Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sau mưa Cùng đất nước mà nặng buồn sầu núi Những câu thơ trên như gói lại cái hồn riêng của thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám. Dường như mỗi câu thơ là chất chứa bao nỗi sầu thiên thu vạn cổ, ẩn trong đó những tâm tình sâu nặng với quê hương đất nước. Huy Cận hay viết về thiên nhiên, vũ trụ về những khoảng thời gian buồn vắng hiu quạnh với sự kết hợp của chất cổ điển và hiện đại làm nên một vẻ đẹp riêng độc đáo. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ, cho hồn thơ Huy Cận. Bài thơ không chỉ mang nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên mệnh mông hiu quạnh, mà còn thấm đượm cả nỗi sầu nhân thế và tấm lỏng yêu nước thầm kín của thi sĩ. Tràng giang đc gợi cảm hứng từ một buổi chiều cuối thu nơi bờ nam bến Chèm, trc khung cảnh sông Hồng đang mùa nước lớn. Chàng thi sĩ chứng kiến những cánh bèo, cánh củi đang trôi nổi giữa dòng nước mênh mông mà gợi ngay lên một tứ thơ. Bao trùm bài thơ dường như là một nỗi buồn mênh mang vô tận của thi sĩ khi đứng trc thiên nhiên, đất nước và cuộc đời. Tràng giang không chỉ đơn thuần là tả cảnh. Tả cảnh nhưng thực ra là tả tâm hồn. Ở đó có sự hòa quyện giữa cái xao động của sông nước với cái xao động của cđ, của lòng người. Chẳng thế mà nhà thơ Lê Di đã từng khẳng định: “là tràng giang, khổ nào cũng dập dềnh sóng nước./Là tâm trạng khổ nào cũng lặng lẽ u sầu” Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra chất cổ điển rất riêng của HC. “Tràng giang” có nghĩa là sông dài, hai từ Hán Việt ghép lại với nhau rất cổ kính. Láy vần “ang” còn góp phần tạo dư âm vang xa lan tỏa, trầm hùng, có sức gợi lớn về 1 con sông như dài ra mãi, rộng mênh mông bát ngát chảy giữa đất trời. Mặt khác từ nhan đề ấy, HC còn tạo nên 1 biểu tượng của thiên nhiêm qh đất nước. Dẫu rằng bài thơ được gợi tứ từ 1 dòng sông cụ thể nhưng đã trở thành 1 hình tượng nghệ thuật “Tràng giang” đã khước từ mọi địa danh, địa chỉ cụ thể để thành 1 biểu tượng thiên nhiên. Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài H.C Lời đề từ tuy nằm ngoài văn bản nhưng cũng tập trung thể hiện nd tư tưởng và ý đồ của tác giả, định hướng cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Bâng khuâng nghĩa là cảm xúc ngỡ ngàng, luyến tiếc, nhớ thương khi đứng trước cảnh thiên nhiên vũ trụ bao la bát ngát Khổ đầu bài thơ, HC đã dùng để nói về sóng gợn, về con thuyền nhỏ, về cành củi khô trên “Tràng giang”. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Trc hết là sóng trên sông. Đây là 1 h/ả rất quen thuộc trong thơ cổ điển mỗi khi mtả sông nước. Sóng ở đây ko phải là sóng nhẹ, lăn tăn trên mặt nước. Sóng gợn lại điệp điệp. Láy từ “điệp điệp” là từ láy nguyên, đã diễn tả thật cụ thể những vòng sóng đang loang ra, lan xa, liên tiếp gối lên nhau rồi xô đuổi nhau đến tận chân trời. Để từ đó thi sĩ gợi mở không gian mênh mông, bát ngát. Cụm từ “buồn điệp điệp” cũng chính là nỗi buồn triền mien không dứt, thấm thía vô cùng vô tận mà mơ hồ xa vắng của lòng người. Ngay câu thơ đầu, HC đã sd thành công nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” để cảnh vật mang nỗi buồn da diết. Trên dòng sông, sóng gợn buồn điệp điệp là “con thuyền xuôi mái”. Đây vẫn là 1 h/ả của nhà thơ cổ điển. Nghệ thuật tương phản lấy cái hữu hạn để gợi cái mênh mông của thơ Đường dã đc HC vận dụng 1 cách sáng tạo. Nhà thơ không cần mtả cụ thể, chi tiết mà chỉ cần đặt con thuyền giữa tràng giang mênh mông bát ngát để vừa thấy được con thuyền nhỏ bé lẻ loi, vừa thấy được cảnh vật thật hoang vu, vắng lặng. Hơn thế với nhịp ngắt 2/2/3 cùng 2 h/ả “thuyền về”, “nước lại” vận động trái chiều để diễn tả trạng thái chia li tan tác để lại mối sầu trăm ngả lan tỏa khắp đất trời. Vì thế h/ả con thuyền trong câu thơ còn gợi số phận trôi nổi, phó mặc vô định, nổi lênh. Thuyền về đâu, bến đỗ nơi nào đâu có biết. Cuộc chia ly giữa thuyền và nước đã để lại nỗi sầu trăm ngả. Thuyền về con nước ở lại, tạo ra 1 khoảng trống. Khoảng trống ấy chứa mối sầu. Mối sầu không chỉ đc mở ra trên 2 chiều trái ngược mà là mọi chiều trong không gian. Dường hư mối sầu ấy không có chỗ tận cùng mênh mang đến vô tận Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng. Với h/ả “cành củi khô”, HC đã đem đến cho bài thơ chất hiện thực, tạo nên ý vị mới mẻ rất hiện đại. Đây là 1 trong những câu thơ hay nhất bởi đã đc thi sĩ chọn lựa đến 7 lần. Ở đây HC đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với từ ngữ chọn lọc. Đảo ngữ “một” gợi lên sự ít ỏi nhỏ bé. “Cành củi khô” cạn kiệt nhựa sống. Từ “lạc” gắn liền với “cành củi khô” bập bềnh lạc long vô định trôi dạt từ dòng này sang dòng khác. Trên sống nước tràng giang gợi cảm giác về sự nhỏ bé lạc loài Kết hợp với những câu thơ trên, người đọc còn nhận thấy sự đối xứng hài hòa đầy sáng tạo. Trên là h/ả con thuyền, dưới là cành củi khô đều là nhỏ bé trc sông rộng để từ đó biểu tượng cho nx kiếp người nhỏ bé bỏ vơ lạc lối trước cái vô thủy vô chung của cuộc đời. Rõ ràng cách nói củi một cành khô thật đặc biệt, ko chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đó là niềm đơn côi lạc lõng vốn là nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Như vậy ở khổ 1, HC đã vẽ ra 1 bức tranh sông nước mênh mông, bát ngát nhưng cảnh vật quạnh hiu ở thế chia lìa tan tác nhỏ nhoi thấm đượm nỗi buồn mênh mang trc dòng đời nổi trôi vô định Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Không gian nghệ thuật từ dòng sông đc mở rộng về đôi bờ và bầu trời nhưng cảnh vật vẫn vắng vẻ quá. Bức tranh tràng giang giờ đây đã có thêm cồn nhỏ ở bên sông. Cồn là cồn nhỏ, đã nhỏ lại lơ thơ. Láy từ lơ thơ gợi sự ít ỏi, nhỏ bé. 2 tính từ đc đặt bên cạnh nhau, từ này bổ sung cho từ kia đã khắc họa lên sự vắng lặng cô đơn đến rợn ngợp Còn gió đìu hiu nhẹ nhưng ẩn chứa nỗi buồn đến hiu hắt, quạnh quẽ khôn xiết. Đặc biệt 2 láy từ “lơ thơ” và “đìu hiu” đc tác giả khéo sắp xếp trên cùng 1 dòng thơ để tô đậm khung cảnh vứng lặng lạnh lẽo đến tiêu điều Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Chợ chiều vốn đã xao xác mà ở đây chợ chiều đã vãn nghĩa là chỉ còn cái tàn tạ hiu quạnh. Trong câu thơ, từ “ đâu” gợi ra nhiều cách hiểu. “Đâu” có thể hiểu là để chỉ nơi chốn. Âm thanh của sự sống xa xôi ở đâu đó ko rõ rệt. Từ “đâu” còn có nghĩa là đâu có để phủ định hoàn toàn tuyệt nhiên không có âm thanh của sự sống. Nhưng dù hiểu theo cách nào cũng đều khắc họa không gian vắng lặng cô tịch đến vô cùng. C/s ở nơi này dường như đang bị bỏ quên. Nhà thơ khao khát âm thanh của c/s, không dám mơ đến âm thanh tươi vui mà chỉ mong âm thanh xoàng xĩnh, xao xác nhất của c/s, âm thanh của chợ chiều đã vãn nhưng cx vô cùng khó khăn Nắng xuống, trời lên, đặc biệt nhấn mạnh ở 2 từ “lên, xuống” gợi sự giãn nở, mở rộng về không gian. Trong câu thơ, HC có 1 kết hợp từ thật độc đáo mới mẻ và đầy sáng tạo, mang nét đẹp hiện đại “sâu chót vót”. Ngta thường nói cao chót vót và sâu thăm thẳm thì HC lại dùng láy từ vốn độc quyền diễn tả độ cao chót vót để nói về độ sâu thành “sâu chót vót”. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến đó. Vì thế “sâu chót vót” vừa để gợi ấn tượng về chiều sâu thăm thẳm hun hút đến khôn cùng vừa khắc họa đc chiều cao dường như đến vô tận. Không gian đc giãn nở theo mọi hiều kích của nó, đc đẩy tới vô biên, bao la, vô tận, mênh mông, bát ngát Sông dài, trời rộng, bến cô liêu Trong cái không gian mênh mông ấy, nhà thơ đã tập trung miêu tả h/ả bến cô liêu. H/ả bến cô lieu trong đó 2 chữ “cô liêu” mang âm Hán Việt kết hợp với nt tương phản để từ đó HC khẳng định những gì thuộc về con người ở đây quá nhỏ nhoi, hữu hạn, cô đơn giữa thiên nhiên vũ trụ, cứ mỗi ngày 1 mênh mông, 1 bát ngát hơn. Con người đứng trc không gian ấy thấy mình thật nhỏ bé, lạc loài, rợn ngợp giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của tg Như vậy ở khổ 2, cảnh sắc tràng giang đc thi sĩ vẽ thêm nhiều đường nét vốn là những thi liệu quen thuộc trong Đường thi. Nhưng tất cả vẫn không làm cho kgian nghệ thuật ấy sống động rộn ràng hơn. Ngược lại đó là không gian bao la đến vô tận nhưng cảnh vật thì vắng lặng lạnh lẽo đến vô cùng. Con người càng cảm nhận rõ hơn thấm thía hơn sự nhỏ nhoi, cô đơn của mình trc vạn vật Từ cảnh vật đôi bờ và bầu trờ, thi sĩ lại nhìn về dòng sông. Ngoài h/ả con thuyền, cành củi khô, dòng sông ở khổ này cũng đc vẽ thêm nhiều chi tiết nhưng vẫn hoang vắng quạnh quẽ không có bóng dáng của con người Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Đó là h/ả bèo dạt. Đây vốn là h/ả không phải mới vốn dĩ đã xh rất nhiều trong ca dao và trong thơ cổ nhưng khi đặt trong “Tàng giang” những cánh bèo xanh nối tiếp nhau trôi dạt trên sông như 1 nét điểm xuyết để 1 lần nữa tô đậm sự lênh đênh phiêu bạt vô định không có khả năng làm chủ cuộc đời ở khổ đầu. C/giác vô định ấy đã đc HC nhấn thêm một lần nữa bằng 2 chữ “về đâu”. Cánh bèo trôi dạt cũng chính là con người đang lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của tg. Rõ ràng trong tràng giang HC ít nhất 2 lần dùng những h/ả đầy ám ảnh về thân phận con người, trên kia là cành củi khô và đây là bèo dạt. Những h/ả ấy bắt nguồn từ chính sự mặc cảm về sp trôi dạt, không phương hướng giữa cđ của các nhà thơ mới Cảnh vật thì bao la mênh mông nhưng vắng bặt bóng dáng con nguoif. Ở những câu tiếp theo, HC đã sd 1 loạt phủ định: “Không 1 chuyến đò ngang, không cầu”. Đặc biệt điệp từ “không” như 1 ddiemr nhấn cho câu thơ, nhà thơ lấy cái không để nói cái có để tô đậm cái hiện hữu của cảnh vật. Dòng sông mênh mông nhưng không có lấy 1 cây cầu, 1 con đò nghĩa là ko có sự giao hòa gắn kết, không có sự sống thân mật ấm cúng giữa con người với con người. Thiên nhiên lặng lẽ, không hình, không tiếng tuyệt đối âm thầm Như vậy, nhờ nghệ thuật độc đáo lấy cái không để nói cái có, thi sĩ 1 lần nữa nhấn mạnh sự cô quạnh, hoang vu, đơn độc của sông nước. Đó cũng là cái tôi cô đơn, trống vắng khao khát những dấu hiệu của sự sống, khao khát sự đồng cảm hòa hợp của con người Ở khổ thơ thứ 3, bức tranh sông nước được vẽ thêm nhiều đường nét, tô thêm càng nhiều mawuf sắc nhưng càng thêm quạnh hiu, lặng lẽ càng thêm lặng lẽ, u buồn. Đó là nỗi u buồn trước nhân thế, trc cđ lạc lõng nhân tình Nếu 3 khổ đầu thâm tình của thơ đ clan tỏa triền mien theo nhịp vỗ lăn tăn của những con sóng, theo cái vắng vẻ của kgian rợn ngợp, theo sự trôi chảy vô định của cành củi khô bèo dạt thì đến khổ này thâm tình nhà thơ như được mở lên theo chiều cao, lan thấm trong cả ánh hoàng hôn Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ:bóng chiều sa Mây trời trc hết được tác giả mô tả qua láy từ “lớp lớp”. Lớp lớp nghĩa là thật nhiều mây, từng lớp, từng lớp mây cứ chồng xếp lên nhau. ĐT “đùn” rất gợi cảm và có gtr tạo hình. Đt “đùn” khiến mây như chuyển động có nội lực từ bên trong. Mây đã nhiều mà vẫn cứ đùn ra chồng xếp lên nhau thành những núi mây rất sinh động. Đặc biệt là h/ảnh “núi bạc” đã thể hiện cái nhìn đầy yêu mến của nhà thơ. Những đám mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng trên trời thu đc ánh nắng chiều phản chiếu như những núi bạc. Đó là cảnh thực, không tàn tạ, tan tác mà lớn lao kì vĩ, tráng lệ và rất sinh động. Cảnh đó được chắp cánh từ tâm hồn tinh tế rất đỗi yêu thiên nhiên, đất nước của nhà thơ. Câu thơ của HC khiến người đọc nhớ đến ý thơ của bậc Thánh thi Đỗ Phủ thời Đường trong bài thơ Thu hứng đã được Nguyễn Công Trứ dịch 1 cách rất tài hoa: “Lưng trời sóng rộn ràng sâu thẳm/Mặt đất mây đùn của ải xa” Đây là sự gặp gỡ giữa 2 tâm hồn của 2 thời đại cũng là chất cổ điển trong thơ HC. Giữa không gian cao rộng hùng vĩ ấy, HC đã điểm vào đó h/ảnh cánh chim chiều vốn cũng là h/ảnh rất quen thuộc trong thơ ca cổ điển. NT tương phản đã nhấn mạn cánh chim ấy thật nhỏ bé đơn độc, mong manh giữa cái hùng vĩ bao la rộng lớn của trời cao. Hơn nữa cánh chim nhỏ ấy đang chao nghiêng bay về phía chân trời bởi sức nặng của bóng chiều, của không gian, của vũ trụ. Nhưng cánh chim ấy bay đi đâu cho thoát khỏi cái sức nặng quá lớn ấy. H/ả cánh chim như 1 nét chấm buồn trong btranh đẹp, hùng vĩ trc khi ngày tàn. Cánh chim ấy còn là nơi gửi gắm, ký thác tâm trạng của thi nhân mà còn mang thân phận của kiếp người. Kiếp người ở đây thật hữu hạn mong manh nhỏ bé vô định giữa dòng đời Lòng quê dợn dợn vời con nước Một mình lẻ loi đứng giữa vũ trụ bao la suy nghĩ về nhân thế, về kiếp người, HC còn có 1 “lòng quê”. Lòng quê là tấm lòng, là ty với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Hơn nữa òng quê ấy là lòng quê dợn dợn. Láy từ “dợn dợn” để diễn tả lòng quê ấy, ty ấy cứ liên tục chồng chất, dâng hết đợt này đến đợt khác. Từ láy “dợn dợn” hô ứng với cụm từ “vờn con nước” để diễn tả nỗi niềm bâng khuâng của lòng quê. Nhà thơ gửi làng quê vào những con nước xa vời với khiến ta không thể không nghĩ đến h/ả HC nhớ quê hương dù đang đứng giữa quê hương. Nhưng quê hương không còn, cứ như người xa xứ cạnh lòng nhớ quê hương. Đây là nét tâm trạng chung của các nhà thơ mới, gợi ra nỗi đau trc cảnh nước mất. Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Câu thơ cuối mang phong vị của thơ Đường, một ý thơ cách xa hang nghìn năm của Thôi Hiệu. Xưa kia tại lầu Hoàng Hạc ngắm nhìn những làn sương bay là là trên mặt nước mà trong Thôi Hiệu tình quê thổn thức. Còn nay cũng trc cảnh sông nước mênh mông, trong 1 buổi chiều tà nhưng không cần đến 1 thứ khói nào làm duyên cớ mà lòng quê vẫn dợn dợn trào dâng. Lòng quê trong HC lúc nào cũng thường trực, thổn thức, chưa bao giờ nguôi ngoai Điều đó chứng tỏ nỗi buồn nhớ quê hương da diết, tha thiết, sâu sắc của nhà thơ. Có thể nói 2 câu kết bài thơ thật hàm súc đã tỏa sáng giá trị tư tưởng và nghệ thuật trong tâm hồn nhà thơ Như vậy 4 câu thơ của khổ cuối không chỉ góp phần khắc họa 1 bức trannh hùng vĩ cổ kính nhưng đượm buồn mà còn đánh thức ty quê hương, đất nước thầm kín mà da diết, trong sáng của nhà thơ. Tâm trạng của HC cũng là tâm trạng của thế ệ thanh niên tri thức trong những năm thắng mất nước, phải sống trong cảnh ngột ngạt, bế tắc của chế độ thuộc địa Bằng những từ ngữ giàu sức gợi tả, bút pháp cổ điển mang đậm nét Đường thi, Huy Cận đã tạo ra một Tràng Giang nhuốm màu nỗi buồn, nỗi cô đơn. Một cái “tôi” lẻ loi giữa vũ trụ vô thường bao la đã được bộc lộ rất rõ nét. Đồng thời, cho ta thấy rõ nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết sầu bi trong tâm hồn người thi sĩ đa cảm. Với hồn thơ trữ tình lãng mạn cùng cái tôi nhạy cảm, thuần khiết, Huy Cận đã tạo nên một tác phẩm nghệ thuật, trong thơ có họa, trong thơ có tình. Mượn cảnh hoàng hôn bên bờ sông với đất trời mênh mang, tác giả gửi vào đó những rung động của một kẻ si tình. Tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương cùng cái tôi nổi bật, ngòi bút độc đáo với khả năng sử dụng ngôn từ đặc sắc, xúc tích mà bao hàm, Tràng Giang đã đưa Huy Cận lên vị trí lão làng trong nền văn học Việt nói chung và thời kì Thơ mới nói riêng.