Professional Documents
Culture Documents
5
tình đương nhen nơi lòng thi sĩ. Đâu còn cảnh tiên như họa nơi xứ Huế, chỉ còn sương khói che
khuất bóng người. Như vậy, cảnh vật và con người đều trở nên mờ nhạt, xa xôi, hư ảo.
Câu hỏi "Ai biết tình ai có đậm đà?" vang lên đầy khắc khoải về tình cảm đơn phương tội
nghiệp. Kết hợp với đại từ phiếm chỉ "ai" đa nghĩa càng khiến cho ý thơ mênh mang không xác
định. Câu thơ có thể hiểu là “em có biết tình anh vẫn đậm đà”, khẳng định tình cảm tha thiết,
sâu đậm. Hoặc “anh nào có biết tình em có đậm đà hay không?”, như một lời hoài nghi, mong
mỏi, chan chứa niềm tha thiết của tác giả về tình đời, tình người, cuộc sống. Đến đây, ta chợt
nhớ đến bài thơ “Duyên kì ngộ” cũng nói lên nỗi lòng thi nhân:
“Một mai ở bên kia khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm”
(Hàn Mặc Tử)
Bài thơ khép lại trong nỗi hoài nghi, tuyệt vọng nhưng vẫn cuộn trào trong đó niềm khát
khao được mãnh liệt của thi nhân với cuộc đời với tình người.
“Đây thôn Vĩ Dạ” không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn cả về nghệ thuật. Nhiều hình
ảnh độc đáo, giàu sức liên tưởng, có sự hoà quyện giữa thực và ảo ngôn ngữ thơ giàu chất
hoạ, chất nhạc. Bên cạnh đó là hàng loạt các biện pháp nghệ thuật được vận dụng linh hoạt
như so sánh, câu hỏi tu từ, đại từ phiếm chỉ “ai”. Tất cả được dùng để ca ngợi vẻ đẹp thơ
mộng của xứ Huế và gửi gắm khát vọng kín đáo về tình đời, tình yêu bộc lộ cho một tâm hồn
nhạy cảm, yêu tha thiết cái đẹp.
Tóm lại, “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức hoạ đẹp bởi nó là sự hoà quyện giữa tình yêu con người
và cảnh sắc thiên nhiên, là tiếng lòng của con người tha thiết với cuộc sống. Đây là một bài thơ
vừa giàu chất mộng ảo vừa trong sáng hiếm thấy của Hàn Mặc Tử và xứng đáng là một trong
những bài thơ hay nhất của phong trào thơ mới. Thi phẩm kết thúc nhưng vẫn để lại dư âm
sâu lắng trong lòng bạn đọc về một khát vọng được yêu, được hạnh phúc đến cháy bỏng và
mối tình đơn phương chưa trọn vẹn. Những tình cảm ấy đều được hoạ nên từ sâu bên trong
nỗi lòng thi sĩ bởi Victor Hugo từng có câu: “Nghệ thuật chỉ làm ra những vần thơ khéo léo, còn
trái tim mới làm nên tác phẩm thi ca”.
8
Chất tình và chất thép cũng là một đặc trưng không thể không nhắc đến trong bài thơ
“Chiều tối”. Chất thép thể hiện ở phong thái ung dung, tự tại trong hoàn cảnh bị áp giải, ở
niềm lạc quan trong cảnh ngộ “tê tái gông cùm”, ở nghị lực phi thường của Hồ Chí Minh giữa
cảnh tù tội oan ức. Còn chất tình thể hiện ở niềm rung cảm của bác trước thiên nhiên và cuộc
sống, Người luôn hướng về sự sống, ánh sáng và niềm tin. Thiên nhiên có chút buồn, cuộc
sống có vất vả nhưng vẫn đẹp, vẫn ấm nồng niềm tin vì tình yêu cuộc sống, tình yêu con người
của Bác.
“Chiều tối” không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn cả về nghệ thuật. Đó là ngôn ngữ hàm
súc, hình ảnh giàu sức liên tưởng, có sự kết hợp hài hoà giữa cổ điển và hiện đại. Biện pháp
điệp ngữ, bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình cũng đã góp phần hoạ nên bức tranh chiều
tuyệt đẹp nhưng không mang sắc thái buồn như thơ xưa mà lại toát lên sức sống chủ động của
con người.
Tóm lại, ở “Chiều tối”, bên cạnh vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, yêu đời, sống hòa hợp
với thiên nhiên, ta còn thấy được vẻ đẹp tấm lòng của vị lãnh tụ vĩ đại khi luôn hướng về cuộc
sống của nhân dân lao động, trái tim ấm áp luôn có chất thép ngầm mạnh mẽ, vững vàng và
tuyệt đối kiên trung với lý tưởng cách mạng sáng ngời. Trở thành động lực to lớn cho người
chiến sĩ bước tiếp con đường giải phóng dân tộc nhiều vẻ vang, nhưng cũng lắm gian lao sau
này. Xin được mượn bốn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu thay cho lời kết:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
ĐỀ 4: CỔ ĐIỂN HIỆN ĐẠI CHIỀU TỐI
“Làm thơ ta vốn không ham
Nhưng mà trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”
Đó là lời giãi bày của Bác Hồ khi đang bị giam cầm nơi ngục tù tăm tối. Hồ Chí Minh là
một cái tên mà tất cả con dân Việt Nam đều ghi tạc trong tim với một lòng yêu quý, kính trọng
vô bờ bến. Tuy văn chương không phải sự nghiệp chính của cuộc đời Bác nhưng Hồ Chủ tịch đã
để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng lớn các tác phẩm văn thơ có giá trị. Trong đó,
không thể không kể đến bài thơ “Chiều tối”, sự kết hợp hết sức hài hoà giữa nét cổ điển và
tinh thần hiện đại.
Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình Nho học, quê làng Kiêm Liên, Nam Đàn, Nghệ
An. Là tác giả của “tuyên ngôn độc lập”, người khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Thơ Bác vừa đậm đà màu sắc cổ điển vừa hài hoà tinh thần thời đại. “Chiều tối” là bài thơ thứ
31/134 bài thơ trích từ tập “Ngục trung nhật kí”, được gợi cảm hứng trên đường chuyển lao
của Bác khi bị Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Bài thơ chỉ đơn giản là tả lại cảnh nơi thôn dã
vào một buổi chiều tối, thế nhưng mỗi hình ảnh thơ luôn có sự vận động trong sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại.
9
Trước hết, nét cổ điển của bài thơ được thể hiện qua thi đề “Giai thì, mĩ cảnh”, đề tài
thiên nhiên phổ biến trong thơ cổ. Các nhà thơ xưa thường chọn buổi chiều để nói về nỗi nhớ
và nỗi buồn vì nó gợi sự trống trải và nỗi khắc khoải trong lòng. Bác cũng vậy, dường như đây
là khoảng thời gian thật nhất để nhân vật trữ tình thể hiện rõ những nội tâm của mình. Văn tự
chữ Hán và thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật cũng khắc hoạ rõ nét tinh thần cổ điển. Đây
là thể thơ tiêu biểu và quen thuộc của thơ Đường Trung Quốc, đòi hỏi sự hàm xúc cô đọng, đó
là lý do vì sao bài thơ với chỉ vỏn vẹn hai mươi tám chữ cũng đã miêu tả được cảnh vật thiên
nhiên và vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh. Một vẻ đẹp thật cổ điển và nghệ thuật.
Bức tranh thiên nhiên vào buổi chiều trên một quãng đường rừng được chấm phá vài
nét đơn sơ theo bút pháp Đường thi thường thấy trong thơ xưa:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Màu sắc cổ điển trước hết được thể hiện qua hình ảnh cánh chim. Tuy mang phong vị
của thơ cổ nhưng màu sắc hiện đại trong hình ảnh thơ lại rất rõ nét. Khác với cánh chim bay về
chốn vô tận, vô cùng trong thơ của Lý Bạch hay Nguyễn Du, cánh chim trong thơ Hồ Chí Minh
là cánh chim đang tìm về với sự sống thường ngày, do vậy mà nó có hồn và nhuốm màu tâm
trạng hơn. Cánh chim trời sau ngày dài đập cánh, bay đi kiếm ăn cũng mỏi mệt nhưng vẫn cố
gắng vươn mình trở về nơi rừng sâu tìm chốn nghỉ ngơi. Cũng giống như đôi chân của người tù
ấy, vẫn miệt mài từng bước tìm con đường giải phóng cho quê hương, dẫu cho có đớn đau,
mỏi mệt vẫn chưa bao giờ thôi khao khát tự do. Cánh chim bay trong buổi hoàng hôn gợi lên
sự nhỏ bé giữa một không gian rộng lớn của cả cánh rừng. Ta có thể bắt gặp hình ảnh quen
thuộc này trong câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan:
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn”
(Cảnh chiều hôm)
Hình ảnh chòm mây cũng là hình ảnh đậm chất cổ điển. Một đám mây trôi giữa bầu trời
lặng lẽ như chính sự cô đơn, lẻ loi của Bác giữa không gian mênh mang. “Chòm mây” trôi nhẹ
nhàng như tâm hồn ung dung tự tại, bị giải tù mà như đang thưởng ngoạn cảnh trời chiều và
thả tâm hồn thi sĩ chứ không còn là cảnh tù đày mệt mỏi nữa. Bút pháp tả cảnh ngụ tình trong
thơ cổ cũng được Bác vận dụng đầy sáng tạo, lấy trạng thái của cảnh để bộc lộ những tâm sự,
cảm xúc con người. Một cánh chim tả vẻ êm đềm, tỉnh lặng, một chòm mây tả vẻ bát ngát, thi
vị. Ngoài ra, bút pháp chấm phá, lấy tĩnh tả động, ước lệ tượng trưng được vận dụng sáng tạo.
Không có bất kì từ ngữ nào chỉ thời gian nhưng người đọc vẫn cảm nhận được thời gian lúc
này là chiều tối. Ấy là cái tài tình trong ngòi bút của Hồ Chí Minh.
Nổi bật lên trên không gian chiều tối là bức tranh cuộc sống con người với hình ảnh thơ
gần gũi, vận động hướng về sự sống, đó cũng là nét hiện đại của bài thơ:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
10
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Tinh thần hiện đại được diễn tả qua những hình ảnh ấm áp, dưới bút pháp tả thực sinh
động về cuộc sống đời thường dân giã. Không giống như con người mờ nhạt trong “Lom khom
dưới núi tiều vài chú” hay “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, hình ảnh người thiếu nữ xay ngô
không chỉ gợi ra những nhịp vận động đầy khỏe khoắn, trẻ trung mà còn khắc họa hình ảnh
đời thường giản dị, ấm áp thể hiện niềm vui tự do lao động. Như vậy, hình ảnh con người
trong lao động trở thành trung tâm của bài thơ, làm chủ bức tranh thiên nhiên. Hình tượng
thơ cũng luôn hướng về sự sống và ánh sáng, từ bóng tối ra ánh sáng, từ buồn sang vui, từ cô
đơn thành ấm áp.
Khi cô gái vừa kết thúc công việc xay ngô thì lò than cũng đã “rực hồng”, đánh dấu sự
chuyển đổi từ chiều tối sang tối hẳn. “Hồng” đã trở thành nhãn tự, là điểm bừng sáng của bài
thơ. Thông thường, bài thơ sẽ kết thúc bằng cảnh tượng màn đêm đen kịt bao phủ khắp núi
rừng, để lại nỗi cô đơn, che phủ con người. Nhưng ở đây, đó lại là điểm hội tụ kết tinh ánh
sáng, toả hơi ấm toàn bài thơ, làm dịu nỗi cô đơn của người tù. Qua đó thấy được tinh thần
hiện đại thể hiện qua quan niệm sống, cách sống của tác giả: Mạnh mẽ đối mặt, vượt qua gian
khổ, bộc lộ cho một tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung, quên cảnh ngộ trước mắt, khát
khao tự do, đồng cảm với người dân lao động và cảm nhận sâu sắc về hạnh phúc đơn sơ. Đó
cũng chính vẻ đẹp tư tưởng Hồ Chí Minh.
“Chiều tối” không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn cả về nghệ thuật. Đó là ngôn ngữ hàm
súc, hình ảnh giàu sức liên tưởng, có sự kết hợp hài hoà giữa cổ điển và hiện đại. Biện pháp
điệp ngữ, bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình cũng đã góp phần hoạ nên bức tranh chiều
tuyệt đẹp nhưng không mang sắc thái buồn như thơ xưa mà lại toát lên sức sống chủ động của
con người. Thơ Bác đậm đà màu sắc cổ điển, mang trong mình truyền thống phương Đông rất
đậm đà nhưng cũng không hẳn là thơ cổ vì trong đó còn sáng ngời tinh thần thời đại, nó là
tiếng thơ của người cộng sản vĩ đại. Hai vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong “Chiều tối” không
tách rời nhau mà kết hợp hài hoà với nhau làm nên vẻ đẹp riêng độc đáo của bài thơ, của
phong cách Hồ Chí Minh.
Tóm lại, tìm ra vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài Chiều tối ta mới hiểu được sức sống
lâu bền, sức hấp dẫn của tác phẩm, hiểu được vì sao đã hơn nửa thế kỉ trôi qua nhưng những
thi phẩm của Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên sự trẻ trung, sâu sắc. Ở “Chiều tối”, bên cạnh vẻ
đẹp của tinh thần lạc quan, yêu đời, sống hòa hợp với thiên nhiên, ta còn thấy được vẻ đẹp
tấm lòng của vị lãnh tụ vĩ đại khi luôn hướng về cuộc sống của nhân dân lao động, trái tim ấm
áp luôn có chất thép ngầm mạnh mẽ, vững vàng và tuyệt đối kiên trung với lý tưởng cách
mạng sáng ngời. Trở thành động lực to lớn cho người chiến sĩ bước tiếp con đường giải phóng
dân tộc nhiều vẻ vang, nhưng cũng lắm gian lao sau này. Xin được mượn bốn câu thơ của nhà
thơ Tố Hữu thay cho lời kết:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc
11
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
(Theo chân Bác)
12
Một đám mây trôi giữa bầu trời lặng lẽ như chính sự cô đơn, lẻ loi của Bác giữa không
gian mênh mang. “Chòm mây” trôi nhẹ nhàng như tâm hồn ung dung tự tại, bị giải tù mà như
đang thưởng ngoạn cảnh trời chiều và thả tâm hồn thi sĩ chứ không còn là cảnh tù đày mệt
mỏi nữa. Dù cho cánh chim hay chòm mây được tụ do còn người tù thì đang mất tự do. Đó
chính là tình yêu thiên nhiên và tinh thần thép vĩ đại của người tù – thi sĩ Hồ Chí Minh.
Chỉ hai câu thơ đơn giản với giọng thơ đằm thắm, tha thiết đã chứa đựng nỗi lòng của
người chiến sĩ cách mạng, đó là nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương, được khao khát bay nhảy tự
do, sải cánh như chim trời, được nhẹ nhàng như áng mây kia. Bức tranh thiên nhiên ở đây
không chỉ dừng lại ở miêu tả bề ngoài mà nó còn là bề sâu, là cảm xúc của người tù đối với
thiên nhiên. Bác có trong mình tình yêu thiên nhiên nồng đượm dù trong hoàn cảnh khắc
nghiệt. Trong hoàn cảnh hết sức khổ sở của tù đày, có đi bộ đến năm mươi ba cây số một ngày
mà Bác vẫn trọn tình với thiên nhiên, điều này thể hiện cả chất tình và chất thép nhưng dù thế
nào thì niềm rung cảm của bác trước thiên nhiên và cuộc sống là điều không thể chối cãi,
Người còn luôn hướng về sự sống, ánh sáng và niềm tin, hướng về cuộc sống dân dã. Thiên
nhiên có chút buồn, cuộc sống có vất vả nhưng vẫn đẹp, vẫn ấm nồng niềm tin vì tình yêu cuộc
sống, tình yêu con người của Bác.
Nổi bật lên trên không gian chiều tối, sâu lắng, tĩnh lặng là bức tranh cuộc sống con
người thể hiện chất thép thâm thúy và đậm nét hơn bao giờ hết:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Trong hai câu thơ tiếp theo Bác đã hướng ánh nhìn vào khung cảnh cuộc sống của người
dân vùng sơn cước. Hình ảnh cô gái xay ngô là một hình đẹp và ẩn chứa nhiều ý vị, khi con
người trong lao động trở thành trung tâm của bài thơ. Không giống như con người mờ nhạt
trong “Lom khom dưới núi tiều vài chú” hay “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, hình ảnh người
thiếu nữ xay ngô không chỉ gợi ra những nhịp vận động đầy khỏe khoắn, trẻ trung mà còn khắc
họa hình ảnh đời thường giản dị, ấm áp thể hiện niềm vui tự do lao động.
Khi cô gái vừa kết thúc công việc xay ngô thì lò than cũng đã “rực hồng”, đánh dấu sự
chuyển đổi từ chiều tối sang tối hẳn. “Hồng” đã trở thành nhãn tự, là điểm bừng sáng của bài
thơ. Thông thường, bài thơ sẽ kết thúc bằng cảnh tượng màn đêm đen kịt bao phủ khắp núi
rừng, để lại nỗi cô đơn, che phủ con người. Nhưng ở đây, đó lại là điểm hội tụ kết tinh ánh
sáng, toả hơi ấm toàn bài thơ, làm dịu nỗi cô đơn của người tù. Bộc lộ cho một tâm hồn lạc
quan, quên cảnh ngộ trước mắt, đồng cảm với người dân lao động và cảm nhận sâu sắc về
hạnh phúc đơn sơ. Đó cũng chính vẻ đẹp tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hình ảnh cô gái, màu hồng của ánh lửa chính là niềm tin, là việc sắt đá trong tư tưởng
của người chiến sĩ. Đây chính là tinh thần thép trong bài thơ. Cô gái hăng say xay ngô tối chính
là sự hăng say hoạt động cách mạng, ánh lửa hồng chính là niềm tin lý tưởng, ánh sáng cách
mạng. Nó luôn rực cháy và càng trong đêm tối càng sáng rực lên.
13
Để thấy được chất thép trong tác phẩm này, đầu tiên ta cần phải hiểu nội hàm của chất
thép. Trong bài thơ “Cảm tưởng đọc Thiên Gia Thi”, Người có viết:
"Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong"
Chất thép ở đây là sự cứng cỏi, là phong thái ung dung, tự tại trong hoàn cảnh bị áp giải,
là niềm lạc quan trong cảnh ngộ “tê tái gông cùm”, là nghị lực phi thường, ý chí chiến đấu và
tinh thần lạc quan cách mạng của Hồ Chí Minh vượt lên trên cảnh tù tội oan ức. Sự rắn rỏi ấy
còn được tô đậm qua giọng thơ mạnh mẽ, khoẻ khoắn, hừng hực khí thế. Chất thép chuyển
hóa linh hoạt thành hình tượng thơ, thành tình cảm thơ vì thơ là sự kết hợp hài hòa giữa tình
cảm, hình ảnh và lý trí.
“Chiều tối” không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn cả về nghệ thuật. Đó là ngôn ngữ hàm
súc, hình ảnh giàu sức liên tưởng, có sự kết hợp hài hoà giữa cổ điển và hiện đại. Biện pháp
điệp ngữ, bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình cũng đã góp phần hoạ nên bức tranh chiều
tuyệt đẹp nhưng không mang sắc thái buồn như thơ xưa mà lại toát lên sức sống chủ động của
con người. Từ đó, tạo nên Một phong cách thơ đẹp mang nét riêng của Bác: sự hài hòa của lí
tưởng, cái tuyệt đẹp giữa thép và tình, giữa chiến sĩ và thi sĩ như một điều vốn dĩ.
Tóm lại, chất tình nhờ chất thép mà thêm nồng hậu, chất thép cũng nhờ chất tình mà
được nâng lên. Ở “Chiều tối”, bên cạnh vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, yêu đời, sống hòa hợp
với thiên nhiên, ta còn thấy được vẻ đẹp tấm lòng của vị lãnh tụ vĩ đại khi luôn hướng về cuộc
sống của nhân dân lao động, trái tim ấm áp luôn có chất thép ngầm mạnh mẽ, vững vàng và
tuyệt đối kiên trung với lý tưởng cách mạng sáng ngời. Trở thành động lực to lớn cho người
chiến sĩ bước tiếp con đường giải phóng dân tộc nhiều vẻ vang, nhưng cũng lắm gian lao sau
này. Xin được mượn bốn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu thay cho lời kết:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
(Theo chân Bác)
14