You are on page 1of 7

~Hàn Mặc Tử~

– Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Cuộc đời ông ngắn ngủi, đầy
bi thương nhưng lại là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ, để lại chặng đường thơ sáng ngời và nhiều bài
thơ bất hủ cho hậu thế.
- Nhà thơ Huy Cận từng nhận định:
“Theo tôi thơ đời Hàn Mặc Tử sẽ còn lại nhiều. Ông là người rất có tài, đóng góp xứng đáng vào Thơ
Mới”.
– Một số tác phẩm tiêu biểu: Gái quê (1936), Thơ điên (1938), Duyên kỳ ngộ (1939), Chơi giữa mùa trăng,…
– Phong cách thơ: Hồn thơ Hàn Mặc Tử là một hồn thơ phức tạp và đầy bí ẩn. Thơ ông chịu ảnh hưởng lớn từ
thơ ca Pháp: Bút pháp tượng trưng và yếu tố siêu thực,là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ
mới (1932 – 1945). Ông cũng là nhà thơ có số phận bất hạnh hiếm có. Hàn Mặc Tử là một tài năng độc đáo,
một tiếng thơ lạ, thể hiện rõ tấn bi kịch của một con người bất hạnh. Mắc phải căn bệnh phong quái ác, phải
sống trong sự cách li khi đang tràn trề nhựa sống đã khiến thơ ông nhiều khi như điên loạn với một thế giới
hình ảnh thơ đầy ma quái. Thơ Hàn Mặc Tử vừa gợi cho người ta nỗi sợ hãi, vừa đem đến niềm say mê.
Chế Lan Viên từng quả quyết rằng : “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm
thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kì này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử”.
- Bên cạnh thơ điên, Hàn Mặc Tử còn có những vần thơ trữ tình rất dịu dàng và duyên dáng. Trong số đó có
Đây thôn Vĩ Dạ.

   2. Bài thơ bắt nguồn cảm hứng từ bức bưu ảnh mà Hoàng Cúc- người tình trong mộng của Hàn gửi tặng kèm lời thăm
hỏi khi Hàn đang lúc bệnh đau và không còn cơ hội để trở lại với cuộc sống đời thường. Bài thơ mang vẻ đẹp huyền ảo
và trong sáng. Thực và hư hoà quyện tạo nên vẻ riêng cho cảm xúc. Bài thơ thể hiện tình yêu tha thiết của tác giả đối với
xứ Huế, nơi nhà thơ đã từng có nhiều kỉ niệm ngọt ngào, đồng thời thể hiện khát khao được sống, được yêu. Đây cũng là
những cố gắng cuối cùng của thi sĩ để níu lại trong mình những giây phút ngọt ngào của cuộc sống trần thế. Cảnh thì
đẹp mà tình thì buồn là sự thể hiện đầy đủ nhất tình yêu cuộc sống của thi sĩ bất hạnh mà đầy tài năng này.

   – Xuất xứ và nhan đề: Bài thơ ban đầu có tên là “Ở đây thôn Vĩ Dạ”, in trong tập “Thơ điên” (sau đổi thành
“Đau thương”) bài thơ này nằm ở phần “Hương thơm” của tập thơ.
   – Vị trí: “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ là một thi phẩm xuất sắc của Thơ mới và đồng thời tiêu biểu cho phong
cách sáng tác của Hàn Mặc Tử.
1. Bức tranh thôn Vĩ buổi bình minh
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
– Câu hỏi tu từ mở đầu bài thơ vừa là lời thăm hỏi, lời mời gọi tha thiết vừa là lời trách móc nhẹ nhàng của cô
gái thôn Vĩ. Lời thăm hỏi này không phải là lời của cô gái thôn Vĩ mà là lời của Hàn trong lúc nhớ nhung tự
tưởng tượng ra.
– Bức tranh thôn Vĩ buổi sớm mai đẹp tinh khôi, trong trẻo và tràn đầy sức sống. Là bức tranh phong cảnh
nhưng cũng chính là bức tranh tâm cảnh bắt nguồn từ niềm vui khi Hàn nhận được tấm bưu ảnh – tín hiệu tình
cảm của người tình mà Hàn thầm thương, trộm nhớ. Bức tranh thiên nhiên buổi bình minh có 3 đối tượng
miêu tả: Nắng, hàng cau và vườn.
+ Nắng: Là cái nắng “mới” tinh khôi, trong trẻo của buổi sớm mai. Điệp từ “nắng” gợi tả không khí ấm áp, dễ
chịu của buổi sớm.
+ “Hàng cau”: Là loài cây cao nhất trong vườn, đón ánh nắng tinh khôi đầu tiên của ngày mới.
+ “Vườn” : Tính từ “mướt” giàu giá trị biểu đạt, gợi tả khu vườn không chỉ tràn
đầy sức sống mà còn óng ả, mượt mà, long lanh. Phép so sánh “mướt như ngọc” chứa đựng tình yêu, sự trân
trọng, nâng niu của nhà thơ dành cho khu vườn thôn Vĩ. Phép so sánh để lại nhiều ấn tượng trong lòng người
đọc.
– Điểm xuyết vào bức tranh thiên nhiên ấy là bóng dáng con người xuất hiện với vẻ đẹp phúc hậu, kín đáo, dịu
dàng: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hình ảnh con người và thiên nhiên hài hòa. Về hình ảnh “mặt chữ
điền”, đây là hình ảnh đặc sắc nhưng cũng gây nhiều tranh cãi từ phía người đọc:
Theo G.S Bùi Minh Đức:
Mặt chữ điền là khuôn mặt của người phụ nữ miền trung được xây dựng bằng bút pháp cách điệu
hóa;
Theo nhà nghiên cữu Nguyễn Bích Thuận thì
khuôn mặt chữ điền không sử dụng bút pháp cách điệu hóa mà là khuôn mặt tả thực do chính Hàn
tự họa khuôn mặt mình – Hàn trở về thôn Vĩ nhưng vì mặc cảm bệnh tật chỉ dám đứng sau khóm khúc lặng
lẽ, say sưa ngắm vẻ đẹp thần tiên của thôn Vĩ.

– Đánh giá chung: Bức tranh thôn Vĩ trong khổ thơ đầu đẹp, tươi sáng, trong trẻo, gợi cảm và đầy sức sống.
Bức tranh thiên nhiên tươi vừa là bức tranh phong cảnh vừa là bức tranh tâm cảnh – tâm trạng của Hàn. Đó là
niềm vui khi nhận được bức thư thăm hỏi – tín hiệu tình cảm của người trong mộng. Niềm hi vọng về hạnh
phúc lứa đôi lóe lên trong tâm hồn Hàn cũng đẹp và tươi sáng như bức tranh thiên thôn Vĩ vậy. Nhưng ngoài
niềm vui, còn ẩn chứa một nổi buồn thân phận (mặc cảm) bâng khuâng, kín đáo.

2. Bức tranh sông nước đêm trăng


– [Luận điểm 1] Không còn trong trẻo, tươi sáng và tràn đầy sức sống, khổ thơ
này, khung cảnh mang nét đượm buồn chứa đựng dự cảm chia lìa. Những mặc cảm, chia lìa được hiện ra với
hình ảnh “gió” và “mây”, “dòng nước”, “hoa bắp lay”:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
– Hai câu thơ đầu: “Gió theo lối gió, mây đường mây/Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” chẳng còn những nét
tương đồng như khổ thơ đầu mà gợi không gian ly tán, chia lìa. Gợi tả qua hình ảnh:
+ “gió” và “mây” chia cách đôi ngã: “gió” theo đường của “gió”, “mây” theo
đường của “mây”. Trong tâm tưởng thi nhân bị ảm ảnh bởi sự chia cách lứa đôi mà phản chiếu nỗi ám ảnh ấy
vào thiên nhiên.
+ “dòng nước” vốn vô tri vô giác cũng mang nỗi niềm tâm trạng “buồn thiu” như một sinh thể sống động.
Nỗi buồn ấy còn lây lan sang cả “hoa bắp”. Hình ảnh “hoa bắp lay” nhẹ nhàng trong gió gợi lên sự hiu hắt,
thưa vắng. Nỗi buồn sông nước đã xâm chiếm vào hồn hoa bắp bên sông. Nhịp điệu câu thơ chậm rãi như
“điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tưởng) của sông Hương.
Và đấy cũng chính là hồn Huế, nhịp điệu quen thuộc của Huế tự ngàn đời. (GS. Bùi Minh Đức). Đó là
nỗi buồn hiu hắt, mang dự cảm về hạnh phúc chia xa.
– [Luận điểm 2] Tình người, tình đời, tình yêu cuộc sống tha thiết, mãnh liệt của nhà thơ qua 2 câu thơ:
+ Hai câu thơ trên là một tuyệt, là kết tinh rực rỡ bút pháp tài hoa, lãng mạn của Hàn Mặc Tử.
+ Về hình ảnh “sông trăng”. Với trí tưởng tượng phi thường, Hàn Mặc Tử đã hư ảo hóa thế giới thực, tạo ra
một thế giới giới mới, thế huyền ảo, huyển hoặc đưa người
đọc theo những chuyến viễn du đến một không gian huyền bí, ảo mộng mà ở đó chỉ có nước và trăng, giao
thoa lấp lánh.
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” trong“Thuyền ai” không mang sắc thái nghĩa mơ hồ mà bộc lộ tâm trạng bâng khuâng,
ngỡ ngàng. Đồng thời, chứa đựng khát khao giao cảm của thi nhân. Trong thơ ca xưa, hình ảnh thuyền trăng
cũng đôi lần xuất hiện như
“Gió trăng chứa một thuyền đầy” (Nguyễn Công Trứ).
+ Về hình ảnh “trăng”, trăng xưa nay trong thơ ca được biết đến như là một người bạn tri kỉ, người bạn tâm
tình của thi nhân. Đồng thời “trăng” còn là hình ảnh ẩn dụ của tình yêu, hạnh phúc lứa đôi.
+ Câu hỏi tu từ: Từ những phân tích trên có thể hiêu câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay ?” là con
thuyền kia có vượt được thời gian, chở niềm hạnh phúc về “kịp” những ngày khi ta còn trên cõi dương thế này
hay không? Câu thơ là câu hỏi tu từ ẩn chứa bao nỗi niềm khắc khoải, mong chờ hạnh phúc, khao khát giao
cảm với đời.
Chữ “kịp”: Nhất là chữ “kịp”, chữ “kịp” không chỉ tạo điểm nhấn cho câu thơ mà chữ “kịp” còn hé mở cho ta
thấy một cuộc đời đầy mặc cảm, một thế sống đầy vội vàng, chạy đua cho kịp với thời gian ít ỏi còn lại. Đó
cũng chính là tình người, tình đời, tình yêu cuộc sống tha thiết, mãnh liệt của nhà thơ.
– Đánh giá chung: Bức tranh thiên nhiên sông nước đêm trăng vẫn đẹp nhưng buồn. Đồng thời, bức tranh
phong cảnh này cũng là bức tranh tâm cảnh – chứa đựng nỗi buồn về dự cảm hạnh phúc chia xa nhưng vẫn
thấy ở đó niềm khao khát giao cảm với đời, khao khát yêu, khao khát hạnh phúc của thi nhân vào những năm
tháng cuối đời.
3. Bức tranh sương khói mờ ảo cỏi mộng.
* Bức tranh sương khói mờ ảo cỏi mộng là tâm trạng tuyệt vọng của thi nhân. Hàn Mặc Tử rơi vào thế giới ảo
mộng:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?
– Hình ảnh “khách đường xa” có thể là người đang sống ở thôn Vĩ, cũng có thể chính Hàn đang tưởng tượng
mình là khách về chơi thôn Vĩ. Nhưng dù hiểu thế nào thì điệp ngữ “khách đường xa” cũng khơi gợi nên
khoảng cách xa xôi, mờ mịt giữa người và người.
– Hình ảnh “áo em trắng quá” là hình ảnh đậm nét nhất, rực rỡ nhất, nhưng cũng gây tuyệt vọng nhất. Vẻ đẹp
tinh khiết mà Hàn Mặc Tử hằng tôn thờ được thi sĩ dùng một sắc trắng kì lạ để cực tả “áo em trắng quá”, mà
đôi khi, thấy cả ngôn ngữ cũng bất lực không theo kịp trực giác của nhà thơ. Hàn Mặc Tử đã dồn cả màu, cả
ánh sáng để tả: “Chị ấy năm nay còn gánh thóc/Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
– Cụm từ “nhìn không ra” là một cách cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ, bất ngờ (giống như cách viết
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”).
– Không gian thực hóa hư ảo bởi trí tưởng tượng của thi nhân. Nhén lên trong lòng thi nhân một thứ tình cảm
rất khó xác định, khó nắm bắt: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/Ai biết tình ai có đậm đà ?”. Cảnh vật và con
người chìm sâu vào không gian hư ảo, ma mị như đang ở một thế giới rất khác… cõi chết. Ranh giới giữa
sống và chết, giữa thực và hư quá đỗi mong manh. Thi nhân cảm nhận rõ nét khoảng cách xa xôi, cái hư ảo
ngày càng rõ của tình yêu, hạnh phúc.

* Bức tranh tâm cảnh:


– Ẩn chứa sâu trong khung cảnh “sương khói” mờ ảo ấy là sự bất lực, nỗi tuyệt vọng của thi nhân.
– Cảnh vật từ khổ một đến khổ ba biến đổi rõ rệt: từ tươi sáng, tràn đầy sức sống đến hiu hắt, đượm buồn với
cảnh sông nước rồi hư ảo mờ nhòe ở khổ thơ cuối cùng. Tâm trạng thi nhân cũng thay đổi theo cảnh: từ hi
vọng đến dự cảm chia lìa, hoài nghi đên tuyệt vọng.
– Đại từ phiếm chỉ “ai” xuất hiện trong câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà ?” mang nét nghĩa mơ hồ. Câu
hỏi tu từ không thỉ thể hiện sự hồ nghi về tình yêu mà còn là sự hồ nghi về tình đời, tình người. Trong hoàn
cảnh của bản thân hiện tại, chỉ có tình người, tình đời mới níu nhà thơ lại với trần gian. Thế mà cái tình kia sao
quá đỗi mong manh.
* Tâm trạng nhà thơ quyết định cảnh chứ không phải cảnh quyết định tâm trạng. Nhìn chung vào bức tranh
tổng quan và sự biến đổi của nó chúng ta sẽ cảm nhận rõ điều này.
4. Thái độ của nhà thơ qua 3 câu hỏi tu từ
Trong khổ thơ nào cũng xuất hiện câu hỏi tu từ, từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”, “Có chở trăng về kịp
tối nay?” đến “Ai biết tình ai có đậm đà ?”. Thế mới thấy, bao trùm cả bài thơ là những nỗi niềm khắc khoải,
hồ nghi nhưng lại là niềm khát khao tình yêu,, hạnh phúc của thi nhân.

*Phân tích từng khổ:


1. Khổ 1: Cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong nắng mai.
“ Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
“ Sao anh không về chơi thôn Vĩ”.
- Câu hỏi tu từ rất đặc biệt, chủ yếu là thanh bằng chiếm 6/7 từ à chất giọng ngọt ngào của xứ Huế à chìa khóa
để mở ra tác phẩm à nổi nhớ da diết của Hàn Mặc Tử về một xứ Huế mộng mơ.
- Băn khoăn về chủ thể câu hỏi:
+ Câu hỏi của cô gái xứ Huế hỏi Hàn Mặc Tử à trách móc hờn dỗi nhẹ nhàng duyên dáng
à nhắc nhở, mời mọc người bạn lâu ngày không về.
+ Chính tác giả tự hỏi mình, chất vấn mình à Trách mình, nhắc mình.
• “ Không về” à mang niềm u uất, dự cảm đau lòng về sự xa cách, một phần vì hoàn cảnh không cho phép, một
phần vì bệnh tật vì định kiến xã hội nên Hàn Mặc Tử trở về trong tâm tưởng, trong hoài niệm nhà thơ.

*3 câu cuối: Tái hiện vẻ đẹp của thôn Vĩ.


- Cảnh: + Vẻ đẹp của nắng ( lặp lại 2 lần trong câu) ấn tượng với người đọc với nắng chan hòa khắp không
gian, không gian rực rỡ, nắng hàng cau ( đặc điểm của thôn Vĩ), nắng mới lên ( tía nắng ban mai đầu tiên trong
ngày,mang màu sắc riêng). Cây cau là loại cây cao nhất tiếp nhận nguồn ánh sáng tinh khôi của một ngày mới
bắt đầu. Tại sao ở đây Hàn Mặc Tử chỉ nói đến cau mà không có trầu. Phải chăng ở sâu trong lòng ông là một
tình yêu đơn phương thầm kín và niềm khao khát cháy bỏng với người mình yêu thương tiếc thay mối tình đó
chỉ là niềm ao ước. Cây cau à thang đo bậc nóng tự nhiên, nắng mới lên bổ nghĩa cho nắng hàng cau. ( Liên hệ:
“Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”) của Hàn Mặc Tử.
+ Vẻ đẹp màu xanh: xanh mướt ( màu xanh của sự mở màng, trù phú của đất Huế, ướt nước mưa dài của Huế
( liên hệ trời mưa: Grời mưa ở Huế sao buồn quá) xanh như ngọc ( như phát sáng, màu xanh ngọc tươi mát)
( Liên hệ: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”) tỏa ra ánh sáng thanh nhẹ, cảm giác dễ chịu; “ vườn ai” à đại
từ phiếm chỉ “ ai” à có hồn, có tình hơn. “ Quá” à phó từ chỉ mức độ à thể hiện sự ngạc nhiên.
- Con người: Dùng bút thì trung hữu họa dùng nét thanh, nét đẹp, lá trúc là nét thanh, khuôn mặt chữ điền là
nét đậm ( liên hệ: “ Mặt em vuông tựa chữ điền”) à gương mặt của người con gái. Khuôn mặt ấy ẩn hiện sau
lá trúc vừa hư vừa thực vừa nhẹ nhàng, e ấp, kín đáo rất đậm chất Huế. Thông thường theo quan điểm của
nhân gian ta thì khuôn mặt trái xoan được ví là khuôn mặt đẹp nhất nhưng ở đây Hàn Mặc Tử cố ý nhấn mạnh
khuôn mặt chữ điền.
Khuôn mặt ấy thường làm cho người ta nghĩ đến bản chất nam nhi nhưng đối với người dân miền
Trung thì khuôn mặt chữ điền phù hợp với cả nam và nữ. Mặt chữ điền là khuôn mặt có góc cạnh vuông, tròn,
đầy đặn, phúc hậu. Đây có thể là khuôn mặt của Hoàng Thị Kim Cúc hay cũng có thể là của Hàn Mặc Tử vì
Hàn Mặc Tử luôn khao khát trở về thôn Vĩ nhưng có lẽ khi trở về được rồi ông lại không xuất hiện trực tiếp
mà lại ẩn hiện sau lá trúc vì mặc cảm thân phận. Đây là một nỗi đau lớn của một nhà thơ luôn yêu đời tha thiết
với cuộc đời. Ánh mắt đắm say, tấm lòng với thôn Vĩ cuộc đời trong thời gian bệnh tật à dồn toàn bộ cảm xúc.
Tóm lại với bút pháp tả cảnh ngụ tình, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh thôn Vĩ lúc bình minh tuyệt
đẹp ở đó có cảnh và người giao hòa lẫn nhau. Đồng thời thể hiện rõ một nỗi buồn sâu kín về hạnh phúc cũng
như một nỗi đau về thân phận.
2. Khổ 2: Cảnh sông nước, mây trời xứ Huế trong đêm trăng huyền ảo.
“ Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở
trăng về kịp tối nay?”
* Hai câu đầu tả thực cảnh sông nước mây trời xứ Huế.
- Câu 1: Cảnh mây trời ( nhịp ngắt 4/3)
- Gió khép chặt mình, mây đóng khung hình.
- Lối điệp từ: gió. . Sự chia cách, Mây bẻ đôi.
Phi lí với logic tự nhiên, hợp lí với logic tâm trạng nhà thơ.
- Theo quan điểm thực tế thì gió thổi mây bay, gió và mây sẽ có mối quan hệ khép kín quấn quýt nhưng với
một tâm trạng đầy lo âu buồn chán thì Hàn Mặc Tử nhìn cảnh vật trong sự chia lìa tan tác lại trở nên phù hợp
đúng với tâm trạng của Hàn Mặc Tử lúc này. Gió đi đường gió, mây đi đường mây, gió đóng khung trong gió ,
mây bao phủ trong mây. Mọi thứ cứ trôi chảy theo dòng thời gian rồi cũng sẽ đến ngày chia li buông bỏ cuộc
đời. Cảnh vật nhuộm màu của tâm trạng con người.
- Câu 2: Cảnh sông nước.
+ Thực tế: Sông Hồng có đặc điểm khác với sông khác ( Liên hệ bài: Ai đặt tên cho dòng sông) à Trở thành
hình ảnh nhân hóa à trạng thái buồn của nỗi lòng cảm xúc của thi nhân.
+ “ Hoa bắp lay” à màu sắc mờ nhạt, lay động nhẹ nhàng, thiếu sức sống, buồn tẻ ( Liên hệ: “Ai về giồng dứa
qua truông; gió đưa bông sậy, dạ buồn nhớ ai”) .
+ Dòng nước lặng lẽ à nỗi buồn nhuộm vào thơ ca.
Khung ảnh vô sắc, vô hướng, chia lìa, ảm đạm.
* Hai câu cuối: Cảnh sông nước trong đêm trăng huyền ảo.
- Xuất hiện trong nỗi chờ của thi nhân, tìm đến trăng để bám núi khi mọi vật đều rơi bỏ tri âm tri kỉ.
- Trăng xuất hiện diễm lệ. Dòng sông. Thuyền trăng.
- Hình ảnh “ Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” vừa là một hình ảnh ẩn dụ cho hạnh phúc lứa đôi. Nhưng đồng
thời hình ảnh thuyền bến vừa hư vừa thực trong tâm trạng của Hàn Mặc Tử. Thuyền ai là một con thuyền
không xác định rõ. Con thuyền ấy đã đậu ở bến sông trăng từ rất lâu rồi. Cảnh càng trở nên lung linh huyền ảo
hơn. Ánh trăng như bao phủ khắp toàn bộ cảnh sắc nơi đây. Hình ảnh sông trăng chúng ta đã được gặp nhiều
trong thi ca “ Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” ( Rằm tháng giêng – Hồ Chí Minh) . Nhưng đến
hôm nay chúng ta bắt gặp một hình ảnh rất độc đáo kì lạ mà chỉ có ở trong thơ ca của Hàn Mặc Tử mà thôi. “
Thuyền trăng” – một con thuyền chở đầy ánh trăng – một con thuyền chở đầy hạnh phúc. Ánh trăng đối với
Hàn Mặc Tử thật đẹp, tri âm tri kỉ. Có lẽ đây là ánh trăng trong hoài niệm. Ông khao khát hạnh phúc đến cháy
bỏng con thuyền chở đầy ánh trăng kia liệu có kịp cập bến, kịp về trong tối nay hay không. Một câu hỏi tu từ
thể hiện sự trăn trở lo âu, dự cảm mất mát lỡ làng, hạnh phúc sao quá mong manh. Tại sao chỉ là tối hôm nay
mà không phải những tối khác. Đối với một người bình thường không tối hôm nay tối hôm khác cũng được
nhưng đối với Hàn Mặc Tử thì khác. Căn bệnh quái ác kia sẽ cướp đi mạng sống của ông bất cứ giây phút nào
vì vậy thời gian đã trở thành nỗi ám ảnh không dứt trong con người và đối với Hàn Mặc Tử, chỉ tối nay là tối
duy nhất Hàn Mặc Tử có thể hạnh phúc hoặc là không. Với một hồn thơ mông lung hư ảo kì lạ nhưng Hàn
Mặc Tử đã bộc lộ rõ sự rạo rực, bâng khuâng, hi vọng, thất vọng, sự tiếc nuối, sự nhói đau về hạnh phúc về
cuộc đời.
3. Hình ảnh khách đường xa trong chốn sương khói mông lung.
“ Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?”
* Câu 1: Cõi người được cụ thể hóa trong hình bóng của giai nhân.
- “ Khách đường xa” à xa lạ à nghệ thuật điệp à trường liên tưởng à nghệ thuật hư ảo
à xã dần vượt qua khỏi tầm mắt, tầm thức, hình ảnh không thể nắm bắt, hình ảnh đến từ cõi mơ.
- “ Khách đường xa” càng nhấn mạnh rõ khỏang cách xa xôi về địa lí hay khoảng cách tình người nó đã trở
nên xa xôi; hiệp vần xa càng nhấn mạnh rõ nỗi nhớ da diết về cảnh và người thôn Vĩ và Hàn Mặc Tử đang gấp
gáp như chạy đua với thời gian để trở về thôn Vĩ thật mau. Để được gặp hình bóng người thương.
( Liên hệ: “Anh đi đấy, anh về đâu, cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm” - Mùa xuân nhỏ -
HMT).
* Câu 2: Không níu kéo được.
- “ Trắng quá” à cực tả sắc trắng à đặc điểm thơ Hàn Mặc Tử ( liên hệ: “dọc bờ sông trăng trắng nắng chang
chang”) à Không cảm nhận giác quan cảm giác thay bằng ảo giác, ảnh thay bằng ảo ảnh, hình bóng giai nhân
mất hình bóng để lại khỏang trống hẩm hiu. (LH: “Em tinh khiết tinh sạch quá”).
* Hai câu cuối: Tâm trạng của nhà thơ.
- Hình ảnh gjai nhân vẫn hiện về trong sương khói mờ nhạt. Từ “ ở đây” Hàn Mặc Tử đang mơ về thôn Vĩ –
xứ Huế mộng mơ.
- Cảm giác mơ màng, giao lưu bằng tâm tuởng, vây quanh tâm hồn của Hàn Mặc Tử. Càng thiết tha yêu đời thì
trái tim ông lại càng nhói đau. Ở đây có sự so sánh đối lập. Ở đây là ở đâu? Ở xứ Huế mộng mơ hay là ở trại
phong Quy Hòa. Xứ Huế là một nơi đẹp thơ mộng, cảnh ở bên ngoài tràn đầy sức sống hạnh phúc nó đối lập
hoàn toàn với nơi tác giả đang sống đầy u ám, bệnh tật, chết chóc, đau thương.
- Câu hỏi tu từ kết hợp với đại từ “ Ai” không xác định rõ mặt nhưng có thể ngầm hiểu rằng đó là : cô gái
Hoàng Hoa, “ ai” là Hàn Mặc Tử hoặc “ ai” là ngoài kia, “ Ai” là Hàn Mặc Tử. Sự sống quá mong manh, sự cô
đơn trống vắng, khao khát tình thương Hành trang tinh thần cho thơ văn.
(Mở rộng: Áng thơ Ở đây thôn Vỹ Dạ cùng bức thư của Hàn đã được Hoàng Thị Kim Cúc trân trọng giữ gìn
tại nhà riêng. Đó là tờ giấy pelure mỏng, một mặt chép bài thơ, mặt kia ghi mấy dòng thư. Rất may mắn được
chị Cúc lúc sinh tiền cho xem tận mắt, tôi chú ý mấy điểm: bài thơ gồm 3 khổ thì khổ cuối trong thủ bản nằm
cách biệt với hai khổ đầu, cuối bài thơ, tác giả ký Hàn Mạc Tử rồi đề 11-1939 (chứ không phải 8-1939). Còn
bức thư thì nguyên văn như sau Túc hạ,Có nhận được bức ảnh bến Vỹ Dạ lúc hừng đông (hay là một đêm trăng?) với
mấy hàng chữ túc hạ gởi thăm. Muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến người năm xưa, thế là phúc hậu lắm rồi. Mong ơn
trên xuống lộc cho túc hạ thật đầy. Và mong rằng một mùa xuân nào đây sẽ gặp lại túc hạ phỉ dạ. Thăm túc hạ bình an
vui vẻ. Hàn Mạc Tử Hoàng Thị Kim Cúc với bút danh Hoàng Hoa đã âm thầm sáng tác một số bài thơ, trong đó
có những bài “đề tặng hương hồn anh HMT” như bài dưới đây viết vào đầu xuân Tân Tỵ 1941 - nghĩa là sau
khi Hàn mất chưa đầy năm.
Bao năm hoa sống nơi thôn Vỹ Thầm giữ trong lòng một ý thơ Cũng biết cách xa ngoài vạn dặm Tình
anh lưu luyến cảnh quê mơ Một mình một cõi với trời mây Với cả đau thương với hận này Anh khéo lột hết
tài nghệ sĩ
Tiếng vang muôn thuở vẫn còn đây
Hồn anh lẩn khuất ở đâu xa
Hoa biết cùng ai thổ lộ ra
Tuy sống giữa cảnh đời náo nhiệt
Tình ai ai vẫn cứ đậm đà!).
III. Tổng kết. 1.Giá trị nội dung.
- Tái lược ba bức tranh thôn Vĩ có sự dịch chuyển đặc sắc à tình cảm yêu mến với thiên nhiên con người xứ
Huế, tình yêu với cuộc đời.
- Thể hiện rõ nỗi buồn, đau thương về số phận, tình yêu, hạnh phúc. - Thấy được nghị lực phi thường của Hàn
Mặc Tử đối với cuộc đời.
2. Đặc sắc nghệ thuật.
- Hình ảnh thơ độc đáo, gợi cảm.
- Ngôn ngữ trong sáng tinh tế đa nghĩa.
- Biện pháp nghệ thuật làm tăng lên tầng nghĩa cho ý thơ ( nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu từ).

You might also like