You are on page 1of 9

PHÂN TÍCH HAI KHỔ THƠ ĐẦU BÀI “TRÀNG GIANG” LỚP 11

I.Mở bài

- Giới thiệu tác giả tác phẩm.


- Giới thiệu hai khổ thơ đầu.

MỞ BÀI THỨ NHẤT: Thơ mới là thời kì thơ đỉnh cao, là thời gian nở rộ
của bao cây viết tài năng. Đó là một Xuân Diệu khát khao mãnh liệt, một Nguyễn
Bính trầm mình vào hồn quê đất Việt, một Hàn Mặc Tử của hồn điên và máu
cuồng, và đó là một Huy Cận đầy tâm tưởng suy tư. Là một trong số những nhà thơ
nổi bật của phong trào Thơ mới, Huy Cận đã đem đến cho ta những ấn tượng riêng
như những dấu triện riêng của một hồn thơ sầu buồn. Giữa dòng văn học đổi mới,
những cách tân hiện đại, ta vẫn thấy một Huy Cận đầy hoài cổ với chất Đường thi,
tuy cổ nhưng không cũ, cổ nhưng không bị lãng quên. “Tràng Giang” là tác phẩm
thơ xuất sắc thể hiện rất rõ chất thơ của Huy Cận. Chưa cần đi hết tác phẩm mà
chính hai khổ thơ đầu thôi cũng cho ta đủ cảm giác của hồn thơ Huy Cận.

MỞ BÀI THỨ HAI: Trên cánh đồng văn chương màu mỡ người nghệ sĩ như
những hạt cát bụi bay lượn trong không khí để tìm cho mình những dư vị còn lại”.
Với Huy Cận ông tìm về nơi lặng tờ của quê hương, xứ sở đó là dòng sông Hồng
đỏ nặng phù sa, nguồn cảm hứng của ông được khơi nguồn từ đó và đọng lại ở
“Tràng Giang” điều đó được thể hiện trong hai khổ thơ đầu của bài thơ.

II.Thân bài

* Luận điểm 1: Khái quát về bài thơ và đoạn trích:

- Bài thơ:

+ Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được ra đời trong niềm bâng khuâng của thi sĩ
trước cảnh “sông dài, trời rộng”. Khi nhà thơ tại bến sông Chèm, ngắm Sông Hồng
mênh mang trời mây, sông nước vào một chiều cuối thu năm 1939. In trong tập
Lửa thiêng xuất bản lần đầu năm 1940. Bài thơ lúc đầu có tên là CHIỀU TRÊN
SÔNG và được làm bằng thể thơ lục bát, sau đó đổi thành TRÀNG GIANG và viết
bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
+ Nội dung: bao trùm bài thơ này là nỗi buồn mênh mông da diết về kiếp
người, cuộc đời.
-Đoạn trích:
+ Vị trí: Phần đầu của bài thơ.

+ Nội dung: Bức tranh thuỷ mặc về dòng trôi, cảnh bãi bờ và nỗi sầu vũ trụ.

* Luận điểm 2: Phân tích vẻ đẹp của hai khổ thơ.

1.Khổ 1: Cảnh dòng sông, nỗi sầu sông nước.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp


Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy giòng.”

a.Bức tranh thiên nhiên: Cảnh dòng sông mênh mang sóng nước.

- Mở ra hình ảnh dòng sông mênh mang sóng nước. Một con thuyền nhỏ bé trôi
xuôi trên dòng nước và một cành củi khô bồng bềnh giữa sóng nước bao la. Nghệ
thuật miêu tả cảnh vật sắc nét, kiểu chấm phá Đường thi.

- Bức tranh thiên nhiên quen thuộc mang đậm màu sắc cổ điển đường thi với
hình ảnh dòng sông, sóng nước, con thuyền, cành củi. Bức tranh thiên nhiên thuỷ
mặc, tĩnh lặng như gieo vào lòng người những vấn vương, tơ vương của nỗi niềm
tha hương, một nỗi sâu xa xứ.

b.Tâm trạng con người

- Từ láy sóng đôi “điệp điệp” và “song song” được đặt trong thế đăng đối trên
dưới đã hòa nhập sóng nước vào sóng lòng. Lời thơ mở ra một không gian mênh
mang và nỗi buồn trong câu một đến câu ba chuyển thành nỗi sầu theo những con
sóng gối lên nhau vừa kết tụ vừa lan tỏa. bao nhiêu con sóng tràng giang là gọi dậy
bấy nhiêu con sóng trong tâm hồn thi nhân. (Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình)

- Nhịp 2/2/3 trầm buồn tựa như nhịp trôi của dòng sông cũng là nhịp trôi của
dòng thời gian, như một tiếng thở dài về cảm thức không gian và thời gian. Cảm
giác như dòng tràng giang đang trôi chảy giữa đôi bờ một bên vô cùng thời gian,
một bên vô tận không gian.

- Hình ảnh “con thuyền xuôi mái” gợi cảm giác trôi nổi.

- Cặp tiểu đối “thuyền về” - “nước lại” gợi cảm nhận về sự chia lìa. Con thuyền
trôi trên mặt nước mà như đang chia bóng với dòng nước, khơi gợi nỗi buồn về
thân phận nổi lênh vô định. Nước chảy một đường thuyền trôi một hướng dự cảm
về số kiếp, con người, bi kịch trước dòng thác nghiệt ngã huỷ diệt cảu thời và cuộc
đời.

- Phép đảo ngữ “củi một cành khô” gợi nỗi buồn khô héo. Chi tiết thơ đầy ám
ảnh bởi nó là kết quả của quá trình lao động và lựa chọn kỹ lưỡng công phu của
nhà thơ. Thông thường trong văn học cổ để diễn tả được thân phận bơ vơ, côi cút,
vô định đơn côi các thi nhân xưa thường sử dụng những hình ảnh mang tính tượng
trưng như: Hoa, Bèo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du hay trong ca dao dân ca
Việt Nam. Huy Cận đã dùng cành củi khô diễn tả tận cùng của sự cạn kiệt nhựa
sống, khô héo. Bởi Hoa, Bèo dạt mây trôi vẫn còn nguyên sắc màu của sự sống.
Phải chẳng đó là hình ảnh ẩn dụ về những kiếp người đang bị vắt kiệt nhựa sống
chẳng biết đi đâu về đâu giữa dòng đời trăm ngả.

-> Tiểu kết:

- Sự đối lập giữa hình ảnh dòng sông bao la rộng lớn với những tạo vật nhỏ bé
hữu hạn gợi ra nỗi buồn về sự chìm nổi lưu lạc.

- Hình ảnh Tràng Giang không chỉ là dòng sông mà còn là dòng đời và con
thuyền của cuộc đời trôi dạt trên mặt nước không chỉ là những hình ảnh thực mà
còn là biểu tượng cho kiếp sống lênh đênh lạc loài trên dòng đời trôi chảy.
Chỉ bằng một vài nét phác hoạ tác giả đã làm bật lên cái thần thái của bức tranh
thuỷ mặc. Cổ điển mà hiện đại, dòng Tràng Giang như đẹp hơn, mênh mang hơn,
xa vắng hơn, in giấu nỗi buồn sông nước, nỗi cô đơn trước dòng đời của hồn thơ
Huy Cận.

2.Khổ 2: Cảnh bãi bờ và nỗi sầu vũ trụ.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,


Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

a. Bức tranh thiên nhiên: Từ giã giới hạn của mặt sông, điểm nhìn đã chuyển về
bãi sông, bờ sông. Không gian đã được mở rộng, đẩy lên cao khiến cho bức tranh
dài hơn, rộng hơn, mênh mang hơn.

- Không gian ba chiều mở ra vô tận và giãn nở cùng từng vạt nắng chiếu xuống
lòng sông đẩy bầu trời lên cao thêm, vũ trụ trở nên cao chót vót. “Sông dài, trời
rộng” dường như không còn đường biên.

- Giữa không gian bao la ý những “cồn cát” nhỏ bé đìu hưu và tiếng chợ chiều
vọng lại xơ xác mơ hồ như có như không.

- Thiên nhiên hiện ra như một bức tranh vừa hoang sơ vừa cổ kính, và khi đối
diện thiên nhiên ấy con người dường như đang đi trên ranh giới của cõi trần thế với
cõi hư vô. Huy Cận đã sử dụng triệt để và phát huy đắc địa thủ pháp: Thi trung hữu
hoạ. Nắng xuống trời lên ngược chiều, ngược hướng như càng đẩy thêm sự xa cách
vốn có của đất trời. Tác giả không nói trời cao mà miêu tả trời sâu qua cái nhìn bầu
trời dưới đáy nước. Thi nhân đứng trên bờ đê nhìn xuống dòng nướcphanr chiếu từ
mặt nước dâng lên cao, cao mãi xoáy tít như khoan vào không trung. Lê cao là giới
hạn để thấy, sâu là giới hạn khó thấy, dường như chưa đủ nhà thơ thêm vào đó hai
chữ chót vót để khắc sâu, tô đậm cái kì vĩ, rợn ngợp của không gian.

b.Tâm trạng con người: Sầu vũ trụ.


- “Lơ thơ” đầu câu, “đìu hiu” cuối câu tô đập cảm giác bơ vơ của cái tôi trữ tình.
Nhà thơ thấy mình giống như những cồn nhỏ bị vây bọc bởi sự trống vắng quạnh
hiu. Đó cũng là bêngj chung của thơ mới, đó là cuộc sống bi kịch của lớp trí thức
trẻ Việt Nam những năm đầu cảu Thế kỉ XX.

- “Sâu chót vót” là kết hợp từ độc đáo thể hiện cảm nhận mới mẻ. “Chót vót” là
từ láy chỉ chiều cao, ở đây tác giả dùng để chỉ chiều sâu hun hút của cái ngước nhìn
lên như muốn xuyên vào lòng vũ trụ để cảm nhận cái thăm thẳm hoang lạnh trong
đáy hồn mình cũng như trong lòng nhân thế.

- “Dài rộng”, “cô liêu” ở câu dưới diễn tả tâm trạng cô quạnh.

- Âm thanh tiếng chợ chiều gợi sự sống tan tác tàn lụi, hiển hiện giữa không
gian 3 chiều mơ hồ hư thực.(Liên hệ tới bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn
Khuyến: Cá đâu đớp động dưới chân bèo)

-> Sự đối lập giữa hữu hạn và vô hạn gợi nỗi buồn hoang vắng, cô liêu của một
cái tôi mất mối liên hệ với vũ trụ, không tìm thấy điểm tựa ở cuộc đời. Giữa cái tôi
vô cùng vô tận của không gian, bỗng trở thành cá thể đơn côi giữa trời rộng, sông
dài, bờ vắng và bến cô liêu. Từ Hán Việt, được sử dụng một cách đắc địa tạo nên
hiệu quả bất ngờ và thú vị. Nhịp điệu câu thơ như tãi ra 2/2/3 trầm lắng khiến
không gian càng thêm xa vắng. Nỗi buồn nhân thế ở khổ một đã lan toả thành nỗi
sầu vũ trụ ở khổ hai. Con người rợn ngợp trước vũ trụ vĩnh hằng, nên không khỏi
cảm thấy lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời và cái xa vắng của lòng người.

* Luận điểm 3: Nét nghệ thuật độc đáo trong hai khổ thơ trên:Thành công
của hai khổ thơ chính là sự sáng tạo nghệ thuật, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và
hiện đại. Sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Góp lại
những trang thơ của Huy Cận ta không khỏi quên được nỗi buồn tê tái của thi sĩ
trước cảnh vật, cảnh nước mất nhà tan. Bài thơ vừa mang đậm phong cách của Huy
Cận, vừa là một dấu son chói lọi trong nền thơ ca Việt Nam và trong lòng bạn đọc.
III.Kết bài

Nêu cảm nhận của bản thân về hai khổ thơ.

Hai khổ đầu của bài thơ “Tràng giang” đã đưa người đọc vào nỗi buồn mênh
mang của những phận, những kiếp nhỏ bé giữa bao la thời gian và vô tận của
không gian. Với ngôn ngữ thơ đặc sắc, hình ảnh thơ cổ điển mang đậm chất thơ của
Huy Cận, hai khổ thơ đã cho ta hiểu hơn về bút pháp của nhà thơ, bút pháp của một
nỗi buồn vạn cổ.

Trên cánh đồng văn chương màu mỡ người nghệ sĩ như những hạt cát bụi bay lượn
trong không khí để tìm cho mình những dư vị còn lại”. Với Huy Cận ông tìm về
nơi lặng tờ của quê hương, xứ sở đó là dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa, nguồn cảm
hứng của ông được khơi nguồn từ đó và đọng lại ở “Tràng Giang” điều đó được thể
hiện trong hai đoạn thơ đầu của bài thơ.

“Thơ là tiếng nói của tình cảm và cảm xúc. Nếu không có cảm xúc thì người
nghệ sĩ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay ngôn từ cũng chỉ là xac chữ nằm
thẳng đơ trên trang giấy”. Trước hết thi sĩ phải là người có tâm hồn, giàu rung
cảm,cảm thông sâu sắc trọn vẹn với khoảnh khắc của cuộc đời thì cảm xúc mãnh
liệt mới dạt dào được. Chính những cảm xúc đó đã thôi thúc tác giả sáng tác về quê
hương với hình ảnh thiên nhiên quen thuộc. Huy Cận với những rung cảm, ông đã
chuyển hóa thành cảm xúc mà viết thành thơ. Và Tràng giang là một trong những
tác phẩm sắc của ông, bài thơ được gợi cảm xúc và một buổi chiều năm 1939 tác
giả đứng ở bên bờ Nam Bến Tràng, trước cảnh sông Hồng mênh mang sông nước,
những cảm xúc thời đại đã dồn về, thi sĩ thấy cái tôi của mình quá nhỏ bé với vũ trụ
bao la. Nên ông đã viết bài thơ này, và hai khổ thơ đầu của bài thơ là cảnh sông
Hồng mênh mang là những nỗi buồn vạn cổ của thi sĩ trước cảnh vật

“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp


Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng Làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Mở đầu là cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, ở khổ thơ đầu tác giả sử
dụng một loạt các từ: “thuyền, nước” là các từ mà nhà thơ xưa hay dùng để miêu tả
cảnh thiên nhiên đẹp đẽ. Đây như là một bức tranh thủy mặc, đầy đủ cảnh sông
nước lãng mạn, tĩnh lặng êm đềm nhưng lại buồn đến tê tái. Nói về nỗi buồn ấy,
Hoài Thanh đã nhận xét: “thiên nhiên trong thơ mới đẹp nhưng lại thấm đượm Nỗi
buồn da diết bâng Khuâng”. Nỗi buồn đó lại được Huy Cận lý giải rằng “chúng tôi
lúc đó có một nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên kéo dài triền
miên”. Đó là nỗi buồn của những con người sống trong cảnh nước mất nhà tan, có
lẽ thế nên trong dòng Tràng Giang chỉ có một giải buồn bát ngát

“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp


Con thuyền xuôi mái nước song song”
Từ “điệp điệp” là gợi tả những con sóng gợn lên hết lớp này đến lớp khác, triền
miên vô tận. Buồn điệp điệp miêu tả cái buồn thiên nhiên nhưng thực chất nó đang
diễn tả một nỗi buồn của thi nhân, đang gợn lên theo từng đợt sóng. Những con
sóng vỗ vào bờ. Thuyền và nước là hai cảnh vật luôn đi cùng nhau gắn bó với nhau
không bao giờ xa cách, vậy mà trong mắt Huy Cận nó trở nên bơ vơ lạc lõng. Từ
đó mà nỗi sầu của nhà thơ lan tỏa ra vũ trụ “sầu trăm ngả” ở đây không gian vừa
được mở ra về chiều rộng, vừa vươn lên theo chiều dài. Vì vậy hình ảnh này khiến
ta liên tưởng đến hai câu thơ trong bài “trăng cao” của Đỗ Phủ

“vô biên niên mộng tiêu tiêu hạ


Bất tận Trường Giang cổ cổ lai”
Thuyền là hiện diện của sự sống con người nhưng rồi sự xuất hiện ấy cũng chỉ lướt
qua trong chốc lát, sau đó nó lại nép mình vào bến bờ. Trả lại sự bình yên, nhìn
luồng sóng “Con thuyền xuôi mái” Đây là một sự liên tưởng đến sự lạc lõng kiếp
sống trôi nổi, phải chăng tác giả cũng từng sống trong hoàn cảnh ấy.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
ở hai câu thơ này Huy Cận đã sử dụng phép đối hết sức táo bạo. Chỉ đối ý, đối hình
mà câu thơ vẫn cân xứng hài hòa con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi
trên dòng Trường Giang. Trong thơ của Huy Cận đã nói nhiều đến nỗi sầu vạn cổ,
buồn thiên thu. Đến bài thơ này ta lại bắt gặp một cái xấu nữa “sầu trăm ngả”
không chỉ với ba từ ây thôi ta đã thấy sầu của thi sĩ trải dài khắp cảnh vật nơi đây.
Nếu trong thơ Xưa thi sĩ thường dùng các chất liệu tùng cúc trúc mai, làm chất liệu
sáng tác thì ở đây Huy Cận lại đưa vào trong thơ một hình ảnh rất đỗi bình thường
và quen thuộc “Củi khô” nhận xét về cành Củi khô đó Nguyễn Đăng Mạnh đã viết
“lần đầu tiên trong lịch sử thơ ca nhân loại có một cành củi khô trôi dạt giữa dòng
trong thơ Huy Cận”. Như nỗi buồn của kiếp người trong xã hội cũ, khổ thơ này
được xem là khổ thơ đặc sắc nhất của bài thơ, vì ở đây mang âm điệu buồn tê tái,
khám phá được ở đó là cảnh vật thiên nhiên tràn ngập nỗi buồn, da diết… cảnh trời
rộng sông dài ở đây diễn tả sự mênh mang, trống rỗng thể hiện nỗi buồn triền miên
của Huy Cận và cảnh sông Hồng.

Tiếp với nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu ấy, nỗi buồn được nhân lên gấp bội. Bức
tranh sông nước được vẽ thêm đất, thêm làng nhưng vẫn buồn đến tê tái, nỗi buồn
ấy được gợi tả từ những cồn nhỏ, thêm vào đó là sự hiu hắt thổi nhẹ của gió, sự tĩnh
lặng vắng vẻ của cảnh vật,

“lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu


đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Huy Cận nói ông đã được đọc hai chữ đìu hiu ấy từ Chinh Phụ Ngâm

"Non kì quạnh quẽ trăng treo


bên Phi gió thổi đìu hiu mấy gò”
Cảnh sắc trong Chinh Phụ Ngâm đã vắng lặng, hiu hắt nhưng cảnh trong Tràng
Giang lại vắng vẻ hiu hắt hơn. Từ láy lơ thơ diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những
cồn nhỏ mọc lên giữa lòng trắng xanh thể hiện nỗi buồn man mác theo gió nhẹ
thấm lên từng cảnh vật, nhà thơ muốn tìm đến hơi ấm của con người để xua bớt đi
cái lạnh lẽo, hiu quạnh ở đây nhưng

“đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”


Tiếng chợ ở đâu không xác định được, từ xưa Nguyễn Trãi đã dùng vẻ âm thanh ấy
trong bài Cảnh Ngày Hè

“lao xao chợ cá làng Ngư Phut


Dắng dỏi Cầm ve lầu tịch dương”
Âm thanh của tiếng chợ vãn đã mất dần và không xác định được. Như vậy nhà Thơ
lấy động tả tĩnh để miêu tả nỗi buồn sâu lắng của thi sĩ, hai câu thơ tiếp của khổ thơ
bức tranh vô biên của Tràng Giang đã đạt đến sự khôn cùng

“nắng xuống trời lên sâu chót vót


Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Đến đây Huy Cận miêu tả không gian ba chiều giữa cảnh và người, thi sĩ như một
vật nhỏ bé chơi vơi giữa bến đò với những vạt nắng trên bầu trời chiếu xuống mặt
đất trong xanh, khiến ta liên tưởng đến bầu trời xanh được đẩy lên cao hơn, xa hơn.
Ở đây tác giả không dùng chữ “cao chót vót” mà lại dùng “sâu” để diễn tả độ cao
của trời xanh, từ đó cho chúng ta thấy rằng đứng trước cảnh vật ấy con người càng
lạc lõng nhỏ bé cô đơn đến tột cùng. Chính sự lạc lõng ấy đã tạo nên cho hai khổ
thơ này một nỗi buồn tê tái, mang đậm cảm xúc tình cảm của thi sĩ, và nỗi buồn ấy
ẩn chứa nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu của tác giả.

Thành công của hai khổ thơ chính là sự sáng tạo nghệ thuật, sự kết hợp hài
hòa giữa cổ điển và hiện đại. Sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị,
giàu hình ảnh. Góp lại những trang thơ của Huy Cận ta không khỏi quên được nỗi
buồn tê tái của thi sĩ trước cảnh vật, cảnh nước mất nhà tan. Bài thơ vừa mang đậm
phong cách của Huy Cận, vừa là một dấu son chói lọi trong nền thơ ca Việt Nam và
trong lòng bạn đọc.

You might also like