You are on page 1of 13

Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại là

nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian, nhà thơ của nỗi sầu nhân thế. Tài
năng nghệ thuật độc đáo của một hồn thơ, "ảo não nhất" trong phong
trào thơ mới đã sáng tạo thành công nhiều dòng thơ độc đáo với sự kết
hợp hài hoà giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại. Có nhận định cho rằng
"Trường giang đã tiếp nối mạch thi cảm truyền thống với sự cách tân
đích thực".
Mạch thi cảm truyền thống hiểu nôm na là nguồn cảm hứng của văn học
truyền thống thường thiên về những nỗi buồn, ẩn chứa những tâm trạng
của thi nhân. Đó là những nỗi buồn về nhân tình thế thái, sự chia li về
không gian và thời gian địa lí diễn tả qua sự vận động của cảnh vật
nhưng được nhìn bằng lăng kính của nỗi niềm tâm sự như cách diễn tả
của đại thi hào Nguyễn Du "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Còn
sự cách tân đích thực được hiểu là sự đổi mới trong thơ ca, sáng tạo từ
lời thơ, ý thơ với sự nhận của những hồn thơ mang hơi hướng của văn
học phương Tây hiện đại. Tràng giang là một bài thơ vừa mang một nét
buồn của thơ ca truyền thống vừa mang chất lãng mạn của thơ mới với
cách nhìn, cách tiếp cận đầy mới mẻ dưới ngòi bút tài hoa của Huy Cận.

Từ láy "mênh mông" được tác giả đẩy lên đầu câu thơ nhằm khéo léo
mở ra tầm nhìn bao quát toàn cảnh "tràng giang". Trong cái nhìn bao
quát ấy, Huy Cận càng như thất vọng trước cái hoang vắng lạnh lẽo của
thiên nhiên. Hình ảnh cây cầu và chuyền đò ngang xuất hiện trong đoạn
thơ không chỉ là hiện thân cho dấu vết của sự sống con người mà còn là
những nhịp cầu nối những bờ sông, là con đò nối hai bờ sông nước. Tuy
nhiên, cách nói phủ định "không cầu, không một chuyến đò ngang" và
hình ảnh "bờ xanh tiếp bãi vàng" đã khiến cho cảnh vật thiên nhiên càng
hoang vắng, trống trải.Lời thơ đó của Huy Cận gợi nhớ cảm nhận về
thiên nhiên của Truyện Kiều khi nàng đang đứng ở lầu Ngưng Bích :
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Đến khổ thơ cuối cùng, nỗi cô đơn trước thiên nhiên cảnh vật cái nhìn
của nhà thơ không chỉ là ở ngoại cảnh nữa mà đi sâu vào trong tâm cảnh
thể hiện nỗi hoài hương sầu xứ, khắc khoải khôn nguôi của một người
dân mất nước. Các thi liệu "mây, núi", "cánh chim", "bóng chiều" xuất
hiện rất phổ biến trong thơ ca cổ điển. Nếu hai câu thơ đầu miêu tả cảnh
ngoại cảnh trời cao cùng lớp lớp mây trắng đùn ra như những núi bạc
thật đẹp thì hai câu thơ cuối là bức tranh tâm cảnh của người thi sĩ đang
mang một nỗi niềm tâm sự chung với Bà Huyện Thanh Quan "nỗi nhớ
nhà", "nhớ quê hương, đất nước".
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Đến đây, nỗi niềm nhớ quê hương, đất nước được dồn nén từ đầu giờ
được mới được hé mở, bộc bạch. Nếu ở khổ thơ đầu là "sóng gợn"
nghiêng về tả cảnh thật thì bây giờ ở khổ thơ cuối ý thơ là một phép
nhân hoá giữa sóng sông và sóng lòng đang dâng trào. Câu thơ cuối
cùng đã kín đáo diễn tả "mối lòng với quê hương" đang nặng trĩu. Hình
ảnh con người và nỗi lòng nhớ nhà vốn đã quen thuộc trong thơ cổ.
Những ý vị cổ điển của lời thơ Huy Cận còn được tô đâm thêm nỗi nhờ
nỗi nhớ kín đáo gợi nhớ một nỗi thơ Đường :
"Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai"
(Hoàng Hạc Lâu - Thôi Hiệu)
Bên cạnh việc sử dụng các từ ngữ, hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật vốn
quen thuộc trong thơ ca cổ điển, sự tiếp nối mạch nguồn truyền thống ấy
còn được nhà thơ thể hiện qua việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ thất
ngôn với cách cách gieo nhịp 2/2/3, hoặc 4/3, gieo vần, cấu trúc thơ
đăng đối, mượn cảnh để giãy bày tâm trạng,...Và hơn hết, "cái tôi lãng
mạn" trong phong cách thơ của Huy Cận còn được thể hiện ở những dấu
ấn "cách tân đích thực". Đó là "nỗi buồn của cái tô cô đơn" thơ mới thời
mất nước "chưa tìm được lối ra". Huy Cận tiếp cận "Tràng giang" theo
không gian truyền thống mênh mông, hùng vĩ, hoang vu, rợn ngợp
nhưng đã mở rộng không gian đó theo ba chiều típ tắp, vô tận đến mênh
mông (dài - rộng - cao) qua các hình ảnh "nắng", "trời", "sông", "bến" ở
hai câu thơ sau càng khiến cho không gian Tràng giang được mở ra vô
tận, vô cùng hơn :
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Sự cách tân còn được thể hiện trong cách dùng từ để miêu tả cảnh vật,
diễn tả tâm trạng, cách sử dụng các thi liệu : củi, sông, bèo, nắng,
thuyền, cát, cánh chim, hoàng hôn,... Tất cả đã mang đến một bức tranh
thiên nhiên quê hương gần gũi, quen thuộc. Hình ảnh "cánh bèo" trong
thơ ca cổ là biểu tượng cho thân phận trôi dạt, không nơi nương tựa, thì
đến với Huy Cận, cách sử dụng từ "bèo dạt hàng nối hàng" đã thể hiện
một cái tôi thơ mới rất tinh tế, nhạy cảm, đầy trắc ẩn luôn rung động
cùng một nhịp với thiên nhiên. Ba chữ "hàng nối hàng" làm nổi bật cảnh
tượng những đám bèo nối tiếp nhau trôi qua ngay trước mắt nhà thơ.Hay
trong câu thơ "Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa", sau bốn chữ
đầu, Huy Cận đã khéo léo sử dụng dấu ( : ) tạo thành lối thơ giải thích
cắt nghĩa mà vế trước là hệ quả vế sau là nguyên nhân. Trong cảm nhận
của riêng nhà thơ, chim nghiêng cánh nhỏ vì bóng chiều sa xuống.
"Bóng chiều" vốn vô hình hư ảo "Bóng chiều dường có lại dường
không" (Trần Nhân Tông), qua cảm nhận của nhà thơ bỗng trở lên vô
cùng, cụ thể như có hình có khối có trọng lượng đè trĩu lên đôi cánh
chim mỏng manh. Dấu ấn cách tân được thể hiện qua lời thơ tinh tế diễn
tả cái mong manh, nhỏ nhoi cô đơn của cánh chim trời, cũng như cái
cảm giác trêu ngươi bất lực của một sinh linh vô tội khi đứng trước cái
vô cùng.
Sự sáng tạo của Huy Cận mang dấu ấn cá nhân riêng biệt nhất, có lẽ nằm
ở hai câu thơ cuối cùng. Nhà thơ đã mượn tứ thơ của Thôi Hiệu cho câu
kết của Tràng giang nhưng về mặt âm điệu, ngữ nghĩa, cách truyền tải
nội dung có sự khác biệt rất lớn. Nếu như Thôi Hiệu nhớ nhà được gợi
lên từ khói hoàng hôn thì Huy Cân lại không phụ thuộc vào khói hoàng
hôn, mà nỗi nhớ xuất phát từ nội tâm, không phải do ngoại cảnh gợi lại.
Như vậy, nỗi nhớ của Huy Cận là nỗi nhớ vừa mới mẻ, vừa sâu sắc
mãnh liệt, nhưng cũng rất mực cổ điển.
Với nỗi niềm khát khao hơi ấm của tình người tình đời, thiết tha gắn bó
với quê hương xứ sở với đất nước, hồn thơ Huy Cận đã mang đến một
Tràng giang "bài thơ đạt đến trình độ cổ điển của một hồn thơ mới"
(Xuân Diệu) và cũng là tứ thơ "Ca ngợi cảnh trí non sông và dọn đường
cho lòng yêu quê hương đất nước" (Xuân Diệu).

 "Buồn thương, sầu não là âm hưởng chính khiến Lửa Thiêng như bản
ngậm ngùi dài. Tập thơ dằng dặc một nỗi buồn nhân thế, một nỗi đau
đời. Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Ðông Á,...đã khơi lại cái
mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này (Hoài
Thanh). Nỗi buồn như kết quả của quá trình lắng nghe tinh tế nhịp tuần
hoàn vũ trụ và nỗi ngậm ngùi nhân gian. Ðó là tấm lòng ...tủi nắng sầu
mưa. Cũng đất nước mà nặng buồn sông núi.
bao trùm khắp “Tràng giang” là nỗi buồn thăm thẳm lan tỏa khắp
không gian và thấm vào từng cảnh vật. Nỗi buồn ấy hiện lên qua
tâm thế lẻ loi bé nhỏ hữu hạn của con người giữa cái mênh mông
rợn ngợp vô hạn của vũ trụ. Đó là cái nỗi buồn thời đại đặc trưng
của Thơ mới, làm nên quan điểm thẩm mỹ của Thơ mới: đẹp tức
là buồn.
-          Nhưng nếu truy tận cùng căn nguyên của nỗi buồn, sẽ thấy
đó không phải là cái buồn vu vơ, vô cớ kiểu “Tôi buồn không hiểu
vì sao tôi buồn”, mà nỗi buồn có nguyên nhân xã hội: nỗi buồn
của một thế hệ mất nước. Cho nên, các liêu vắng cô quạnh
không biết đi đâu về đâu ẩn trong hình ảnh “Bèo dạt về đâu hàng
nối hàng” thực chất chính là một nỗi sầu nhân thế. Đó là cái
buồn cuộc đời của một thế hệ lạc loài ngay trên chính quê hương
của mình, loay hoay bế tắc không biết đi đâu, về đâu.
-          Trong cái liêu vắng, cô quạnh ấy, khát khao hòa nhập với
cuộc đời và tình người là một khát vọng rất tự nhiên. Nhưng có
thể thấy rằng nhân vật trữ tình không đạt được khát vọng đó khi
tất cả những gì liên quan đến con người và cuộc đời đều đặt
trong phép phủ định “không một chuyến đò ngang”, “không cầu
gợi chút niềm thân mật”, đầy trơ trọi, hiu quạnh.
-          Để rồi từ tất cả những khát khao, và nỗi sầu ấy, nỗi nhớ quê
hương hiện lên một cách tự nhiên, là tiếng gọi tha thiết trong tâm
hồn thi nhân, là sự tìm tìm kiếm hơi ấm tình người.

-          Tóm lại, nỗi sầu nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với
cuộc đời và tình cảm đối với quê hương không phải là những
cảm xúc tách rời nhau, mà trái lại, chúng hòa quyện, soi chiếu
vào nhau. Hạt nhân của khối cảm sầu mênh mang ấy chính
là tình yêu quê hương, là nỗi nhớ dành cho một quê hương đã
mất, của một linh hồn lạc lõng ngay trên chính quê hương mình.
Cũng chính từ nỗi nhớ quê hương ấy, tình người và tình đời
hiện ra như một khát khao tìm một điểm tựa tinh thần, tìm một
niềm an ủi, nhưng kết quả nhận lại vẫn là sự lẻ loi, cô độc tận
cùng.
- “Đời chúng ta nằm trong một chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.
Nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta
phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên
đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta
ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận” – Hoài Thanh.
- “Ở Huy Cận, ta không thấy những tiếng kêu ầm ĩ, nóng nảy như ở tác
giả Thơ Thơ và ta cũng không thấy cái buồn vơ vẩn và nhẹ nhàng như ở
tác giả Tiếng thu. Huy Cận than thân thì ít mà góp tiếng khóc với đời thì
nhiều” – Vũ Ngọc Phan.
5. Cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang vắng.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Nếu như ở các tác phẩm của Nguyễn Du ta thường hay thấy những câu
thơ gây ám ảnh về số phận lạc lõng, cô đơn, vô định của con người trên
dòng đời vô tận như “Hoa trôi man mác biết là về đâu” thì ở khổ thơ này
chúng ta lại bặt gặp hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” – một câu
thơ mang đậm tính triết lí và rất giàu chất “thơ”. Đó là những cánh bèo
trôi nổi, phiêu dạt trên sông nước hay cũng chính là sự bơ vơ, trơ trọi
của lòng người. Đứng trước không gian mênh mông, rợn ngợp như thế
nhưng nỗi buồn lại cứ nối tiếp nỗi buồn, con người thì lại càng nhỏ bé và
quả thực “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”…Lạc lõng, cô đơn, con
người mong muốn tìm tới những hình ảnh gần gũi, thân quen với cuộc
sống trước cái vô cùng của vuc trụ. Đó là một chuyến đò ngang qua lại
để làm một chiếc cầu nối đôi bờ xa cách. Nhưng không, hiện thực lại là
“mênh mông không một chuyến đò ngang”. Ước mơ ấy có phần nhỏ bé
và quá đỗi bình dị. Phó từ phủ định “không” lặp đi, lặp lại gắn với
những hình ảnh mong ước của tác giả khiến cho những mong ước ấy dẫu
bình dị, bé nhỏ cũng trở nên vô vọng. Cảnh vật lại tiếp tục rơi vào hoang
vắng, lạnh lẽo. Con người lại rơn ngợp, lẻ loi giữa “bờ xanh” - “bãi
vàng”. Nghệ thuật đảo ngữ ở từ “lặng lẽ” đã làm nổi bật lên cái cảm giác
trống vắng đến tột cùng của thi nhân.Trong thế tương phản của “Tràng
giang”, cái nhỏ càng thêm nhỏ bé đáng thương, cái lớn càng thêm mênh
mông, rợn ngợp. Bởi thế, bước vào “Tràng giang” con người như
choáng ngợp trước một tạo vật vô cùng. Lặng nhìn cảnh vật, nhà thơ lại
nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì đó quen
thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, cô đơn.
Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng
quạnh quẽ, đìu hiu và lòng người lại rợn lên những lẻ loi, trống vắng..
6. Tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơ.
“ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Khổ thơ hiện lên là hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ với “mây cao” xếp
thành nhiều tầng tạo nên liên tưởng về dãy “núi bạc” khổng lồ, với cánh
chim nhỏ cô đơn, nhỏ bé và bóng chiều bao phủ. Sà xuống chum lên
cảnh vật. Động từ “đùn” khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên
trong, từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất
hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. Bóng
hoàng hôn dường như đã sa xuống quá nhanh khiên cho cánh chim phải
nghiêng ngả. Từ láy toàn bộ “dợn dợn” ở hai câu thơ cuối là một sáng
tạo độc đáo của Huy Cận. Từ láy này hô ứng cùng với cụm từ “vời con
nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”.
Phong cách thơ Huy Cận có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những yếu tố
cổ điển, nhất là cổ điển Đường thi với yếu tố thơ mới. Cụ thể là sự hòa
hợp trong “mối sầu vạn kỉ” của Huy Cận cả mối sầu vũ trụ và thế nhân
từng chan chứa trong thơ Đường với nỗi cô đơn của “cái tôi” cá thể thơ
mới. Trong bài “Tràng giang”, Huy Cận đã kín đáo gửi lòng yêu nước
vào nỗi buồn và niềm thiết tha trước tạo vật thiên nhiên. Đó là nỗi buồn
sầu của một người dân thuộc địa trước giang sơn bị mất chủ quyền (nỗi
buồn sông núi) đã hòa lẫn vào nỗi bơ vơ trước tạo vật vô biên, hoang
vắng. Tác giả sống trên quê hương mà luôn thấy thiếu quê hương, luôn
thấy bơ vơ ngay trên chính quê hương mình. Bài thơ như một chuỗi của
sự trống vắng: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” – một tín hiệu
thông thường của sự đoàn tụ con người trong thời điểm hoàng hôn cũng
không có. Trong bức tranh này dường như chỉ có sự ngự trị tuyệt đối của
một thiên nhiên sơ cổ, lặng lẽ. Bài thơ mở ra bằng tiếng sóng trên sông
nước, kết thúc bằng tiếng sóng trong tâm hồn con người. Cảnh vật vẫn
đìu hiu và quạnh vắng. Con người bởi thế mà trở trăn với bao nỗi niềm.
Đây là nét tâm trạng chừng của nhiều nhà Thơ mới lúc bấy giờ, một nỗi
đau xót trước cảnh mất nước và lòng yêu nước, yêu quê hương vô bờ
bến.

Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho
bài thơ. “Tràng giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận.
Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con
sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ
“tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng
Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh
hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Tứ thơ “Tràng giang” mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn
đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường
thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên
nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể
hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la.
Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần
hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được
cảm xúc chủ đạo của cả bài: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài”.
Trước cảnh “trời rộng”, “sông dài” sao mà bát ngát, mênh mông của
thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm “bâng khuâng” và nhớ. Từ
láy “bâng khuâng” được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng
của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con “sông dài”,
nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn
sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút
gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về
cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình
ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng
trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người
vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay
hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Bèo trôi hàng hàng càng khiến
lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn,
cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng”
như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp
thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con
người, không có sự giao hoà, nối kết:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. “...không...không” để phủ định hoàn
toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có
chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao
trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay
chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị
cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” đã khiến
người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào
như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi
vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của
Đỗ Phủ:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ “đùn”, khiến mây như chuyển
động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây
cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ
cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu
thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều:
Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang,
hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả
đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng
“cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả
hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng
hiện đại:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
“Dợn dợn” là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy
trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một
nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. Nỗi niềm đó là nỗi niềm
nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã
không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một
nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ:
“Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu
cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không
cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm
lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ
điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi,
qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen
thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ
thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ
như “sâu chót vót”, dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại
cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương,
nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho
đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất “Huy
Cận”, với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang
nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.
------------
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Giữa cái bao la trời đất, sông nước hầu như không có một bóng dáng con
người. Câu thơ phủ định bằng điệp từ “không” liên tiếp “không một
chuyến đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”, chỉ có màu
“vàng” của bãi tiếp nối với màu “xanh” của bờ vô tận. Cái buồn bà cô
đơn của tâm trạng được diễn tả trong một không gian “mênh mông” và
“lặng lẽ”.
Khổ thơ cuối nói về khoảnh khắc hoàng hôn. Hoàng hôn trong thơ cổ
gắn liền với tình quê, cố hương:
“.. Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
(Qua Đèo Ngang- Bà Huyện Thanh Quan)
Thôi Hiệu, nhà thơ lỗi lạc đời Đường, đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn
khói sóng phủ mờ trên sông Hán Dương buổi hoàng hôn mà lòng thổn
thức:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Tản Đà dịch)
Huy Cận lựa chọn một số thi liệu đầy chất thơ để diễn tả một tình quê:
một cánh chim chiều, lớp lớp núi mây bạc. Không có khói sóng mà vẫn
thương nhớ quê nhà da diết:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chìm nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa,
Lòng quê dợn dợn vời non nước,
Không khói hoàng hon cũng nhớ nhà
Câu thơ nên hoạ, đầy hình tượng và dạt dào cảm xúc. Hồn Đường như
thấm vào câu chữ. Ai đã từng xa quê, trong khoảnh khác hoàng hôn mới
thấy hết cái hay (đẹp mà buồn) trong những bài thơ nói về tình quê.
Lòng quê: “Song sa vò võ phương trời – Nay hoàng hôn đã lại mai hôn
hoàng”(Truyện Kiều)… “Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ - Lấy ai mà
kể nỗi hàn ôn” (“Chiều hôm nhớ nhà”) - Từ cảm nhận ấy, ta như bâng
khuâng nhập hồn mình vào “Tràng giang”, lặng lẽ trầm ngâm nhìn theo
“vời con nước” mà “nhớ nhà”, nhớ quê hương. Huy Cận không cần có
khói sóng mà lòng quê vẫn “dờn dợn”, vẫn “nhớ nhà”. Rõ ràng tình quê
trong Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn “dờn dợn”, vẫn
“nhớ nhà”, nhớ trong Huy Cận cháy bỏng và da diết vô cùng. Nói rằng
thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn
nơi đáy sâu tâm hồn người để vươn tới cái cao cả. Đọc “Tràng giang” ta
cảm nhận sâu thêm chân lý nghệ thuật ấy.
Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ “Lửa
thiêng”. Nó là ngọn lửa thiêng liêng, ngọn lửa vĩnh cửu toả sáng một
hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ thất ngôn với bốn khổ thơ, như một
bức hoạ tứ bình tuyệt tác. Một nỗi buồn thấm thía được diễn tả lớp lớp
tầng tầng qua những vân thơ mỹ lệ, hàm súc. “Tràng giang là bài thơ ca
hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn Tổ
quốc” như Xuân Diệu đã nói.
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu…
Xuất hiện vào giai đoạn toàn thịnh của phong trào Thơ Mới, Huy Cận là
một trong những thi sĩ có công đưa phong trào này lên đến đỉnh cao. Ở
độ chín nhất, phong cách thơ Huy Cận là sự kết hợp nhuần nhuyễn
những yếu tố cổ điển, nhất là cổ điển Đường thi và những yếu tố trong
thơ mới. Cụ thể, đó là sự hoà hợp nỗi sầu vạn kỉ của Huy Cận cũng cả
nỗi sầu vũ trụ và nhân tình trong thơ Đường với cái tôi cá nhân cá thể
thời thơ mới. Nỗi niềm ấy thường chung đúc vào hình ảnh điển hình
của cái tôi trong tập Lửa thiêng (1937-1940): kẻ lữ thứ bơ vơ trong
không gian vô tận, trôi dạt trong thời gian vô thuỷ vô chung. Đồng thời
là sự hoà hợp giữa thi pháp thơ Đường và những nét thi pháp trong thơ
tượng trưng Pháp.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho
bài thơ. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên
tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của
muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng:
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến trường giang thiên tế lưu
(Lý Bạch)
Tràng giang còn là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai
âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông,
không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. . Tứ thơ
"Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng
sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể
hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên
để mong hoà nhập, giao cảm, Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện
nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó
cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần
hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được
cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài".
Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của
thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và “nhớ”.
Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm
trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông
dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ
cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

You might also like