai câu thơ là tư thế của con người làm chủ hoàn cảnh, làm chủ cuộc đời, càng đặt hai câu thơ
trong hoàn cảnh sáng tác của nó, người đọc càng cảm nhận được bản lĩnh phi thường, tinh thần
thép của người tù chiến sĩ Hồ Chí Minh trước những khắc nghiệt của cuộc đời:
Hai câu thơ cuối có sự vận động về thời gian từ chiều đến tối, có sự vận động từ không gian
thiên nhiên đến không gian cảnh sinh hoạt. Nổi bật trong bức tranh là hình ảnh cô thiếu nữ xóm
núi đang xay ngô chuẩn bị cho bữa tối, đây là một thi liệu mang đậm tính dân chủ cho văn
chương cũng như sự vận động mới mẻ cho hình tượng thơ:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Ta vẫn thường thấy trong thơ xưa, cảnh thiên nhiên thường vắng bóng con người hoặc con người
bị hòa vào thiên nhiên, họ thường nhỏ bé, cô đơn, thường tĩnh lặng, thụ động và luôn chịu sự chi
phối của ngoại cảnh như trong bài “Qua đèo ngang” của bà Huyện Thanh Quan:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
hay như trong thơ Đường, hình ảnh ẩn sĩ hiện lên dưới cánh chim ngàn mây núi buông câu thả cá
mà cũng như buông xuôi cuộc đời:
Nhưng khi đến với bài thơ “Chiều tối”, trung tâm của bức tranh giờ đây lại là con người – hình
ảnh cô gái đang lao động chăm chỉ xay ngô bên bếp lửa như mang đến sức sống cho khung cảnh
chiều tối. Đặc biệt, đó là sự gắn kết “thiếu nữ” – “sơn thôn” đã cho ta thấy cảm xúc, hồn thơ
của Bác. Người luôn luôn phát hiện mối quan hệ hoà hợp giữa người và cảnh vật. Không phải
ngẫu nhiên có sự kết hợp này, dường như xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ vào sự xuất hiện
của thiếu nữ. Và thiếu nữ xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi mà gắn liền với cộng đồng “sơn
thôn” của mình, đó vẫn luôn là cách nhìn đặc biệt thường gặp trong thơ Bác:
Ở câu thơ thứ 3 lại một lần nữa bản dịch thơ không thể thể hiện được hết ý nghĩa của bản nguyên
tác khi “sơn thôn thiếu nữ” dịch là “cô em xóm núi”. Bác không gọi cô gái bên bếp lửa hồng ấy
với hai từ cô em mang sắc thái bông đùa mà Bác trân trọng gọi người con gái ấy là thiếu nữ - gợi
cảm xúc về sức trẻ, tuổi thanh xuân của cô. Mặt khác, thơ cổ cũng đã nhiều lần nhắc đến hình
ảnh người thiếu nữ, nhưng là những thiếu nữ đài các nơi khuê phòng:
“Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
(Truyện Kiều)
là những mĩ nhân, những quý tộc thượng lưu ở lầu son gác tía như trong thơ Lí Bạch:
còn người thiếu nữ trong “Chiều tối” xuất hiện cùng khung cảnh lao động bình dị nơi xóm làng
mang vẻ đẹp khỏe khoắn, mộc mạc mà gần gũi, đầy thương mến và chính cuộc sống lao động
bình dị đó càng trở nên đáng quý, đáng trân trọng biết bao giữa rừng núi chiều tối âm u heo hút.
Nó mang lại cho người đi đường chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui và hạnh phúc trong lao
động của con người, tuy vất vả mà tự do. Trong câu thơ thứ ba ở bản dịch thơ, người dịch đã sơ ý
đặt thêm chữ “tối” vào khiến giảm đi ít nhiều tính hàm súc, cô đọng. Xét về thời gian thì quả
thực khi cô gái xay ngô thì trời đã tối nhưng cảm quan nghệ thuật của Bác thì rất dị ứng với bóng
tối và hơn cả người đọc hoàn toàn có thể nhận thấy được bước chuyển biến của thời gian ngay cả
khi không có sự xuất hiện của chữ “tối” như Lê Trí Viễn đã từng bình luận: “Thời gian trôi dần
dần theo cánh chim và làn mây, theo vòng xoay của cối ngô quay mãi quay mãi”. Ở hai câu thơ
cuối này, thi nhân đã sử dụng thành công cấu trúc lặp vòng tròn từ cuối câu ba tới đầu câu bốn:
“ma túc bao – bao túc ma” mặc dù đối với một bài thơ tứ tuyệt chỉ vỏn vẹn hai mươi tám chữ
việc dùng phép lặp rất ít khi xảy ra. Cụm từ “ma túc bao” ở cuối câu thơ thứ ba đã gối đầu vào
câu thơ thứ tư theo lối đảo ngược, nếu đọc liên tục ta sẽ có ấn tượng về những vòng quay đều
đặn của chiếc cối xay ngô, nó cứ chuyển động dường như triền miên không dứt: “…ma bao
túc…bao túc ma…ma bao túc” đưa ta với một buổi tối sum họp, ấm áp của một gia đình vùng
sơn cước. Hồ Chí Minh đã có phát hiện mới trong bút pháp miêu tả thời gian đó là sự vận động
từ bóng tối ra ánh sáng, vòng quay của chiếc cối chấm dứt đồng nghĩa rằng công việc kết thúc và
lò than cũng vừa đỏ. Ánh lửa hồng xuất hiện bất ngờ tỏa sáng vào đêm tối đã xua tan cái lạnh
lẽo, tối tăm thắp lại ánh sáng và sự ấm áp cho đêm miền sơn cước. Chữ “hồng” nằm ở cuối bài
thơ có một vị trí đặc biệt, nó được xem là nhãn tự của toàn bài. Nhà thơ Hoàng Trung Thông
nhận xét: “Với một chữ hồng Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi,
sự uể oải, sự vội vã…” Ánh hồng không chỉ tỏa ra từ bếp lửa mà còn tỏa ra từ tấm lòng nhân ái,
tinh thần lạc quan của người tù cách mạng. Dường như trong thơ Bác luôn hướng về những thứ
cao cả, đẹp đẽ: “từ tư tưởng đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh
sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh), trong bài “Giải đi sớm” chữ “hồng” cũng đã từng
xuất hiện:
và ta luôn biết rằng, con đường cách mạng Việt Nam cũng đi từ trong đêm trường nô lệ để đến
với con đường vinh quang cũng được biểu tượng qua ánh hồng:
“Trong ngục giờ đây còn tối mịt
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”
Như vậy, chữ “hồng” đã tạo lên một điểm sáng nghệ thuật đem lại giá trị thẩm mĩ, nó vừa xua
tan cái lạnh lẽo, vừa gợi cảm giác vui tươi, bình yên, đầm ấm của cuộc sống, vừa biểu tượng cho
sự lạc quan, yêu đời của Bác. Ngọn lửa ấy đã làm bừng sáng chất thép trong thơ Hồ Chí Minh.
Đó là chất thép của những tình cảm lớn lao, của niềm tin và nghị lực phi thường.
Những năm 40 của thế kỉ trước, trên thi đàn văn học lãng mạn vang lên những vần thơ nặng
trĩu buổi chiều của Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều
sa…”. Những câu thơ của chàng thanh niên trí thức tiểu tư sản đã mang theo tâm trạng bất lực
của cả một lớp người đang ngột ngạt giữa xã hội đen tối Việt Nam dưới ách ngoại bang. Cũng
trong một buổi chiều giữa nơi đất khách Trung Hoa, một người tù “tay bị trói giật cánh khuỷu,
cổ mang vòng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao la, làm nên những vần thơ tuyệt
tác, vừa cổ kính, vừa rất trữ tình thư thái. Đọc thơ Người ta khám phá được “từ màu sắc cổ điển
bỗng tỏa sáng tinh thần thời đại”, thấy được tư thế ung dung của người tù cách mạng như nhà
thơ Tố Hữu từng viết:
Thời gian có thể làm cho cái đẹp bị tàn phai, nhưng không thể giết chết cái đẹp. Hoa hồng tàn về
thân xác cánh hoa có thể rơi, đài hoa có thể rụng nhưng hương hoa vẫn còn thơm mãi, hồn hoa
biết bay đi để tìm người bạn tri âm tri kỉ cùng chia sẻ nỗi buồn, nỗi bất bình, tài năng của người
nghệ sĩ có thể làm cho cái đẹp bất tử. Những vần thơ “Chiều tối” cũng vậy, nó vẫn vươn mình
trong “vùng đất chết” để trở thành một thi phẩm chói lòa, vượt ra khỏi nỗi khổ của người tù
chuyển lao, thoát khỏi “cái dơ bẩn thấp hèn” và thay vào đó là một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu
cuộc sống và yêu con người đến tha thiết.
“Nhãn tự” không khác sao Bắc Đẩu sáng chói giữa ngàn sao, như trụ cột
đứng giữa cung điện thi ca. Trong bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh hai
câu cuối Bác viết:
Có lẽ đây là một bài thơ tả cảnh (miền sơn cước) hiếm hoi đã lấy hình ảnh
con người làm trung tâm khác hoàn toàn với thơ xưa khi con người thường
vắng bóng hoặc chịu sự chi phối của ngoại cảnh mà hòa vào thiên nhiên,
tĩnh lặng và thụ động như trong bài thơ “Giang tuyết” của Liễu Tông
Nguyên từng viết về hình ảnh ẩn sĩ hiện lên dưới cánh chim ngàn mây núi
đang buông câu thả cá mà như buông xuôi cuộc đời:
Đọc hai câu thơ cuối dễ dàng thấy Bác đã có phát hiện mới mẻ trong bút
pháp miêu tả thời gian đó là sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, vòng
quay của chiếc vừa chấm dứt thì lò than cũng vừa rực hồng. Ánh lửa hồng
xuất hiện bất ngờ tỏa sáng vào bóng đêm ảm đạm miền sơn cước đã làm
xua tan đi cái lạnh lẽo, tối tăm để thắp lại ánh sáng ấm áp cho miền sơn
cước. Chữ “hồng” nằm ở cuối bài thơ có một ví trí đặc biệt, nó được xem
là “nhãn tự” của toàn bài thơ. Nhà thơ Hoàng Trung Thông từng nhận xét
rằng: “Với một chữ hồng Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm
mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã,…” Nếu như hai câu thơ trước là
bức tranh miền sơn cước xám xịt, thấm đượm trong lời thơ là sự mệt mỏi
của cánh chim lạc bầy, là nỗi buồn chất chứa của đám mây lững lỡ trôi thì
đến hai câu thơ cuối lại hiện lên bức màu hồng đẫm tính nhân văn cao cả.
Đặt hai bức tranh cạnh nhau mới thấy vì sao nhà thơ Tố Hữu lại viết rằng:
Phải chăng Bác đang khẳng định một chân lý rằng: CON NGƯỜI, chỉ có
con người mới tạo nên sự thay đổi kì diệu đến thế. Ánh hông không chỉ
được tỏa ra từ bếp lửa mà còn tỏa ra từ lòng nhân ái, từ tinh thân lạc quan
của người tù cách mạng. Dường như trong thơ Bác rất kị bóng tối và luôn
hướng về những thứ cao cả, đẹp đẽ: “từ tư tưởng đến hình tượng thơ luôn
luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn
Đăng Mạnh). Trong bài “Giải đi sớm” chữ “hồng” cũng đã từng xuất hiện:
Và ta đều biết rằng, con đường cách mạng Việt Nam cũng đi từ đêm
trường nô lệ để đến với con đường giải phóng dân tộc vinh quang cũng
được biểu tượng qua ánh hồng:
Như vậy, chữ “hồng” đã tạo nên một điểm sáng nghệ thuật đem lại giá trị
thẩm mĩ. Nó vừa xua tan cái lạnh lẽo, vừa gợi cảm giác vui tươi, bình yên,
đầm ấm của cuộc sống, vừa biểu tượng cho sự lạc quan, yêu đời của Bác.
Ngọn lửa ấy đã làm bừng sáng chất thép trong thơ Hồ Chí Minh, đó là chất
thép của những tình cảm lớn lao, của niềm tin và nghị lực phi thường.
Cấu trúc song hành và liên tưởng trong bài thơ Mộ (Chiều tối) của Hồ
Chí Minh
Bài thơ này là bài số 31, trước là bài 29 “Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo” (Tết song thập
bị giải đi Thiên Bảo) và bài 30 “Tẩu Lộ” (Đi đường), sau là bài 32 “Dạ túc Long Tuyền”
(Đêm ngủ ở Long Tuyền) và bài 33 “Điền Đông” (Điền Đông). Long Tuyền là tên huyện
thuộc tỉnh Quảng Tây, một địa điểm giữa Thiên Bảo và Điền Đông. Như vậy, bài thơ này Hồ
Chí Minh viết trên hành trình chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, từ Thiên Bảo đến Điền
Đông. Có thể nói, đây là một bài thơ tức cảnh đặc sắc của Hồ Chí Minh. Bài thơ có cấu trúc
song hành tương ứng, hai câu đầu là cảnh hoạt động của sự vật, hai câu sau là cảnh sinh hoạt
của con người:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
(Nam Trân dịch)
Bài thơ tả cảnh rừng núi trong buổi chiều tối. Hai câu đầu là khung cảnh thiên nhiên trên cao
với hai đối tượng đang hoạt động là cánh chim và chòm mây. Cảnh này có buồn không? Có ý
kiến cho cảnh này là buồn và tác giả cũng buồn. Chiều tối là thời gian quy tụ, nghỉ ngơi của
loài vật cũng như con người. Chim bay có vẻ mệt mỏi nhưng là cánh chim bay có hướng, có
mục đích, nó đang bay về nơi cái tổ của nó là cây cổ thụ trong rừng kia. Nó khác với cánh
chim bay vô định trong bài Tràng Giang của Huy Cận: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều
sa”.
Đám mây đang từ từ trôi chậm chạp về bên kia chân trời, từ điểm này sang điểm khác trên
bầu trời, tuy có vẻ lửng thửng chậm chạp nhưng cũng là hoạt động có hướng. Cánh chim
bằng ấy cả ngày bay lượn tìm mồi thì đương nhiên chiều tối phải mệt mỏi nhưng vẫn cố bay
về nơi nó trú ngụ, nơi tổ ấm của nó. Phải có cái nhìn cảm thông, chia sẻ với vạn vật, cái nhìn
tinh nhạy nhà thơ mới thấy cánh chim kia đang mỏi và chòm mây kia đang lửng thửng trôi.
Có vất vả, mệt mỏi nhưng chưa hẳn đã buồn bởi những ai làm việc có mục đích thì người ta
vẫn thấy hạnh phúc. Điều quan trọng là qua hình ảnh cánh chim và chòm mây, Hồ Chí Minh
ngầm gửi gắm tâm trạng của mình. Chim và mây dù vất vả mệt mỏi nhưng đều bay về nơi
mình muốn đến còn ta thì vẫn đang nơi đất khách quê người, đang nặng nề lê bước đến nơi tù
đày giam hãm chứ không được hạnh phúc như cánh chim và chòm mây kia có nơi chốn để đi
về!
Hai câu thơ sau là cảnh sinh hoạt của con người. Hai câu trên là không gian trên trời khi về
chiều còn hai câu này là không gian dưới mặt đất lúc chiều đã dần chuyển vào màn đêm. Hai
câu thơ này đã không dịch đúng tinh thần của nguyên tác, thậm chí đã dịch thừa một chữ
“tối” không có trong nguyên tác. Câu thơ dịch đã không làm nổi bật vòng quay của cối xay
ngô để thấy sự lao động vất vả của cô thôn nữ. GS. Trần Đình Sử trong cuốn Phân tích và
bình giảng tác phẩm văn học lớp 12, Nxb Giáo dục, 1996, tr. 10 đã dịch lại sát nguyên tác:
Cô em xóm núi xay ngô hạt
Ngô hạt xay xong bếp đã hồng
Cách miêu tả hai câu đầu và hai câu cuối khác nhau. Hai câu cuối là một thể thống nhất về
hình ảnh lao động của cô gái xóm núi. Hai câu cuối thể hiện sự làm việc miệt mài của cô gái
và Hồ Chí Minh nhìn với niềm cảm thông sâu sắc. Sự lao động vất vả của cô gái cũng giống
như cánh chim và chòm mây kia nhưng là việc làm đầy ý nghĩa, đáng trân trọng. Vòng quay
đều đặn, miệt mài của cối xay ngô cũng là vòng quay của thời gian từ khi trời chưa tối đến
lúc trời tối. Trời có tối thì mới thấy lò than rực hồng. Sự chuyển cảnh hai câu thơ đầu sang
hai câu thơ sau có vẻ đột ngột, mau lẹ, đang cảnh mông lung trên bầu trời đã quay sang cảnh
dưới mặt đất. Liệu chúng có liên hệ gì với nhau? Khi Hồ Chí Minh nhìn thấy cảnh vật đang
về chiều, cánh chim kia đang bay về tổ ấm, con người cũng về nhà sum họp trong cảnh sinh
hoạt đầm ấm thì tâm trạng của Người cũng nhớ về quê hương gia đình. Lẽ tự nhiên, Hồ Chí
Minh sẽ hướng cặp mắt tìm nơi có cuộc sống sinh hoạt của con người và Người bắt gặp cảnh
sinh hoạt của một gia đình xóm núi. Cô gái xóm núi này cũng xay ngô một mình. Việc cô gái
xay ngô xong thì cũng là lúc bóng tối ập đến nhưng ánh sáng lại bừng lên ấm áp, xua tan cái
tối tăm, lạnh lẽo, hoang vắng của cảnh núi rừng. Chữ “hồng” là nhãn tự của bài thơ, nó có tác
dụng chuyển cảnh từ tối sang sáng, từ lạnh lẽo sang ấm áp. Đó là từ khóa của bài thơ và cũng
từ mở ra của tứ thơ. Ánh lửa hồng là ánh sáng của niềm tin, của hạnh phúc.
Cảnh núi rừng là thế, muôn đời vẫn thế và con người đã sống quen với nó thì không thể buồn
mà chỉ có người tha phương mới buồn. Vậy Bác có buồn không trước cảnh chiều tối? Nếu
theo tư duy thường tình thì con số 1 là biểu hiện của sự đơn côi: 1 cánh chim, 1 chòm mây, 1
cô gái đang xay ngô và 1 mình Hồ Chí Minh bị giải trên đường đến nhà lao. Đành rằng, con
người không là gỗ đá, cũng có khi buồn khi vui. Nhưng đối với Hồ Chí Minh, làm cách mạng
là một sự dấn thân thì gian lao vất vả là chuyện bình thường, chúng ta chưa thấy Người buồn
trong bất cứ hoàn cảnh nào dù là ngặt nghèo nhất. Trong bài Tảo giải (Giải đi sớm), Hồ Chí
Minh bị giải đi trong đêm khuya gió rét mà Người không hề nao núng, tâm hồn lại tràn đầy
thi hứng thì lẽ gì Người lại buồn trong cảnh chiều tối? Có chăng Người cảm thông chia sẻ với
những hoạt động sinh tồn và mưu sinh vất vả nặng nhọc của cánh chim, chòm mây, cô thôn
nữ kia. Hồ Chí Minh cũng giống như thế, cũng đang vất vả nặng nề lê bước trên con đường
gian truân. Có buồn chăng là nỗi buồn xa quê, nhớ nhà được giấu kín khi Người nhìn cánh
chim bay về tổ và cảnh sinh hoạt đầm ấm của gia đình cô sơn nữ.
Cấu trúc song hành thể hiện cấu trúc hàm ẩn của bài thơ. Trên bầu trời là hai hình ảnh: cánh
chim đang bay về tổ, chòm mây đang trôi chậm chạp từ độ này sang độ khác trên bầu trời.
Tương ứng với thời gian đó, dưới mặt đất, Hồ chí Minh đang bị giải từ nhà lao này sang nhà
lao khác và cô gái đang xay ngô chuẩn bị cho bữa cơm tối. Sự vận động của 3 đối tượng:
cánh chim, chòm mây, cô gái đều có mục đích và tự giác còn Hồ Chí Minh thì sự vận động bị
bắt buộc nhưng vẫn trên hành trình của người chiến sĩ cách mạng. Mà trên hành trình cách
mạng thì có tù đày, có gian khổ là lẽ thường tình cũng như cánh chim, chòm mây và cô gái
xay ngô muốn đạt mục đích thì phải vất vả, mệt mỏi. Hạnh phúc nào mà chẳng trải qua gian
khổ đắng cay? Đã dấn thân vì lý tưởng cách mạng thì phải chấp nhận khổ ải cực nhục. Hai
câu trên là sự vận động của thời gian, cảnh vật từ chiều đến sắp tối thì hai câu dưới là sự vận
động của thời gian và con người từ chiều đến tối. Hai câu trên làm cảnh nền để chuẩn bị cho
việc miêu tả hai câu dưới và có thể nói là hai câu này được thể hiện theo thể hứng, có giá trị
liên tưởng để tiếp cho hai câu sau theo thể phú. Thơ Hồ Chí Minh thường có hai trục như thế.
Trong bài Tảo giải cũng có hai cảnh song hành trên bầu trời là cảnh trăng sao và dưới mặt đất
là cảnh người tù bị áp giải.
Thơ Hồ Chí Minh bao giờ cũng có tứ thơ vận động theo không gian và thời gian, từ bóng tối
đến ánh sáng, từ cảnh vật thiên nhiên đến con người, từ khó khăn gian khổ sang vui tươi,
hạnh phúc. Mộ (Chiều tối) cũng là bài thơ vận động theo tứ thơ như thế, từ chiều đến đêm, từ
đêm tối bừng lên ánh sáng, từ hoạt động và lao động vất vả vì mưu sinh đến đạt đến kết quả
mong muốn như cánh chim được về tổ ấm, cô thôn nữ kia xay ngô cho gia đình có bữa ăn tối.
Đó là tứ thơ tươi sáng, lạc quan.
Nguồn : Sưu tầm