You are on page 1of 4

ĐÂY

I. MỞ BÀI
Bước vào
THÔN dòng chảy ngọt ngào của thi ca, ta như được đắm

VĨ DẠ
chìm trong những vần thơ, những hình ảnh, tình cảm mà người nghệ sĩ
đã gửi gắm vào đó. Và khi đến với thơ của Hàn Mạc Tử cũng vậy. Ông đã
tạo nên những “bông hoa” ngát hương, lãng mạn và đầy ý nghĩa.
Hàn Mạc Tử tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, quê ở tỉnh Quảng Bình. Ông là 1 trong những nhà thi sĩ có
sức sáng tạo mạnh nhất, kì lạ nhất trong phong trào Thơ Mới lúc bấy giờ. Tuy chỉ sống vọn vẻn 28 năm
nhưng ông đã để lại cho bản hòa tấu thi ca hiện đại VN 1 kho tàng tác phẩm đồ sộ, vừa có chất liệu bí ẩn
riêng vừa mang đậm khuynh hướng lãng mạn, đau đớn khi viết về tình yêu và cuộc đời trần thế. Đặc biệt
trong lâu đài văn chương ấy không thể không nhắc đến tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” – nốt nhạc buồn trong
bản giao hưởng đa sầu đa cảm của hồn thơ HMT trước lúc từ giã cuộc đời. Bài thơ là btranh phong cảnh
đồng thời cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi buồn cô đơn của tác giả trong 1 mối tình xa xăm, vô vọng.Tiêu
biểu cho tâm trạng ấy là đoạn thơ:
“ ……..”

I. THÂN BÀI
1. TÁC PHẨM
Tác phẩm lúc đầu có tên là “Ở đây thôn Vĩ Dạ”, sáng tác năm 1938, in trong tập Thơ Điên (về sau
đổi thành Đau thương). Theo một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình đơn phương của Hàn
Mạc Tử với một cô gái thôn quê ở Vĩ Dạ - một thôn nhỏ bên dòng sông Hương, nơi xứ Huế thơ mộng và trữ
tình. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh về cảnh sông
Huế mộng mơ cùng những lời thăm hỏi của cô gái Hoàng Thị Kim Cúc, ông đã xúc động viết nên bài thơ
này.“Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Bài thơ không chỉ khắc
họa btranh phong cảnh thiên nhiên xứ Huế mà còn bộc lộ rõ nỗi buồn vô vọng trong tâm hồn thi nhân, tiếng
lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Đồng thời cũng cho thấy tình yêu thiên nhiên sâu sắc
của tác giả. Tất cả những trạng thái, cảm xúc ấy được thể hiện bằng một cấu trúc thơ vừa gián đoạn, vừa
liền mạch, gồm 12 câu thất ngôn chia làm 3 khổ, mà mỗi khổ thơ là một câu hỏi không một lời giải đáp.
Đoạn trích trên thuộc phần ... của tác phẩm, viết về cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp nơi thôn Vĩ để từ
đó đặc tả tâm cảnh của nhà thơ, về 1 nỗi cô đơn, mong chờ đến tuyệt vọng.
2. KHỔ 1
Bước vào bài thơ, HMT đã mở ra 1 btranh thiên nhiên trong trẻo, tinh khôi, có sự hài hòa giữa thiên
nhiên và con người. Thiên nhiên ấy sáng bừng trong hoài niệm mênh mang của thi sĩ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Với cách giới thiệu độc đáo, bài thơ mở ra bằng tấm lòng tha thiết mong nhớ của tác giả: “Sao anh
không về chơi thôn vĩ?”. Câu hỏi tu từ ấy là lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái Huế hay là sự tự vấn, nỗi
niềm tiếc nuối của tác giả khi sắp phải rời xa cõi đời mà chưa được về lại chốn cũ? Có lẽ, chẳng có ai mời,
ai trách cả mà đây chính là khát khao,mong ước bấy lâu cất lên thành lời tự vấn của thi sĩ. Ở câu đầu tiên
này, Hàn Mặc Tử dùng hai chữ “về chơi” bởi nó mang sắc thái thân mật, gần gũi hơn là cách nói xã giao,
có khoảng cách như hai chữ “về thăm”. phải chăng nhà thơ đang muốn bộc lộ tình cảm của mình với cô gái
Huế, xem cô là một người thân thương hay chính cô gái ấy cũng xem nhà thơ như người bạn tâm giao, tri
âm tri kỷ? Bằng giọng thơ nhẹ nhàng cùng sáu thanh bằng và 1 thanh trắc cao vút ở chữ “Vĩ”, câu thơ đủ
gieo vào lòng người đọc 1 sự chơi vơi, 1 cảm xúc khó tả. Là "không về" chứ không phải "chưa về", là "về
chơi" chứ không phải "về thăm". trong 3 câu thơ tiếp theo, tác giả đã dùng chính tâm thức của mình, của sự
gắn bó với xứ Huế moọng mơ để vẽ nên khung cảnh vườn thôn Vĩ trong trẻo, ngời ngời sắc xanh. Cảnh sắc
tươi đẹp ấy được chiêm ngưỡng từ xa đến gần: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhắc đến thôn vĩ,
hình ảnh đầu tiên trong tâm trí nhà thơ là những “hàng cau” - 1 loại cây cao, mọc thẳng đứng, nó là 1
trong những loài cây nhận tia nắng đầu tiên trong ngày nên cũng vì thế mà hình ảnh cây cau thanh nhã, tinh
khôi hơn hẳn. Điệp từ “nắng” được nhắc lại hai lần kết hợp với cụm từ “nắng mới lên” gợi cho ta một
cảm nhận đẹp về ánh nắng của buổi ban mai thật rực rỡ, căng tràn sức sống. Trong khoảnh khắc ấy, hình
ảnh hàng cau còn đọng sương đêm sáng lấp lánh như làm bừng lên không gian khoáng đạt, rộng lớn nơi
thôn quê thơ mộng. Để rồi tác giả phải thốt lên lời khen ngợi màu xanh thẳm của khu vườn đẹp như một
viên ngọc lớn: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Ở đây, nhà thơ dùng đại từ phiếm chỉ “ai” là cách
nói bâng quơ mơ hồ, không xác định.Cách dùng từ “mướt quá” và hình ảnh so sánh độc đáo “xanh như
ngọc” càng lamf nổi bật sắc xanh tươi mát của cảnh vật. Thiếu từ mướt

Đặc biệt, sự sinh động của btranh ngoại cảnh càng tăng thêm gấp bội khi có sự xuất hiện của hình
bóng con người: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền.” Với hmt , nhớ về thôn Vĩ còn là nhớ về những nét
dáng thân thương của con người nơi đây. Không tả mà chỉ gợi, bằng bút pháp cách điệu hóa, thi sĩ phác lên
bức họa đủ cho ta cảm nhận về con người Huế chân thật, dịu dàng, về con gái Huế đằm thắm, nữ tính, thấp
thoáng sau một mảnh trúc che ngang là gương mặt chữ điền phúc hậu, đậm chất Huế. Ta từng gặp hình
dáng ấy trong câu thơ của Bích Khê:

“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn


Biếc che cần trúc không buồn mà say.”
Câu thơ có sự giao hòa giữa hai hình ảnh thiên nhiên và con người, tạo nên xúc động mạnh trong lòng nhà
thơ.
Qua khổ thơ đầu, nhà thơ đã ghi lại linh hồn của tạo vật với những gì đặc sắc, lắng đọng nhất trong
ký ức hoài niệm, trong nỗi niềm nhớ thương. Bằng việc miêu tả vẻ đẹp thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử đã thể hiện tình
cảm gắn bó sâu nặng, đằm thắm đối với cảnh vật và con người xứ Huế. Tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một
niềm khát khao trở về thôn Vĩ yêu thương.

3. KHỔ 2
Nếu như ở khổ thơ đầu, thôn Vĩ Dạ hiện lên với cảnh vật tươi sáng trong trẻo lạ thường thì đến 4 câu
thơ tiếp theo, một nỗi buồn man mác, chia li đã bao phủ lên tất cả. Tâm trạng nhà thơ như chuyển hẳn sang
một cung bậc khác:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Phải chăng Huế ở khổ thơ đầu là Huế trong ký ức tươi đẹp ngày xưa, còn Huế ở khổ thơ thứ 2 lại là Huế
trong tâm trạng của nhà thơ khi trở về thực tại ? Thôn Vĩ Dạ hiện lên vẫn thơ mộng với gió trăng, mây
nước, thuyền bến và hoa bắp lay, nhưng tất cả đều nhuốm một nỗi buồn man mác “Người buồn cảnh có vui
đâu bao giờ?”. “Gió” và”mây” vốn là 2 hinhf ảnh luôn song hành, khắng khít với nhau, gió thổi mây bay
nhưng cái tưởng như không thể chia cách ấy nay lại mỗi thứ một phương, gió một đường, mây một nẻo.
Nhịp thơ 4/3 chậm rãi ngắt câu thơ làm hai nửa, âm điệu dàn trải như đưa người đọc chìm đắm vào nỗi
buồn hiu hắt cùng thi nhân hay chính xác hơn là nỗi buồn của HMT và người con gái ấy. Câu thơ khiến ta
liên tưởng đến những vần thơ của Thế Lữ:
“Anh đi đường anh tôi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi.”
Nhưng nếu như Thế Lữ nói trực tiếp lời nhân vật trữ tình thì Hàn Mặc Tử lại mượn hình ảnh để nói lên
tiếng lòng. Điệp ngữ “gió”, mây” được lặp lại không phải để nhấn mạnh cường độ của gió hay sắc thái của
mây mà là để tạo ra một khoảng không gian khép kín chia rẽ đôi bờ. Nỗi đau còn thấm đượm vào cả không
gian khiến cho dòng sông vô tri voo giác cũng nhuốm màu tâm trạng. Phép nhân hóa “Dòng nước buồn
thiu” vừa gợi sự phẳng lặng như không chảy trôi, vừa làm dòng sông như chở nặng nỗi sầu thương chất
ngất của nhà thơ. Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh, 1 nỗi sầu bao phủ từ bầu trời đến mặt đất,
từ gió mây đến dòng nước và cả “hoa bắp lay” bên sông nữa. “Lay” là một động từ gợi tả những cử động
hết sức nhẹ, phải có sự quan sát tinh tế lắm mới có thể cảm nhận được. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong
câu thơ này còn 1 lần nữa nhấn mạnh nỗi buồn tê tái, hiu hắt của cảnh vật khi được nhìn qua lăng kính đa
sầu đa cảm của thi sĩ.
Rồi dường như không chịu đựng được cái đau đớn của thực cảnh, Hàn Mặc Tử lại chìm vào cõi mộng với
ánh trăng vàng - người bạn tri âm tri kỉ không chỉ đối với tác giả mà còn rất nhiều nhà thơ khác.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó


Có chở trăng về kịp tối nay”
Hình ảnh thơ hiện lên thật huyền ảo với 1 không gian tràn ngập ánh trăng. 1 dòng sông trăng, 1 bến đò
trăng, một con thuyền đầy trăng. Cụm tfw “thuyền ai” gợi cho ta nhớ đến “vườn ai” ở khôr thơ đầu, như
thể là sự mơ hồ, ngỡ ngàng, vừa quen vừa lạ. Đặc biệt, trong thơ và ca dao xưa, các hình ảnh như
“thuyền”, “bến”, “trăng” thường đc dùng để chỉ tình cảm hạnh phúc lứa đôi. Thuyền chở trăng đến bến
sông chính là chở tình yêu đến bến bờ hạnh phúc. Nhưng ở đây, Hàn Mạc Tử lại nói “Có chở trăng về kịp
tối nay?”
Câu hỏi tu từ như thể chính tác giả đang hỏi bản thân mình, bộc lộ 1 nỗi niềm lo lắng khi trong hoàn cảnh
này tác giả đang mang trong mình căn bệnh quái ác. Và liệu nhà thơ có đủ thời gian để chờ vầng trăng ấy
về kịp. Câu hỏi khiến cho cả khổ thơ chùng xuống hẳn! Thi sĩ đang buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho
ước mơ vẫn còn dở dang mà thời gian lại chẳng ngừng trôi. Có lẽ, đến đây người đọc càng thấu hiểu hơn
cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu cũng như càng đồng cảm hơn với khát vọng sống mãnh liệt của
nhà thơ khi cái chết đang kề cận.

4. KHỔ 3
Bước sang khổ thơ thứ 3, tác giả khép lại dòng cảm xúc cô đơn, trống trải ấy bằng một nỗi niềm
canh cánh trong cái mênh mông, bao la của đất trời. Đó là sự hi vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc
khoải khôn nguôi:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ “Khách đường xa” được lặp lại hai lần vừa thể hiện tâm trạng nhớ mong tha thiết
vừa diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. Từ “mơ” nằm đầu câu đã thể hiện rõ
tâm trạng mong chờ ấy của thi nhân. Là “Mơ” chứ không phải là “mong”, vì không mong được nên mới
mơ. Mơ để cảm thấy đỡ mất mát, buồn tủi vì sự mong chờ không còn xảy ra trong thực tại. Ở câu thơ thứ 2,
hình ảnh của cô gái thôn Vỹ hiện ra mờ ảo tạo cho nhà thơ cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Màu trắng
tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng tinh khôi của cô gái Huế – nhất là Hoàng Cúc từng là nữ sinh của
trường Đồng Khánh. Cùng với sự đa nghĩa của câu thơ, màu trắng còn là sắc màu chỉ sự thanh khiết, đơn
thuần của mối tình đơn phương. Nhưng trong cơn mơ huyền ảo, hình bóng thân quen của cô gái ấy như lẫn
vào sương khói. Là sương khói của đất trời xứ Huế hay sương khói của thời gian và không gian xa cách phủ
lên mối tình xa vời đó? Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi thì cũng kết thúc bằng câu hỏi như thế. Chỉ là ở
câu cuối cùng này, thay vì mang âm hưởng nhớ mong, đợi chờ như câu đầu tiên thì nó lại vang lên như 1
tiếng kêu đau đớn, cuốn theo nỗi buồn vô vọng, hoài nghi và những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử. Câu thơ sử
dụng đến 2 lần đại từ phiếm chỉ “ai” gợi nhiều liên tưởng tới mối giao cảm của tác giả với người con gái xứ
huế. Đặc biệt, hai chữ “đậm đà” khép lại bài thơ như muốn khẳng đinh thi nhân vẫn khao khát, vẫn mong ai
đó biết và thấu hiểu cho tình yêu, cho sự đậm đà của tình người dẫu biế đó có là vô vọng đi chăng nữa.

5. NGHỆ THUẬT
Qua ............., HMT đã bộc lộ tài năng và sự tinh tế của ngòi bút Thơ Mới trong những cách sắp xếp
ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật độc đáo: điệp ngữ, đct, hình ảnh ẩn dụ kết hợp với câu hỏi tu từ, bút
pháp tả cảnh ngụ tình, lấy động tả tĩnh… Đặc biệt là nghệ thuật miêu tả, tượng tượng với những hình ảnh
phong phú, có sự hòa quyện giữa thực và ảo đã phác họa thành công trước mắt ta một khung cảnh nên thơ,
đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: tiếng lòng đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán
trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Giọng thơ u buồn, trầm lắng cùng với ngôn ngữ thơ mộc
mạc, giản dị vừa đượm chất liệu của phong vị Thơ Mới vừa mang nét hiện đại của những từ ngữ, cách so
sánh mới lạ. Tất cả đã hòa quyện lại dưới ngòi bút HMT góp phần làm nên sự thành công của đoạn thơ và
chắp cánh, nâng đỡ cho hồn thơ ấy thăng hoa cùng tác phẩm.

III. KẾT BÀI:


Như vậy, trong đoạn thơ này, tác giả đã sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật tinh tế để
phác họa tâm trạng cô đơn, khăcs khoải, nỗi sầu vô tận của nhân vật trữ tình trong 1 mối tình xa xăm vô
vọng. Btranh thiên nhiên thôn Vĩ hiện lên qua lăng kính đa sầu đa cảm của tác giả vừa vô hình vừa hữu
hình, nửa thực nửa ảo, nỗi buồn sâu lắng của cảnh vật khiến cho lòng người càng thêm cô quạnh. Từ đó,
đoạn thơ nói riêng và cả bài thơ nói chung đã thể hiện tấm lòng tha thiết của nhà thơ với thiên nhiên, cuộc
sống và con người. Mặc dù ngôn ngữ mang nét tương giao của phong vị Thơ Mới nhưng vẫn dượm vẻ độc
đáo riêng của cái tôi cá nhân hiện đại mà mới mẻ, giàu cảm xúc tạo vật trong hồn thơ HMT. Quả như nhà
thơ Chế Lan Viên từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi
xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.

You might also like