You are on page 1of 7

Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca, là cảm hứng sáng tác của rất nhiều

nhà thơ. Mỗi tác giả lại có một cái nhìn riêng, một phương thức khác biệt để tái
hiện cảnh thiên nhiên. Nếu như thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu gây ấn tượng
với vẻ đẹp mơn mởn tràn đầy sức sống thì thiên nhiên trong thơ Huy Cận lại gợi
lên nhiều nghĩ suy bởi vẻ đẹp buồn man mác. Điều này được thể hiện vô cùng
rõ nét qua bức tranh nhiên nhiên trong bài thơ "Tràng giang". Thiên nhiên
"Tràng giang" dưới ngòi bút Huy Cận hiện lên với vẻ đẹp cổ điển xen lẫn hiện
đại, đẹp mà quạnh vắng cô liêu, bâng khuâng nỗi sầu.
Tràng giang là bài thơ nằm trong tập thơ Lửa thiêng, tập thơ đầu tay của Huy
Cận, đây là một bài thơ hay và tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới, đánh
dấu phong cách thơ của Huy Cận trong rất nhiều nhà thơ mới cùng thời. Tràng
giang được khơi nguồn cảm hứng từ cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước,
lời thơ và hình ảnh thơ thấm đẫm màu sắc cổ điển, bài thơ khắc họa phong cảnh
thiên nhiên trong không gian buồn vắng mênh mông. Thông qua đó, nhà thơ đã
bộc lộ tình đời tình người và lòng yêu quê hương đất nước thiết tha sâu nặng,
nửa thầm kín.
Trước hết từ nhan đề Tràng gian,  ta đã cảm nhận được được nỗi ám ảnh không
gian trong tâm hồn Huy Cận, trong hay từ Tràng giang, vốn dĩ chúng ta thường
quen miệng đọc là trường giang, thì tác giả lại tìm cách biến đổi thành điệp âm
“ang”, như vậy tầng nghĩa của nhan đề đã có sự mở rộng. Âm mở rộng như vậy
đã đem đến cho người đọc một cảm giác mới lạ, bởi lúc này đây Tràng giang
không chỉ đơn thuần là một dòng sông dài mà còn là “đại giang”, là một dòng
sông rất rộng và lớn, mênh mông bể sở, gợi tả một không gian mang tầm vũ trụ.
Hơn thế nữa Tràng giang còn là một từ Hán Việt, mang sắc thái cổ kính, gợi ra
những liên tưởng về một dòng sông không những mang những đặc điểm dài và
rộng trong góc nhìn địa lý mà còn có chiều sâu trong tầm nhìn của lịch sử, trong
dòng chảy của thời gian, ẩn chứa trong đó cả hàng nghìn năm văn hóa của dân
tộc. Nhan đề mang tính khái quát, mang những nỗi niềm chung của nhân dân
Việt Nam thời bấy giờ.
Từ muôn đời nay, thiên nhiên vẫn luôn là người bạn tri âm tri kỷ của hồn mộng
thi sĩ. Thiên nhiên gắn bó, đồng cảm và sẻ chia với thi nhân mọi xúc cảm cũng
như nỗi lòng. Nếu như hoa lá cỏ cây say mê và rạo rực cùng tâm hồn sôi nổi
Vội vàng của Xuân Diệu, trăng và đêm chao đảo điên cuồng cùng nỗi đau của
Hàn Mặc Tử… và sông trời mây nước trong vũ trụ này sầu “ảo não” với nỗi
buồn “vạn kỷ” của tâm hồn Huy Cận. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang rất
đẹp, sinh động nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn tủi cô đơn của người nghệ sĩ.
Sự bao la rợn ngợp của sông nước
Bài thơ mở ra một bức tranh thiên nhiên Tràng giang rất đẹp, bàng bạc một nét
đẹp cổ xưa. Vẫn là đề tài quen thuộc ấy, từ những thi liệu và bút pháp nghệ
thuật vốn có trong thơ cổ, nhà thơ của Lửa thiêng đã vẽ nên trên nền trời mây,
sông nước mênh mông vô cùng, vô tận những sự vật nhỏ bé, đặc trưng.
Trong quá trình phân tích bức tranh thiên nhiên Tràng giang, có lẽ điều khiến
người đọc ấn tượng hơn cả là những hình ảnh như sóng gợn, thuyền trôi, gió đìu
hiu, bến cô liêu, bèo dạt, mây cao, núi bạc, chim nghiêng… gợi nên cái hồn
thiên nhiên của thơ ca từ bao đời này. Có lẽ, nếu cứ nhìn người ta vẫn ngỡ đó là
không gian của cảnh đẹp tiêu sơ và vắng lặng vốn thấy trong thơ Đường. Thế
nhưng, bức tranh thiên nhiên Tràng giang hiện ra trước hết là khung cảnh rợn
ngợp bao la của đất trời.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh những con sóng nối tiếp, nối tiếp nhau đến tận chân
trời. Sự kéo dài của những cơn sóng như bất tận tạo cảm giác dường như không
gian cũng được mở rộng ra. Từ “gợn” được tác giả dùng thật khéo không chỉ
gợi được sự chuyển động của sóng nước mà còn gợi được một cảm giác mơ hồ,
nhẹ nhàng nhưng day dứt xao xuyến mãi không nguôi như những cơn sóng vẫn
miệt mài ngày đêm xô vào bờ. Từ “gợn” ấy ta cũng từng bắt gặp trong ca dao
“Chiều chiều bước xuống ghe buôn
Sóng bao nhiêu gợn dạ em buồn bấy nhiêu”
(Ca dao)
Con sóng của đại dương hay chính là con sóng của tâm hồn đang xao xuyến?
Cảm giác mơ hồ ấy ngày càng mạnh mẽ hơn để rồi bộc bạch trực tiếp thành một
nỗi niềm “buồn điệp điệp”. Từ láy “điệp điệp” thường được dùng để diễn tả
cảnh núi non hùng vĩ hay khung cảnh hùng tráng trong Việt Bắc.
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Còn trong câu thơ của Huy Cận, bức tranh thiên nhiên Tràng giang với “điệp
điệp” lại được dùng để chỉ nỗi buồn. Nỗi buồn vốn là một trạng thái cảm xúc vô
hình chỉ có thể cảm thấy nhưng trong kết hợp này nỗi buồn ấy lại có hình có
khối. Nỗi buồn ấy theo con nước mà tràn đầy. Đứng trước khung cảnh rợn ngợp
của thiên nhiên ấy mấy ai mà không thấy buồn mấy ai mà không thấy mình nhỏ
bé bất lực.
Bởi lẽ đó mà “con thuyền xuôi mái”. Con thuyền dường như cũng thấy mình bất
lực trước dòng chảy. Dù có cố gắng mấy nhưng cuối cùng con thuyền vẫn xuôi
theo dòng nước không thể cưỡng lại được. Đó cũng là sự bất lực của con người
trước dòng chảy của thời gian. Giữa sự chảy trôi tuyến tính của thời gian, sự
xuất hiện của con người chỉ như mây khói thoáng qua.
Phân tích bức tranh thiên nhiên Tràng giang, ta thấy từ “song song” bỗng nhiên
như vạch ra ranh giới giữa con thuyền và sóng nước gợi ra một cảm giác về sự
chia li. Ở hai dòng thơ đầu, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng
tinh tế trong cách sử dụng từ láy. “Điệp điệp” đối với “song song”. Không chỉ
đối về mặt thanh điệu mà còn đối với nhau về ý. Cả hai cùng gợi ra một không
gian rộng lớn chất chứa nỗi buồn nhân thế.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Thuyền và nước vốn gắn liền nhau nhưng trong khổ thơ đầu lại chia lìa nhau.
Nếu ở câu thơ trên, thuyền và nước dường như “song song” thì ở dòng thơ này
thuyền và nước lại tách rời nhau mỗi nơi mỗi ngả. Sự chia li của cảnh vật hay
cũng chính là sự chia li của lòng người.
Nghệ thuật tiểu đối “thuyền về nước lại” càng nhấn mạnh thêm nỗi niềm ấy.
Nếu ở trên là “buồn điệp điệp” thì bây giờ lại là “sầu trăm ngả”. Ở trạng thái
“sầu” ta bắt gặp một cảm xúc có phần mạnh mẽ, mãnh liệt và ám ảnh hơn
“buồn”. Như trong câu thơ của Nguyễn Du “Sầu đông càng lắc càng đầy”.
Nỗi sầu ấy không chất chồng chất đống mà lan tỏa ra khắp “trăm ngả”. “Trăm”
là một con số ước lệ chỉ số lượng nhiều. “Trăm ngả” không phải là hướng chảy
của dòng nước mà là của nỗi sầu. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn thể
hiện ở nỗi sầu theo con sóng xô dạt đến tận chân trời xa. Con sóng lòng bất tận
ấy ta cũng từng bắt gặp trong vần thơ nhẹ nhàng đằm thắm nhưng không kém
phần da diết của Xuân Quỳnh.
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
(Sóng – Xuân Quỳnh)
Giữa không gian rộng lớn mênh mông, không chỉ có sự xuất hiện nhỏ bé của
chiếc thuyền mà bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn được điểm tô thêm bằng
sự xuất hiện của cành củi khô.
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Kết cấu đảo ngược đã nhấn mạnh thêm sự xuất hiện của cành củi. Đây là một
hình ảnh độc đáo. Khi nói về sự nhỏ bé của kiếp người, thi nhân thường dùng
hình ảnh chiếc thuyền
“Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”
(Tự tình III – Hồ Xuân Hương)
Hay như tác giả dân gian so sánh với:
“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”
Ca dao)
Nhưng Huy Cận lại thể hiện số phận nhỏ bé của con người qua hình ảnh cành
củi. Bản thân hình ảnh cành củi đã gợi lên một sự nhỏ bé chỉ đành lênh đênh
trôi nổi trên dòng nước không có bến bờ để neo đậu nhưng đó còn là một cành
củi khô. Không chỉ cô đơn mà còn là một sự khô héo đến thiếu sức sống.
Lần đầu tiên trong thơ văn xuất hiện hình ảnh cành củi khô tuy đơn sơ nhưng lại
giàu sức gợi. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang hiện lên với hình ảnh một cành
củi khô đơn lẻ, cô quạnh mênh mông trên sóng nước cũng là hình ảnh con
người bơ vơ đến tận cùng giữa vòng xoáy của cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng
của thi nhân khi đứng trước dòng sông rộng lớn bao la mà nghĩ về cuộc đời.
Bãi bờ quạnh vắng cô đơn
Sự cô đơn không chỉ xuất hiện ở nơi dòng sông rộng lớn mênh mông mà còn
xuất hiện ở khung cảnh hai bên bờ sông.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Bức tranh thiên nhiên Tràng giang hiện lên với cảnh vật đa dạng và phong phú.
Không gian cũng được mở rộng hơn. Từ không gian hẹp của cồn nhỏ, chợ chiều
đến không gian rộng lớn của sông dài trời rộng. Tất cả ngơ như đầy sức sống
nhưng cuối cùng lại chìm trong sự tịch liêu. Từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi lên
sự buồn bã quạnh vắng.
Nghệ thuật tăng cấp càng khiến cho không gian tịch mịch hơn. Chợ đã tàn
người cũng tàn vốn đã buồn chợ chiều nay càng buồn hơn. Âm thanh chợ tàn ấy
vang vọng từ xa đến nơi đây. Từ “đâu” vang lên vừa như một âm thanh mơ hồ
xa xôi vừa như một là tự hỏi âm thanh ấy từ đâu mà vang vọng lại.
Dấu hiệu của cuộc sống xuất hiện nhưng không tương vui giòn giã, thúc giục
như bản hòa ca của cuộc sống mà im vắng. Nghệ thuật tiểu đối lại một lần nữa
phát huy hiệu quả trong kết hợp đặc biệt “nắng xuống trời lên”. Nắng và trời
bỗng chốc như tách rời nhau để mở rộng không gian. “Xuống” và “lên” là hai
chiều hướng ngược nhau đặt trong cùng vế đối khiến cho không gian như được
kéo dãn ra cùng với nỗi niềm của con người.
Có phải vì lẽ đó mà không gian trở nên “sâu chót vót”. Từ láy “chót vót” vốn
được dùng để chỉ độ cao nhưng Huy Cận lại dùng từ láy này để gợi mở độ sâu.
Phải chăng đây là một dụng ý nghệ thuật của thi nhân. Cách kết hợp ấy đã khiến
không gian của bức tranh thiên nhiên Tràng giang như được đẩy ra hết mọi
chiều kích của vũ trụ. Càng rộng, càng sâu, càng cao thì cảnh vật càng thêm
vắng lặng. Nỗi buồn tựa hồ thấm đẫm trong cả không gian.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn hiện lên với hình ảnh bèo được dùng để
diễn tả số phận con người bấp bênh vô định. Và Huy Cận cũng dùng hình ảnh
cánh bèo trong thơ mình để một lần nữa nhấn mạnh sự nhỏ bé bấp bênh của đời
người. Bèo dạt không phải nương theo cơn sóng để sinh tồn là mặc cho cơn
sóng xô đẩy. Không phải là một cánh bèo mà cả là một hàng. Hàng nối hàng nối
tiếp nhau nhưng đau lòng hơn đó không là cuộc sống của một kiếp người mà là
của một bộ phận không nhỏ thanh niên trong hoàn cảnh xã hội bế tắc đương
thời.
Từ láy mênh mông đứng đầu dòng thơ diễn tả được sự rộng lớn bao la của
không gian. Điệp từ “không” xuất hiện liên tiếp trong hai dòng thơ gợi sự vắng
vẻ cô đơn tuyệt đối.  Thi nhân như từ chối mọi mối quan hệ, dường như tự cô
lập mình với cuộc đời xung quanh và cũng đồng thời phủ nhận mối liên kết giữa
người với người.
Chính vì không có mối liên kết nào mà con người đứng trước không gian rộng
lớn dễ rơi vào trạng thái cô đơn. Từ láy lặng lẽ đứng đầu câu càng tăng thêm sự
vắng lặng đến nao lòng của không gian. “Xanh”, “vàng” là những gam màu tươi
sáng. Sự xuất hiện này điểm tô thêm những gam màu tươi sáng cho bức tranh
thiên nhiên nhưng không xua đi được nỗi cô đơn giá băng của lòng người.
Bóng chiều cùng nỗi nhớ quê
Tiếp đến là khung cảnh thiên nhiên Tràng giang ở hai bên bờ, tầm mắt của thiên
nhiên lại hướng lên trên và cũng như phóng tầm nhìn ra xa hơn nơi chân trời để
thấy
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”
Câu thơ mở đầu bằng từ láy “lớp lớp” diễn tả số lượng nhiều. Những đám mây
như chất chồng chất đống vào nhau hết lớp này đến lớp khác. Huy Cận đã sử
dụng tinh tế động từ “đùn”. “Đùn” không chỉ diễn tả sự chồng chất của đối
tượng mà còn diễn tả được sức sống như đang căng tràn xô đẩy nhau, gợi được
vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên – núi mây khổng lồ được vạt nắng chiếu vào tạo
thành hình ảnh núi bạc. Ta cũng từng bắt gặp từ đùn ấy trong ý thơ của Nguyễn
Trãi
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”
(Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi)
Giữa đám mây bao la là cánh chim nhỏ bé đối lập với không gian rộng lớn. Thế
nhưng, giữa hai đối tượng không có từ liên kết như một khoảng trống giữa câu
thơ gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn
thể hiện ở cánh chim như đang chở nặng bóng chiều, vì bóng chiều mà cánh
chim bỗng trở nên nhỏ bé hơn? Hay vì cánh chim chao lượn như kéo cả bóng
chiều? Dù hiểu theo cách nào ta vẫn thấy cánh chim cô đơn giữa một khoảng
không mênh mang. Cánh chim bơ vơ lạc lõng hay chính lòng người cũng hoang
mang tìm kiếm một điểm tựa.
Một khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ xuất hiện. Trên phông nền thiên
nhiên là cả một tấm lòng dành cho đời.
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Lòng quê chính là tình cảm thiêng liêng dành cho quê hương đất nước. Câu thơ
gợi lên cảm giác xốn xang, không dứt, trở đi trở lại như một nỗi ám ảnh. Từ đó
cho thấy tình yêu với đất nước quê hương như lan tỏa thấm đãn theo từng con
nước. Nỗi nhớ vì vậy mà trở nên da diết hơn.
Thôi Hiệu nhìn thấy làn khói sóng mờ ảo trên sông mà nhớ đến quê nhà. Còn
Huy Cận không cần một dấu hiệu gợi nhắc mà tình cảm ấy lại ùa về tràn ngập
tâm hồn. Tiếng sóng của không gian biển lớn bao la hay chính là tiếng sóng
lòng của nhà thơ, cuồn cuộn không nói nên lời.
Đây chính là nỗi niềm của một người đứng trên quê hương mà lại nhớ về quê
hương. Và đó cũng là nguyên nhân sâu xa cũng nỗi cô đơn, sự bất lực trước
thực tại. Liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn đất nước lúc bấy giờ ta càng thấu hiểu
thêm tâm trạng của thi nhân khi đứng trước cảnh sông dài trời rộng nhưng bến
lại là bến bờ quạnh vắng cô liêu.
Bức tranh thiên nhiên Tràng giang được vẽ lên bởi những hình ảnh đơn sơ mộc
mạc nhưng giàu sức gợi. Một thi hứng tưởng chừng quen thuộc trong thơ ca –
nỗi buồn nhân thế trước cảnh trời đất cô liêu nhưng trong niềm cảm hứng của
Xuân Diệu lại mang một vẻ đẹp rất riêng vừa quen thuộc lại vừa mang màu sắc
riêng.
Bài thơ có sự vận dụng kết hợp nhuần nhị giữa bút pháp hiện đại và bút pháp cổ
điển. Ẩn trong bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn là bức tranh tâm trạng của
thi nhân. Một nỗi buồn da diết nhẹ nhàng nhưng đầy ám ảnh trong từng câu
từng chữ. Đó là nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn bao la. Tuy
nhiên le lói đâu đó ta vẫn thấy được một sự khát khao giao cảm hòa nhập với
cuộc đời của thi nhân.
Bởi vậy bức tranh thiên nhiên Tràng giang nói riêng hay thiên nhiên trong Thơ
mới nói chung, dẫu đẹp đến đâu nhưng vẫn đượm buồn. Đó là cái nét yên ắng,
tách rời nhau trong những sự vật trên của thiên nhiên nhưng thực chất được gợi
dậy từ một tâm hồn buồn trong lòng người thi nhân.
Nhà thơ của tập Lửa thiêng như chở nỗi sầu quá lớn, thậm chí là nỗi sầu của cả
một thế hệ nên không gian trong thơ ông cứ nới rộng ra mà lòng người vẫn u
uất. Không gian trong bức tranh thiên nhiên Tràng giang càng lớn thì con người
càng nhỏ bé, cô đơn và lạc lõng.
Nhưng đằng sau những xúc cảm ấy, người đọc vẫn nhìn thấy những lắng đọng
về tâm sự thầm kín của thi nhân. Huy Cận có lẽ phải yêu và gắn bó với mảnh
đất quê hương lắm, mới nhìn đâu cũng thấy ám ảnh bởi nỗi buồn. Nhà thơ đứng
trên đất quê mình, cảnh đẹp quê mình mà sao đâu đâu cũng thấy vắng lặng, tàn
lụi. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn được khơi dậy bởi nỗi nhớ nhà ở
cuối bài thơ, giúp xóa nhòa cái cảm giác thiếu thốn ngay khi ở trên quê hương.
Khi cảm nhận bức tranh thiên nhiên Tràng giang, người đọc nhận ra bài thơ
cũng chính là tiếng lòng của Huy Cận đối với cuộc đời này. Bức tranh thiên
nhiên Tràng giang không tách biệt mà hòa cùng nỗi niềm của con người – một
nỗi buồn vạn cổ. Giữa sự nhỏ bé của con người trước dòng đời, thi nhân cũng
đã tìm thấy được bến đỗ, điểm tựa – đó chính là quê hương. Bài thơ đã khép
nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng mãi như những cơn sóng cứ xô mãi xô
mãi vào lòng người đọc.

You might also like