Professional Documents
Culture Documents
TB(K2): Ở hai câu thơ đầu, tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên êm ả, thấm đẫm nỗi buồn rất đặc
trưng của Huế: gió hiu hắt, dòng nước lững lờ, mây bồng bềnh, hoa bắp khe khẽ lay động.
Thi nhân đã cảm nhận bức tranh cảnh vật có gió, có mây, có hoa, có nước, nhưng lại không gợi nên một khung
cảnh thơ mộng, lãng mạn mà gợi cảm giác buồn bã, hiu hắt. Bởi lẽ dường như nhà thơ đã cảm nhận được sự
chia lìa của cảnh vật: “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Trong câu thơ đầu tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp:
gió mở đầu vế thứ nhất kết thúc ở vế thứ nhất, mây ở đầu vế thứ hai và kết thúc ở vế thứ hai, tạo cảm giác tách
rời hai ngả giữa hai hình ảnh gió và mây. Đây là điều trái với tự nhiên bởi gió và mây là những vật đi liền với
nhau: gió thổi mây bay. Vậy mà trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, gió và mây lại chia lìa. Phải chăng sự chia lìa
của cảnh vật chính là sự mặc cảm buồn bã trong tâm hồn nhà thơ? Ở câu thơ thứ hai, sông Hương vốn là một
dòng sông thơ mộng của xứ Huế, dòng sông ấy bao đời nay vẫn chạy chầm chậm lặng tờ và trong cảm nhận của
Hàn Mặc Tử thì đó là dòng nước buồn thiu. Ở đây tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa biến dòng sông đó
thành một sinh thể mang tâm trạng buồn bã, uể oải. Dòng sông Hương- cái dòng chảy chậm rãi, buồn bã - đã
từng được nhà thơ Thu Bồn miêu tả như sau:
Con sông dùng dằng, con sông không chảy.
Sông chảy vào lòng nên Huế rất thơ.
Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường thì điệu nhảy lững lờ chậm chậm ấy chính là điệu “slow tình cảm” mà sông
Hương dành cho Xứ Huế.
Dòng sông thì buồn bã, cảnh bên sông lại càng hiu hắt qua hình ảnh “hoa bắp lay”. Hoa bắp gợi sắc màu nhàn
nhạt, đơn điệu. Bông hoa đó là sự vận động nhẹ nhàng, khe khẽ qua từ “lay” - gợi cảm nhận về một thiên nhiên
buồn bã, hiu hắt, tựa như một “vũ trụ lạc điệu”, vô sắc vô hương. Từ “lay” còn gợi cho ta nhớ đến câu thơ:
Có ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vãn gió, người không thấy về
Như vậy ở hai câu thơ đầu tác giả tả cảnh nhưng cảnh đó nhuốm đầy tâm trạng. Đó là tâm trạng buồn bã, cô
đơn, mặc cảm, chia lìa.
Đến với hai câu thơ sau, Nhà thơ không tìm thấy niềm vui ở gió, mây, sông, nước thì nhà thơ lại tìm đến
với trăng. Trăng là một hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử ông viết rất nhiều về Trăng:
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho”
Hay:
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.”
Và trong câu thơ này - một câu thơ đầy ắp ánh trăng - ánh trăng làm cho cảnh vật trở nên huyền ảo, như thực
như hư. Con sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền chở trăng, bến cũng là bến sông trăng và trong
cõi hư ảo nhà thơ đặt ra một câu hỏi đầy khắc khoải: “Có chở trăng về kịp tối nay”. Câu hỏi tu từ thể hiện sự băn
khoăn, hoài nghi, đầy lo lắng, khắc khoải của nhà thơ. Câu thơ bắt nhịp 4/3, trọng âm rơi vào từ “kịp” mang
thanh trắc, gợi cảm giác trĩu nặng trong nỗi lòng của thi sĩ. “Tối nay” là thời gian chót, thời gian đã được hạn
định, nhà thơ lo sợ rằng con thuyền chở trăng - chở hạnh phúc - chở tình yêu sẽ không kịp cập bến tối nay, sẽ
không kịp đến với mình, bởi lẽ người thanh niên trẻ tuổi bất hạnh ấy ý thức vô cùng rõ quỹ thời gian ít ỏi còn lại
của bản thân. Không chỉ thế, câu hỏi tu từ này còn thể hiện niềm hy vọng, niềm khao khát chờ đợi con thuyền
chở trăng - chở hạnh phúc- chở tình yêu sẽ kịp về tối nay. Như vậy sự lo âu, khắc khoải, hoài nghi hay nỗi khát
vọng, khát khao, chờ đợi đều bắt nguồn từ tình yêu đời, yêu cuộc sống sâu sắc, thiết tha của Hàn Mặc Tử.
Như vậy, ở khổ thơ thứ hai, tác giả đã phác họa nên bức tranh non nước hữu tình, vừa thơ mộng vừa man mác,
đượm buồn của xứ Huế. Bức tranh cảnh vật xứ Huế hiện lên trước mắt người đọc qua những hình ảnh trong
sáng, gợi cảm, vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa biểu tượng; ngôn ngữ tinh tế, gợi cảm, giàu liên tưởng;
kết hợp cùng với các thủ pháp nghệ thuật như câu hỏi tu từ, điệp từ, ẩn dụ mang đậm dấu ấn của thơ tượng trưng
siêu thực. Qua hình ảnh gió mây, sông nước của vùng đất kinh đô, người đọc cảm nhận được những nỗi niềm
tâm sự của một hồn thơ vừa hoài nghi, vừa thiết tha yêu đời, yêu người.
Đặt bài thơ này vào HCST của nhà thơ, khi nhà thơ đã mang trong mình trọng bệnh, chúng ta lại càng thêm trân
quý tình yêu khắc khoải, tha thiết của một người thanh niên trẻ tuổi trong hoàn cảnh bất hạnh, éo le của cuộc
đời.