You are on page 1of 6

Dàn ý: Phân tích hai khổ thơ đầu bài “Tràng Giang” của Huy

Cận.
 
Bài làm
I. Mở bài:
 
-Giới thiệu tác giả:
+ Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ
Mới.
+ Thơ Huy Cận mang phong cách suy tư, triết lý đặc biệt là những
sáng tác trước Cách Mạng tháng 8.
+ Điều đó thể hiện rõ qua tập thơ “Lửa thiêng”.
 -Giới thiệu tác phẩm
+ “Tràng giang” in trong tập “Lửa Thiêng” 
+ Đây là tác phẩm đã đưa tên tuổi Huy Cận lên đỉnh cao trong văn
học Việt Nam hiện đại
+ Tác phẩm được sáng tác khi nhà thơ lên Hà Nội học. Mỗi chiều
nhớ nhà, ông thường ra bếnChèm, đứng trước sông Hồng để thả hồn
vào cảnh sông nước bao la.
 - Dẫn dắt vào luận đề: Điều đó thể hiện rõ nét qua hai khổ thơ đầu
của bài.
 - Đưa thơ(đưa tắt)
 - Chuyển ý: Sau đây chúng ta cùng phân tích.
 
II.Thân bài:
1. Dẫn dắt: Phân tích nhan đề + câu thơ đề từ
 - Ngay từ nhan đề, nhà thơ đã khéo gợi lên một vẻ đẹp cổ điển lại
hiện đại:
+ “Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.
+ Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang
nghiêm.
+ Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường
Giang”, hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm
giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh
mông, bát ngát.- Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông
dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc.Đồng thời cho
người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác
phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không
rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi. Đó còn là không gian rộng
lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ
bé, lẻloi, tội nghiệp.
-> Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi
đứng trước cảnh sông nước bao latrong một buổi chiều đầy
tâm sự.
 
2.Phân tích
 
a.Khổ 1: Bài thơ mở đầu bằng một khổ thơ mang vẻ đẹp thiên
nhiên, đậm chất cổthi. Cảnh vật thiên nhiên ấy lại được cảm
nhận qua tâm hồn “sầu vạn kỉ” của nhàthơ:
 
“ Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
 
Con thuyền xuôi mái nước song song 
 
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
 
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
 
- Nhà thơ sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường như
“thuyền, nước, sóng, …”. Đó là một bức tranh đẹp như bức tranh
thủy mặc nhưng buồn đến tê tái.
 -“Sóng gợn” chỉ nhẹ thôi nhưng cứ “điệp điệp” kéo dài không dứt,
đó chính là những cơn sóng lòng cứ dâng lênkhiến cho tác giả buồn
bã không nguôi. Huy Cận đã sử dụng 2 từ láy liên tiếp nhautrong
một câu thơ “tràng giang”, “điệp điệp”. Cách dùng từ thật mới lạ,
độc đáo, không phải là buồn bã, da diết mà là buồn “điệp điệp”,
nghĩa là một nỗi buồn tuy không mãnh liệt nhưng nó cứ liên tục,
không ngừng.
Liên hệ: Đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
 - Cảnh vật ảm đạm như thế thì thử hỏi tâm trạng của con người làm
sao mà vui được?
 Liên hệ: Trong bài “Thuyền và biển” của Xuân Quỳnh:
“Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mơi biết
Thuyền đi đâu về đâu”
 - Trong thơ Xuân Quỳnh, thuyền và nước thấy hiểu nhau, đi đôi như
hình với bóng thì ở bài “Tràng giang” của Huy Cận ngược lại. Ở câu
thơ thứ 2, hình ảnh “thuyền”, “nước”còn sóng đôi, “song song”
nhưng đến câu 3 thì ta thấy hai sự vật này đã chia ly tan tác “thuyền
về nước lại sầu trăm ngả”. Nghệ thuật đối giữa “Thuyền về”
và “nước lại” nhằm nhấn mạnh sự chia ly, xa cách, thểhiện sự nuối
tiếc trong lòng tác giả.
- Nếu nỗi buồn ở câu 1 còn mơ hồ chưa định hình rõ ràng thì đến
đây nó đã trở thành nỗi sầu lan tỏakhắp không gian. Từ trước đến
giờ ta thấy, “thuyền” và “nước” là hai hình ảnh không thể tách rời
nhau vậy mà Huy Cận lại chia rẽ chúng ra. Điều này chứng tỏ ông
đã quá đau buồn, ông lúc nào cũng mang trong mình một nỗi u hoài,
một nỗi chia ly, chia xa.
- Gây ấn tượng nhất trong khổ thơ là hình ảnh ẩn dụ “củi một cành
khô” từ thượng nguồn trôi dạt trên dòng sông, đang phải chọn lựa sẽ
xuôi theo dòng nước nào khiến tác giả liên tưởng đến cuộcđời mình.
Ông cũng như bao người dân mất nước mang thân phận bọt bèo giữa
cuộc đời rộng lớn.Hình ảnh cành củi kia còn tượng trưng cho kiếp
người nhỏ bé, những văn nghệ sĩ đang băn khoăn,ngơ ngác, lạc lõng
trước nhiều trường phái văn học, ngã rẽ của cuộc đời. Câu thơ nhiều
tầng ýnghĩa, khiến cho ý thơ sâu sắc. Bằng bút pháp nghệ thuật đảo
ngữ: đẩy từ “củi” lên đầu câu,tác giả nhấn mạnh thân phận nhỏ bé,
bọt bèo của kiếp người trong cuộc sống
.

 Đến đây, ta nhận ra nỗi buồn của Huy Cận là nỗi buồn của một
kiếp người bởi cuộc đời vốncó nhiều thay đổi, bất ngờ, không
báo trước mà con người thì rất nhỏ nhoi và cô độc, lẻ loi. Khổ
thơ đầu gợi một cảm giác bâng khuâng, lo lắng , lạc lõng, chơi
vơi của tác giả giữadòng đời vô định, không biết sẽ đi đâu về
đâu.
 
b. Khổ 2: Nỗi lòng nhà thơ được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh
quạnh vắng củakhông gian lạnh lẽo:
 
“ Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
 Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều 
 Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
 Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
 
- Lúc này, góc nhìn của nhân vật trữ tình đã thay đổi, bao quát hơn,
rộng hơn khi từ cảnh sôngHồng chuyển sang không gian bao la của
trời đất, bến bờ. Đó là một không gian vắng lặng, yêntĩnh: Có cảnh
vật (cồn, gió, làng, chợ…) nhưng cảnh vật lại quá ít ỏi, nhỏ nhoi
(cồn nhỏ, làng xa,chợ vãn... )
-Từ láy “lơ thơ” diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn đất nhỏ
nhoi mọc lên giữa dòng trànggiang. Trên những cồn đất nhỏ đó, mọc
lên những cây lau, sậy, khi gió thổi qua thì âm thanh phát ra nghe
man mác, nghe “đìu hiu” não ruột.
 -Có âm thanh nhưng âm thanh ấy lại phát ra từ ngôi “chợ chiều” đã
“vãn”mà làng lại xa nên không đủ sức làm cho cảnh vật sinh động,
có hồn.
Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái gợi lên âm thanh xa xôi,
không rõ rệt. “Đâu tiếnglàng xa” có thể là câu hỏi "đâu" như một
nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ vềmột chút sự hoạt
động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu
có", mộtsự phủ định hoàn toàn,vì chung quanh đây chẳng hề có
chút gì sống động để xua bớt cáitịch liêu của thiên nhiên. Tất cả
vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.
 
- Đến hai câu thơ tiếp theo thì không gian được mở ra bát ngát:
 
“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.”
Sông dài trời rộng bến cô liêu
 
- Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn:
có chiều cao (nắng xuống, trời lên), có chiều rộng (trời rộng) và cả
chiều dài (sông dài), thậm chí là có cả độ “sâu”. Vũ trụ thì bao la, vô
tận, còn con người thì quá nhỏ bé, cô độc lẻ loi.
-Nhà thơ nhìn lên bầu trời và thấy bầu trời “sâu chót vót”. Cách
dùng từ thật độc đáo vì nhà thơ không dùng từ “cao” mà dùng từ
“sâu”. “Cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời. Còn “sâu” không chỉ
diễn tả được độ cao vật lý mà còn diễn tả được sự rợn ngợp trước
không gian ấy. Đó chính là sự rợn ngợp trong tâm hồn của thi nhân
trước cái vô cùng của vũ trụ. Cách sử dụng từ hết sức mới lạ bởi tác
giả đã lồng chiều cao vào chiều sâu; ông đang ngắm cảnh bầu trời
cao “chót vót”dưới mặt nước “sâu thăm thẳm. Không gian càng
rộng, hình ảnh con người lại càng nhỏ bé, cô độc,lẻ loi đến tội
nghiệp.
- Hình ảnh“bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ“cô
liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về
sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ trụ thì cứ
mở ra mãi đến vô tận, vô cùng. Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra
qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: ‘sông, trời,
nắng…”; cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán chường với "
vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

Không gian càng vắng lặng rộng lớn bao la thì hình ảnh con
người càng cô đơn đến tột cùng. Nỗi buồn lan tỏa khắp không
gian, bao trùm lên cảnh vật.
 
3.Đánh giá
 a.Nội dung:
 
-Hai khổ thơ cho ta thấy được tâm trạng buồn bã, băn khoăn, ngơ
ngác trước những ngã rẽ của cuộc đời. Thi nhân cảm nhận rõ sự
nhỏ bé, lẻ loi, cô độc của một kiếp người giữa dòng đời rộng lớn.
Đây không phải là nỗi buồn của cá nhân ông mà là cảm xúc chung
của cả một thế hệ, đặc biệt làgiới văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX.
 
b.Nghệ thuật
 
- Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện
đại:+ Cổ điển ở thể thơ, cách đặt nhan đề, bút pháp “tả cảnh ngụ
tình”.+ Còn hiện đại trong việc xây dựng thi liệu, đặc biệt là hình
ảnh “cành củi khô” gây ấn tượng, cáchdùng từ mới lạ “sâu chót vót”.
 
III.Kết bài
- Đánh giá tác phẩm: “Tràng giang” quả là một tuyệt phẩm trong nền
văn học hiện đại Việt Nam.Tác phẩm không chỉ tiêu biểu cho phong
cách thơ của Huy Cận mà còn đại diện cho khuynhhướng thơ văn
lãng mạn gian đoạn 1930 – 1945.
 - Đánh giá tác giả: Huy Cận quả xứng đáng là nhà thơ tiêu biểu cho
phong trào Thơ Mới. Ông đãgóp phần làm cho khu vườn
VHVN thêm tỏa sắc. Tên tuổi của Huy Cận sẽ sống mãi trong lòng
người đọc.
- Đánh giá, cảm nhận của bản thân.

You might also like