You are on page 1of 26

LÍ LUẬN VĂN HỌC

“Thơ đối với cuộc sống được ví như người con gái đối với gia đình. Cái để cho người ta
làm quen là nhan sắc, nhưng cái để sống với nhau lâu dài là đức hạnh”.
VĂN THAM KHẢO
Bước vào thế giới hội hoạ, người ta sững sờ trước bức họa chân dung nàng Monalisa xinh
đẹp. Lạc trong thiên đường âm nhạc, người ta say sưa thăng hoa cùng điệu nhạc Bethoven.
Còn khi đến với địa hạt của văn chương, người ta lại không khỏi rung lên những xúc cảm
thẩm mĩ trước tư tưởng nhân đạo sâu sắc mà nhà văn gửi gắm thông qua ngôn từ. Và đây
cũng là lí do để tác phẩm văn học luôn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần
của bạn đọc. Bởi thế mà Xuân Quỳnh nhận định: “Thơ đối với cuộc sống được ví như người
con gái đối với gia đình. Cái để cho người ta làm quen là nhan sắc, nhưng cái để sống với
nhau lâu dài là đức hạnh”.
Có lẽ những người yêu văn thơ đã không còn xa lạ với cái tên Xuân Quỳnh- một hồn thơ nhẹ
nhàng, nữ tính khởi phát từ trái tim đa cảm lúc nào cũng sẵn sàng ngân rung những giai điệu
trầm bổng của tình yêu. Trải qua không ít sóng gió, thơ Xuân Quỳnh đã thấm đẫm vị đời,
gắn với những quan niệm về tình yêu lứa đôi. Những trang thơ ấy cũng lấp lánh vẻ đẹp của
nghệ thuật nói chung, đó là sự hài hòa đan kết chặt chẽ giữa hình thức và nội dung. Sở dĩ
Xuân Quỳnh ví von “thơ” với “người con gái” là bởi cả hai đều gặp gỡ ở điểm chung là cái
đẹp. Nếu con gái thường được gắn với những mĩ từ như “giai nhân”, “sắc nước hương trời”
để đề cao vẻ đẹp thì thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung cũng không thể tách rời tính
thẩm mĩ, thể hiện qua ngôn từ giàu sức gợi và tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
“Nhan sắc” của người con gái cũng như hình thức của một tác phẩm văn học, là cái người ta
trông thấy đầu tiên, gây ấn tượng mạnh ban đầu, tạo nên những rung cảm đẹp khi mới tiếp
cận. Còn “đức hạnh” theo ý Xuân Quỳnh chính là nội dung tư tưởng, là bức thông điệp của
mỗi tác phẩm. Đây cũng là yếu tố quyết định tới sức sống của tác phẩm trong lòng độc giả.
Nếu thiếu một trong hai, thi phẩm sẽ mất đi sức hút với bạn đọc. Như vậy, bằng cách ví von
nữ tính và đầy sức gợi, Xuân Quỳnh đã khẳng định mối quan hệ khăng khít không thể tách
rời giữa hình thức và nội dung, giữa ngôn từ bề mặt và nội dung tư tưởng bên trong. Hai vế
trong câu nói của Xuân Quỳnh không hề mâu thuẫn nhau hay đề cao nội dung hoặc hình
thức hơn mà chúng bổ sung cho nhau, cùng đề cao tầm quan trọng của cả nội dung và hình
thức. Cũng giống người con gái đẹp cả hình thể và tâm hồn, thơ ca chỉ sở hữu giá trị vẹn
toàn khi đạt được tính thẩm mĩ ở cả ngôn từ bên ngoài lẫn tư tưởng nhân đạo bên trong.
Văn học lấy ngôn từ làm chất liệu biểu hiện, bởi thế dù nội dung tư tưởng có sâu sắc cỡ nào
cũng không thể thoát xác khỏi câu chữ. Ngôn từ chính là cây cầu nối bạn đọc tới tác phẩm,
là con đường dẫn tới cái đích tư tưởng của nhà văn. Có thể nói, hình thức của một tác phẩm
là nơi trú ngụ, hiện diện của chiều sâu tư tưởng. Không có ngôn từ, tất cả ý tưởng sẽ khó
lòng hiện hữu. Nhờ vào ngôn từ và cách dùng từ, sáng tạo từ, nhà văn mới có thể thổi hồn
vào tác phẩm, làm cho tư tưởng của mình lấp lánh màu sắc nhân đạo. Thế nhưng, ngôn từ
trong văn chương không đơn thuần là những câu nói, từ ngữ thường ngày ai ai cũng dùng
mà chúng phải có tính thẩm mĩ, phải giàu sức gợi. Ví như Nguyễn Khuyến đã sử dụng cụm
từ “tiến sĩ giấy” nhằm ám chỉ những kẻ mang danh có học mà chẳng giúp được gì cho đời,
cho người. Trong suốt bài thơ, hàng loạt từ ngữ cùng trường từ vựng như: “cờ, biển, cân đai”
đã gợi ra dáng vẻ bệ vệ, khệnh khạng với đời của những con “cọp giấy”, “hữu danh vô
thực”. Giọng điệu tự trào xuyên suốt bài thơ cũng gợi cho người đọc cảm giác chua chát
trước sự nhũng loạn đảo điên thời bấy giờ. Có thể nhận ra cảm giác bất lực, tiếng thở dài
ngao ngán của tác giả thông qua hàng loạt hình ảnh châm biếm và giọng thơ mỉa mai chua
xót.
1
Bên cạnh việc sử dụng ngôn từ giàu sức gợi, người nghệ sĩ chân chính còn là người biết hài
hòa ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân bằng việc sử dụng thể thơ lục bát quen thuộc.
Người đọc có lẽ đã không còn xa lạ với những câu Kiều:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”
Chỉ bằng hai câu thơ nhưng Nguyễn Du đã làm hiện lên tâm trạng chất chứa u hoài, có cả
điềm dự cảm chẳng lành của Thúy Kiều khi chia tay Thúc Sinh. “Vầng trăng” xẻ nửa hay
chính trái tim Kiều đang chia hai, nửa ở lại với chăn đơn gối chiếc, nửa kia dõi theo bước
chân chàng Thúc. Lấy cảm hứng từ ca dao dân gian:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng”
Hai câu thơ của Nguyễn Du chính là minh chứng đầy sáng rõ cho sự kết hợp hài hòa giữa
ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân: vừa mang tính thẩm mĩ, lại không hề xa rời hiện
thực, vừa giàu sức gợi, lại gắn với nhận thức của đông đảo quần chúng nhân dân. Bởi thế,
thơ Nguyễn Du dễ đi vào lòng người nhưng tuyệt đối không phải thứ văn chương tầm
thường, dễ dãi. Nếu ở thời kì trung đại, người ta ngưỡng mộ trước tài năng kiệt xuất của
Nguyễn Du thì sau này, nền văn học Việt Nam lại ghi nhận một “bậc thầy ngôn từ” gắn với
thế kí, đó là Nguyễn Tuân. Con người lấy cái “ngông” làm phong cách nghệ thuật này, bên
cạnh việc sử dụng từ một cách điêu luyện còn có thể sáng tạo từ đầy tài hoa. Ông lái đò
trong tùy bút: “Người lái đò Sông Đà” được miêu tả với “tay lái ra hoa”. Nghề lái đò vốn
bình thường bỗng trở thành công việc nghệ thuật mà người lái đò hiện lên như người nghệ
sĩ. “Lái ra hoa” gợi tả vẻ đẹp đầy sức sống của nghề chèo đò; qua cụm từ này, cái vất vả
nhọc nhằn của công việc chân tay đã nhường chỗ cho nét đẹp lao động khỏe khoắn, tràn đầy
sinh khí. Nếu bông hoa của núi rừng là hiện thân cho vẻ đẹp thiên nhiên thì “hoa” trên mặt
nước sông Đà là sản phẩm của một tay chèo tài hoa đầy hứng khởi trong công cuộc đổi mới
đất nước. Tay chèo ấy mang theo sinh khí của thời đại, hồ hởi tiến về phía tương lai với biết
bao niềm tin, hi vọng.
Ngôn từ bao giờ cũng đóng một vai trò quan trọng trong văn học. Ngôn từ đẹp, giàu sức gợi
sẽ đánh thức những rung cảm tinh tế, niềm yêu thích hứng khởi để độc giả đi sâu hơn vào
thế giới tư tưởng. Bởi thế nên Trần Dần mới nhắc nhở nhà văn phải là người “phu chữ”, là
người không ngừng trau dồi vốn từ, dành sự trau chuốt cho hình thức tác phẩm. Nếu người
con gái hấp dẫn trước tiên bởi vẻ đẹp ngoại hình thì thi ca nói chung cũng gây ấn tượng ban
đầu bởi ngôn ngữ. Tất nhiên, những ngôn từ ấy không thể là những hoa mĩ sáo rỗng, bay
bổng thoát xác khỏi hiện thực. Ngôn từ chỉ đẹp và neo đậu nơi tâm hồn người đọc khi nó
truyền tải một nội dung tư tưởng nào đó.
Văn học xuất phát từ hiện thực, nhà văn là nhà thám hiểm khai phá hiện thực đó, tìm kiếm
góc khuất khó thấy để phản ánh thông qua lăng kính chủ quan của mình. Điều ấy có nghĩa,
văn học không tách rời hiện thực nhưng cũng không đồng nhất với hiện thực. Gắn với tính
thẩm mĩ, mỗi tác phẩm không bao giờ là sự tổng hợp của hiện thực hỗn độn, thô nhám mà
phải được gọt dũa, phóng lớn qua góc nhìn nhân đạo của nhà văn. Nhà văn là “thư kí trung
thành của thời đại” nhưng không chỉ phản ánh hiện thực, anh còn cần phân tích, lí giải hiện
thực đó bằng tấm lòng bao dung, bằng tình yêu thương con người. Nam Cao đã xuất sắc thể
hiện điều này qua truyện ngắn “Chí Phèo”. Chí vốn là kẻ mồ côi, hắn sống trong men rượu
đến quên cả trời đất. Hắn sống với tư cách là “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại, không ai quan
tâm hắn, không ai coi hắn là một con người. Chí đã sống cuộc đời của kẻ lưu manh không
nơi nương tựa; nhưng bi kịch hơn cả là khi phần người trong hắn trỗi dậy, khi khát khao làm
người lương thiện được đánh thức thì cũng là lúc Chí bị những định kiến của người đời chối
2
bỏ, không cho hắn con đường hoàn lương. Nam Cao đã thấu tỏ hiện thực ấy bằng con mắt
rất đời, rất người, rằng: Không phải Chí không thể trở nên lương thiện mà chính thành kiến
cố hữu với con mắt ích kỉ của người đời mới là thứ giết chết phần người của Chí. Và trong
mỗi con người, dù tưởng như xấu xa nhất vẫn luôn tồn tại sự lương thiện khuất lấp, chỉ chờ
được đánh thức mà trỗi dậy. Đó chính là thông điệp tư tưởng mang màu sắc nhân đạo độc
đáo của Nam Cao.
Thông qua từng mảnh ghép của hiện thực cuộc sống, nhà văn khám phá, phát hiện những
điều không phải ai cũng thấy, để rồi từ đó cho con người bài học “trông nhìn và thường
thức”. Đó là sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của con người; là bản cáo trạng tố cáo xã hội tàn
nhẫn, mất nhân tính; là tiếng khóc xót xa cho những kiếp người thấp cổ bé họng; và cũng
gửi gắm ước mơ về một xã hội tốt đẹp hơn. Tinh thần nhân đạo này đã được hiện diện đầy
chân thực và sống động qua nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”
của Nguyễn Dữ. Từ những dòng đầu tiên, Vũ Nương đã được miêu tả là người con gái đẹp
người đẹp nết, là chuẩn mực về người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Nhưng nàng phải
chịu nỗi oan thấu trời xanh bởi người chồng nóng nảy, đa nghi, không tin vào sự trong sạch
của nàng trong những ngày tháng chờ chồng đi lính. Cuối cùng, Vũ Nương đã phải mượn
dòng Hoàng giang để rửa nỗi oan ức. Đến khi Trương Sinh hiểu ra mọi chuyện thì đã quá
muộn màng. Lời nói đầy ám ảnh của Vũ Nương kết thúc tác phẩm, để lại niềm day dứt khôn
nguôi trong lòng độc giả: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Đó
là lời tố cáo đanh thép xã hội phong kiến không có chốn nương thân cho những người lương
thiện. Chỉ vì thói độc đoán của Trương Sinh và con mắt dị nghị của người đời đã đẩy người
phụ nữ đến bước đường cùng. Vũ Nương chính là hiện thân cho kiếp con sâu cái kiến, cho
thân phận người lương thiện bị chèn ép, coi rẻ trong xã hội xưa. Thông qua nhân vật Vũ
Nương, Nguyễn Dữ vừa thể hiện tấm lòng trân trọng người phụ nữ nhưng đồng thời cũng
bộc lộ nỗi niềm xót xa và lên án sự bạc bẽo của thời cuộc đã không cho con người cơ hội
được sống đàng hoàng; bởi thế mà những người tốt lại bơ vơ giữa dòng đời hỗn loạn.
Nguyễn Du với “Phản chiêu hồn” cũng gặp gỡ Nguyễn Dữ ở tinh thần nhân đạo này khi hạ
bút đầy chua chát:
“Hồn hề! Hồn hề! hồn bất qui?
Đông tây nam bắc vô sở y”
Hiện thực cuộc sống có thể chất chứa nhiều nỗi phũ phàng, và con người, khi nhận thức
được góc khuất hiện thực ấy qua tác phẩm văn học, đôi khi cũng không tránh khỏi cảm giác
chạnh lòng xót xa. Thế nhưng, văn học đánh thức con người những xúc cảm ấy, không phải
để người ta chìm trong nỗi bi quan, tiêu cực về cuộc đời; trái lại, nó khiến con người giật
mình thức tỉnh để cải tạo chính mình và thế giới. Nói cách khác, văn học khơi gợi trong độc
giả những xúc cảm thẩm mĩ, mang tính giáo dục để hướng con người tới khát vọng vươn xa.
Tôi đã rất ấn tượng với hình ảnh đoàn tàu trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
Đoàn tàu ấy mang theo ánh sáng, dù chỉ lướt qua nhưng cũng đủ để soi rọi một góc nơi phố
huyện tăm tối- nơi mà con người bị bóp nghẹt bởi sự thiếu thốn vật chất và tù túng tinh thần.
Ánh sáng tỏa ra rừ đoàn tàu không chỉ là ánh đèn điện mà còn là ánh sáng của hi vọng, của
khát khao thoát khỏi cái nghèo tăm tối. Đoàn tàu ấy đã chở theo miền mơ ước của chị em
Liên, của những người dân phố huyện về phía tương lai được ấm no, hạnh phúc.
Không chỉ phản ánh hiện thực rồi gửi gắm thông điệp tư tưởng, văn học còn có khả năng đi
xa hơn thế với những dự báo, dự cảm. Đến với một tác phẩm văn học, độc giả không chỉ
thấu tỏ thực tại mà còn thấy bóng dáng của tương lai. Không phải tự nhiên mà Kim Lân kết
thúc truyện ngắn “Vợ nhặt” với hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới. Thời điểm tác phẩm ra đời
của tác phẩm là vào nạn đói năm 1945, khi ấy nhân dân ta đang sống trong cảnh lầm than, cơ
3
cực. “Lá cờ đỏ” chính là điềm báo Cách mạng tháng Tám thành công, trả lại cho nhân dân
cuộc sống có cơm ăn, áo mặc. Đó là chi tiết rất giàu sức gợi, thể hiện niềm tin và tầm nhìn
của nhà văn Kim Lân về thời cuộc.
Như thế, có thể thấy, mối quan hệ giữa hình thức và nội dung rất khăng khít, chặt chẽ, không
thể tách rời. Thiếu một trong hai yếu tố đều làm tác phẩm mất đi sự trọn vẹn vốn cỏ. Tất cả
những yếu tố thuộc về hình thức: chi tiết, hình ảnh, giọng điệu, biện pháp nghệ thuật,... đều
là dụng ý của tác giả mà thông qua hệ thống tín hiệu ấy, người đọc thấy tư tưởng nhân đạo
lấp lánh xuyên suốt tác phẩm. Ngược lại, nội dung tư tưởng cũng cần một “thân xác” để trú
ngụ, để gửi gắm, để nương theo. Nhà văn xây dựng hình tượng nghệ thuật để gửi gắm thông
điệp; đồng thời, thông điệp ấy cũng tới với độc giả gián tiếp thông qua các tín hiệu nghệ
thuật. Nếu chỉ có nội dung trơ trọi trên trang giấy, thì văn học sẽ mất đi tính thẩm mĩ, trở nên
nhạt nhẽo, vô hồn. Ngược lại, nếu quá chú trọng ngôn từ mà quên đi tư tưởng nhân đạo sẽ
biến văn chương thành thứ nông cạn, hời hợt, sáo rỗng. Bởi vậy, cách ví von của Xuân
Quỳnh về thơ với người con gái vừa giản dị lại vừa xác đáng. Cái khiến người ta rung cảm
ban đầu ắt hẳn là sự trau chuốt về ngôn từ; nhưng vẻ đẹp hình thức ấy có “sống lâu dài”
trong tâm hồn người đọc hay không lại là nhờ tinh thần nhân văn cao cả trong mỗi tác phẩm.
Nói cách khác, một tác phẩm thật trọn vẹn và giá trị phải là sự kết hợp giữa hai yếu tố: lời
hay- ý đẹp.
Bên cạnh đó, văn chương bao giờ cũng truy cầu ở người nghệ sĩ tinh thần sáng tạo, khả năng
tìm tòi, phát hiện cái mới. Nói như Leonit Leonop thì: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh
về hình thức và một khám phá về nội dung”. Nghĩa là mỗi tác phẩm phải là một, là riêng, là
duy nhất. Văn chương không phải là cỗ máy sản xuất hàng loạt những bản sao y hệt. Sự sao
chép chính là con dao giết chết nghệ thuật. Mỗi nhà văn khi trùng lặp chính mình hoặc
người khác chính là tự đào thải mình, tự xóa bỏ mình. Bởi vậy, người nghệ sĩ chân chính là
người không ngừng dồn tâm lực với những gì mình viết. Điều đó thể hiện trách nhiệm, tự
trọng của kẻ cầm bút. Bởi vậy mà Nam Cao mới khẳng định: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề
gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”.
Ngày nay, nền văn học Việt Nam đã ghi nhận không ít tên tuổi mới, với những bước chuyển
mình về tư tưởng không hiếm thấy trong các tác phẩm văn học. Họ chèn thêm chữ ngoại ngữ
vào thơ, thậm chí văng tục,... có những cách tân đầy đột phá. Chính những điều này đã làm
giới văn chương dậy sóng không ít lần, đặt ra câu hỏi xoay quanh thuần phong mĩ tục, về sự
trong sáng của tiếng việt. Là một độc giả, tôi cho rằng bất cứ sự mới mẻ nào đều không
tránh khỏi phản ứng dữ dội từ dư luận. Bởi thế, trước khi cuốn vào những cuộc tranh luận,
cần có cái nhìn tỉnh táo, đa chiều; đón đọc với sự bao dung và tư duy cởi mở, để thấy được
toàn cảnh tác phẩm đó. Nếu thi phẩm không đem lại giá trị, như một tất yếu, sẽ bị đào thải
và chìm vào quên lãng. Ngược lại, nếu tác phẩm thực sự giá trị, thời gian sẽ chứng tỏ điều
đó.
Ngoài ra, cũng cần phê phán hiện tượng đạo văn, học thuộc văn mẫu. Đây là những điều làm
ảnh hưởng nghiêm trọng tới tư duy cần có khi tiếp nhận văn chương. Sự sao chép, không
trung thực với những gì mình viết đã tác động tiêu cực tới nhận thức của một bộ phận học
sinh trong việc học văn. Bởi thế, càng cần cổ vũ tư tưởng nhân đạo của những tác phẩm văn
học kiệt xuất như một cách đề cao và bảo lưu các giá trị tinh thần của văn chương cũng như
nghệ thuật nói chung. Có như thế, văn học mới được đặt đúng vị trí và phát huy tối đa chức
năng của mình trong việc cảm hóa và giáo dục con người.
Cho đến ngày nay, đứng trước những biến động của thời cuộc, sự xâm nhập mạnh mẽ của
văn hóa ngoại lai, sự phát triển ồ ạt của công nghệ thông tin, văn học cũng phần nào bị ảnh
hưởng. Nhưng cũng bởi vậy mà nhận định về thơ ca của Xuân Quỳnh lại càng trở nên giá trị,
4
mang tính thời sự và khẳng định vai trò thiết yếu của văn chương nghệ thuật đối với con
người ở mọi nơi, mọi thời.

Đề bài: Nhà văn I.X. Tuocghenhev nói: “Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói
của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì
một người nào khác”.(Dẫn theo Khravchenko, “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
văn học”, NXB Tác phẩm mới, 1978). Bằng trải nghiệm văn học của mình, hãy làm sáng tỏ
ý kiến trên
BÀI LÀM
Một giọng ca giống hệt như ca sĩ nỗi tiếng không phải gọi là tài năng của bản thân mà gọi là
bắt chước. Một giọng ca đặt biệt không nhầm lẫn với ai khác đấy mới chính là giọng ca tài
năng. Muốn nổi bật giữa đám đông thì đừng để đám đông làm nhòe đi tầm để ta lần mò đi
trong đám đông bằng sự riêng biệt. Trong văn học cũng vậy, tài năng là thứ không giống với
bất kì ai. Vì thế mà nhà văn Tuốc Ghenhép nói: “Cái quan trọng trong tài năng văn học là
tiếng nói của mình, là cáigiọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong bất kì cái
cổ họng của một người khác”.
Con người có tài năng văn học là con người thực sự có khả năng, có điêu luyện để dùng lời
lẽ ngôn từ của mình để làm nên sự sáng tạo trong nghệ thuật, làm nên cái hay trong từng tác
phẩm. Tài năng văn học không chỉ dừng ở đó mà nó còn là phép hoán dụ chỉ đến những nhà
thơ, nhà văn giỏi giang, có tài. Đúng thực là như vậy, vì không có tài thì làm sao được gọi là
tài năng.
Nói nếu hiều cách thông thường đó chính là diễn đạt thành lời, phát âm thành tiếng một nội
dung nào đócho người nghe. Còn tiếng của mình, cái giọng riêng biệt của chính mình của
nhà văn thì mới là điều khác. Vì nó không đơn thuần là nói mà sự diễn đạt, cách thể hiện độc
đáo, sáng tạo riêng của bản thân cá nhân đối với vấn đề nào đó. Nếu đã nói là riêng biệt thì
nó “ không thể tìm thấy trong bất kì cái cổ họng của một người khác”. Đó chính là cái duy
nhất, cái chỉ có ta mới có được, không thể có người thứ hai. Nếu đã có người thứ hai, thì đó
chỉ được coi là sự lặp lại. Mà lặp lại một sự nhàm chán thì tài năng đâu còn có thể tồn tại
được nữa. Vì vậy nếu hiều đúng nghĩa về điều mà nhà văn muốn nói về tài năng văn học, đó
là một nghệ sĩ cần phải có lối đi riêng, không nhầm lẫn, không giống với bất cứ ai, không
chỉ riêng mà còn phải độc đáo, phải có cái gọi là “độc nhất vô nhị” của chính mình. Đó mới
đúng là tài năng thực thụ theo nghĩa hoàn toàn chính đáng.
Nhắc đến sự riêng biệt của người nghệ sĩ phải nhắc đến phong cách của họ. Mỗi con người
ai không tìm cho mình một phong cách riêng, phong cách về ăn uống, phong cách về thời
trang,……Còn người nghệ sĩ thì lại có phong cách khác. Đó chính là phong cách sử dụng
ngôn từ, phong cách biểu đạt để làm sao mà người đọc dễ thấm thía trong từng câu văn, lời
thơ. Để văn học trái ngược với sự nhàm chán là sự độc đáo, mới lại giúp người đọc cảm thấy
thú vị hơn khi đọc tác phẩm do chính tay nghệ sĩ sáng tác. Mặc dù có lặp đi lặp lại về nội
dung và hình thức, các tác phẩm không gây chán, mà gây hứng thú hơn với người đọc. Thế
nên phải nói đấy chính là sự bền vững, xuyên suốt, không thể thiếu của văn học. Thậm chí ta
có thể nói phong cách nghệ thuật còn đem đến cho tác phẩm không chỉ hay mà còn độc đáo
trong từng nội dung, từng cách diễn đạt. Từ đó mà sự sáng tạo của nhà văn không chỉ nằm
một chỗmà còn tiến xa hơn nữa khi đem đến cho người đọc những sự trải nghiệm mới mẻ về
cuộc sống, tôn lên vẻ đẹp của cuộc đời thông qua phương tiện nghệ thuật chỉ có nhà văn mới
có. Và đấy không gì khác là sự biều hiện tài năng xuất chúng của người nghệ sĩ trong tác
phẩm văn học làm đậm dấu ấn trong lòng người đọc không ai khác chính là những người
5
biết thưởng thức thơ văn, vì chỉ có họ mới cảm nhận được văn hay, chỉ có họ mới thấy được
tài năng của người nghệ sĩ nằm trong từng câu văn, câu thơ.
Phong cách nghệ thuật ngoài sự độc đáo ra còn cótrong nó những tính chất đặc biệt. Là sự
khám phá giúp người đọc tò mò, có thêm những nhiều biết mà chỉ có khám phá từ sâu bên
trong mới biết được. Là từ các hình tượng ta hình dung ra được bài văn như thế nào. Bởi
hình tượng là thứ quan trọng, nếu thiếu nó thì nghệ sĩ không thể nào gọi là có tài được. Và
đặc biệt hơn đó chính là giọng điệu riêng biệt. Phải có nó nghệ sĩ mới làm nên được điều
khác lạ, có nó mới có cái tôi trong tác phẩm của mình.
Sáng tác riêng biệt là yếu tố không thể thiếu đối với người nghệ sĩ. Vì nó làm tôn lên tài
năng vốn có, để rồi từ đó đưa người đọc đến một chân trời mới, đến với cái hay không thể
thiếu của thơ văn. Là tiêu chuẩn để biết được nghệ sĩ có thật sự tài năng hay không. Nếu đã
đáp ứng đủ thì không còn gì để nói khi cho rằng tài năng văn học của người nghệ sĩ là không
thể nào phủ nhận được.
Điển hình như trong thơ của Xuân Diệu, ta phần nào thấy được tài năng văn học của ông.
Bài thơ “Đây mùa thu tới” với ngòi bút tài năng của tác giả đã thấm đượm lên nó là một nỗi
buồn sâu thẳm. Là cái buồn muôn thuở, nhưng cũng là cái buồn thời đại, là buồn của riêng
“thơ mới”. Tại sao cảnh thu đẹp nhưng lại buồn? Là vì lòng người buồn. Cảm xúc ấy được
đưa vào khung cảnh đất trời chuyển vào thu.
“Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo phơ mai dệt là vàng”
Câu thơ như một tiếng rao khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của mùa thu. Tài năng của Xuân
Diệu còn được thể hiện qua cách cảm nhận mùa thu. Sự cảm nhận mà chỉ riêng ông mới có.
Sự cảm nhận bằng tất cả các giác quan. Cành lá run rẩy, sắc lá đổi màu, nhành cây ớn lạnh
đến tận xương khô, rét mướt buồn trong gió. Cuối cùng là gửi gắm thông qua nỗi lòng của
người thiếu nữ :” Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì” là tư thế suy tư của người muốn hướng về
cuộc đời. Qua đó ta thấy được đậm chất tài năng của Xuân Diệu bằng những cảm nhận tinh
tế, sáng tạo, một hồn thơ riêng biệt , đi vào lòng người.
Giọng văn của Nam Cao là giọng văn triết lí, lạnh lùng, khinh bậc và buồn thương. “Một
bữa no” là tác phẩm phê phán, lên án xã hội thối nát lúc bấy giờ. Kể về một bài lão chồng
mất sớm, cả đời nuôi con nhưng khi lớn con cũng ra đi vĩnh viễn. Vợ con bà sau khi chịu
tang con trai bà mà vội vàng đi lấy chồng. Nuôi cháu bảy năm trời, vì quá khó khăn nên cho
nhà bà phó làm con nuôi. Nhưng sau đó cuộc sống của bà không mấy dễ dàng. Bao nhiêu
tiền bạc lo tang con trai, sau đó bà còn phải bị bệnh nặng, sức khỏe không cho phép bà làm
bất cứ việc gì. Hôm ấy bà đi thăm cháu, nhưng lại bị bà phó chà đạp lên lòng tự trọng, bữa
cơm no nhất của bà cũng chính là bữa cơm cuối cùng. Ta thấy được Nam Cao đã vạch tội ác
của con người trong xã hội lúc bấy giờ. Bằng tài năng của mình ông đã đưa câu chuyện như
thấu trong lòng người đọc một nỗi đau khó tả, có cảm giác hận thù đối với những con người
tệ bạc. Câu chuyện mang một triết lí sâu sắc đối với tình thương, tình người.Nếu không có
tình thương thì chẳng khác gì cầm thú. Nhờ Nam Cao mà ta không nhũng biết về xã hội xưa
mà còn giúp ta khám phá được bên trong nội tâm độc đáo của con người làm nên dấu ấn khó
quên trong lòng người đọc.
Một tài năng văn học không thể nào thiếu được phong cách sáng tạo, độc đáo của mình. Và
không có nó độc giả không thể nào khám phá hiểu biết được hết ý nghĩa của văn học cũng
như ý nghĩa của cuộc đời. Vì có sáng tạo mới cho ta biết hết thảy về cuộc sống, cuộc đời. Có
sáng tạo ta mới tìm được thú vui, cảm giác đắm chìm trong văn học. Vì thế nên tài năng văn
học chính là sự riêng biệt của người nghệ sĩ.

6
Hình tượng người người phụ nữ xưa qua Tự Tình II (Hồ Xuân Hương) và Thương vợ
(Trần Tế Xương)
-----------
Trong những năm từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX, dưới sự suy tàn mục nát của chế độ
phong kiến, số phận người phụ nữ bị gần như bị vùi dập trong vũng bùn đau khổ bởi lễ giáo
phong kiến “trọng nam khinh nữ” hà khắc. Họ phải chịu chói buộc trong chế độ xã hội nam
quyền độc đoán, đa thê...cùng với sự áp đặt của lễ giáo phong kiến: “Tam tòng, tứ đức” (tam
tòng là: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; tứ đức là: Công, dung, ngôn,
hạnh). Họ hầu như không có quyền quyết định cuộc đời mình mà phải an phận, phục tùng và
cam chịu. Vì thế, họ gặp rất nhiều đau khổ trong cuộc sống, tình duyên thì lận đận, phải chịu
cuộc đời làm lẽ, làm thiếp cho người ta...Cảm thông với số phận của người phụ nữ trong xã
hội cũ, nhiều nhà văn nhà thơ đã thay họ đứng lên nói lên tiếng lòng của mình. Trong đó có
Hồ Xuân Hương với “Tự tình” và Trần Tế Xương cùng “Thương vợ”.
Hai tác phẩm trên là lời khẳng định về nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ xưa.
Họ đều là những con người đa tài, đa sắc như Hồ Xuân Hương đã gọi “hồng nhan” hay là
tảo tần, thủy chung, và giàu đức hi sinh như Tú Xương lên tiếng.
Nếu như Bà chúa thơ Nôm với cái tài và cái ngông của mình dám thách thức với cả trời đất,
thiên nhiên để nói lên cái đẹp cái tài hoa của người phụ nữ trong xã hội bấy giờ:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
(“Tự tình II”)
Thì đến với Tú Xương lại thể hiện tâm thế và vị thế của một người mẹ hiền một người vợ
đảm. Vì chồng, thương con mà bà cam chịu với cuộc sống khó khăn, vất vả:
Lặn lội than cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
(“Thương vợ”)
Nhưng dân gian ta đã có câu: “Hồng nhan bạc phận”. Hồ Xuân Hương càng thể hiện cái tài,
cái hồng nhan bao nhiêu thì lại càng làm nổi lên tâm trạng buồn đau, oán hận, cô độc trong
đêm khuya vắng. Sự bẽ bàng, tủi hổ của Hồ Xuân Hương nói riêng cũng chính là của người
phụ nữ Việt Nam trong thời đại ấy nói chung.
Chùm thơ Tự tình ba bài của Bà chúa thơ Nôm, đặc biệt biệt bài thơ thứ hai, đã nói lên một
cách cảm động về bi kịch tình duyên của người phụ nữ phận hẩm duyên ôi!
Người phụ nữ ấy thao thức giữa đêm khuya, một mình một bóng đang lắng nghe tiếng trống
dồn “văng vẳng” từ một chòi canh xa đưa lại. Thao thức vì cô đơn, vì lẻ bóng. Rượu và trăng
cũng không làm vợi đi bao nỗi buồn chồng chất, đang đè nát cõi lòng. “Chén rượu hương
đưa” cứ ngỡ có thể làm say để quên đi bao nỗi buồn chứa chất tâm hồn, cố uống cho say,
nhưng “say lại tỉnh” để mà thêm buồn; buồn cho tình duyên lẽ mọn! Trơ trọi ngắm “vầng
trăng bóng xế”, ngắm mãi ngắm hoài mà trăng kia vẫn “khuyết chưa tròn”, Hạnh phúc mà
nàng mong đợi chỉ là “Một tháng đôi lần có cũng không”. Số phận và bi kịch ấy thật đáng
thương!
Trong bi kịch tình duyên, người đàn bà lẽ mọn cố vùng vẫy bươn ra nhưng thoát sao được.
Dù có “xiên ngang mặt đất”, dù có “đâm toạc chân mây”, nhưng đám rêu kia, mấy hòn đá nọ
cũng không thể nào thay đổi được cảnh ngộ đáng buồn, đáng thương, đáng tủi, đáng hận:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

7
Phép đảo ngữ trong hai câu thơ không chỉ làm nổi bật cái dữ dội tiềm ẩn của thiên nhiên mà
còn tô đậm sự phản kháng duyên số, phản kháng đến tuyệt vọng của người đàn bà “lấy
chồng chung”.
Thời gian chẳng mang lại hạnh phúc cho nàng. Mùa xuân cũng chẳng đem lại niềm vui gì
cho nàng, mà nỗi chán ngán, đau khổ cứ chồng chất mãi thêm. Mùa xuân đi qua rồi mùa
xuân lại trở lại, tuổi mỗi ngày một cao, nhan sắc ngày một phai tàn, nhưng tình yêu và hạnh
phúc chỉ được "san sẻ tí con con" mà thôi! Thật đáng thương! Thật tội nghiệp. Tổng Cóc và
ông phủ Vĩnh Tường cũng chẳng mang lại cho nàng chút hạnh phúc nào! Hai câu kết đã cực
tả nỗi đau khổ trong bi kịch tình yêu của Hồ Xuân Hương:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con
“Tự tình’-Bài II không chỉ nói lên nỗi đau khổ cô đơn mà còn thể hiện niềm khao khát tình
yêu hạnh phúc của người đàn bà trong cảnh ngộ “lấy chồng chung”, giá trị nhân bản của bài
thơ thật sâu sắc.
Những con người hạnh phúc ít ỏi, duyên nợ hẩm hiu: Vầng trăng bóng xế khuyết chưa
tròn. Tuổi xuân thì qua đi mà hạnh phúc vẫn không trọn vẹn như vầng trăng đến lúc xế bóng
mà vẫn chưa tròn. Mang thân phận của một người vợ lẽ, tình yêu thì bị chia năm sẻ bảy chỉ
còn lại tí con con: “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Hồ Xuân Hương đã nói lên nỗi lòng của
mình trước cái bất công của xã hội phong kiến.
Còn với Tú Xương, ông đứng trên phương diện từ người đàn ông, người chồng, người con
để thể hiện sự cảm thông, thương xót cho số phận của người phụ nữ:
Một duyên, hai nợ âu đành phận
Năm nắng, mười mưa dám quản công
Câu thơ vừa nói lên đức hy sinh cao quý của người phụ nữ mà cụ thể hơn ở đây là bà Tú, lại
vừa thể hiện sự cam chịu trước số phận của mình. Nếu như đứng ở góc độ đạo lý, ta thấy
rằng sự cam chịu của bà Tú chính là việc bà đang tuân thủ theo bổn phận làm vợ, làm mẹ
của mình. Thế nhưng, theo góc độ tình cảm, ta thấy, việc bà Tú cam chịu, hi sinh tất cả vì
chồng vì con thì ở bà lại hiện lên vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đó chính
là sự đảm đang, chịu thương chịu khó, đức hi sinh âm thầm vì chồng vì con.
Cảm thông trước sự vất vả của người vợ, Tú Xương đã lên tiếng oán trách thói đời, trách xã
hội bất công:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Nói là trách đời nhưng thực ra qua hai câu sau ta thấy rằng ông đang trách mình. Mình đã
không làm đúng vai trò của một người chồng. Câu thơ nói lên tiếng lòng của Trần Tế Xương
đối với người phụ nữ, vừa là lời cảm thông, vừa là sự bênh vực. Còn với Hồ Xuân Hương, ta
lại thấy có lời oán trách táo bạo, giận cuộc sống đã đưa người phụ nữ vào chỗ lẻ loi, cô đơn,
hiu hắt: "Oán giận trông ra khắp mọi chòm" (Tự Tình I) hay phê phán cái xã hội thối nát,
người đời bạc bẽo vô tâm: "Sau giận vì duyên để mỏi mòn" (Tự tình I). Đằng sau sự oán
trách đó, là sự khát vọng và vươn lên, không để bị số phận làm khuất phục:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
(“Tự tình II”)
Bằng những động từ mạnh như “xiên”, “đâm”, kết hợp với bút pháp tu từ đảo ngữ càng nhấn
mạnh sức phản kháng mãnh liệt và khát vọng bung tỏa bản lĩnh cá nhân. Và điều này cũng là
nét đặc sắc của thơ Hồ Xuân Hương.

8
Tú Xương có bài “Văn tế sống vợ”; ông còn có bài Thương vợ với cảm hứng chủ đạo là tình
thương, lòng quý trọng, biết ơn của ông đối với người vợ hiền thục của mình. Bà Tú là hiện
thân cho bao đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Bà buôn bán tần tảo ở mom sông
suốt quanh năm, không có một ngày ngơi nghỉ. Một gánh nặng gia đình được bà “nuôi đủ”:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng
Nhờ sự đảm đang, tháo vát của vợ mà ông Tú tuy “ăn lương vợ” nhưng khá phong lưu:
Cho hay công nợ âu là thế,
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.
Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,
Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi
(Tự cười mình)
Hình ảnh "thân cò" là một sáng tạo của Tú Xương để nói về sự làm ăn vất vả, khó nhọc của
bà Tú. Cặp từ láy: “lặn lội” và “sèo” đã cực tả nỗi gieo neo, đức tính chịu thương chịu khó
của người vợ, người mẹ trong gia đình đông con:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Bà Tú còn là hiện thân của đức hi sinh thầm lặng. Bà cam chịu, kiên nhẫn về duyên phận.
Các thành ngữ “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” kết hợp với các từ ngữ “âu đành
phận”, “dám quản công” cho thấy đức hạnh, tâm hồn của bà Tú thật cao quý. Bà đã sống hết
mình vì cuộc sống và hạnh phúc của chồng con:
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công
Hai câu kết là lời nhiếc của bà Tú cũng là lời tự trách mình của nhà thơ:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không
“Không” là không giàu sang phú quý, không được “Võng anh đi trước, võng nàng theo sau”
như các bà nghè khác. “Không” là không được sống trong cảnh vinh thân phì gia “tối rượu
sâm banh, sáng sữa bò” như vợ của các thầy kí, thầy phán khác thời bấy giờ.
Tú Xương tuy tự trách mình, nhưng ông đã nói lên tất cả tấm lòng quý trọng và biết ơn đối
với người vợ hiền thục thương yêu. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ “Thương vợ” là hình ảnh
của một người phụ nữ Việt Nam với bao phẩm chất tốt đẹp như đảm đang, tần tảo, chịu
thương chịu khó và giàu đức hi sinh.
Tuy đứng ở hai khía cạnh, hai góc nhìn khác nhau về người phụ nữ, nhưng cả hai tác phẩm
“Tự tình” và “Thương vợ” đều là những bài ca ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của người phụ
nữ Việt Nam. Nếu như Hồ Xuân Hương đem đến cho người đọc về hình ảnh người phụ nữ
tài sắc, thủy chung, nhưng lại chịu nhiều bất hạnh về cuộc sống và duyên phận thì Tú Xương
mang đến cho chúng ta hình ảnh về đức hi sinh, sự can đảm chịu thương chịu khó của người
phụ nữ. Hơn nữa, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ càng đậm nét hơn khi chính họ là
những con người bất hạnh nhưng luôn ngời sáng lên những ước mơ. Hai tác phẩm đều phản
ánh khát vọng vươn lên làm chủ của người phụ nữ, bênh vực quyền sống, khát vọng hạnh
phúc, thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Phẩm chất truyền thống đẹp đẽ đó đã trở thành nét đẹp
đương đại với phụ nữ Việt nam ngày nay: “Giỏi việc nước-đảm việc nhà”
Mơ gặp Nguyễn Tuân]
Trong một tiết Văn học về tác phẩm “Chữ người tử tù”, thầy giáo tôi đã nói: “Các em có viết
vì sao văn chương lại có sức mạnh cảm hóa con người đến như vậy không? Bởi đời sống văn
học chính là những cuộc đối thoại. Người đọc, nhà văn và tác phẩm đối thoại để tìm thấy
9
tiếng nói tri âm hoặc để làm sáng tỏ chân lý”. Nghe thầy nói, tôi đưa mắt mơ màng nhìn về
phía xa xăm, thầm nghĩ “Đối thoại chỉ có thể xảy ra giữa người với người. Một trang sách
đầy những con chữ thì chỉ biết nằm yên một chỗ, sao có thể chuyện trò cùng ta về bao điều
trong cuộc sống? Thật ly kỳ!”
Tôi cứ thế đắm chìm trong suy tư của bản thân mà không kịp nhận ra từ lúc nào trước mắt
tôi đã không cón là chiếc bảng đen bám đầy bụi phấn thường ngày nữa, cũng không còn đâu
giọng nói trầm ấm quen thuộc của thầy tôi. Tôi có cảm giác mình đang đi xuyên qua không
gian, một cảm giác thật lạ. Rồi bỗng nhiên, xung quanh tôi tối sầm lại. Đến một lúc, tôi chợt
phát hiện ở phía xa xa kia có một luồng ánh sáng mờ mờ ảo ảo đang tỏa ra. Càng đến gần tôi
mới biết hóa ra đó là ánh sáng của một chiết cầu ngũ sắc tuyệt đẹp. Tôi thích thú quá, liền
bước ngay lên cầu.
Nhưng diệu kỳ thay, xung quanh tôi bỗng hiện ra những nhân vật trong các tác phẩm quen
thuộc như ông Lý Văn – người cầm đầu băng đảng cướp trong tác phẩm “Ném bút chì”, ông
cụ Am và cái ấm trà trên tay trong truyện “Chén trà trong sương sớm” và đặc biệt hơn, tôi
còn thấy có nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” tay đang cầm bức lụa
trắng đã ghi lên mấy chữ và tra cho viên quản ngục, dường như tất cả họ đều là những nhân
vật chính trong tập truyện “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân. Đi đến gần cuối, tôi
nhận ra ở bên kia cầu có một người đàn ông đã ngoài 50, mặc một chiếc áo cao cổ màu nâu
cũ sờn trông thật giản dị, đang ngồi trầm tư bên chiếc bàn tròn. Tôi tiến lại gần để nhìn cho
kỹ hơn, người đàn ông kỳ lạ ấy khiến tôi có chút cảm giác quen thuộc hơn là xa lạ. Hình như
tôi đã thấy hình ảnh của ông trong quyển sách giáo khoa Ngữ văn 11 mà mình đang học. Là
ai đây nhỉ? Là Nguyễn Tuân thì phải? Trong khi tôi vẫn còn đang băn khoăn thì người đàn
ông ấy đã quay về phía tôi, nở một nụ cười và bảo:
- Này cô bé, hãy ngồi xuống đây cùng ta!
Tôi vâng lời ông ấy và ngồi xuống. Ngay khi ngồi trực diện tôi mới chắc nịch đó chính là
Nguyễn Tuân chứ không ai khác. Nhà văn ôn tồn hỏi:
- Chắc cháu bất ngờ lắm phải không? Thế cháu có biết ta là ai không?
Tôi quả quyết đáp ngay:
- Dạ bác là nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả của tập truyện “Vang bóng một thời” vô cùng nổi
tiếng phải không ạ?
Nhà văn khẽ gội đầu như muốn xác nhận câu trả lời của tôi. Ôi vinh hạnh biết bao, tôi vừa
vui vừa không tin vào mắt mình. Sao có thể? Tôi liền hỏi:
- Bác ơi! Cháu thực sự rất thích tác phẩm “Chữ người tử tù” nhưng bằng cách nào mà bác lại
có thể sáng tạo nên một tác phẩm tuyệt vời, đặc sắc đến như thế ạ?
Nhà văn cười xòa rồi đáp:
- Cháu biết không? Thực chất mỗi tác phẩm văn học là một cuộc đối thoại giữa nhà văn và
cuộc đời. Vì vậy để tạo nên một tác phẩm thì trước hết nhà văn chúng ta phải mở rộng cõi
lòng đón lấy những âm vang buồn vui của kiếp người, thâm nhập vào cuộc đời để hiểu rõ
hơn những vấn đề về thế sự của con người. Nếu là một nhà văn mà không biết niềm vui của
người khác, đau khổ trước nổi khổ đau của đồng loại thì tác phẩm của nhà văn ấy chẳng có
chút giá trị gì trên địa hạt văn chương nghệ thuật. Bởi tài năng nghệ thuật sẽ chấm dứt khi
nhà văn lạnh lùng, dửng dưng khép kín lòng mình với đời. Cũng nhưng trong sáng tác “Chữ
người tử từ”, nếu ta không hòa vào, không đặt trái tim mình nơi cuộc đời thì làm sao ta nhận
ra cái bộ mặt nhố nhăng, điêu tàn của xã hội Tây Tàu ấy? Làm sao để ta thấu cảm cho bi
kịch của những con người như Huấn Cao, những bậc anh hùng khí phách, dũng cảm hiên
ngan dám theo đuổi lý tưởng, chống lại cái xã hội bất công ngang tàng? Và làm sao để ta
phát hiện ra sâu bên trong viên quản ngục – người đại diện cho triều đình phong kiến kia lại
10
là một tấm lòng ưu ái cái tài, cái đẹp? Do đó, một tác phẩm càng hay, càng đặc sắc bao
nhiêu thì chứng tỏ nhà văn ấy đã lấy trái tim mình để đối thoại, để cảm cuộc đời bấy nhiêu?
Hoá ra, bất kỳ một nhà văn lớn nào thì trước tiên phải là một nhà nhân văn chủ nghĩa. Nhà
văn hắng giọng rồi nói tiếp:
- Và khi đã lắng nghe và thấu hiểu của những bi kịch của nhân loại, khi ta nhận ra cái chân
lý trớ trên của cuộc đời, người có tài hoa, trí dũng song toàn thì bị cho là giặc, người trân
trọng cái đẹp thì phải làm việc ở một nơi mất hế nhân tính, thiên lương, niềm thương cảm và
xót xa cho đồng loại khiến ta không thể để cái hiện thực ấy tiếp tục diễn ra nơi trang giấy.
Bằng cái tâm và bút lực của mình, ta mong muốn kiến tạo cho những con người đáng thương
kia một thế giới tốt đẹp hơn. Vì vậy, ta chọn cách thoát li khỏi hiện thực cuộc sống chật chội
tù túng kia, thay vào đó, ta đào sâu vào thế giới nội tâm phong phú của con người và thể
hiện vẻ đẹp của những khát vọng lý tưởng, ước mơ trong họ.
Thầy tôi đã từng nói “Nguyễn Tuân là một trong những ngòi bút trụ cột của văn học lãng
mạn”, điều ấy mới quả là đúng đáng biết bao. Khi cảm thụ các tác phẩm trong tập “Vang
bóng một thời” của Nguyễn Tuân tôi vẫn luôn được thưởng thức cái thế giới mà nhà văn nói,
một thế giới tôn vinh vẻ đẹp và những hoài bão lớn lao của những con người tài năng nhưng
thất thế, đến giờ đây tôi mới nhận ra điều đó. Bổng nhà văn hỏi tôi:
- Thế theo cháu thì đâu là cái đẹp trong tác phẩm “Chữ người tử tù” nào?
Tôi đắn đo, suy nghĩ cẩn trọng rồi trả lời:
- Theo con, con cho rằng cảnh tượng cho chữ giữa Huấn Cao và viên quản ngục chính là nét
đẹp nhất trong tác phẩm. Và trong cảnh tưởng ấy, con còn nhận ra nhiều vẻ đẹp khác như vẻ
đẹp của tài năng, lương tri con người thể hiện qua con chữ của Huấn Cao, vẻ đẹp của niềm
say mê, kính cẩn trước cái đẹp của viên quản ngục và đặc biệt là vẻ đẹp của tình tri âm, tri
kỷ.
Nhà văn nhẹ nhàng đáp:
- Giỏi lắm cô bé! Con rất hiểu ý của ta! Ta mong muốn xây dựng nhân vật Huấn Cao theo
hình mẫu người anh lý tưởng, cả tài lẫn trí đều hội tụ. Chính vì vậy mà trong tác phẩm, cụ
thể là ở cảnh cho chữ, con sẽ thấy vẻ đẹp của con người ấy được bộc lộ và tôn lên đến đỉnh
điểm. Tài năng qua vẻ đẹp của con chữ thể hiện tầm vóc lớn lao, “hoài bão tung hoành của
một đời người”, đồng thời cũng là niềm trân trọng của riêng ta dành cho con người có nhân
cách lớn ấy. Và qua con chữ, vẻ đẹp được chuyển hóa, tiếp diễn từ vẻ đẹp tài năng của Huấn
Cao trở thành vẻ đẹp trong tâm hồn viên quản ngục, vẻ đẹp của một con người được cảm
hóa, được tìm lại chính mình. Viên quản ngục vốn là một người yêu say mê, mãnh liệt vẻ
đẹp của tài năng, của con chữ. Chính vì vậy khi Huấn Cao chấp thuận với lời thỉnh cầu của
viên quản ngục, con chữ ấy không chỉ thỏa mãn khát vọng thẩm mỹ trong ông ra mà còn
mang ánh sáng thiên lương vào tâm hồn viên quản ngục. Từ đó, con chữ thúc đẩy viên quản
ngục đến sự lựa chọn mang tính chất bước ngoặt đó là sự tôn vinh bảo vệ giá trị của cái đẹp,
dù có phải nguy hiểm đến tính mạng. Ta tin rằng dù òa trong văn chương hay trong hiện
thực đời sống thì vẻ đẹp của tài năng và vẻ đẹp trong tâm hồn con người khi được thức tỉnh,
cảm hóa thì đều là những vẻ đẹp vĩ đại, là những “hạt ngọc” đáng quý nhất.
- Nhưng thưa bác, vì sao bác lại chọn trưng bày cái đẹp ở một nơi tầm thường, u tối thế kia
mà thay vào đó không phải là ở một nơi sang trọng, đẹp đẽ hơn?
Nhà văn trầm ngâm, suy tư một lúc rồi mới đáp lại câu hỏi của tôi”
- Cả cuộc đời ta, ước nguyện lớn nhất và cũng là điều mà ta hằng day dứt mãi đó là đi tìm
cho bằng được vẻ đẹp đích thực của cuộc sống. Ta khát khao được chiếm lĩnh, được tôn thờ
cái đẹp hơn bất cứ điều gì trên cõi đời này! Ta đã đánh đổi cả quãng đời của mình để tìm
kiếm nó và rồi ra nhận ra rằng chỉ có cái đẹp dù tồn tại ở nơi tầm thường, xấu xa mà vẫn
11
ngời sáng những giá trị cao cả, ánh hào quang của nó thì đó mới là cái đẹp thật sự, cô bé ạ!
Chính vì vậy mà ta để cái đẹp cao quý ở một nơi “chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện,
đất bừa bãi phân chuột, phân gián” như nhà tù, bởi hiện thực càng tù túng, xấu xa bao nhiêu
thì giá trị của cái đẹp càng được nâng lên bấy nhiêu. Cái đẹp khiến cái ác phải tránh xa, xóa
đi bóng tối mịt mù, để lại tình cảm đẹp đẽ, hòa quyện giữa một tấm lòng “biệt nhỡn hiền tài”
và một tấm lòng sợ “phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” Cái đẹp biến khoảnh khắc trong
văn học trở thành khoảnh khắc vĩnh cửu, nó khiến cho thời gian như kéo dài vô tận, lấn át đi
cả nổi sợ của cái chết. Tóm lại, đó là một thế giới được ngự trị bởi cái đẹp, nơi có những con
người sáng tạo ra cái đẹp và đem lòng yêu quý cái đẹp.
Ồ! Giờ đây tôi mới hiểu vì sao người đời lại ngợi ca Nguyễn Tuân đến thế, yêu mến mà đặt
cho cái danh hiệu “Người đi tìm cái đẹp” (Nguyễn Đăng Khanh) “Cảnh cho chữ thực là cảnh
tượng đăng quang của Cái Đẹp. Có thể nói đó là cuộc nổi loạn của Cái Đẹp trong thế giới
nhà tù” (Từ dùng của TS Chu Văn Sơn)
[…]
Một tác phẩm chỉ thật sự hoàn chỉnh khi đó là cuộc đối thoại giữa nhà văn – bạn đọc – tác
phẩm. Tác phẩm nào có phải là cái sân khấu vắng lắng nơi chỉ mình nhà văn diễn thuyết cái
tôi của mình. Bởi nhà văn là người tạo ra tác phẩm còn sức sống của tác phẩm lại phụ thuộc
vào độc giả. Mội bạn đọc sẽ có một cách cảm nhận riêng và biết đâu qua đó, ta sẽ phát hiện
ra những vẻ đẹp mà ta chưa tìm thấy, nhận ra được những điều bản thân còn thiếu sót. Khi
đón bạn đọc và tác phẩm, để họ đồng sáng tạo cùng mình, ta sẽ tìm được cho mình những
bằng hữu tri âm tri kỷ, sẽ không còn cảm thấy cô đơn, lẻ loi nữa.
Hóa ra đó chính là cái đời sống trong văn học mà thầy tôi từng nói. Hóa ra một tác phẩm có
thể đối thoại, chuyện trò và lắng nghe con người. Tôi cảm thấy ân hận biết bao vì những suy
nghĩ nông cạn của mình. Đúng, mỗi tác phẩm chính là một cuộc đối thoại giữa nhà văn, tác
phẩm và bạn đọc. Cuộc đối thoại ấy không chỉ khiến con người gần người hơn mà còn là sự
soi chiếu các góc nhìn, quan điểm để từ đó là sáng tỏ, chạm đến chân lý của nghệ thuật, triết
lý của đời sống. Đúng, tác phẩm sẽ chỉ còn là một nữa nếu thiếu đi tiếng nói của độc giả hay
cũng chính là thanh âm của cuộc sống, là sự phản hồi thể hiện nhận thức của con người về
tác phẩm. Nếu không được đối thoại cùng nhà văn, bạn đọc sẽ cảm thấy vô cùng chơi vơi,
mơ hồ vì họ không biết phải làm như thế nào để tác động và cải tạo hiện thực xã hội ngày
một tốt đẹp, lý tưởng hơn.
- Này cô bé! Cháu có cuốn cùng ta sáng tạo nên tác phẩm không?
Tôi vui quá liền đáp:
- Dạ vâng, cháu muốn lắm bác ạ!
“Dậy đi! Dậy di!”, đó là tiếng gọi của cô bạn thân ngồi bên cạnh tôi. Hóa ra, tất cả chỉ là một
giấc mơ thật đẹp! Tôi bần thần nhớ đến lời của nhà văn Nguyễn Tuân rồi tự hỏi lòng:
“Nhưng làm sao để cùng đối thoại với nhà văn đây? Phải chi được mơ nữa thì hay biết mấy!
Nhưng lạ kỳ thay, tôi phát hiện trong tay mình đang cầm một cây bút. Phải chăng đó là một
lời gọi mời? Thật tình cờ làm sao! Ngay khi nhận ra trên tay mình là một cây bút, tôi biết
rằng có một cuộc “đối thoại”, một đời sống văn học đang diễn ra trong trái tim mình.
[Hiểu văn học - hiểu cuộc sống]
Cuộc sống và văn học - hai thứ ấy chẳng khi nào tách rời nhau, chúng gắn liền với nhau như
có một mối quan hệ khăng khít. Cuộc sống hiện lên trong văn học, văn học phản ánh hiện
thực cuộc sống con người. Và điều ây vốn từ lâu đã là một khẳng định không thể chối bỏ.
Bởi vậy khi bạn hiểu được văn học thì cũng là lúc bạn hiểu được cuộc sống, hiểu được tình
cảm, cảm xúc con người giấu trong từng trang sách, biết được quá khứ lẫn hiện tại đã có

12
thay đổi gì và cảm nhận tương lai. Văn học gắn liền với thực tại của đời sống con người, là
đời sống tâm hồn người viết, là nơi chứa đựng mọi cảm xúc khó nói, khó diễn tả.
Từng nghe ai đó nói rằng: “Hương nhụy trong mát và ngọt lành của cuộc sống chính là văn
học”. Văn học và cuộc sống gắn liền với nhau ví như con ong cần mẫn cả cuộc đời gắn liền
với công việc tìm mật ngọt từ nơi những bông hoa xinh đẹp. Văn học - bằng vai trò, chức
năng và tác dụng diệu kì của mình, đã tiếp xúc, thu nhặt những chất liệu từ cuộc sống để
khám phá, tái hiện và nâng cuộc sống lên một tầm cao mới, để tìm đến những giá trị chân-
thiện- mỹ của cuộc đời. Bởi “cuộc đời chính là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học”
(Tố Hữu). Văn học lấy chất liệu từ ngôn từ của chính cuộc sống, trải qua quá trình chọn lọc,
thêm thắt để trở thành những tác phẩm tượng trưng cho đời sống hiện thực.
Mấy ai có thể định nghĩa được trọn vẹn hai chữ "Văn học" hay hiểu rõ chất nghệ thuật mà
văn học chứa đựng. Với thi hào người Pháp - Charles Dubos thì "Văn học, đó là tư tưởng đi
tìm cái đẹp trong ánh sáng", còn với Thạch Lam thì "Văn chương là một thứ khí giới thanh
cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa
làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn". Như Thạch Lam đã nói "Một
nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ". Chỉ có vậy văn
học mới phát sinh và phát triển trên nền tảng cuộc sống xã hội. Và cũng vì thế mà “cuộc đời
chính là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học.”
Văn học bắt nguồn từ cuộc sống thông qua những từ ngữ, hình ảnh, những bút pháp nghệ
thuật mà tác giả đã tài tình vận dụng để phản ánh. Chính cuộc sống bao la, diệu kì với bao
trăn trở, suy tư này lại mang tới chất liệu vô giá, phong phú và trở thành “nơi xuất phát” cho
văn học.
"Văn học trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật", đây là một quan niệm đẹp vô
cùng của Biêlinxki. Hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong trong tác phẩm “Những
ngôi sao xa xôi" của nhà văn Lê Minh Khuê đã khiến ta thấy cuộc sống thời chiến tuy khó
khăn, nguy hiểm cách mấy thì những người con gái phá bom mở đường kia vẫn luôn lạc
quan, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh và họ vẫn luôn nở trên môi
một nụ cười duyên dáng chẳng chút mệt nhoài. Nhà văn ấy đã lấy tác phẩm của mình làm
cách thức để tuyên truyền Cách mạng, mang tư tưởng của đất nước đến gần với mỗi người
độc giả thông qua hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong, bà đã đem bầu máu
nóng của mình tiếp thêm sức cho nhân loại. Nhà văn Vũ Trọng Phụng cũng từng nói ''Các
ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu
thuyết là sự thật ở đời". Đúng vậy! Văn học không phải chỉ là phát hiện rồi ngợi ca những vẻ
đẹp, niềm tự hào đối với đất nước mà còn phải biết nhìn ra sự mất mát, bi thương mà ngay
chính cuộc sống thực đem lại. Hình tượng chị Dậu - người đàn bà với tình yêu to lớn không
màng tính mạng đã đứng dậy để đấu tranh chống lại bọn cường hào áp bức. Nhưng đâu ai
thấu được rằng, trong cái sự mạnh mẽ ấy của chị, đã có lúc chị cảm thấy bất lực, cắn dứt
lương tâm tận tay bán đi đứa con gái của mình, bán đi những chú chó từng là bạn để có tiền
nộp sưu thuế cho chồng, cứu chồng khỏi tay tử thần ác nhân. Nghe từng tiếng khóc nấc, thút
thít của đứa con còn quá nhỏ, cứ gặng hỏi mãi mà chị đau nhói đến tận tâm can, tim như
quặn thắt lại trước lồng ngực, lúc ấy chị như sụp đổ hoàn toàn, chẳng biết nên nói gì hơn lúc
này "U nhất định bán con đấy ư? U không cho con ở nhà nữa ư? Khốn nạn thân con thế này.
Trời ơi!... Ngày mai con chơi với ai? Con ngủ với ai?”. Đến cuối tác phẩm, khép lại là hình
ảnh chị Dậu chạy ra khỏi nhà của lão địa chủ, chị chạy vào khoảng không bao la tăm tối
"Đen như mực, đen như cái tiền đồ của chị vậy''. Từ tác phẩm này mà ta càng thêm thấu hiểu
được nỗi đau đớn đến tột cùng của người, nỗi bất hạnh, thống khổ đến tận cuối đời của
người nông dân lam lũ - những người bị coi thường và bị xem là tận cùng của đáy xã hội
13
xưa. Nếu như ta thấy thương cho chị Dậu bao nhiêu thì ta lại càng cảm thấy phẫn nộ bộ mặt
bọn quan lại, cường hào ác bá, những con người tán tận lương tâm.
Văn học là nơi để ta tìm lại sự bình yên, khơi gợi trong ta những tình cảm tốt đẹp, mang đầy
giá trị nhân văn, giúp ta thêm trân trọng biết bao tình cảm gia đình thiêng liêng, tình yêu đất
nước nồng nàn, trân trọng những giá trị sống của bản thân và cả mọi người xung quanh.
Văn học không chỉ là để phản ánh mà nó còn khiến ta càng thêm yêu quê hương, yêu cội
nguồn của chính mình.
"Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về"
( Đất Nước_Nguyễn Đình Thi)
Khiến chính bản thân ta cảm thấy căm phẫn, xót xa trước cảnh nước nhà bị tàn phá bởi quân
giặc:
"Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy"
(Bên kia sông Đuống Hoàng Cầm)
Khi bạn đọc và thấu hiểu được những trang sách văn chương cũng tức là bạn đang giữ lấy
cho mình những kiến thức về cuộc sống đời thường. Văn chương lấy cảm hứng từ hiện thực
cuộc sống và con người chính là nhân tố quan trọng nhất đề gắn kết văn học với cuộc sống.
[Bàn về cái đẹp]
Trên thế giới này luôn luôn có hai thứ cùng tồn tại song song với nhau, đó chính là cái đẹp
và cái xấu. Con người lâu nay vẫn luôn ý thức được rằng cái đẹp lúc nào cũng là sự lựa chọn
tốt nhất cho chính bản thân mình và vì thế Dostyevsky mới cho rằng “Cái đẹp cứu rỗi thế
giới”, đây là một nhận định tư tưởng tiến bộ mà nhà văn nổi tiếng người Nga đã đưa ra.
Nhưng “cái đẹp” ở đây là gì?
Cái đẹp ở đây chính là nói đến cái đẹp của tư tưởng nhân đạo. Cái đẹp luôn được tìm thấy
trong vẻ đẹp thiên nhiên hay trong đời sống xã hội, trong chính trị, tôn giáo và đặc biệt hơn
hết đó chính là cái đẹp toàn mĩ nhất, là thước đo giá trị của vũ trụ, con người. Người xưa vẫn
thường có câu nói rằng “Tâm sinh tướng”. “Tâm” là chỉ nội tâm bên trong, thể hiện ở tinh
thần con người trong trạng thái tư duy bị chi phối vởi ý thức, tư tưởng của một người.
“Tướng” chỉ tướng mạo, khuôn mặt, hình dáng của một người và nó được thể hiện qua cử
chỉ, hành động cũng như lời nói và ánh mắt của một người. Và người ta cho rằng, nếu bên
trong tốt thì bên ngoài sẽ xinh đẹp, ngược lại bản tính mà xảo trá, gian dối, thâm độc thì bên
ngoài từng bộ phận trên khuôn mặt sẽ thể hiện lại như vậy. Nên theo quan điểm thẩm mĩ thì
cái đẹp là sự tổng hòa theo một tiêu chí thẩm mĩ nào đó, sẽ luôn song hành cùng cái chân và
thiện. Bởi từ đó mà ta lại có thể có “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”, điều này giống như là một quy
luật trong cuộc sống này vậy.
Trong văn học, chúng ta đã bắt gặp biết bao hình ảnh về cái đẹp đã tô thắm trang sách, soi
rọi tâm hồn người đọc. Một vẻ đẹp tuyệt mỹ của Thúy Kiều trong Truyện Kiều – Nguyễn
Du: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”, một tâm hồn cao đẹp sưởi ấm tình cảm người đọc hay
trong bài thơ Thương vợ, Trần Tế Xương đã khắc tạc vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam tần
tảo, giàu đức hy sinh:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sẻo mặt nước buổi đò đông”

14
Đến với Chí Phèo của Nam Cao, hình ảnh mà ta bắt gặp được ở đây đó chính là nhân vật Chí
Phèo, một con người vốn sinh ra đã bị bỏ rơi nhưng hắn ta tốt xấu gì cũng từng mang trong
mình nhân cách lương thiện chân chất, hắn vốn là người có lương tâm nhưng đâu ai biết
được rằng sau khi vào tù hắn đã trở thành một con người khác, hắn không còn là người nữa,
từ nhân hình bên ngoài cho đến nhân tính bên trong đã hoàn toàn bị biến chất trở nên tha hóa
mà từ đó biến thành con quái vật đáng nguyền rũa mà nguyên cả làng Vũ Đại phải khiếp vía
vì hắn. Cuối cùng, bát cháo hành của Thị Nở giúp cũng có lúc tỉnh ngộ ra và muốn trở thành
con người lương thiện. Nhưng số phận đưa đẩy với những thành kiến xã hội một lần nữa đẩy
hắn vào con đường cùng cực để rồi khi kết thúc lại chính là cái kết khiến cho người ta cảm
thấy đau lòng cho một phận đời bi kịch thảm thê như Chí Phèo.
Để lấy lại được cái tâm trong sạch không vướng bận thứ gì thì con người phải thanh lọc tâm
hồn, loại bỏ cái xấu cái ác, thoát khỏi ham muốn, dục vọng tầm thường và trong tâm lúc nào
cũng phải giữ cái đẹp cái thiện cho chính mình để hướng đến một thế giới lí tưởng hơn.
Con người luôn luôn phải tiếp tục hành trình tìm cái đẹp cho mình, quan niệm về cái đẹp
không phải là bất biến, nó vẫn luôn thay đổi từng ngày, từng khắc theo những tiêu chí khác
nhau của lịch sử, dân tộc và sở thích cá nhân. Trong tâm hồn mỗi người đều có khát vọng
nghệ thuật, nhu cầu thưởng thức thẩm mĩ của mỗi người không bao giờ là hết và để thỏa
mãn cái nhu cầu này thì hãy tìm đến văn học, vì trong văn học cái đẹp là điều quan trọng
nhất.
Cuộc sống này luôn tràn đầy muôn màu sắc sinh động, từ những hành động nhỏ cho đến
những việc làm lớn đều có thể tạo ra cái tốt đẹp cho xã hội nhân loại, ta có thể thấy trong
cơn đại dịch Covid-19 đã xuất hiện đâu đó những tấm chân tình, sự lo lắng, sự bảo vệ và sự
hi sinh của những người chiến sĩ trong tà áo trắng phấp phới và không chỉ có họ mà còn có
những thanh thiếu niên xung phong tình nguyện giúp đỡ hay những gia đình thương dân yêu
nước cũng góp một phần tấm lòng của mình trong chiến dịch này. Cùng đến với hoa hậu hòa
bình của năm nay, Miss Grand Nguyễn Thúc Thùy Tiên được gọi tên trong đêm thi đấu hoa
hậu tại Thái Lan, cô ấy là đại diện hoa hậu hòa bình đến từ đất nước Việt Nam, nhiều người
cho rằng cô ấy không đẹp và không xứng đạt giải nhưng tiêu chí chọn hao hậu không phải
nằm ở vẻ bề ngoài mà nó nằm bên trong nội tâm cô ấy, để có thể đạt được vị trí hoa hậu hòa
bình mà cô ấy đã tu dưỡng rất nhiều từ bên trong đến bên ngoài, cô ấy xứng đáng có được vị
trí ấy là vì cô đã thể hiện được tài năng, nhân phẩm, cách ứng xử và thần thái của mình, hoa
hậu đẹp là đẹp ở phần bên trong, không quan trọng vẻ ngoài ra sao mà chỉ cần quan trọng
bên trong cô ấy là một con người như thế nào.
Cái đẹp là thứ vĩnh hằng, là hòm châu báu quý giá mà cho đến tận nay nó vẫn còn nằm sâu
dưới đáy đại dương, từng thế hệ nhà văn đi qua đã khai thác được một ít về nó nhưng nó vẫn
còn là một ẩn số sẽ cần đến thế hệ sau này tiếp nối và khai quật.
Đề bài: Có ý kiến cho rằng: "Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí nhà văn
nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc". Bằng tri thức và trải nghiệm văn
học của mình, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
BÀI LÀM
Nhân loại thường hỏi nhau rằng: Từ bao giờ con người đã xuất hiện trên cõi đời này? Từ bao
giờ con người đã trở thành vầng dương sáng chói, đẹp hơn bất kì loài hoa nào trên Trái Đất?
Kinh Thánh cho rằng: Đức Chúa Trời đã tạo ra người nam là Adam và người nữ là Eva,
chính cặp đôi Adam và Eva đã tạo ra con người. Charles Darwin lại đưa ra quan điểm có
phần khoa học hơn: “Cơn người có họ hàng với loài vượn”. Nguồn gốc của con người vẫn
đang là một bí ẩn, nhân loại muốn tìm hiểu tận tường con người được tạo thành như thế nào
mà khi tồn tại trên đời, hai tiếng “Con Người” lại cao đẹp quá, tinh túy quá, nó khiến muôn
15
loài phải cúi đầu ngưỡng vọng, ngợi ca. Văn học chân chính là văn học viết về con người, ca
ngợi trái tim con người. Hình ảnh con người khi đi vào trang văn đã trở thành nhân vật văn
học, biết khóc biết cười, biết khổ đau biết hạnh phúc, biết khát khao, mơ ước và không
ngừng đấu tranh trong văn chương. Đặt nhân vật văn học trong mối quan hệ với nhà văn và
độc giả, ta nhận ra: Hình tượng nhấn vật được sinh ra từ tâm trí nhà văn nhưng chỉ thực sự
sống bằng tâm trí của người đọc.
Nhận định về hình tượng văn học nêu trên đặt ra hai vấn để mang tính lí luận. Trước hết là
“Hình tượng nhân vật” trong tác phẩm văn chương. Đại văn hào Đức w. Goethe cho rằng:
“Con người là điều thú vị nhất đối vối con người, và con người cũng chỉ hứng thú với con
người”. Rõ ràng là như vậỵ! Khi một nhà văn rung động trước ‘con người” thì anh ta mới
nảy ra những ý tưởng, mượn ngôn từ mà tái hiện con người ngoài đời trong văn chương.
Một tác phẩm văn học nhất định không thể thiếu hình tượng nhân vật. Nhân vật thành công
chính là sự sáng tạo độc đáo, không lặp lại của nhà văn. Tuy nhiên, hình tượng nhân vật
trong văn học không phải là sự sao chép nguyên xi con người ngoài đời, nhà văn phải dùng
tài năng của mình để biến nó trở thành những “hình tượng” sống động, ám ảnh, dường như
đang run rẩy phập phồng trước mắt người đọc. Thông qua hình tượng nhân vật, nhà văn gián
tiếp miêu tả thế giới con người, tái hiện đời sống, hiện thực xã hội ngoài kia. Vấn đê’ thứ hai
mà nhận định trên đặt ra là mối quan hệ giữa nhà văn và người đọc qua chiếc cầu nối là
“hình tượng nhấn vật”. Nhà văn là người trao thân phận, linh hổn, xây dựng tính cách, miêu
tả tâm lí cho nhân vật; còn nhân vật có sống được, có bất tử cùng thời đại hay không là do
người đọc quyết định. Một nhân vật sơ sài, bình thường, chẳng có cá tính gì đặc sắc nhất
định sẽ “chết” ngay khi nó vừa ra đời. Nhưng một nhân vật có tư tưởng vĩ đại, là hình ảnh
đại diện cho nhiều người, nói lên được tiếng lòng của rất nhiều người ngoài đời thật thì nhất
định nhân vật đó sẽ sống trong trái tim người đọc, vượt qua sự thách thức của thời gian. Tác
phẩm văn học và tên tuổi nhà văn vì thế mà giữ được vị trí đặc biệt trên văn đàn.
Trên hành trình yêu văn chương của mỗi người, đọc bất cứ tác phẩm vãn học nào ta củng
thấy sự xuất hiện của “hình tượng nhân vật”. Có nhân vật được nhà văn nhận mặt đặt tên
như chị Dậu (trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố), Xuân Tóc Đỏ (trong Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng), Mị (trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài), Chinh (trong Mùa hoa cải bên sông của
Nguyễn Quang Thiều)… nhưng cũng có những nhân vật vô danh, không phải nhà văn không
nghĩ được cái tên nào thích hợp mà đó là dụng ý riêng của mỗi cây bút khi nhào nặn nhân
vật trong tác phẩm của mình. Người đọc làm sao quên được “thị” – người phụ nữ mà anh cu
Tràng “nhặt” vê’ làm vợ trong nạn đói năm Ất Dậu (trong Vợ nhặt của Kim Lân), người đàn
bà hàng chài vừa đáng trách vừa đáng thương (trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu)… đọng lại trong lòng người những ray rứt, trăn trở không yên khi gấp lại trang
văn. Trước “hình tượng nhàn vật”, người đọc xót xa, rung cảm, khi vui cười, khi lại bật
khóc, nước mắt tràn mi hoặc tỏ thái độ trách cứ nhà văn sao nỡ xô nhân vật vào tường đến
toác đầu, chảy máu. Mỗi nhân vật trong văn chương đều gắn liền với một thông điệp nào đó
mà nhà vãn gửi gắm, chỉ đến khi tác phẩm kết thúc thì người đọc mới có ý niệm đầy đủ,
chuẩn xác về nhân vật mà nhà văn tạo nên.
Hơn nửa thế kỉ trôi qua, vậy mà mỗi khi đi ngang qua “cái lò gạch cũ” nào đấy, thấy một
người nào nhậu say lè nhè “vừa đi vừa chửi” một ai đó, ta lại chép miệng bảo rằng: Đấy, y
hệt cái thằng Chí Phèo – “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại ngày ấy trong trang văn của Nam
Cao. Thế chẳng phải Chí Phèo đã “thực sự sống bằng tâm trí của người đọc” hay sao? Chí
Phèo là nhân vật điển hình trong văn chương, sản phẩm của quá trình tha hóa đầy đau đớn.
Không phải ngẫu nhiên mà ngòi bút lạnh lùng sắc nhọn của Nam Cao lại bình thản miêu tả
quá trình biến chất của một con người vốn dĩ lương thiện, “hiền như đất”. Ờ đây, Nam Cao
16
đã chỉ rõ nguyên nhân biến Chí Phèo từ một anh canh điền hiền lành trở thành “con quỷ dữ
của làng Vũ Đại”, “con vật lạ”, tố cáo chế độ áp bức bóc lột của xã hội thực dân phong kiến
tha hóa bản chất vốn có của con người, tước đoạt nhân hình, bóp méo nhân tính, đau đớn
hơn là triệt đường trở lại làm người lương thiện của người nông dân nghèo. Ngay từ khi xuất
hiện, Chí Phèo đã gây ám ảnh trong tâm trí người đọc. Hình ảnh một thằng say rượu “vừa đi
vừa chửi”, hắn “chửi trời”, “chửi đời”, “chửi ngay tất cả làng Vũ Đại”, “chửi đứa chết mẹ
nào đã đẻ ra thân hắn, đẻ ra cáỉ thằng Chí Phèo”. Tiếng chửi những tưởng vu vơ nhưng
chính nó đã nói lên rất nhiều về thân phận Chí Phèo, bi kịch mà Chí Phèo rơi vào là bi kịch
của một người không được xã hội thừa nhận là con người đúng nghĩa. Bởi thế mà khi Chí
chửi, đáp lại lời hắn chỉ có ba con chó dữ, người làng Vũ Đại tuyệt nhiên không một ai lên
tiếng. Sau khi ra tù, Chí Phèo đắm chìm trong những cơn say. Cái mức độ say của hắn thật
dữ dội: “ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say để rồi say nữa, say vô
tận”. Rượu vào, Chí Phèo trở nên hùng hổ, đáng sợ hơn. Nam Cao khắc đậm trong tâm trí
người đọc hình ảnh một thằng say rượu tay lãm lăm cầm cái mảnh chai đi rạch mặt ăn vạ,
đòi nợ cho bá Kiến – một hình thức biến kẻ bị hại thành công cụ sai khiến cho tên cường hào
ác bá, lọc lõi, khôn róc đời. Hành động điên rổ đó khiến khuôn mặt Chí Phèo trở nên dị
dạng, nó không còn là mặt người, nó là khuôn mặt của một “con vật lạ”, nó “vằn dọc vằn
ngang”, vết sẹo “không thứ tự’ của những lần rạch mặt đòi nợ. Chí Phèo đã gây ra nỗi đau
cho bao nhiêu người: “hắn phá tan bao nhiêu cơ nghiệp, đạp đổ bao nhiêu cảnh yên vui”,
“làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”. Rõ ràng, Chí Phèo là một
nhân vật ám ảnh. Đọc nửa đầu câu chuyện, ta ngỡ đâu đời Chí Phèo cứ mãi trượt dài trong
sai trái, khổ đau. Nhưng không, bằng tấm lòng nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã
không để cho Chí Phèo cứ mãi chìm trong cái ao đầy bùn đen nhơ nhuốc, máu me, tội lỗi và
mê muội. Ở nửa sau truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã tập trung khắc họa mối tình thị Nở
– Chí Phèo, phát hiện và ngợi ca bản chất lương thiện của nhân vật này. Ngòi bút Nam Cao
đã nỗ lực kéo Chí Phèo lên khỏi vũng lầy tăm tối. Chí Phèo gặp thị Nở ngoài vườn chuối
cạnh bờ sông, trong đêm trăng thanh tịnh, trai chưa vợ, gái chưa chồng xao động trong lòng
rồi ăn nằm với nhau, say ngủ dưới trăng. Nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Chi tiết
này là ngọn nguồn của mọi cử chỉ yêu thương mà lần đầu tiên Chí Phèo được nhận từ người
đàn bà “ma chê quỷ hờn”. Được thị dìu vào trong lều, lại nấu cháo hành cho ăn. Món cháo
hành bình thường ấy với Chí lại “thơm làm sao” “cháo hành rất ngon”. Chí tỉnh, lần đầu tiên
con quỷ dữ, con ma men của làng Vũ Đại tỉnh hẳn, có những cảm nhận ban đẩu về thế giới
xung quanh, biết nghĩ về “tuổi già của hắn” một tuổi già “vẫn còn cô độc” một cuộc đời
đáng buồn. Dư vị cháo hành đã vực dậy niểm vui trong Chí, khiến Chí biết “ăn năn”, biết
xốn xang trong lòng, biết “thèm lương thiện” và khao khát tổ ấm gia đình. Đến đây, người
đọc cứ ngỡ rằng “đôi lứa xứng đôi” ấy sẽ nên vợ nên chổng, sẽ sống yên lành trong cuộc đời
bình thường, sẽ hòa nhập cộng đồng và cùng nhau đắp xây tổ ấm. Nhưng không, Nam Cao
khiến tim người đọc nhói đau một lần nữa bởi cái xã hội ấy không công nhận Chí Phèo là
một con người. Chí là quỷ, suốt đời vẫn là con quỷ. Ta thường trách Nam Cao nhẫn tâm, Chí
Phèo có tội tình gì mà lại cho hắn đau khổ này chồng chất đau khổ khác. Nhưng khoan hãy
vội trách Nam Cao, nhà văn chẳng qua cũng chỉ phản ánh cái thực tại tăm tối, tàn nhẫn của
xã hội trước Cách mạng mà thôi. Nam Cao không đáng trách, cả Chí Phèo nữa, anh đáng
thương hơn đáng trách. Có trách thì nên trách cái xã hội lạnh lùng, vô cảm kia đã nhẫn tấm
hành hạ, tha hóa con người, chẳng những khiến họ mất đi giá trị của chính mình mà còn
đóng kín cánh cửa không dung nạp họ vê’ với cuộc đời lương thiện. Trong truyện ngắn Chí
Phèo, cấu nói đau đớn nhất của Chí có lẽ là câu: “Tao muốn làm người lương thiện”. Lương
thiện vốn dĩ là khát vọng bình thường, nhưng với Chí nó lại là thứ xa xỉ, không thể chạm tới
17
bởi xã hội đã án ngữ khiến khoảng cách giữa Chí Phèo và nó ngày càng xa. Chí đi đòi lương
thiện, đòi được sống, nhưng Chí đã đâm chết bá Kiến rồi tự tay kết liễu đời mình trên
ngưỡng cửa trở về với cuộc đời bình thường, lương thiện. Ta hỏi vì sao Chí Phèo lại làm như
vậy trong khi chính anh khao khát được sống lương thiện biết nhường nào? Đặt vào hoàn
cảnh Chí Phèo, ta nhận ra: nếu Chí Phèo chỉ giết chết kẻ thù, người đã gây ra bi kịch đớn
đau cho Chí, nhưng không tự tử thì cái xã hội kia có công nhận Chí Phèo là người nữa hay
không? Hay Chí Phèo lại tiếp tục đi tù, lại một lần nữa bị nhà tù thực dân – phong kiến biến
chất như cái lần Chí vào tù hai mươi năm về trước? Hình ảnh “Mắt hắn trỢn ngược. Mồm
hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra”
khiến người đọc nghẹn ngào, vừa sợ, vừa thương. Con người ấy đã chết vì khát vọng lương
thiện. Con người ấy, sau một khoảng thời gian bị tha hóa đã được sống đúng nghĩa là người
chỉ trong năm ngày, nhưng “Chí đã sống như một con người và chết như một con người”
(Chu Văn Sơn). Từ khi tác phẩm ra đời đến ngày hôm nay, hình tượng Chí Phèo vẫn sống
mãi trong tim bạn đọc. Một anh canh điền có ước mơ. Một nạn nhân của quá trình tha hóa,
biến chất, trở thành con quỷ dữ. Một nhân vật tội nghiệp, dứt khoát chọn cái chết đau thương
khi không thể trở về với xã hội bình thường. Chí Phèo là nhân vật điển hình cho lớp người bị
tha hóa trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Hiện tượng có tính phổ biến
này qua giọng vãn sắc nhọn, lạnh lùng mà chan chứa yêu thương đã khiến người đọc ray rứt,
khắc khoải mãi không thôi.
Một nhân vật văn học có ý nghĩa phải là hình tượng thể hiện một triết lí sống, tin vào những
điều tốt đẹp trên cuộc đời, đấu tranh vì hạnh phúc bởi “Hạnh phúc là đấu tranh” chứ không
phải đợi đến phép màu, bà Tiên hay ông Bụt ra tay giúp đỡ. Hình tượng nhân vật Đào trong
truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải là một con người như thế. Nguyễn Khải đã đặt nhân
vật Đào trên cái nền cảnh nông trường Hồng Cúm sau chiến tranh. Khung cảnh nông trường
có bãi trồng lạc kéo dài, có tiếng “vòng trục quay ù ù của ba cái máy tuốt lạc” – âm thanh
của lao động, nhịp điệu của cuộc sống mới quay đều không ngưng nghỉ. Từ trong không
gian nghệ thuật ấy, nhân vật Đào xuất hiện. Nguyễn Khải đã xây dựng hình tượng nhân vật
này có sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa vẻ bê’ ngoài với tâm hổn bến trong. Đào là
một nhân vật có sức sống tiềm tàng, cái khát vọng sống trong Đào cũng chẳng thua gì cô Mị
trong truyện ngắn Vợ chổngA Phủ của Tô Hoài. Cả thiên nhiên và con người trong Mùa lạc
đểu được Nguyễn Khải tái hiện bằng cảm hứng về sự hồi sinh. Nông trường Hồng Cúm từng
là “mảnh đất chết” trong chiến tranh, giờ sống lại với sắc xanh hoa cỏ, màu của lạc, màu của
mảnh đất tốt tươi. Chị Đào từng là người phụ nữ bất hạnh, khổ đau, từng buông xuôi bất lực
trước cuộc đời, giờ đây tìm thấy niềm vui nơi nông trường Hồng Cúm, trong quá trình lao
động, xây dựng quê hương. Nhắc đến Đào là nhắc đến sự hổi sinh, niềm vui và bản lĩnh của
một người phụ nữ. Chính sự trỗi dậy của Đào để lại ấn tượng trong lòng người đọc chứ
không phải là cuộc đời đau khổ của chị. Văn chương cứu rỗi con người, là đôi cánh nấng
con người từ trong mảnh đất đau thương ra bầu trời vui tươi, rạng rỡ. Nguyễn Khải đã làm
được điều đó. Ẩn đằng sau ngoại hình xấu xí: “Hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất
nhanh, gò má cao đầy tàn hương”, đằng sau cái dáng điệu “đỏng đảnh”, “thân người số sể”
là ước ao được trẻ trung trở lại “như không bao giờ có cuộc đời đã qua” để được hưởng hạnh
phúc bên người Đào thương – Huân – như cái quyền chính đáng của một người phụ nữ.
Nhân vật Đào có hoàn cảnh khổ đau, bất hạnh: “Lấy chồng từ năm mười bảy tuổi, nhưng
chồng cờ bạc, nợ nần nhiều bỏ đi Nam”, chị cũng từng có con nhưng “đứa con trai lên hai
thì chồng chết. Cách mấy tháng sau đứa con lên sài bỏ đi để chị ở một mình”. Từ đó, Đào
trôi dạt, vất vưởng, không nơi nương tựa. Chị lao vào cuộc sống mưu sinh: “đòn gánh trên
vai, tối đấu là nhà, ngã đâu là giường, khi ra Hòn Gai, Cẩm Phả lấy muổng, khi ngược Lào
18
Cai buôn gà vịt, mùa tu hú kêu sang đất Hà Nam buôn vải, tháng sáu lại về quê bẻ nhãn. Khi
thì ở chợ Cuối Chắm, ở đò Tràng Thưa, khi lại vểphố Rỗ, chợ Bì, chợ Bưởi”. Lênh đênh vất
vả như thế, Đào chẳng còn gia đình, chẳng còn người thân yêu để tựa vào. Mỗi ngày chị tổi
tàn, gầy guộc hơn: “hàm răng phai không buồn nhuộm”, mái tóc “khô lại, đỏ đi như chết”.
Chi tiết đó đâu chỉ nói đến sự tàn tạ của một kiếp người mà còn ẩn chứa sự phó mặc, từ bỏ,
buông xuôi, không nắm níu vào cuộc đời nữa, không hi vọng gì ở tương lai. Nhưng bằng
tấm lòng cao quý của nhà văn Nguyễn Khải, ta nhận ra, phía sau tình cảnh vất vưởng, sự bất
lực, buông bỏ ấy vẫn còn có một con người khát khao được sống, được yêu, được tận hưởng
những quyển lợi chân chính của một con người. Niềm vui lao động, sự lạc quan và khung
cảnh đổi mới của nông trường Hổng Cúm đã vực dậy lòng ham sống của Đào. Đào đã nghĩ
về cuộc đời một cách tích cực hơn: “cuộc đời mình chưa phải đã tắt hẳn, một cái gì chưa rõ
nét lắm nhưng đầm ấm hơn, tươi sáng hơn những ngày đã qua cứ lấp ló ở phía trước. Có thể
đấy là cuộc đời còn lại của chị chăng?”. Câu hỏi dường như hé mở phần nào tương lai của
Đào. Nơi nông trường Hồng Cúm, Đào đã sống những ngày đáng sống, suy nghĩ tích cực,
chăm chỉ lao động, kìm nén nỗi đau trong quá khứ, biết nghĩ đến mình và nghĩ đến “ngày
mai” nhiều hơn. Hình tượng nhân vật này đã truyền cảm hứng đến bao thế hệ bạn đọc, khiến
con người sống tích cực hơn, nhân ái hơn. Làm sao quên được người đàn ông mang tên
Quách Hữu Đức từng có quãng đời lẩm lạc, tội lỗi, chuyên đi cướp giật để kiếm miếng án đã
thực sự hoàn lương sau khi đọc xong truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải? Lời tâm sự:
“Truyện “Mùa lạc” của nhà vẫn Nguyễn Khải đã cho tôi tư tưởng hoàn lương và làm người.
Tôi rất biết ơn ông nhà vãn ấy” đã nói lên thật nhiều về giá trị cứu rỗi, sự cảm hóa của tác
phẩm này mà Đào là hình tượng nhân vật tiêu biểu. Ihông qua nhân vật Đào, người đọc nhận
ra cái chân lí quý báu mà Nguyễn Khải nhắn gửi: “Sự sống nảy sinh từ cái chết, hạnh phúc
hiện hình từ trong những hi sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có
những ranh giới, điểu cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy”. Hóa ra,
hoàn cảnh chưa bao giờ đẩy con người ta vào “bước đường cùng”, cuộc sống chỉ đặt ra cho
chúng ta những thử thách, một khi ta đã đủ sức mạnh nội sinh thì chắc chắn ta sẽ bước qua
được, sẽ vững tâm đi về phía trước như chị Đào trong Mùa lạc đã từng. Đó chẳng phải là sức
sống, là sự cảm hóa của nhân vật đối với người đọc hay sao?
Trong văn học, có những nhân vật mà cấu trúc của nhân vật đó không phải là cá tính, không
phải là các phẩm chất đạo đức, xã hội của một loại người nhất định mà mang một tư tưởng
của thời đại tác phẩm ra đời. Nguyệt trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn
Minh Châu là một nhân vật như thế. Khác với những nhân vật của Nguyễn Minh Châu sau
năm 1975, Nguyệt là nhân vật “được tắm gội sạch sẽ và bao bọc trong bầu không khí vô
trùng” (Niculin), nghĩa là đẹp đến toàn diện. Truyện ngắn Mảnh trảng cuối rừng được
Nguyễn Minh Châu viết trong thời kì đẩu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mĩ ở miển
Bắc. Tính đến nay, đã bao nhiêu năm trôi qua, chiến tranh đã nguội lạnh từ lâu và những tác
phẩm văn học khác lần lượt ra đời, những tưởng Mảnh trăng cuối rừng bị mây trời che
khuất. Nhưng không, Nguyệt vẫn sống trong tim người đọc, gắn liền với tên tuổi của nhà
văn Nguyễn Minh Châu. Một vẻ đẹp lãng mạn, ngọt ngào từ ngoại hình đến tâm hổn. Bằng
từ ngũ’ chọn lọc, Nguyễn Minh Châu gây ấn tượng với người đọc vê’ “một vẻ đẹp giản dị và
mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ khác hẳn với nhiều cô
gái công trường thường cô nào củng thấp và đẫy đà”. Trong đêm đi nhờ xe Lãm, dưới ánh
trăng soi xuống rừng khuya, Nguyệt đã hiện lên thấp thoáng và dịu dàng như mảnh trăng
non ngà: “Cơ ta mặc áo xanh chít hông vừa khít, mái tóc dày tết thành hai dải”, ngay cử chỉ
của cô cũng thật nhẹ nhàng, ý tứ: “Cơ gái cố ý ngồi sát mé cửa, chiếc làn cói ôm gọn trong
lòng”. Tuổi xuân phơi phới, vẻ đẹp căng tràn, Nguyệt đã biết yêu và cô củng có người yêu.
19
Mục đích đi nhờ xe Lãm đến cẩu Đá Xanh trong đêm trăng cũng chỉ để “đi thăm người yêu
đấy” như lời Nguyệt thú nhận. Xinh đẹp là thế, e thẹn và mỏng mảnh là thế! Nhưng trong
khoảnh khắc bom rơi đạn lạc, Nguyệt lại mạnh mẽ vô cùng. Cô gái ấy mang nét đẹp của
người phụ nữ Việt Nam thời chinh chiến, anh hùng, quả cảm, không sợ súng đạn, không sợ
hi sinh. Tính cách của Nguyệt là tính cách của người con gái Việt Nam, được hun đúc nên từ
những con người kiên trung đi trước.
Thấp thoáng trong Nguyệt là bóng dáng của chị út Tịch (trong Người mẹ cầm súng của
Nguyễn Thi), chị Sứ (trong Hòn Đất của Anh Đức), Phương Định (trong Những ngôi sao xa
xôi) – rất dịu dàng mà củng rất bản lĩnh. Nguyệt là nhân vật mang vẻ đẹp lãng mạn, được lí
tưởng hóa, man mác chất sử thi – một đặc trưng của văn học cách mạng Việt Nam. Nét đẹp
đó được ánh lên trong cảnh “máy bay ầm ầm”, “Địch bắn hai mươi li đỏ lừ, nghe rát cả
mặt”, Nguyễn Minh Châu miêu tả hành động dũng cảm của Nguyệt khi dẫn Lãm đi qua con
đường mà cô nắm rõ tình hình, lúc thì ‘Túm lấy” mà kéo Lãm trở lại khi Lãm cố chạy về
phía xe để bảo vệ chiếc xe, khi lại “Nhanh và khỏe hết sức”. Nguyệt đã chỉ huy chiếc Gát
của Lãm vượt qua con đường chông chênh, trên trời máy bay ráo riết, tiếng bom dội ầm ầm.
Lời nói: “Anh ngoặt sang trái… Trước mặt có hố bom đấy… Chuẩn bị, sắp lên một cái dốc
có cua” chứng tỏ sự am hiểu về cung đường hành quân, cung đường chiến đấu. Người con
gái Việt Nam là vậy đó, bình thường nhẹ nhàng, hiền hậu đúng mực, khi có giặc thì mạnh
mẽ, dũng cảm, không chịu khuất trước quân thù. Ta lại nhớ đến lời tuyên ngôn đầy khí khái
của người con gái Việt Nam: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, hay câu nói bất hủ của chị
út Tịch: “Đánh giặc còn cái lai quần cũng đánh”. Mưa bom bão đạn chẳng qua chỉ là môi
trường thử thách ý chí con người, lòng dũng cảm, sự quyết tâm và lí tưởng chiến đấu cao
đẹp của một thời. Nguyệt – nhân vật lãng mạn, nhân vật sử thi, ngay cả lúc bị thương củng
toát lên được lòng gan dạ sắt, tinh thần yêu nước sắt son: “Anh cứ yên tâm, vết thương chỉ
sướt da thôi. Từ giờ đến sáng em có thể đi lên đến tận trời được”. Thế thì còn gì táo bạo
hơn? Chừng ấy năm trôi qua, Nguyệt vẫn lung linh trên trang văn, gắn liền với bóng dáng
Mảnh trăng cuối rừng. Phẩm chất của Nguyệt là phẩm chất của con người Việt Nam không
hể nao lòng trước hung hãn, bạo tàn. Nguyễn Minh Chấu đã ca ngợi cô gái nhỏ nhắn, xinh
đẹp và quả cảm ấy qua lời độc thoại nội tâm đầy xúc động của Lãm: “Qua bấy nhiêu năm
tháng sống giữa cảnh bom đạn tàn phá những cái quý giá do chính bàn tay mình xây dựng
nên, vậy mà Nguyệt vẫn không quên tôi sao? Trong tâm hồn người con gái nhỏ bé, tình yêu
và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn giội
xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi ư?”. Truyện ngắn Mảnh trăng cuối
rừng giàu chất trữ tình và nhân vật Nguyệt mang vẻ đẹp lí tưởng, dẫu thời gian trôi qua,
những gương mặt tác giả mới xuất hiện với những tác phẩm tạo được tiếng vang trên văn
đàn, song mỗi khi nhắm mắt hồi tưởng vể văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Mĩ,
chắc hẳn ta không thể bỏ qua hình ảnh Nguyệt trong hàng ngủ những người Việt Nam yêu
nước, cống hiến sức mình cho Tổ quốc.
Tù’ thuở sơ khai đến tận bây giờ, văn học và nhân học luôn song hành cùng nhau. Đối tượng
mà văn học phản ánh chính là con người và khi tác phẩm ra đời, tác phẩm lại trở vê’ phục vụ
đời sống con người, vực dậy tình cảm, khát vọng, ước mơ của họ để từ đó con người sống
tốt đẹp hơn. Nhà văn trong hành trình cuộc đời bằng sự quan sát tinh tế, những trải nghiệm
của bản thân, sự sáng tạo đã hình tượng hóa con người ngoài đời vào tác phẩm văn chương
khiến hình tượng nhân vật văn học trở nên sinh động, lung linh trên trang viết. Nguồn cảm
hứng là hiện thực cuộc sống và con người, chất liệu là ngôn từ, nhân vật từ đó ra đời – sản
phẩm của quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc của nhà văn. Người đọc trong quá trình
tiếp cận nghiền ngẫm tác phẩm nhận ra “sản phẩm tinh thần” đó đáng đọc hay không? Hay
20
hay dở? Không phải người “thai nghén”, “sinh đẻ” ra hình tượng nhân vật nhưng người đọc
đã ngấm ngấm nuôi dưỡng, chăm chút hay lạnh lùng khai tử nhân vật văn học ấy đi. Rõ ràng
vai trò của người đọc vô cùng quan trọng. Trong Lí luận vãn học (Tập 1 – Phương Lựu chủ
biên) có nhận định: “Tác phẩm mà không đến với người đọc, thì chẳng khác nào một bức
thư không có địa chỉ. Ngay tác phẩm lớn mà chưa đến được người đọc, thì nhiều lắm cũng
chỉ là những di vật quý báu, nhưng chưa được trưng bày”. Đối với hình tượng nhân vật,
người đọc là kẻ quyết định bảo tồn hay đào thải khỏi đời sống văn học, chọn lựa cự tuyệt
hay hấp thụ, tiếp nhận nhưng cũng có phán xét, bình phẩm? Ta nhận ra vấn để: Hình tượng
nhân vật sinh ra từ tâm trí nhà văn nhưng chỉ thực sự sống trong tim người đọc là một vấn đề
vô cùng chuẩn xác, khẳng định tính hai chiều của nhà văn – bạn đọc mà trung gian là hình
tượng nhân vật trong tác phẩm văn chương.
Trước tác phẩm và hình tượng nhân vật trong tác phẩm, cúi đầu ngưỡng mộ hay dứt bỏ, cự
tuyệt không chỉ là chuyện của người đọc mà còn là chuyện của người cầm bút, sáng tạo. Bởi
sự xuất hiện của hình tượng nhân vật cũng như sự xuất hiện của con người trên cõi đời này
phải trải qua một quá trình gian khổ, vất vả, đầy tâm huyết. Nhà văn phải sống và trải
nghiệm, có tài năng, có sự thăng hoa xúc cảm và lao động nghệ thuật một cách nghiêm túc
mới có thể xây dựng hình tượng nhân vật như ông mong muốn. Mới hay, thiên chức của nhà
văn thật lớn lao, cao cả biết bao nhiêu. Từ trong trang văn, nhân vật văn học đã ngoi lên,
sáng ngời những phẩm chất quý báu với chức năng hướng thiện, cảm hóa con người. Tác
phẩm như thế mới là tác phẩm chấn chính. Nguyễn Minh Châu nói rất chuẩn xác: “Vản học
và cuộc sống là hai đường tròn đổng tâm mà tàm điểm chính là con người”. Những hình
tượng nhân vật tuyệt mĩ mang đến cho người đọc nguồn năng lượng tích cực được hình
thành từ quá trình mày mò tỉ mẩn và đầy tâm huyết của nhà văn nhất định sẽ bất tử cùng thời
gian
-
BÀI VĂN ĐẠT GIẢI NHẤT QUỐC GIA 2014
Đề bài:
Câu 1. Nghị luận xã hội ( 8.0 điểm )
Phải chăng sống là tỏa sáng
Câu 2. Nghị luận văn học ( 12.0 điểm )
Văn học chân chính ngay cả khi nói về cái xấu, cái ác cũng chỉ nhằm nói lên khát vọng
về cái thiện, cái đẹp.
Suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến trên.
Câu 1:
Tôi là ai? Sự sống của tôi có ý nghĩa gì? Ba trăm năm nữa liệu có ai còn biết đến sự tồn tại
của tôi trên cõi đời này? Tên tuổi tôi, cuộc đời tôi có lẽ nào sẽ chìm khuất vào quên lãng? Có
người hỏi tôi rằng: Phải chăng, sống là toả sáng? Chao ôi! Chắc chắn sống là toả sáng.
Chúng ta nên hiểu “sống” ở đây theo nghĩa rộng. “Sống” không chỉ mang nghĩa sinh học,
không chỉ là sự tồn tại. Hơn nữa, nói một cách chính xác, chúng ta đang nói đến “sống” là
tổng hoà tất cả những hoạt động của con người với tư cách xã hội, là con người xã hội. Sự
sống ấy gắn liền với những giá trị người vì chỉ con người mới có kết cấu xã hội. Con người
không chỉ tồn tại mà còn “sống”, không chỉ có phần “con” mà còn mang tư cách “Người”.
Sự sống của muôn loài chỉ nhằm mục đích duy trì và phát triển nòi giống, sự tiến hoá, sự
sống của con người còn là vì chính mình, vì những lí tưởng cao cả. Chúng ta có ý thức về
bản thân, về lẽ sống, về giá trị cuộc đời của riêng mình. Nhưng nhất là chính ta hiểu rằng
mình là một cá thể độc đáo duy nhất trong vũ trụ. Toàn nhân loại không có một con người
thứ hai giống hệt ta. Vậy nếu như sự duy nhất ấy bị hoà tan đi thì ta còn ý nghĩa gì nữa?
21
Bất kể ai có ý thức sống đều muốn vươn lên những cái đẹp, cái thiện cao hơn, vươn lên trở
thành Con Người viết hoa. Mỗi người có một lối sống khác nhau, tuỳ theo mơ ước, khát
vọng của riêng mình. Cá nhân tôi cho rằng, sống đẹp là chưa đủ, con người cần phải sống
“toả sáng”. Cố nhiên sống đẹp thì mới có thể “toả sáng” nhưng “toả sáng” còn là sự khẳng
định mình, làm cho mình không bị quên lãng trong kí ức của mọi người. Trái ngược với
sáng là tối. Cuộc đời như đêm tối thì không ai thấy, do vậy mà không ai nhớ. Con người
không chỉ cần “đẹp” mà còn là “đẹp theo một cách riêng”.
Nói “toả sáng” là một cách diễn đạt rất giàu hình ảnh. Sự sống của ta có thể “toả sáng” được
chắc chắn phải có những phẩm chất. Đó là những nét đẹp được cả cộng đồng thừa nhận và
khuyến khích. Nói một cách cụ thể, trước khi muốn “toả sáng” thì phải “sống cho ra người”.
Không thể là một nhân cách lệch lạc, một đạo đức khuyết, một trí tuệ không đầy đủ. Con
người trước khi vươn tới cái đẹp, thì cần phải sống – như GS. Hoàng Ngọc Hiến nói – cho
“hẳn hoi”. “Hẳn hoi” là một từ rất Việt, khó có thể tìm một từ nào trong ngôn ngữ khác có ý
nghĩa thật gần với nó. Nhưng “hẳn hoi” không hề khó hiểu. Sống cho “hẳn hoi” chính là nền
tảng cho sống “toả sáng”. Bản thân sống hẳn hoi cũng có ánh sáng của nó, đó là ánh sáng
của cốt cách vững vàng, của một con người tuy không nổi trội nhưng “đẹp, đẹp hài hoà, đẹp
cân xứng”. Có rất nhiều người không hiểu do vô tình hay cố ý mà không sống “hẳn hoi”
được: kẻ thì quá đề cao vật chất, sống không biết đến sự di dưỡng tinh thần, người thì sống
ảo tưởng, lấy điểm tựa siêu hình để bào chữa, cho rằng “nghèo” mới giữ đạo đức thanh cao
được.
Nhưng “toả sáng” không phải chỉ là “hẳn hoi”. Muốn “toả sáng” được nhất định phải có một
thế mạnh của riêng mình. Sở trường không thể làm nên toàn bộ giá trị của một người nhưng
chính là yếu tố khẳng định giá trị của con người. Muốn “toả sáng” trước hết phải có tài năng.
Tài năng có thể do bẩm sinh nhưng phần nhiều do rèn luyện mà có. Tài năng là khả năng
làm những công việc đạt được hiệu quả cao, vượt lên trên mức trung bình, thậm chí vượt lên
trên người khác. Mỗi người có một tài năng riêng, do vậy, tài năng chính là yếu tố khẳng
định của mỗi người. Những chiếc huy chương ở các kì thế vận hội chính là sự khẳng định
của tài năng, đó là “toả sáng”. Những thành tích, thành tựu cao không thể không có sự đóng
góp của tài năng. Có người nói, trong điểm mười tuyệt đối thì tám điểm là của sự cố gắng,
nỗ lực, chỉ có hai điểm thuộc về năng khiếu. Tôi không phủ nhận điều đó. Nhưng xin bổ
sung thêm, hai điểm của “năng khiếu” chính là điểm chín và điểm mười. Nếu không có tài
năng thì dù có nỗ lực đến đâu cũng chỉ là tối đa điểm tám. Muốn có chín, có mười nhất thiết
phải giỏi hơn người bằng cái tài. Trong một bài kiểm tra hay trong cuộc sống, người được
điểm mười là người “toả sáng”, được nhớ đến!
Tuy thế, sống là toả sáng không chỉ là vượt trội, là “vĩ đại” trong khoảnh khắc. Muốn sự
sống của mình thực sự toả sáng thì phải kiếm được điểm chín, điểm mười cho bài thi tốt
nghiệp của cuộc đời. Nghĩa là điểm mười được “chấm” cho cả đời người. Khẳng định được
tài năng của mình là toả sáng. Nhưng không phải chỉ mình ta mới có tài năng. Mà lịch sử lại
thường chỉ ghi danh những người tài giỏi bậc nhất. Do đó, muốn thực sự “toả sáng”, cần
phải đẩy tài năng của mình lên đỉnh cao nhất, luôn luôn phấn đấu vượt qua những người giỏi
nhất. Để không chìm vào quên lãng, không thể không biến mình thành số một hoặc ít nhất là
nỗ lực để biến mình thành số một.
Điều đánh dấu sự trưởng thành cũng như khẳng định chính xác nhất một tài năng chính là
những thành tựu. Xét cho cùng thì lịch sử cũng chỉ đánh giá một tên tuổi dựa trên thành tựu.
Những điều ta làm được sẽ quyết định rằng ta có “toả sáng” hay không. Cuộc sống thường
khắc nghiệt nhất ở điều ấy. Cho dù ta nói rằng bản thân đã cố gắng hết mình, nhưng nếu kết
quả là thất bại, anh vẫn là kẻ thất bại. Nếu chỉ ôm ấp tài năng của mình, ngồi tự hào về nó
22
trong buồn ngủ thì vĩnh viễn không thể “toả sáng”. Để có được thành tựu lớn nhất của mình,
con người cần phải hành động quyết liệt.
Sự “toả sáng” của một người suy cho cùng cũng là để nhân loại không lãng quên mình. Do
đó, muốn thực sự “toả sáng” được, cần phải có những đóng góp vào cuộc đời chung. Sự
sống về vật chất của ta sau sinh, lão, bệnh ắt sẽ đến tử. Cát bụi lại trở về với cát bụi. Con
người chỉ có thể bất tử khi cuộc đời, sự nghiệp của mình ghim vào kí ức cộng đồng. Hơn thế
nữa, khi con người chỉ đặt mục tiêu sống vì mình, chúng ta sẽ không bao giờ tạo ra được
một thành quả to lớn. Muốn có thành tựu vĩ đại, phải hướng đến những lí tưởng phục vụ cho
cuộc sống chung. Bên cạnh chất “cao cả” của lí tưởng, một mục tiêu lớn mới có khả năng
thúc đẩy con người phát huy hết năng lực của mình, đạt được những thành tựu kì vĩ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khi ra đi từ bến Nhà Rồng không có mục đích nào khác ngoài lí tưởng giải
phóng cho dân tộc. Tôi cho rằng, Bác đã thành công một nửa khi dám nghĩ, dám làm, dám
đặt ra mục đích của một đời như vậy.
Có lẽ sẽ có nhiều người cho rằng, cuộc sống vốn đã đẹp, được sống, được tận hưởng thế giới
đã là một điều may mắn và mãn nguyện. Nhưng trong chúng ta, bao nhiều người còn nhớ về
cụ nội của mình? Và bao nhiêu người sẽ được chắt mình nhớ tới? Chỉ trong vài thế hệ, cả
một cuộc đời đã chìm vào quên lãng. Cuộc đời tôi không thể như vậy!
Câu 2.
Người ta thường nói, văn học, nghệ thuật là địa hạt của cái đẹp. Biê-lin-xki cho rằng: “Cái
đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật. Nếu thiếu cái đẹp thì không có, không
thể có nghệ thuật”. Vậy nhưng, trong lịch sử, ta thấy vẫn có những tác phẩm văn chương
viết về cái xấu, cái ác mà vượt qua thời gian và mọi sự sàng lọc để trường tồn. Sức sống của
chúng minh chứng rằng văn chương bao giờ cũng là địa hạt của cái đẹp, đẹp ngay cả khi đề
cập đến cái tàn ác, xấu xa. Đúng như ý kiến: “Văn học chân chính ngay cả khi nói về cái
xấu, cái ác cũng chỉ nhằm thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện”.
Văn chương là nghệ thuật sử dụng chất liệu ngôn từ để xây dựng hình tượng nghệ thuật. Và
“văn học chân chính” phải là những tác phẩm nghệ thuật thể hiện đời sống con người cũng
như cái nhìn sâu sắc, mới lạ của nhà văn về thực tại ấy. “Văn học chân chính” là chuyện đời,
chuyện người, chính xác hơn, là tình đời, tình người. “Cái ác, cái xấu”,… là những phương
diện tiêu cực, có tác hại xấu đến đời sống. “Cái đẹp, cái thiện” là những giá trị, những hiện
tượng có tính thẩm mĩ cao nhất, làm đẹp, làm “tốt” hơn cho con người cũng như xã hội.
Nhận xét trên đã khẳng định một quy luật của văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung:
Luôn luôn hướng tới cái đẹp. Ngay cả khi viết về cái xấu, cái ác cũng phải là tạo “cớ” để thể
hiện khát vọng vươn tới cái cao cả và đẹp đẽ, để bồi dưỡng năng lực thẩm mĩ của con người.
Phải thừa nhận rằng, trong lịch sử văn chương có những tác phẩm viết về cái đen tối, cái tiêu
cực nhưng vẫn có sức sống cao.
Trước hết, văn học phản ánh cuộc sống của con người. Các Mác quan niệm: “sự tồn tại của
mọi người chính là quá trình sống thực tế của họ”. Trong quá trình sống thực tế của xã hội
có tồn tại cái ác, cái xấu. Văn học, với tư cách là một hình thái ý thức, không bỏ qua sự
“phản chiếu”, ghi lại cuộc sống ở cả mặt bóng tối.
Mặt khác, theo nhà văn Nga M. Go-rơ-ki thì “văn học là nhân học”. Trong bản chất “nhân
học” ấy, văn chương chú ý tới thể nghiệm, khám phá con người tự nhiên, con người với
những mong muốn, khát vọng nhân bản cũng như những đặc trưng tâm lí bản năng. Không
phải ngẫu nhiên mà các sáng tác bị cho là “dâm” và “tục” của Hồ Xuân Hương có sức sống
lâu bền đến vậy. Trong con người ở góc độ “tự nhiên”, trong tính cách thiên nhiên của nhân
loại cũng ẩn tàng mầm mống của cái ác, cái xấu, của lòng đố kị, tính ích kỉ.

23
Vậy cái xấu, cái ác tồn tại trong văn chương là điều không thể phủ nhận. Nhưng không phải
không có một “chuẩn” nào cho những tác phẩm có giá trị thực sự.
Khi phản ánh những “góc khuất”, những phương diện tiêu cực của đời sống con người, để
có được những sản phẩm nghệ thuật chân chính, nhà văn phải đứng ở đỉnh cao của lí tưởng
thẩm mĩ để soi chiếu. Nhà văn lấy tâm hồn cao đẹp của mình để nhìn vào bóng tối, vạch trần
nó, phán xét nó. Bằng cái nhìn của lí tưởng thẩm mĩ, người cầm bút mới có được khả năng
khai thác sâu sắc cái xấu, cái ác. Hơn thế nữa, càng là những nhân cách cao cả, những tâm
hồn cao đẹp, con người ta càng nhạy cảm với cái đen tối, cái xấu xa. Vũ Trọng Phụng được
giáo dục trong một môi trường gia giáo mà người mẹ của ông đặt ra, bằng những tư tưởng
Nho gia chặt chẽ. Do đó, không ai phát hiện, nhìn thấu cái dâm, cái đểu, cái bịp bằng ông
(cố nhiên cũng là cái “tạng” riêng của nhà văn). Nhiều người khi đọc Nguyễn Huy Thiệp chế
văn ông “ghê ghê” nhưng nhà văn này lại có điểm tựa thẩm mĩ của mình, đó là thiên tính nữ
(các nhân vật nữ của Thiệp hầu hết đều vô cùng đẹp), là mối quan hoài, nỗi lòng xót xa
trước cuộc đời.
Ở một góc độ khác, cần phải nhớ rằng, một trong bốn biểu hiện quen thuộc nhất của chủ
nghĩa nhân đạo (humanisme) là lên án, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp lên quyền sống,
lên thân phận con người. Một trong những nội dung của chủ nghĩa này là phê phán cái xấu,
cái ác. Những tác phẩm văn chương chân chính thường không thể thiếu được sự kết tinh của
chủ nghĩa nhân đạo. Do vậy, nếu viết về cái xấu, cái ác cũng là để công kích nó. Quan trọng
hơn, là thể hiện khát vọng vệ cái thiện, cái đẹp.
Trong đời sống nói chung, cái đẹp và cái xấu, “ánh sáng” và “bóng tối” không phải bao giờ
cũng phân biệt rạch ròi. Chẳng những thế, con người có một đặc tính mà như Lép Tôn-xtôi
gọi là tính “lưu luyến” (fluidité). Khi thông minh, khi lại ngu dốt, khi mạnh mẽ, khi lại yếu
đuối, khi ác, khi thiện… Chính con người cần đến văn chương để bồi đắp lí tưởng thẩm mĩ,
dùng cái nhìn của văn học để nhận thức, phân biệt thiện – ác, tốt – xấu. Quan trọng hơn, văn
nghệ, văn học giúp người ta ghét cái ác, yêu cái thiện, ghê cái xấu, mến cái tốt. Hoặc bằng
thái độ phê phán hoặc châm biếm, có khi cả hai, văn chương giúp con người ta tránh xa cái
xấu, vươn tới cái đẹp, cái thiện.
Có thể nói, văn chương chân chính từ xưa đến nay, ngay cả khi nói về cái xấu, cái ác cũng
chỉ nhằm thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện. Trong văn học Việt Nam, từ truyện cổ
tích, từ ca dao đến thơ ca ngày nay đều mang đặc tính ấy. Truyện Tấm Cám xây dựng hai
tuyến nhân vật đối lập thuộc hai thái cực hoàn toàn trái ngược nhau. Mẹ con Cám là các
nhân vật phản diện, là hiện thân của cái ác. Ở đây, tác giả dân gian khai thác, thể hiện sự
tăng tiến của cái ác. Từ việc đối xử không công bằng với Tấm đến những âm mưu và hành
động hãm hại Tấm, thậm chí lấy mạng cô Tấm. Chính sự gia tăng tội ác này mới là đáng sợ.
Qua quá trình gia tăng ấy, tác giả dân gian muốn hình thành ở người đọc sự căm ghét và
phản đối ngày một quyết liệt hơn. Quan trọng hơn, khát vọng về cái đẹp, cái thiện được đề
cao. Cụ thể qua hai tình tiết. Thứ nhất, mặc dù mẹ con Cám hết lần này đến lần khác hãm
hại Tấm, thậm chí ngày một tàn độc hơn, cô Tấm vẫn bền bỉ, vẫn tiếp tục hoá thân để chuẩn
bị cho sự trở lại. Nhân dân thể hiện niềm tin vào cái đẹp, cái thiện, công lí. Rằng chúng là
bất diệt, cái ác không bao giờ chiến thắng được hoàn toàn cái thiện. Thứ hai, với sự “lên
ngôi” của cô Tấm và việc mẹ con Cám bị trừng phạt, tác giả dân gian thể hiện khát vọng về
chiến thắng cuối cùng của cái đẹp, cái thiện cũng như sự diệt vong của cái ác, cái xấu! Mặc
dù trong phần lớn câu chuyện, cái ác, cái xấu liên tục thắng thế, chèn ép cái thiện, cái đẹp.
Nhưng khi truyện kết thúc, độc giả vẫn hài lòng với sự bất diệt tất yếu của cái đẹp.
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có hai tuyến nhân vật. Một bên là Thuý Kiều, Kim
Trọng, Từ Hải, bên kia là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Ung, Khuyển,… Cuộc đời Kiều
24
long đong, lận đận, tủi nhục, đau khổ vô cùng cũng là do sự vô nhân tính, độc ác của một
loạt những kẻ xấu. Mối tình với Kim Trọng tan vỡ, Từ Hải bị hại, Kiều phải hứng chịu “biết
bao gió dập sóng dồi”. Bằng bản Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du lên án xã hội phong
kiến và những thối nát, xấu xa của nó, bày tỏ lòng đồng cảm, xót thương với con người tài
hoa, bạc mệnh. Bất cứ ai cũng không khỏi day dứt trước sự thiếu công bằng mà xã hội
phong kiến dành cho người phụ nữ mà nhất là người phụ nữ tài hoa. Khát vọng về cái thiện,
cái đẹp đã góp phần giúp cho đại thi hào Nguyễn Du có được một cái nhìn vô cùng nhân
văn. Cái nhìn ấy thể hiện qua câu nói của Kim Trọng:
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
Nguyễn Du khẳng định, sau bao nhiêu tủi cực, khổ nhục, Kiều vẫn đẹp, đẹp viên mãn. Thậm
chí, Kiều còn đẹp hơn xưa, cái đẹp của Kiều “hơn mười rằm xưa”.
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu ra đời năm 1983, trong
thời kì văn học Việt Nam đang bắt đầu chuyển mình. Từ quỹ đạo chiến tranh, đời sống trở
về nhịp độ hoà bình. Truyện viết về đời sống của những người lao động nghèo thời kì đất
nước mới ra khỏi lửa đạn. Trong giai đoạn ấy, bóng đen thực dân, đế quốc đã không còn,
nhưng lại có những bóng đen khác đang đè nén con người.
Nhà nhiếp ảnh Phùng tận mắt chứng kiến cảnh một người chồng đánh vợ mình bằng chiếc
thắt lưng một cách tàn bạo. Lão chồng quật liên tiếp vào lưng vợ, vừa đánh vừa nghiến răng
ken két, vừa đánh vừa nguyền rủa: “Mày chết đi cho ông nhờ! Chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ!”. Nhưng không phải chỉ một lần, người đàn bà còn bị đánh “ba ngày một trận nhẹ,
năm ngày một trận nặng”.
Điểm sâu sắc của Nguyễn Minh Châu là cắt nghĩa, lí giải cái ác này. Cụ thể, tác phẩm, nhà
văn đưa ra ba lí do. Thứ nhất là cái khổ. Có những “vụ bắc”, cả gia đình “toàn ăn cây xương
rồng luộc chấm muối”. Chính người vợ nói rằng cứ khi nào cảm thấy khổ quá là lão lôi chị
ra đánh. Thứ hai là sự bế tắc. Vì không biết giải quyết cái khổ thế nào nên lão đàn ông phải
tìm cách giải toả. Đánh vợ như một sự giải toả đối với anh ta. Như những người khác thì
uống rượu. Nhưng uống rượu cũng chỉ là sự bế tắc. Quan trọng nhất là lí do thứ ba này: sự u
mê về ý thức làm người. Trong hoàn cảnh gian khổ khó khăn, đáng ra cả gia đình phải biết
yêu thương, đùm bọc – lẫn nhau. Đằng này họ lại hành hạ nhau. Bởi gã đàn ông đó cả đời
lênh đênh trên biển, xa cách khỏi xã hội, hắn không hiểu thế nào là sống cho ra người. Từ sự
cắt nghĩa, lí giải đó, Nguyễn Minh Châu đề nghị một cái nhìn thẳng thắn vào tình trạng xã
hội. Qua đó, thể hiện mong muốn cải tạo đời sống con người, trước hết là làm cho no ấm đời
sống vật chất. Sau đó là hướng đời sống tinh thần đến cái thiện, cái đẹp.
Có thể nói văn học viết về cái xấu, cái ác còn là trên góc độ những nạn nhân của chúng. Tức
là khai thác mâu thuẫn giữa cái đen tối và cái tốt đẹp cũng như với thân phận con người. Từ
việc chỉ ra cái xấu, cái ác và sự xâm hại của nó đến cái đẹp, đến những giá trị cao cả, văn
học đem đến cho con người cảm nhận về cái bị (tragic). Cái bị cũng hướng tâm hồn con
người đến cái đẹp, cái thiện. Và cũng như Arít-xtốt nói, có khả năng “thanh lọc” (catharsis)
tâm hồn con người. Ông viết trong Thi học: “…với những tình tiết làm thức tỉnh tình thương
và sự sợ hãi, và qua đó, thực hiện sự thanh lọc đối với những cảm xúc ấy”.
Từ góc độ mĩ học, có thể nhìn nhận cái xấu, cái ác như những phạm trù thẩm mĩ cục bộ –
với cái đẹp – mang ý nghĩa khái quát, là hạt nhân của mĩ học, cái mà để chính xác nên gọi là
cái thẩm mĩ (aesthetic). Có thể nói, cái xấu, cái ác cũng là một phần tạo nên cái thẩm mĩ, là
một biện chứng của cái đẹp (cục bộ). Do đó hoàn toàn có thể xuất hiện trong nghệ thuật.
Cố nhiên, nói về cái xấu, cái ác cũng chỉ nhằm thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện, Nếu
viết về cái tiêu cực mà không có điểm tựa lí tưởng thẩm mĩ và nhất là định hướng thẩm mĩ,
25
tác phẩm sẽ rơi vào chủ nghĩa tự nhiên hoặc chủ nghĩa dung tục. Chức năng thẩm mĩ là chức
năng quan trọng nhất của văn chương, nó làm cho nghệ thuật trở thành hoạt động tinh thần
không thể thay thế được.

26

You might also like