You are on page 1of 31

Chuyên đề: VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM

A. Sự phát triển của trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam
Để có một trào lưu văn học thì bao giờ cũng cần có một hay nhiều người khởi xướng với sự
tham gia tích cực của văn giới, và được đón nhận đông đảo của độc giả. Từ 1932 đến 1945 đã nổ
ra hàng loạt các cuộc tranh luận văn học sôi nổi được tham gia của nhiều tờ báo và các nhà văn,
nhà thơ: tranh luận về Thơ Mới thơ cũ, tranh luận về bỏ cũ theo mới, tranh luận về hôn nhân và
gia đình, tranh luận về nghệ thuật phục vụ cái gì. Các cuộc tranh luận này phản ảnh cuộc đấu tranh
giữa lễ giáo phong kiến với tự do cá nhân, giữa khuôn sáo và tư tưởng gò bó với cảm xúc cá nhân
được tự do bày tỏ. Hai tờ Phong Hóa và Ngày Nay do Nhất Linh và nhóm Tự Lực Văn Đoàn chủ
trương là cơ quan ngôn luận cổ võ mạnh mẽ cho sự thay cũ đổi mới và là nơi qui tụ văn chương
của các nhà văn, nhà thơ trong trào lưu văn học lãng mạn gồm có Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ,
Huy Cận, Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú Tứ.
Sự thành công của trào lưu văn chương lãng mạn cũng phải kể đến các tờ Hà Nội Báo, Tiểu
Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tao Đàn, Thanh Nghị với sự tham gia của các tác
giả như Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Phạm Huy Thông, Bích Khê, Nguyễn Tuân,
Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Xuân Sanh, v.v. Sự toàn thắng của phong trào Thơ Mới cũng là tiếng
trống khải hoàn cho trào lưu văn học lãng mạn, chấm dứt hoàn toàn lối thơ văn cũ từ thời Đông
Dương Tạp Chí và Nam Phong trở về trước.
B. Đặc điểm của văn chương lãng mạn thời kì 1932 - 1945
Văn chương lãng mạn đánh dấu một cuộc cách mạng trong văn học Việt Nam đã thay đổi hệ
thống tư tưởng thời phong kiến bằng cách thay thế cái ta trong văn chương lịch triều sang cái tôi
của văn học hiện đại. Cái tôi không còn là cái đáng ghét nữa. Trước kia, cái tôi cá nhân không có
địa vị trong văn học và xã hội. Cá nhân được sử dụng như một hình ảnh tượng trưng và bị hòa tan
trong cái chung. Trong nền văn chương lịch triều tính cách phi ngã ngự trị hầu hết tác phẩm văn
học Việt Nam. Ngay cả những nhà thơ lớn như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Khuyến cũng chỉ nói đến cái tôi một cách sơ sài, mờ nhạt, ước lệ.
Chủ nghĩa lãng mạn thực sự đã thỏa mãn được nhu cầu tự do sáng tác và phát huy bản ngã của
người làm văn học nghệ thuật. “Sự xuất hiện ý thức về cái tôi cá nhân là một bước tiến quan trọng
trong hành trình tư tưởng và nghệ thuật của nhân loại. Bởi vì sáng tạo nghệ thuật mang tính đặc
thù, đó là sự sáng tạo của một cá nhân... Cho nên sự giải phóng bản ngã, giải phóng cái tôi của
chủ thể sáng tạo sẽ phát huy khả năng sáng tạo của nghệ sĩ, làm xuất hiện nhiều phong cách cá
nhân”. Nhờ thế, trong giai đoạn văn chương lãng mạn 1932-1945 với 13 năm ngắn ngủi, văn học
Việt Nam đã sản xuất được nhiều phong cách cá nhân độc đáo. Về thi ca có Thế Lữ với hồn thơ
rộng mở, Lưu Trọng Lư mơ màng, Huy Thông hùng tráng, Nguyễn Nhược Pháp trong sáng, Huy
Cận ảo não, Nguyễn Bính quê mùa, Chế Lan Viên huyền bí, và một Xuân Diệu tha thiết, rạo rực,
băn khoăn. Trong văn xuôi, cái tôi khinh bạc, giang hồ lãng tử thể hiện trong tập Tùy Bút của
Nguyễn Tuân, cái tôi người hùng có mặt trong hầu hết các tiểu thuyết của Lê Văn Trương như
Một Người, Tôi Là Mẹ, Chồng Chúng Ta. Đòi hỏi giải phóng cá nhân ra khỏi những ràng buộc
khắt khe của lễ giáo phong kiến được phản ảnh qua tác phẩm Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng,
Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng, Đôi Bạn của Nhất Linh, Làm Lẽ của Mạnh Phú Tứ.
TÁC GIẢ THẠCH LAM
I.Khái quát cuộc đời và sự nghiệp văn chương
Thạch Lam là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam trong chặng đường nửa
đầu thế kỉ XX. Tác phẩm của ông đã đem đến cho văn xuôi Việt Nam một phong cách mới, góp
phần làm phong phú diện mạo của nền văn học nước ta trong bước chuyển mình trên con đường
hiện đại hóa.
Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân. Ngoài bút
danh Thạch Lam, ông còn bút danh khác là Việt Sinh. Thạch Lam sinh ngày 07 tháng 07 năm
1910, tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Ông là con thứ sáu trong gia đình có bảy người con. Ông sinh ra và
lớn lên trong hoàn cảnh gia đình bắt đầu sa sút về kinh tế. Thuở nhỏ, có thời gian ông cùng gia
đình chuyển dời về sống ở thị trấn Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, một phố huyện nhỏ, nơi Thạch
Lam đã gắn bó gần nửa cuộc đời của mình, và cũng chính nơi đây đã để lại dấu ấn sâu sắc trong
sáng tác của ông từ cảnh vật thiên nhiên đến cuộc sống của con người.
Năm 1931, Thạch Lam đỗ tú tài, bắt đầu viết báo, viết truyện. Sau đó, ông cùng hai người anh
là Nhất Linh và Hoàng Đạo lập ra nhóm Tự lực văn đoàn, đây chính là cái nôi ươm mầm cho tài
năng nghệ thuật của ông. Bắt đầu từ năm 1933 đến năm 1941, ông liên tục có tác phẩm được xuất
bản, bao gồm đủ các thể loại, một số tác phẩm tiêu biểu như: Gió đầu mùa (tập truyện ngắn); Nắng
trong vườn (tập truyện ngắn); Ngày mới (tiểu thuyết); Theo Giòng (tập tiểu luận); Hà Nội băm sáu
phố phường (tập kí)...trong đó thành công nhất của Thạch Lam vẫn là ở thể loại truyện ngắn.
Ông mất ngày 28 tháng 6 năm 1942 tại làng Yên Phụ vì bị bệnh lao phổi.
II. Quan niệm văn chương của Thạch Lam
1.Quan niệm về chức năng của văn chương
Quan niệm văn chương của Thạch Lam không chỉ thể hiện bằng những sáng tác mà nó còn
được nêu lên như một tuyên ngôn trực tiếp của ông. Trong lời nói đầu cho Gió đầu mùa, ông viết:
“Bởi vì đối với tôi, văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên,
trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, vừa để tố cáo và
thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong
phú hơn”.Với quan niệm tích cực như vậy, ông đã tự tách mình ra và vươn xa hơn so với các nhà
văn thuộc khuynh hướng lãng mạn đương thời. Ông đã phủ nhận loại văn chương thoát li, xa rời
hiện thực đồng thời ông khẳng định vai trò, sức mạnh cao cả của văn chương, đó là vừa tố cáo vừa
cải tạo hiện thực và vừa thanh lọc tâm hồn con người.
2.Quan niệm về nhà văn
Khi nói về phẩm chất của người nghệ sĩ, nếu như nhà văn Nam Cao đề cao khả năng tìm
tòi, đào sâu suy nghĩ và sáng tạo thì Thạch Lam đặc biệt coi trọng tính thành thực. (Thành thực
ở đây là vừa trung thành với hiện thực cuộc sống xã hội vừa chân thành với chính tâm hồn mình).
Theo Thạch Lam, một nhà văn không thành thực, không bao giờ trở nên một nghệ sĩ. Đối với ông,
mọi sự tô hồng cũng như bôi đen cuộc sống này đều là giả dối. Trong những trang viết của Thạch
Lam không có những chuyện tình thơ mộng kiểu kẻ trần gian người tiên giới, không có bức tranh
thiên nhiên hoa mĩ diễm lệ hay xây dựng những tình huống xung đột một cách khuôn sáo mà trong
tác phẩm của ông luôn là những cảnh thực, người thực. Từ cảnh sống cùng quẫn, đói nghèo của
người mẹ quê đông con (Nhà mẹ Lê) đến bức tranh chiều quê êm đềm, buồn bã, tẻ nhạt (Hai đứa
trẻ) hay là một căn phòng trọ nhớp nháp, bẩn thỉu (Tối ba mươi)...tất cả là một sự thu nhỏ của hiện
thực cuộc sống đang diễn ra từng ngày, nó được thể hiện bằng cảm xúc chân thành của một trái
tim nhân ái bao la. Không có sự dũng cảm, thành thực trong nghề văn thì không thể làm được điều
ấy
3.Quan niệm về tác phẩm
Theo Thạch Lam, một tác phẩm nghệ thuật muốn có sự tồn tại bền vững thì nhất thiết tác phẩm
ấy không phải nhằm mục đích chạy theo phong trào, thỏa mãn những thị hiếu nhất thời của độc
giả mà tác phẩm ấy phải vươn đến sự vĩnh hằng, diễn tả một cách sâu sắc và chân thực bản chất
của đời sống hiện thực và đạt đến chiều sâu trong cảm xúc con người. Làm sao để mọi người dù
ở đâu, lúc nào mà mỗi khi soi vào đó, họ cảm thấy có cái gì đó phải suy nghĩ, trăn trở. Có lẽ vì vậy
mà nhân vật trong sáng tác của ông thường là kiểu nhân vật nội tâm, nhân vật tự thức tỉnh.
Nhà văn Thạch Lam không nhìn nhận cuộc sống hiện thực một cách xuôi chiều hay đánh giá con
người từ một phía mà ông để cho nhân vật của mình luôn có sự nhìn lại bản thân, suy xét thông
qua đối lập giữa bản thân mình và người khác, giữa quá khứ và hiện tại. Đi sâu khám phá và diễn
tả sâu sắc những khía cạnh còn khuất trong tâm hồn con người,Thạch Lam đã tạo cho nhân vật của
mình một sự hấp dẫn kì lạ, có sức sống lâu dài và sức lay động sâu xa, đúng như ông đã từng tâm
niệm về “một thứ khí giới thanh cao và đắc lực”.
III. Những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn Thạch Lam
1.Nội dung
Phong trào dân tộc dân chủ 1936 -1939 đã có tác động mạnh mẽ đến văn học thời kì này. Người
nông dân, người lao động nghèo thành thị bắt đầu trở thành đối tượng thu hút sự quan tâm nhiều
của đội ngũ sáng tác. Viết về đời sống của những người nghèo khổ này trở thành một đề tài phổ
biến, thành công nhất phải kể đến tên tuổi những nhà văn thuộc khuynh hướng văn học hiện thực
phê phán. Riêng đối với nhà văn Thạch lam, nội dụng này chiếm vị vị trí khá lớn trong sự nghiệp
cầm bút của ông. Trong khoảng 23 truyện ngắn tiêu biểu của ông thì có đến một nửa lượng tác
phẩm viết về người nông dân và người lao động, trẻ em con nhà nghèo, số còn lại viết về đời sống
của lớp thanh niên tiểu tư sản và thị dân. Khi đề cập đến đời sống của người dân ở nông thôn, tác
giả Thạch Lam không đặt họ trong mâu thuẫn gay gắt theo quan hệ địa chủ - nông dân. Trong
truyện ngắn của mình, ông chỉ nghiêng về hẳn về một phía đó là lực lượng bị áp bức, còn kẻ bóc
lột thì hầu như không trực tiếp xuất hiện. Ông viết về người nghèo khổ là muốn đi sâu vào đời
sống nội tâm của nhân vật và bày tỏ cảm xúc, cảm thông và tình yêu thương chân thành của mình.
Ông đặc biệt quan tâm đến phụ nữ và trẻ em với sự trân trọng và diễn tả thế giới nội tâm phong
phú ở họ. Những nhân vật phụ nữ và trẻ em hiện lên qua từng trang văn Thạch Lam đều mang vẻ
đẹp thanh cao và giàu lòng thương cảm, thấm đẫm những yêu thương đồng loại.
2. Cốt truyện
Một trong những đặc trưng của truyện ngắn Thạch Lam đó là những truyện không có cốt truyện
đặc biệt. Thế giới nhân vật trong sáng tác của ông nhìn chung không nhiều, và trong truyện, tác
giả cũng không để người đọc theo đuổi nhân vật từ đầu đến cuối, từ quê quán, họ hàng đến những
sự kiện, biến cố trong cuộc đời. Trong truyện, nhân vật cũng không có nhiều hành động, lời nói,
mạch truyện cũng không cần có những điểm nút cao trào, mà ông thường dừng lại, tập trung xoay
quanh một tình huống nào đó, tưởng chừng như rất bình thường nhưng lại toát lên tâm trạng của
nhân vật. Đây là cách xây dựng truyện thường thấy và làm nên phong cách truyện ngắn của Thạch
Lam.
Dụng ý nghệ thuật của tác giả khi xây dựng cốt truyện như vậy có lẽ là để thu hẹp khoảng không
gian, rút ngắn thời gian, từ đó, tâm trạng của nhân vật trở thành một tâm điểm để ngừi đọc có thể
quan sát, theo dõi những diễn biến một cách tinh vi của nó.
3.Không gian và thời gian
Không gian và thời gian trong truyện ngắn Thạch Lam là không gian và thời thời gian thực, nó
gắn liền với sinh hoạt thường nhật của con người. Tuy nhiên người đọc có thể chia sẻ cảm giác
ngột ngạt với nhân vật khi mà cái không gian ấy dường như trở nên quá chật chội. Tồn tại trong
khoảng không gian ấy, con người dường như thu nhỏ, bó hẹp cuộc đời của mình, tách rời với thế
giới xung quanh, chỉ còn một mình đối diện với chính mình, để có thể bộc lộ những niềm trăn trở,
âu lo, xót thương mình và thương người. Chính từ đây, ta thấy lướt qua không gian thực tại, truyện
lại mở ra những không gian khác, đó là không gian của tâm trạng.
Truyện ngắn của Thạch Lam, rất hay có sự đan xen giữa thời gian quá khứ với thời gian của
hiện tại. Từ cuộc sống của thời gian hiện tại, nhân vật mơ tưởng về quá khứ xa xăm, dĩ nhiên so
với hiện tại của họ thì quá khứ là những chuỗi ngày êm đềm, một khoảng thời gian đẹp mà nay
không còn nữa...Quá khứ ngày nào chợt quay về với nhân vật như một sự minh chứng cho cái
buồn thương, bế tắc của hiện tại và nó cũng dự cảm một sự mờ mịt ở phía tương lai.
Trong truyện ngắn của Thạch Lam có một chi tiết nghệ thuật mà người ta không thể không nhắc
đến mỗi khi phân tích tác phẩm, đó là hình ảnh của bóng đêm. Có thể nói, bóng tối có mặt khắp
nơi và nó cứ trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm khác nhau làm cho người đọc phải suy nghĩ về số
phận của các nhân vật đang bị trùm phủ, bao bọc giữa bóng đêm ấy. Đôi lúc nhà văn đã cho thắp
lên vài ngọn đèn nhưng dường như chút ánh sang ấy không đủ phá tan màn đêm mà ngược lại còn
tô đậm thêm cái tĩnh mịch của không gian tối tăm ấy. Với nhân vật trong tác phẩm của Thạch Lam,
bóng đêm như một sự ám ảnh đang sắp đổ ập lên cuộc đời họ. Con người sống lặng lẽ, sinh hoạt
lầm lũi trong sự tối tăm, bóng tối làm cuộc sống đã tẻ nhạt, đơn điệu giờ đây thêm phần ngột ngạt,
bế tắc, chúng ta đọc mà cứ như đang chứng kiến một sự tàn lụi dần mòn.
4.Ngôn ngữ
Giọng điệu và ngôn ngữ trong truyện của Thạch Lam giàu chất trữ tình. Mỗi truyện ngắn
của Thạch Lam có cấu tứ và giọng điệu như một bài thơ trữ tình, gợi sự thương xót trước số phận
của những con người nhỏ bé bất hạnh, một giọng văn bình dị mà tinh tế, trữ tình. Đó chính là chất
thơ trong truyện ngắn Thạch Lam “có cái dịu ngọt giăng tơ ở đâu đây khiến người ta vương phải”.
Giọng thủ thỉ tâm tình khiêm nhường mà đằm thắm, kín đáo và giản dị. Những nét đặc sắc trong
truyện ngắn Hai đứa trẻ cũng là nét đặc sắc của phong cách Thạch Lam. Bằng tài năng sử dụng
ngôn từ, nhà văn đưa người đọc đến với một phố huyện nghèo đang mỗi lúc chìm dần vào đêm
tối. Người đọc dường như đang ở bên những đứa trẻ nghèo mà lắng nghe những thanh âm buồn
bã, mà chứng kiến bao kiếp người lam lũ đang khát khao một cuộc sống tươi sáng hơn. Văn Thạch
Lam thuần phác, giản dị, tinh tế, nhẹ nhàng uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, nhạc điệu.
Nhạc điệu trầm lắng mà vang ngân, từng hành vi cử chỉ của nhân vật dù nhỏ vẫn chuẩn xác, gợi
tả. Có thể nói Hai đứa trẻ là một bài thơ trữ tình trọn vẹn của Thạch Lam.

HAI ĐỨA TRẺ

Thạch Lam

Trong nền văn học dân tộc, Thạch Lam có một vị trí đặc biệt. Nhắc đến ông, người ta
nghĩ ngay đến những áng văn xuôi thấm đẫm chất trữ tình và giàu khí vị của thơ với những xúc
cảm mong manh, mơ hồ, nhẹ nhàng, tế vi tựa như những cánh bướm non. Hai đứa trẻ là một tác
phẩm như thế.

Hai đứa trẻ tiêu biểu cho phong cách truyên ngắn của Thạch Lam

I.TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả:
a. Cuộc đời:
- Thạch Lam (1910-1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh sau đổi thành Nguyễn Tường
Lân.
- Xuất thân trong một gia đình công chức gốc quan lại, thuở nhỏ thường ở quê ngoại: phố
huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
>> Phố huyện nghèo này đã in đậm trong tâm trí ông và là không gian nghệ thuật chủ yếu
trong nhiều sáng tác.
- Là em ruột của Nhất Linh, Hoàng Đạo, cả ba đều là thành viên trụ cột của Tự lực văn đoàn.
(Xuân Diệu, Thế Lữ, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo).
- Vừa viết văn vừa làm báo, là cây bút chủ chốt của hai tờ báo Phong hoá, Ngày nay.
b. Sự nghiệp sáng tác:
 Quan điểm sáng tác nhân văn, tiến bộ:
- “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và
thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch
và phong phú hơn”.
- “Thiên chức của nhà văn là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng,
yêu thương hơn”.
 Nội dung sáng tác:
- Chủ yếu viết về nông thôn và người dân nghèo: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường
bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân
nghèo…” (Nguyễn Tuân).
- Thường viết hay và xúc động về cuộc sống con người nơi phố huyện.
 Phong cách sáng tác: Nhà văn viết truyện ngắn tài hoa, xuất sắc:
- Thường viết những truyện có cốt truyện nhẹ nhàng, đơn giản như không có chuyện.
- Chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những xúc cảm mong manh, mơ hồ.
- Giọng điệu điềm đạm nhưng chứa chan tình cảm.
- Văn trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc.
 Tác phẩm chính:
- Tập truyện ngắn: Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942).
- Tiểu thuyết Ngày mới (1939).
- Tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường (1943).
- Tập tiểu luận Theo dòng (1941).
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ
- Truyện ngắn Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn (1938).
- Tác phẩm là hồi quang kí ức tuổi thơ của nhà văn; khung cảnh phố huyện là “nguyên mẫu”
từ phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, nơi tác giả sống thời thơ ấu.
b. Mấy nét chính về nội dung và nghệ thuật:
- Là truyện không có cốt truyện, chủ yếu là thế giới nội tâm nhân vật.
- Gửi gắm kín đáo, nhẹ nhàng tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
- Là tác phẩm có sự hoà quyện cả hai yếu hiện thực và lãng mạn trữ tình.
c. Bố cục
- Từ đầu đến “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”: Phố huyện lúc chiều về.
- Từ “Trời đã bắt đầu đêm” đến “… những cảm giác mơ hồ không hiểu”: Phố huyện lúc
đêm xuống.
- Phần còn lại: Phố huyện lúc đoàn tàu đi qua.

d.Tóm tắt truyện

- Truyện kể về hai đứa trẻ, tên là Liên và An, vốn từ Hà Nội chuyển về phố huyện nghèo,
trông coi một cửa hàng tạp hoá.
- Chiều đến, hai chị em ngồi ngắm cảnh phố huyện lúc hoàng hôn.
- Đêm xuống, dù buồn ngủ nhưng vẫn cố thức để đợi đoàn tàu đêm đi qua.

e.Chủ đề

- Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã thể hiện một cách nhẹ nhàng và thấm thía
niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, bế tắc trong xã hội
Việt Nam trước CMT8.
- Đồng thời, ông cũng thể hiện sự trân trọng đối với những ước mong tuy còn mơ hồ của họ.

II.TÌM HIỂU VĂN BẢN

1. Bức tranh thiên nhiên phố huyện:

a.Bức tranh thiên nhiên - lúc chiều về:

Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi
chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy
tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng
theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve.

 Màu sắc
- Phương tây đỏ rực như lửa cháy.
- Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn.
- Dãy tre làng trước mắt đen lại.

>> Cái rực rỡ của một ngày sắp đi qua, bóng tối bắt đầu bao phủ và chiếm lĩnh không
gianNgày đã tàn.

 Âm thanh:
- Một buổi chiều êm ả như ru.
- Tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng.
- Tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng của chị em Liên.

>> Không gian êm ả, dịu nhẹ, hiu hắt buồn và tĩnh lặng >> Không gian của làng quê Việt Nam
êm ả lắm, thanh bình lắm >> Bút pháp thơ ca lấy động tả tĩnh (những âm thanh nhỏ, từ xa vọng
lại) >> Thi vị, lãng mạn dìu dặt ý thơ trong thơ của Hồ Dzếch: Chiều chậm đưa trên ngàn/
Tiếng buồn vương trong mây.

Hay trong thơ của Xuân Diệu: Có buồn nào bằng buổi chiều êm / Mà ánh sáng mờ dần cùng
bóng tối.Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối/ Đêm bâng khuâng đôi miếng lẩn trong cành.

Lời văn hay lời thơ trữ tình đượm buồn.

 Mùi vị: Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá,
khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này.

>> Mùi vị của cuộc sống đói khổ, lầm than, cơ cực.

 Miền quê Việt Nam với cảnh vật hiện lên vừa êm đềm, thơ mộng, vừa thắm đượm một nỗi
buồn bâng khuâng >> Sự đan cài của yếu tố hiện thực và lãng mạn.

 Cảnh vật hiện ra đã gợi lên đúng một buổi chiều quê dân dã >> Tình cảm gắn bó với quê hương
đất nước >> cảm nhận tinh tế của nhà văn Thạch Lam.

b.Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện khi đêm xuống và bút pháp tương phản

 Cảnh phố huyện khi đêm xuống ngập đầy bóng tối
Bút pháp tương phản được sử dụng hữu hiệu: Tương phản giữa ánh sáng le lói, mờ nhạt trong
sinh hoạt của người dân phố huyện với bóng tối của màn đêm.

Ánh sáng Bóng tối


- Vòm trời hàng ngàn ngôi sao lấp lánh (lãng - Bóng tối ngập đầy dần.
mạn, đẹp). -Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy
- Vệt sáng của những con đom đóm bay là là bóng tối.
trên mặt đất (thi vị, nên thơ)
- Đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu. -Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con
- Cửa hàng còn thức chỉ để hé ra một khe ánh đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại
sáng. càng sẫm đen hơn nữa.
- Quầng sáng xung quanh ngọn đèn của chị Tí.
- Một chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi
trong đêm tối.
-Chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí, bếp lửa của - Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông,
bác Siêu chiếu sáng một vùng đất cát. con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng
-Ngọn đèn của Liên vặn nhỏ, thưa thớt từng lại càng sẫm đen hơn nữa.
hột sáng lọt qua phên nứa.
>> Ánh sáng được miêu tả rất đặc biệt: khe >> Vừa dày đặc, vừa mênh mông.
sáng, hột sáng, chấm sáng, quầng ánh chỉ Nền tối đang thống lĩnh và ngự trị nơi phố
chiếu một vùng đất nhỏ. huyện nghèo này.
>> Nếu có ánh sáng thì ánh sáng ở xa và ở
một nơi khác không thuộc về phố huyện.
Ánh sáng không đủ sức và không đủ lực để
thắp sáng cho phố huyện>>Màn đêm đè nặng
lên không gian nơi đây.

 Chi tiết: Ánh sáng nơi ngọn đèn của chị Tí (7 lần): “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.
- Quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí.
- Giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí chiếu sáng một vùng đất cát.
- Một thế giới khác hẳn với các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí.
- Chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ.
- …

>> Việc đưa vào tác phẩm ánh sáng nơi ngọn đèn con của chị Tí hẳn phải có dụng ý nghệ thuật.

+ Ánh sáng nơi ngọn đèn của chị Tí:

>> Ý nghĩa tả thực: ánh sáng của tự nhiên, ánh sáng vật lý của ngọn đèn nơi gian hàng của chị Tí
nhỏ bé, leo lét, chiếu ra, hắt ra.

>> Ý nghĩa biểu tượng: Cuộc sống mù tối, chìm khuất của những con người tưởng chừng như bị
“bỏ quên” nơi phố huyện >> Giữa cuộc sống đổi thay và tràn đầy ánh sáng niềm vui thông qua
hình ảnh đoàn tàu thì những con người nơi đây vẫn sống nghèo khổ cả về vật chất lẫn tinh thần>>
Nếu không có đoàn tàu đi qua hằng đêm thì thế giới phố huyện tách bạch với bên ngoài như một
ốc đảo heo hút và vắng người qua lại>> Ngọn đèn leo lét và mù tối vẫn không hề tắt, chập chờn,
từng ngày, từng đêmKhát vọng nhỏ bé và mong manh cho những con người nơi phố huyện
nghèo.

 Màn đêm bao phủ, ánh sáng tuy có được nói đến nhưng là nguồn sáng yếu ớt, mỏng manh, mờ
nhạt, ít ỏi, le lói Những kiếp sống mù tối, lay lắt, nhỏ bé của những thân phận như “bị bỏ quên”
nơi gác xép phố huyện.

2.Bức tranh đời sống:

- Ấn tượng đầu tiên là không gian chợ chiều: Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và
tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm
ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng
là mùi riêng của đất, của quê hương này.

>> Chợ đã vãn, xơ xát, tiêu điều gắn với nghèo khổ của những con người nơi đây.
.Cận cảnh là những con người nơi phố huyện nghèo: có đến cả 3 thế hệ: Bà cụ Thi, Bác siêu,
Gia đình bác xẩm, Mẹ con chị Tí (và Ba mẹ của chị em Liên), những đứa trẻ nghèo ven chợ, hai
chị em Liên.

>> Sự nghèo khổ về vật chất và sự nghèo nàn tẻ nhạt về tinh thần.

a.Cuộc sống vật chất nghèo khổ, lam lũ, tạm bợ:

- Công việc vất vả, lay lắt, tạm bợ qua ngày:

+ Mẹ con chị Tí: Ngày đi mò cua bắt tép; tối dọn hàng nước để bán cho mấy người phu gạo, mấy
chú lính lệ, người nhà thầy thừa đi gọi tổ tôm>> Sớm với muộn chả ăn thua gì và chả kiếm được
bao nhiêu.

+ Gia đình bác xẩm: góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu; thằng con bò ra đất, nghịch nhặt những
rác bẩn vùi trong cát; trước mặt là cái thau trắng>> Cả đêm chưa nghe thấy một tiếng đồng, tiếng
trinh nào vang lên.

+ Gia đình bác phở Siêu: khá hơn>> quà của bác Siêu là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị
em Liên không bao giờ mua tới.

+ Bà cụ Thi: bà già hơi điên, đến mua rượu rồi lẩn đi vào bóng tối với tràng cười khanh khách>>
cuộc đời xế chiều ảm đạm.

+ Chị em Liên:

+)Trông coi một cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu>> Ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì.

+)Đếm những phong thuốc lào, xếp vào hòm các bánh xà phòng, vừa lẩm nhẩm tính hàng>> Thôi
để mai tính (tiền) một thể Bán chẳng được bao nhiêu nên việc đếm tiền cũng không còn quan
trọng.

+)Phải thức đến khi tàu xuống để bán hàng, may ra còn có người mua>> Liên không còn trong
mong ai đến mua nữa, chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng.

+ Mấy đứa trẻ con nhà nghèo: Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất
đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của
các người bán hàng để lại.

Cuộc sống lam lũ, vất vả nhưng vẫn nghèo đói, khắc khổ và lay lắt qua ngày.

- Những vật dụng nghèo nàn, tồi tàn, nhỏ bé:

+ Gian hàng của chị em Liên: nhỏ xíu, thuê lại, ngăn ra bằng một tấm phên, cái chõng sắp gãy.
+ Gian hàng của mẹ con chị Tí (đôi ba vật dụng của gánh hàng nước): cái điếu đóm, hai cái ghế,
ngọn đèn hoa kì…

+ Gia đình bác xẩm: manh chiếu, thau sắt trắng trước mặt, chiếc đàn bầu.

Cuộc đời thật đáng thương, tội nghiệp với gia sản nhỏ bé và tàn tạ.

b. Cuộc sống tinh thần nghèo nàn, nhàm chán, vô vị:

 Nhịp sống đơn điệu, quẩn quanh, bế tắc:


- Nghe câu nói và tràng cười khanh khách, chị em Liên không cần ngoảnh mặt cũng biết ai
vào hàng.
- Chiều nào chị Tí và đứa con cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”.
- Tối nào bác Siêu cũng nhóm lửa bán phở, gia đình bác xẩm ngồi chờ khách, người nhà cụ
thừa đi gọi tổ tôm.
- Ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng và dặn đóng cửa hàng lại.
- Chị em Liên tối nào cũng tính tiền hàng, cũng ngồi trên chõng tre nhìn phố huyện và chờ
đoàn tàu đi qua.
- Cũng như mọi đêm, Liên không trông mong còn ai đến mua nữa.
Phải chăng là một dụng ý nghệ thuật của Thạch Lam khi dùng những từ ngữ chỉ sự lặp
đi, lặp lại, tuần hoàn, tuần tự: “chiều nào, tối nào, ngày nào, cũng như mọi đêm”>> thói
quen không gì mới, không gì thay đổi đến tù túng trong cái ao tù phẳng lặng, đìu hiu. Làm
gợi nhớ đến hai nhân vật Quỳnh và Dao trong Toả nhị Kiều của Xuân Diệu: “Hai con
người ngây ngây thơ thơ lặng lẽ và ngơ ngác như hai hột cơm” thật tẻ nhạt và nhàm chán
hay như đọn thơ của Huy Cận: Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu/ Tới hay lui chỉ chừng
ấy mặt người/ Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười/ Môi nhắc lại cũng chỉ ngần ấy chuyện

Không hẹn mà gặp, Huy Cận, Xuân Diệu và Thạch Lam đã miêu tả sự nhàm chán, vô vị
của những con người trong xã hội Việt Nam trước 1945.

 Những nhân vật ít nói, kiệm lời:


- Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ? … Bác Siêu đáp vẩn vơ…
- Tàu hôm nay không đông chị nhỉ ?.... Liên cầm tay em không đáp.
- Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế? … Chị bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép
miệng trả lời.
- A, cô bé làm gì thế ?… Chị em Liên không cần ngoảnh mặt ra…
Những đoạn đối thoại rời rạc, bâng quơ, tẻ nhạt. Họ thiếu vắng sự sống con người đúng
nghĩa.
Con người phố huyện sống trong màn đêm dày đặc và không gian vắng lặng đến ghê
người. Họ không chỉ đói cơm, rách áo mà ngay cả những thứ bình thường nhất mà tạo hoá
thường ban phát cho con người. Đó là ánh sáng và thanh âm của tự nhiên.
Chính bởi lẽ đó, trong sự thiếu thốn họ thèm khát nhìn thấy âm thanh và ánh sáng của đoàn
tàu đi qua.

c. Khát vọng về cuộc sống tươi sáng hơn:

Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo nghèo
khổ hằng ngày của họ.
>> Niềm xót thương, cảm thông và đầy trân trọng của nhà văn.
>> Mong chờ vào một ngày mai tươi sáng.
Thạch Lam viết về những người nghèo khổ, ông không đi sâu để miêu tả một cách chi tiết
gánh nặng áo cơm ghì sát đất mà chủ yếu là nói lên cái khát khao mong chờ của họ. Trong
bóng tối họ biết mơ về ánh sáng, trong đói khổ nghèo nàn họ biết mong chờ một điều gì đó
tốt đẹp hơn, trong quẩn quanh bế tắc họ biết hy vọng vào tương lai. Đó là lí do họ chờ đoàn
tàu đi qua như một hoạt động cuối cùng trong đêm.

3.Nhân vật Liên và tâm trạng đợi tàu của hai chị em

a. Một số nét khái quát về nhân vật:

- Hoàn cảnh: vì bố bị mất việc nên gia đình Liên chuyển từ Hà Nội về phố huyện nghèo sống>>
Éo le, đặc biệt bởi lẽ người ta đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ nghèo khổ đến nơi đô hội phồn hoa.
Nhưng Liên thì ngược lại: gia đình nghèo nàn và sa sút.

- Mẹ làm hàng xáo, hai chị em được giao trông coi một quán hàng nhỏ xíu>> Cuộc sống vất vả.

- Là người con gái lớn, đảm đang: giúp mẹ trông coi cửa hàng, lo lắng cho em, có ý thức về công
việc và trách nhiệm: Liên khoá vội tráp tiền với một chiếc khoá chị đeo vào cái dây xà tích bạc ở
thắt lưng, chiếc xà tích và cái khoá chị quý mến và hãnh diện, vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn
và đảm đang.

b. Diễn biến tâm trạng Liên trước bức tranh phố huyện lúc chiều tối và khi đêm đến
Bức tranh phố huyện được hiện lên theo trình tự thời gian: chiều xuống, đêm về, đoàn
tàu đi qua>> gắn từng khoảnh khắc thời gian đó là biến chuyển trong tâm trạng của nhân vật.

*Chiều xuống:

Cảnh là bức tranh phố huyện thơ mộng, thi vị nhưng buồn quá, hiu hắt quá. Ở đố có mùi
vị của sự đói khổ lầm than.

- Đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây
thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày
tàn >> Cảnh vật lan toả vào trong nhân vật>> Nhân vật buồn thương man mác.

- Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát quen thuộc quá >> Chị em Liên
tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này.
- Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm>> Liên trông thấy
động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng nó>> Liên và những đứa trẻ
nghèo khổ đó có cùng cảnh ngộ. Đó là cảnh ngộ của sự nghèo khó

 Lúc chiều về>> Buồn thương man mát.

*Đêm đến:

- Tâm hồn lãng mạn khi nhìn vũ trụ bao la chứa đầy bí mật và xa lạ:

Vòm trời hàng ngàn ngôi sao lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là là
trên mặt đất hay len vào những cành cây. An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm
sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai
đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ và làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại cúi nhìn về mặt
đất, về quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí >> Nhìn
về mặt đất ngọn đèn chị Tí>> Quan sát những mảnh đời với tấm lòng cảm thông và san sẻ.

- Tâm trạng buồn thấm thía khi nhìn thấy những mảnh đời cơ cực, lầm than>> Cô bé có tâm hồn
trong sáng, nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn và đầy tình yêu thương.

Bức tranh phố huyện qua cái nhìn của Liên hiện lên đầy dụng ý nghệ thuật>> Chất thơ, thi vị>>
Lắng đọng qua tâm hồn trong sáng, nhạy cảm>> Cảnh vật sống động, tươi mới và chứa đầy bí ẩn.

Tâm hồn của cô bé mới lớn với sự hồn nhiên, trong trẻo, man mác buồn.

c. Tâm trạng đợi tàu của hai chị em Liên


 Hình ảnh đoàn tàu
Tàu chưa đến Tàu đến Tàu đi khuất
-Tiếng trống cầm canh tung -Thấy ngọn lửa xanh biếc, -Rồi chiếc tàu đi vào trong
lên tiếng ngắn khô khan rồi sát mặt đất, tiếng còi xe lửa ở đêm tối, để lại những đốm
chìm ngay vào bóng tối>> Bị đâu vang lại. than đỏ bay tung trên đường
tan chảy, nuốt chửng bởi -Nghe thấy tiếng dồn dập, sắt.
bóng đêm. tiếng xe rít mạnh vào ghi một -Tiếng vang động của xe hoả
-Người vắng mãi… một lát làn khói bừng sáng trắng, đã nhỏ rồi và mất dần trong
có mấy người làm công ở tiếng hành khách ồn ào khe bóng tối.
hiệu khách đi đón bà chủ ở khẽ. - Đêm tối vẫn bao bọc
tỉnh về>> Con người ít ỏi và -Tiếng còi đã rít lên và tàu chung quanh, đêm
thưa thớt. rầm rộ đi tới, đoàn xe vụt của đồng quê, và
>> Sự ngự trị hầu như tuyệt qua, các toa đèn sáng trưng, ngoài kia, đồng ruộng
đối của bóng tối và sự tĩnh những toa hạng trên sang mênh mông và yên
lặng. trọng, đồng và kèn lấp lánh, lặng.
các cửa kính sáng trắng. >> Đoàn tàu chỉ xuất
>> Tập trung miêu tả âm hiện trong một
thanh và ánh sáng. khoảnh khắc, chốc
>> Sự xuất hiện của đoàn tàu lát. Đêm tối vắng lặng
tượng trưng cho một thế giới
khác: thế giới của niềm vui, quay lại và chiếm
sự sang trọng và giàu có. Nó toàn bộ không gian.
đối lập hoàn toàn với bức >> Nhấn mạnh cuộc
tranh phố huyện tăm tối và sống tăm tối, ngưng
nghèo nàn ở hiện tại. đọng, quẩn quanh nơi
phố huyện nghèo.

Sự lặp lại hình ảnh đêm tối khi con tàu đi qua có ý nghĩa gì? Đó là cuộc sống quẩn quanh,
bế tắc, không lối thoát của con người phố huyện>> Cuộc sống của con người phố huyện giống
như một chiếc ao tù phẳng lặng. Trên đó đầy rong rêu, bọt bèo. Trên đó không một chút ánh
sáng, không một chút khí trời lọt xuống. Chuyến tàu đi qua tựa như một hòn sỏi ném vào trong
ao. Mặt ao dãn nở trong chốc lát để rồi sau đó sự ngưng đọng, tù túng nhanh chóng quay trở
lại.
Thời gian miêu tả đoàn tàu rất ngắn ngủi và ít ỏi so với khoảng thời gian như kéo dài lê
thê khi nói về cuộc sống con người nơi phố huyện. Phải chăng đây không phải là thế giới khách
quan mà thế giới tâm lí khi đoàn tàu đi qua. Đoàn tàu chuyên chở ước mơ và khát vọng của
con người nơi phố huyện. Nó diễn ra ngắn ngủi, ít ỏi như mơ ước của họ cũng mong manh và
mơ hồ mà thôi. Và cuối cùng đọng lại vẫn là cuộc sống nghèo nàn, tù túng, nhàm chán đến
quẩn quanh.
Hình ảnh đoàn tàu được tác giả tập trung miêu tả kĩ lưỡng theo trình tự thời gian: từ
xa-gần-xa-còn lại trong cái nhìn tiếc nuối của chị em Liên, bằng nhiều giác quan (thị giác,
thính giác, xúc giác), bằng sự đối lập tương phản (bóng tối-ánh sáng, vắng lặng-ồn ào đầy
những thanh âm), bằng cả thực tại-hồi ức-mơ ước.
Nghệ thuật miêu tả tinh tế, hàm súc, gợi cảm>> Thể hiện mong ước và tâm lí điển hình
của người dân quê: ao ước một cuộc sống vui vẻ, tươi sáng và phồn hoa.
 Tâm trạng của hai chị em Liên:
Tàu chưa đến Tàu đến Tàu đi khuất
-An và Liên đã buồn ngủ ríu -Liên đánh thức em, An -Hai chị em còn nhìn theo cái
cả mắt… vẫn gượng để thức nhỏm dậy, lấy tay dụi mắt chấm nhỏ của chiếc đèn xanh
khuya đợi tàu. cho tỉnh hẳn. treo trên toa xe sau cùng, xa
>> Sự chờ đợi mong mỏi -Hai chị em nghe thấy tiếng xa mãi rồi khuất sau rặng tre.
trong khắc khoải. dồn dập, tiếng xe rít mạnh -Liên lặng theo mơ tưởng…
vào ghi. -Liên thấy mình sống giữa
- Liên dắt em đứng dậy để bao nhiêu sự xa xôi không
nhìn đoàn xe vụt qua. biết.
- Liên chỉ thoáng trông thấy >> Nuối tiếc, hụt hẫng.
những toa hạng trên sang >> Xúc động, lặng theo mơ
trọng, ló nhó những người, tưởng và hoài niệm.
đồng và các cửa kính sáng. >> Tâm trạng bâng khuâng
>> Niềm vui, sự háo hức và và man mác buồn.
say mê bằng tất cả cảm xúc.
>> Là sự dồn tụ của niềm
mong mỏi suốt một ngày dài.
Tâm trạng bâng khuâng và man mác buồn: Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội
sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác
hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.

- Chị em Liên háo hức và mong chờ khi đoàn tàu đêm đi qua phố huyện vì chuyến tàu là một thế
giới khác: đó là thế giới của khát khao mong đợi và thế giới của kí ức tuổi thơ.

- Thế giới của khát khao mong đợi:

+ Thế giới đó sáng rực, vui vẻ, huyên náo và sang trọng.

+ Cuộc sống nơi phố huyện có chút niềm vui và ý nghĩa.

>> Chuyến tàu chở ước mơ và hi vọng.

-Trong thế giới của kí ức: một chuyến vé đi tuổi thơ mà ga đế là kí ức về tuổi thơ, về Hà Nội (sự
xuất hiện 3 lần -> Kí ức sâu đậm):

+ Cái cửa hàng mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy liên mất việc.

+ Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chị được hưởng những thức quà ngon, lạ, được đi chơi bờ Hồ, uống
những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ngoài ra kỉ niệm còn lại không rõ rệt gì, chỉ là một vùng sáng rực
và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá.

+ Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo.

>> Hà Nội không còn là một không gian địa lí thông thường nữa mà nó là không gian tượng trưng
cho:

- Một quá khứ sung túc, đủ đầy.

- Kí ức tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc, vô lo.

- Thế giới của ánh sáng, niềm vui và sự giàu có.

Ở Liên, ta thấy tâm trạng vừa có điểm chung vừa có điểm khác biệt với những người dân nơi
phố huyện>> Chờ đợi đoàn tàu bằng tất cả những tình cảm thiêng liêng và xúc động, bằng khát
vọng vượt thoát, thay đổi.

-Đặt bức tranh phố huyện qua con mắt của Liên để so sánh được những khác biệt, thấm thía hơn
cái nỗi buồn của mình khi sống ở nơi phố huyện: Liên cảm thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa
xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ.

-Cả hai thế giới đều mong manh mơ hồ không thể chạm tới. Bởi lẽ: Thế giới của khát khao thì xa
xôi, không thể vươn tới còn thế giới của kí ức thì xa xăm, không thể trở lại.
>> Sự trở về với thực tại sống buồn bã, tù túng và tăm tối nơi phố huyện nghèo.

-Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối.
>> Sự trở lại của cuộc sống quẩn quanh, bế tắc.

Niềm xót xa thương cảm đối với những kiếp người bé mọn.

>> Đánh thức, lay tỉnh những con người dường như bị bỏ quên nơi ga xép để kéo họ ra khỏi kiếp
sống mòn, hướng họ đến một cuộc sống ý nghĩa và xứng đáng hơn.

Lãng mạn nhưng rất gần gũi với các nhà văn thuộc trào lưu hiện thực phê phán.

Tóm tắt diễn biến tâm trạng của Liên:

Cảnh chiều về Cảnh đêm xuống Cảnh chuyến tàu đêm đi


qua
Tâm trạng buồn thương Tâm trạng buồn, thấm thía, Tâm trạng hoài niệm, mơ
man mác khắc khoải đợi chờ đoàn tàu tưởng và khát khao hoà trộn
đi qua. giữa bao nuối tiếc, buồn bã.

Giá trị nhân đạo sâu sắc mà Thạch Lam gửi gắm trong tác phẩm.
(Bình luận về tính nhân đạo trong tác phẩm
- Qua tâm trạng của chị em Liên, Thạch Lam muốn bộc lộ những ý nghĩ kín đáo nhẹ nhàng
nhưng thấm thía biết bao cho tâm hồn người đọc. Đó là tác giả muốn bày tỏ nỗi niềm xót thương,
bao la đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc.
Trong xã hội cũ có biết bao người như thế. Họ đã phải sống cuộc đời tẻ nhạt, vô nghĩa, đến trong
mơ cũng không biết mơ gì hơn một chuyến tàu đêm vụt qua phố huyện tiêu điều lụi tắt của cuộc
đời mình. Cuộc sống của họ cũng sẽ “mốc lên” “rỉ đi”, “mòn ra”, “mục ra” trong tăm tối, đói nghèo
buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra là trên đất nước lầm than nô lệ.
- Qua đó, đồng thời tác giả cũng muốn đánh thức lay tỉnh những tâm hồn uể oải đang lụi tàn, ngọn
lửa của lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn; khao khát được thoát ra khỏi
cuộc sống tăm tối đang mòn mỏi muốn chôn vùi họ.
- Phải có sự thức tỉnh về cá nhân mới có được niềm xót thương và sự lay tỉnh đáng quý ấy. Dường
như tác giả muốn nói rằng con người cần phải sống xứng đáng với con người. Đó chính là giá trị
nhân đạo đặc sắc được Thạch Lam thể hiện một cách kín đáo qua tác phẩm giàu chất thơ này).

III.TỔNG KẾT:

1. Nội dung: Bằng một truyện ngắn trữ tình có cốt truyện đơn giản Thạch Lam đã thể hiện một
cách nhẹ nhàng mà thấm thía.

- Niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh ở phố huyện nghèo trước
Cách mạng.

- Sự trân trọng ước mong đổi đời, vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn tuy còn ơ hồ của họ.
Tác phẩm giàu giá trị nhân đạo

2. Nghệ thuật:

- Truyện vừa đậm đà yếu tố hiện thực vừa thấm đẫm chất lãng mạn, chất thơ>> Một áng văn xuôi
đậm trữ tình giàu thi vị.

- Miêu tả tinh tế biến chuyển của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật.

- Giọng văn nhẹ nhàng, điềm tĩnh, khách quan, lời văn bình dị và đầy xót thương, lối kể chuyện
như thủ thỉ, tâm tình.

Tiêu biểu cho truyện tâm tình mang đậm phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.

Truyện ngắn hai đứa trẻ có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá
vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở trong tương lai… Nó cái thế giới quan của đôi trẻ
ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và tiếng còi đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước
vọng. Đọc “Hai đứa trẻ” thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái và sâu kín (Nguyễn
Tuân)

TÁC GIẢ NGUYỄN TUÂN


I.Khái quát cuộc đời và sự nghiệp văn chương
1. Cuộc đời và cá tính
-Nguyễn Tuân sinh ngày 10-7-1910 tại phố Hàng Bạc, Hà Nội. Gia đình có truyền thống
nho học. Nhưng lúc này nho học đã thất thế, nhường chỗ cho Tây học. Cả một thế hệ vốn gắn bó
với cửa Khổng sân Trình bỗng dưng trở nên lỗi thời trước xã hội giao thời Tây - Tàu nhố nhăng ;
sinh ra tư tưởng bất đắc chí (trong đó có cụ Tú Hải Văn, thân sinh của Nguyễn Tuân- Cụ Nguyễn
An Lan còn gọi là ông Tú Hải Văn). Bối cảnh xã hội, không khí gia đình đặc biệt ấy đã ghi lại dấu
ấn sâu sắc trong cá tính, tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân. Là
một trí thức giàu tinh thần dân tộc, Nguyễn Tuân đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khổ
sở, có lúc bế tắc, tuyệt vọng.
- Cách mạng tháng Tám đã cứu sống cuộc đời cũng như trang viết Nguyễn Tuân. Ông hân hoan
chào đón cuộc đổi đời lịch sử, tự “lột xác” và chân thành đứng vào hàng ngũ nhà văn Cách mạng.
- Năm 1950, vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương. Từ 1948-1958, là tổng thư ký Hội Văn nghệ
Việt Nam. Luôn hăng hái tham gia vào hai cuộc kháng chiến. Ong đi nhiều, có mặt ở tuyến lửa ác
liệt, dùng văn chương ngợi ca đất nước và cùng nhân dân đánh giặc.
- Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của
ông có màu sắc riêng: gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết
tiếng mẹ đẻ, những kiệt tác vănchương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà...,
những nhạc điệu hoặc đài của các lối hát ca trù hoặc dân dã mà thiết tha của giọng hò Quảng Trị,
Thừa Thiên, Nam Bộ..., những phong cảnh đẹp của quê hương đất nước, những thú chơi tao nhã
như uống trà, nhắm rượu, chơi hoa, chơi chữ đẹp, đánh thơ, thả thơ..., những món ăn truyền thống
thể hiện khẩu vị tinh tế của người Việt.
- Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để khẳng định
cá tính độc đáo của mình. Ông ham du lịch, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là "chủ nghĩa xê
dịch". Lối sống tự do phóng túng của ông không phù hợp với chế độ thuộc địa (hai lần bị tù).
- Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều
môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Ông còn là một diễn viên kịch nói
có tài và là một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở nước ta. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều
ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.
2.Sự nghiệp văn chương.
Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân được chia làm 2 giai đoạn: trước và sau cách mạng.
a. Trước cách mạng
Trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn tiêu biểu của trào lưu lãng mạn. Ông viết thành
công ba đề tài chính sau đây:
*Chủ nghĩa xê dịch
- “Chủ nghĩa xê dịch” vốn là một lí thuyết vay mượn của phương Tây, chủ trương đi không
mục đích, chỉ luôn luôn thay đổi chỗ để tìm cảm giác mới lạ và thoát li mọi trách nhiệm với gia
đình, với xã hội. Nguyễn Tuân đã tìm đến lí thuyết này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước
thời cuộc. Nhưng viết về “chủ nghĩa xê dịch”, Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha
thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước. Nguyễn Tuân đã đặt chân trên mọi miền
đất nước, đi đến đâu ông cũng ghi lại cảnh đẹp thiên nhiên, con người Việt Nam. Điều này được
thể hiện rõ qua hai tác phẩm: “Thiếu quê hương” và “Một chuyến đi”. Những người đã từng đọc
2 tác phẩm này của Nguyễn Tuân dễ dàng nhận thấy một Nguyễn Tuân với tình yêu quê hương
đất nước thầm kín mà sâu sắc. ( “Sống giữa quê hương vẫn thấy mình thiếu quê hương”.)
*Những vẻ đẹp vang bóng
Cũng như nhiều nghệ sĩ lãng mạn, chìm đắm trong vòng cái “tôi” cô đơn; không tin tưởng
vào hiện tại, hoài nghi cả tương lai, quay trở về với quá khứ , Nguyễn Tuân đã trở về với những
thú vui tao nhã của tầng lớp nho sĩ nay chỉ còn vang bóng (như thú thả thơ, chơi chữ thú uống trà,
thú chơi cờ tướng...)Sở dĩ Nguyễn Tuân say sưa với những thú chơi của nho sĩ bởi ông sinh ra
trong một gia đình có truyền thống nho học. Toàn bộ những thú chơi tao nhã được Nguyễn Tuân
viết trong 11 truyện ngắn do nhà xuất bản Tân Dân ấn hành năm 1940 thành một tập truyện với
nhan đề “Vang bóng một thời”. Đọc “Vang bóng một thời” lại thấy hiện lên chân dung của Nguyễn
Tuân - một nhà văn cả đời theo chủ nghĩa duy mỹ, cả đời phụng sự cái đẹp, phụng sự hai chữ
“thiên lương” trong sáng.
*Đề tài đời sống xa hoa trụy lạc
- Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống truỵ lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường
thấy có một nhân vật “tôi” hoang mang bế tắc, tìm cách thoát li trong đàn hát, trong rượu và thuốc
phiện. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem
nhuốc, phàm tục niềm khao khát một thế giới thanh cao, được nâng đỡ trên đôi cánh của nghệ
thuật (Chiếc lư đồng mắt cua).
b. Sau cách mạng
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân đứng trong đội ngũ những nhà văn gắn
bó với sự nghiệp cách mạng.Nguyễn Tuân đã thay đổi quan điểm sáng tác của mình.Nếu trước
cách mạng tháng Tám ông đi tìm cái đẹp của “một thời vang bóng” với những con người lớn lao,
kỳ vĩ thì sau cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đã tìm thấy cái đẹp ở ngay trong đời sống nhân
dân.Ông viết nhiều về anh bộ đội, chị dân quân, anh du kích, người lao động - đó là “chất vàng
mười đã qua thử lửa”
Sau cách mạng, Nguyễn Tuân góp mình vào thi đàn văn chương Việt Nam thể loại “tùy
bút”. (Đây là một thể loại rất “kén” nhà văn. Bởi người viết “tùy bút” cần phải có một phông kiến
thức rộng, ngòi bút phải phóng khoáng, thoải mái. Câu văn “tùy bút” phải phóng túng, thoải mái,
dài, ngắn, co, duỗi nhịp nhàng. Nếu ai đã từng đọc tập tùy bút “Sông Đà” hay tác phẩm “Người
lái đò Sông Đà” thì dễ dàng nhận thấy: Nguyễn Tuân đã làm chủ kiến thức về quân sự khi mô tả
những tướng đá bày ra những trùng vi thạch trận để lừa bất kỳ con thuyền nào qua đây. Ông làm
chủ lĩnh vực điện ảnh khi ông đưa ra được nghệ thuật “Ngược sáng”. Ông làm chủ lĩnh vực địa lý
khi ông mô tả tường tận, chính xác 50 trên tổng số 73 con thác dữ từ ngã ba biên giới Việt – Trung
về tới Chợ Bờ.)
Hai thiên tùy bút tiêu biểu nhất cho sự nghiệp của Nguyễn Tuân: Sông Đà (Tuỳ bút 1960),
Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (Tuỳ bút 1972) . Ngoài ra nhắc đến sự nghiệp của Nguyễn Tuân ta không
thể bỏ qua được những bài phê bình của ông. Nguyễn Tuân viết nhiều những bài phê bình và tiểu
phê bình về: Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Tản Đà và nhất là các nhà văn hiện thực phê phán cùng
thời với ông.
Năm 1996, được trao giải thưởng HCM – danh hiệu cao quý giành cho những nghệ sĩ chân
chính có tài có tâm. Chúng ta coi đó là sự ghi danh, sự tri ân của cuộc đời đối với một cuộc đời
cao quý.
II. Quan niệm văn chương của Nguyễn Tuân
- Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Ngay từ trước
Cách mạng tháng Tám, ông đã quan niệm nghề văn là một cái gì đối lập với tính vụ lợi kiểu con
buôn, và ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đấy không thể có cái đẹp. Đối với ông, nghệ thuật là
một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí “khổ hạnh” và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn
nửa thế kỷ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy.Chính lẽ đó Thạch Lam trên báo Ngày nay
(15/ 6/ 1940), đã dành những lời trân trọng khi viết về Nguyễn Tuân:“Trong cái vội vàng, cái cẩu
thả của những tác phẩm xuất bản gần đây, những sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực
giá trị của một sự đua đòi, người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu
mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là công việc quý báu và thiêng liêng”. Và Vũ Ngọc Phan –
(tác giả bộ sách Nhà văn hiện đại) cũng đã nhận xét: “Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới
thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức. Một ngày
không xa, khi mà văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôidám
chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn có một địa vị xứng đáng hơn nữa”
- Trong một bài giảng bồi dưỡng người viết trẻ, Nguyễn Tuân đã bộc bạch quan niệm về
nghề: “Nghề văn là nghề của chữ … Nó là cái nghề dùng chữ nghĩa mà “sinh sự”. Theo ông,
đánh giá một nhà văn, đứng về mặt chuyên môn nghề nghiệp mà bàn, thì giá trị của người đó
“là những công đức lập ngôn”, là ở chỗ ông ta “đã mở mang thêm vốn liếng dân tộc về tiếng
nói được tới mức nào, và đã góp phần sáng tạo của mình vào ngôn ngữ Việt Nam như thế
nào”.Đọc Nguyễn Tuân, thấy rõ ở ông một ý thức trách nhiệm hoàn toàn tự giác và một tình
yêu sâu đậm với những gì liên quan đến ngôn ngữ, đặc biệt là đến tiếng mẹ đẻ. Nguyễn Tuân không
phải là nhà ngôn ngữ học, không phải là người lập thuyết. Ông là nhà thực hành tài hoa và sáng
tạo với một ý thức rất cao về vai trò, trách nhiệm của nhà văn với ngôn ngữ mẹ đẻ, đúng như ông
tự nhận trong mục chuyên môn của bản khai lí lịch ở Hội nhà văn: Chuyên viên tiếng Việt.
- Người ta thường nói “văn là người”. Trường hợp nhà văn Nguyễn Tuân là điển hình về
sự hài hoà thống nhất giữa văn phong và phong cách sống. Ông nổi tiếng về sự kỹ tính trong
ứng xử, giao tiếp đồng thời cũng kỹ tính trong công việc cầm bút. Ông dùng chữ chọn lọc, viết
văn thận trọng, đôi khi đến mức người đời cho là cầu kỳ. Nói về phong cách sống, phong cách viết
của ông, nhà văn lão thành Kim Lân bình phẩm: “Người chưa biết ông Tuân có thể cho ông là
người cầu kỳ, kỹ tính trong giao tiếp ứng xử, cả khi ăn, khi mặc. Ông là người nghệ sĩ nên ăn mặc
tưởng tuềnh toàng nhưng người ta vẫn thấy đẹp. Càng biết ông, người ta càng quý trọng tính thẳng
thắn, chân tình và một phong cách sống đẹp của Nguyễn Tuân”.
III. Những đặc trưng cơ bản của văn Nguyễn Tuân
1.Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ trân trọng cái đẹp, cả đời văn của mình ông luôn khao
khát săn tìm và ngợi ca cái đẹp.Nhà văn Nguyễn Đình Thi nhận xét: “Nguyễn Tuân là nhà văn
suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”. Có thể nói trong suốt cuộc đời sáng tác, bằng ngòi bút điêu
luyện của mình, Nguyễn Tuân đã làm cho cái đẹp thăng hoa. Tuy nhiên quan niệm về cái đẹp của
Nguyễn Tuân sau cách mạng có những chuyển biến.
a.Trước cách mạng
Nguyễn Tuân quan niệm, cái đẹp thuộc về thời đã qua, thời dĩ vãng, nay chỉ còn vang
bóng. Đây là quan niệm rất cơ bản về cái đẹp của Nguyễn Tuân, nó bao trùm hầu hết các tác phẩm
của ông trước cách mạng.
Nhìn vào sáng tác trước cách mạng của Nguyễn Tuân, ta dễ dàng nhận thấy những nhân vật mà
ông yêu thích thường là những nhân vật thuộc về quá khứ, thể hiện cái đẹp mang màu sắc cổ điển.
Đó là những con người “sinh nhầm thế kỉ”, những giai nhân tài tử, danh sĩ, danh kĩ, những con
người có tài cầm, kì, thi, họa, nhả ngọc phun châu; những con người giang hồ lãng tử, bầu rượu
túi thơ, ngắm hoa vịnh nguyệt, thiên nhiên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân cũng có một vẻ đẹp
cổ xưa, một chất thơ “hoài cựu”...
Hướng về cái đẹp quá khứ thực ra là một trong những khuynh hướng chung của chủ nghĩa lãng
mạng. Cùng thời với Nguyễn Tuân, các cây bút khác cũng viết về quá khứ như Tản Đà, Xuân
Diệu, Huy Cận, Nguyễn Huy Tưởng...Tuy nhiên, nếu như ở những cây bút khác viết về quá khứ
không hẳn chỉ coi quá khứ mới là đẹp, thì Nguyễn Tuân có quan niệm dứt khoát: cái đẹp chỉ có
trong quá khứ, nếu nó có trong hiện tại thì chẳng qua là những thứ gì còn vương sót lại của thời
xưa mà ông gọi là “vang bóng một thời”.
Có hai lí do để Nguyễn Tuân khẳng định như vậy:
Một là, theo Nguyễn Tuân xã hội hiện đại là xã hội của đồng tiền. Đồng tiền làm hỏng con
người, đồng tiền đụng vào đâu là cái đẹp biến đi đến đấy.
Hai là, theo Nguyễn Tuân xã hội hiện đại là xã hội của văn minh vật chất đối lập với văn minh
tinh thần của người xưa. Ấy là văn minh cơ khí – thời đại cơ khí khiến người ta bị cơ khí đến cả
tâm hồn. Tâm hồn trở thành máy móc thì làm gì còn có thơ, làm gì có cái đẹp nữa.
*Quan niệm cái đẹp gắn liền với chất tài hoa tài tử.
Trong các sáng tác của mình Nguyễn Tuân thường chú ý đến chất tài hoa tài tử khi miêu
tả và thể hiện con người. Với Nguyễn Tuân, cái đẹp thường đi đôi, gắn bó với cái tài, với chất nghệ
sỹ, điều này cũng thống nhất với nét tài hoa, nghệ sỹ trong con người ông.
*Cái đẹp phải là cái gây được ấn tượng thật đậm nét, phải tạo được cảm giác thật mãnh
liệt. Đối với ông, những cái gây ấn tượng, gợi cảm xúc phải là những cái vượt trội, bất thường, tác
động mạnh vào giác quan.Là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật trong đời, Nguyễn
Tuân nhiều khi đã không chú ý đến tính chất xã hội của hiện thực. Ông mải mê ca ngợi những cái
đẹp thuần túy, mang tính hình thức.
Như trên đã nói, Vang bóng một thời là minh chứng sinh động cho quan điểm “Nghệ
thuật vị nghệ thuật” của Nguyễn Tuân thời kì trước Cách mạng tháng Tám.
b. Sau Cách mạng:
- Ông không còn quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ nữa, mà thấy có cả trong hiện
tại và tương lai; chất tài hoa nghệ sĩ không chỉ có ở những con người xuất chúng, đặc biệt mà có
cả ở trong đại chúng nhân dân; cái đẹp không là cái phù phiếm vô ích mà đều phải có ý nghĩa xã
hội sâu sắc.
- Nếu xưa kia ông đi tìm cảm giác mạnh, cái mới lạ ở chủ nghĩa xê dịch, ở đời sống trụy lạc, ở
thế giới ma quỷ (Yêu ngôn), thì ngày nay ông tìm và thể hiện những cảm giác ấy trong những
thành tích chiến đấu, trong những công trình xây dựng, trong những cảnh sắc thiên nhiên
tuyệt mĩ trên đất nước mình.
2.Nguyễn Tuân là cây bút rất mực tài hoa, uyên bác.
Bút pháp của Nguyễn Tuân là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cổ điển và hiện đại, Nguyễn Tuân
nhìn quan sát và miêu tả sự vật bằng con mắt của nhiều nghành nghệ thuật khác nhau: hội họa,
điêu khắc, vũ đạo, điện ảnh...Để có thể huy động tối đa sự nhạy cảm của các giác quan cũng như
vận dụng kiến thức của các nghành nghệ thuật khác nhau trong trang viết của mình, Nguyễn Tuân
phải có một tầm tri thức, kiến văn sâu rộng, sự am hiểu tường tận về văn hóa cổ truyền.
3.Nguyễn Tuân nghệ sĩ ngôn ngữ bậc thầy
Nói đến phong cách Nguyễn Tuân, không thể không nhắc đến vốn từ phong phú, một “chuyên
gia tiếng Việt”. Người ta luôn nhắc đến Nguyễn Tuân như một cây đại thụ của ngôn ngữ, trước và
sau Nguyễn Tuân hiếm có nhà văn nào có một kho ngôn ngữ phong phú giàu có, độc đáo như thế.
Nguyễn Tuân đã được mệnh danh bằng những chữ tôn vinh nhất: Bậc thợ cả văn xuôi, “người
quốc ngữ tài hoa”, “cây bút quái kiệt”, “người thợ kim hoàn chữ nghĩa”… Có người nói đến “ma
lực của ngôn ngữ” Nguyễn Tuân. Ở ông “mỗi chữ đều như có dấu ấn riêng”.
a.Vẻ đẹp sang trọng của ngôn từ
Nguyễn Tuân là một trong số rất ít nhà văn Việt Nam hiện đại dùng nhiều từ Hán
Việt trong sáng tác và cũng rất thành công.Những từ Hán Việt được dùng đúng chỗ đã thể hiện
sự uyên bác của tác giả, đã đem lại sự súc tích cho các tác phẩm và quan trọng hơn, đã tạo cho văn
Nguyễn Tuân một vẻ đẹp sang trọng đầy hấp dẫn.
Bên cạnh lớp từ Hán Việt, một yếu tố khác cũng góp phần làm nên vẻ đẹp cho lời văn
Nguyễn Tuân, làm nên cái đẹp cho ngôn ngữ văn chương của ông, đó là vốn văn liệu cổ được
sử dụng đúng lúc, đúng chỗ. Có thể xem đây là thế mạnh mà Nguyễn Tuân có được nhờ phần
con người một thời vang bóng trong ông. Nền học cũ, vốn kiến thức có được từ những tác phẩm
lớn đã được ông sử dụng khéo léo vào văn chương của mình, trở thành một trong những điểm đặc
biệt của phong cách Nguyễn Tuân.
b. Nghệ thuật làm mới ngôn từ
Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm những hình thức biểu đạt rất khác thường. Ông rất công phu
trong việc ghép từ, hoặc thay thế một từ thông dụng bằng từ ngữ mới lạ, gây bỡ ngỡ cho người
đọc. Vành trăng được gọi là sừng trăng, quan tài được gọi bằng thùng gỗ,kim đồng hồ thì gọi
là que đồng hồ, cao cờ thì nói là xinh cờ, cha mẹ thì gọi là hai đấng tác giả đời tôi, đi ảnh dùng
thay cho chụp ảnh... Cái lạ còn được Nguyễn Tuân tạo ra bằng lối tách từ, ví như: những cái sở
đắc về thanh và sắc của mình; chùm tóc vừa mới tơ mà đã nhuộm màu tang; ông
trời chơi miếng khăm... Hình thức biểu đạt kiểu lạ hóa còn được Nguyễn Tuân đẩy đến mức cao
hơn khi trước một đối tượng cần miêu tả, ông dùng đồng thời nhiều cách định danh, nhằm nói cho
kiệt cùng mọi sự cảm nhận của mình. Dự báo cái chết của Bá Nhỡ - nhân vật đã chấp nhận cuộc
đàn cảm tử trong tiểu thuyết Chùa Đàn - Nguyễn Tuân dùng nhiều cách nói khác nhau mà không
cách nào tỏ ra non lép: kẻ phải trả nợ đời; kẻ sắp hết làm người; người đang tiêu những giây
phút cuối; mạch sống sắp đứt phựt; những nương dâu xanh um mà mắt người đó không được
ngó đến nữa; những lứa tắm chín như hổ phách mà tay người ấy sẽ không được động đến
nữa...
c. Nghệ thuật so sánh
Nói đến những tìm tòi, sáng tạo của Nguyễn Tuân về ngôn ngữ, không thể không đề cập
nghệ thuật so sánh đặc sắc của ông. Về số lượng, câu văn so sánh trong các văn bản thuộc mọi
thể loại của Nguyễn Tuân có tỉ lệ cao một cách khác thường so với tác phẩm của các tác giả trong
cùng bối cảnh văn học(9). Nhưng điều đáng nói hơn là hiệu quả nghệ thuật của phép tu từ so sánh
trong lời văn Nguyễn Tuân. Hiệu quả này có được là nhờ những tìm tòi không mệt mỏi của nhà
văn về cấu trúc so sánh, về từ chỉ quan hệ so sánh, và đặc biệt là hình ảnh dùng để so sánh. Săn
tìm những hình ảnh dị thường, ít ai nghĩ tới, làm cho mỗi câu văn so sánh thực sự là một kết quả
khám phá, thể hiện một cái nhìn khác biệt về đối tượng, đó là những thao tác thường thấy ở Nguyễn
Tuân. Thao tác này được nhà văn sử dụng rộng rãi ở mọi thể loại, mọi giai đoạn sáng tác. Vì vậy,
thật khó mà thấy được sự khác biệt nghệ thuật so sánh của câu văn trong truyện, trong tùy bút hay
trong phê bình, chân dung văn học của ông. Khuôn mặt vô tư lự của một viên quan coi ngục được
Nguyễn Tuân ví với "mặt nước ao xuân bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ", còn tính cách dịu dàng
của con người ấy thì "như một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật
đều hỗn độn, xô bồ" (Chữ người tử tù). Và mấy chục năm sau, khi viết tùy bút Người lái đò Sông
Đà, cái nhìn lãng mạn và lối so sánh đầy sở trường đó vẫn vẹn nguyên khi ông phát hiện con sông
Đà "tuôn dài, tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân".

Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân
I.Giới thiệu chung:
1. Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ:
- Truyện được in lần đầu trên tạp chí Tao Đàn năm 1939 với tên gọi Dòng chữ cuối cùng.
- Sau được tuyển in trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời (1940) đổi tên thành Chữ người tử
tù.
* Vang bóng một thời viết về những thú chơi tao nhã, về những con người tài hoa thời phong
kiến nay chỉ còn vang bóng qua đó thể hiện sự trân trọng những giá trị văn hóa dân tộc của Nguyễn
Tuân: Bữa rượu máu, Những chiếc ấm đất, Thả thơ, Đánh thơ, Ngôi mả cũ, Hương cuội, Chữ
người tử tù, Một đám bất đắc chí, Chén trà sương, Đèn đêm thu, Trên đỉnh non Tản, Khoa thi cuối
cùng.
-> Tập truyện thể hiện rõ hai nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, thống nhất
cả trước và sau Cách mạng tháng Tám: nhìn thế giới nghiêng về phương diện văn hóa nghệ thuật,
thẩm mĩ và cái đẹp phải đập mạnh vào giác quan văn nghệ sĩ.
2. Tóm tắt: Cốt truyện, theo nhân vật chính
3. Bố cục : 3 phần
4. Nội dung tìm hiểu: Nhan đề, tình huống truyện, nhân vật Huấn Cao, nhân vật viên quản ngục,
cảnh cho chữ, quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân về cái đẹp, phong cách tài hoa và uyên bác
của Nguyễn Tuân qua tác phẩm.
I. Đọc hiểu văn bản:
1. Nhan đề:
a. Lịch sử nhan đề: Lúc đầu có tên Dòng chữ cuối cùng in năm 1938 trên tạp chí Tao Đàn, sau
in lại trong Vang bóng một thời (1940) đổi tên thành Chữ người tử tù.
b. Ý nghĩa nhan đề:
- Dòng chữ cuối cùng: Gợi lên hình tựng chữ, hé lộ phần nào về đề tài của tác phẩm, thâu tóm
phần nào tình huống truyện, gợi lên sự ám ảnh về nỗi mất mát, sự tiêu vong của cái đẹp, gợi lên
một nỗi buồn, một dư vị xót xa, tiếc nuối.
-Chữ ngừi tử tù: Thâu tóm được hai hình tượng nghệ thuật đặc sắc: chữ, người cho chữ; thâu tóm
được khá đầy đủ những tình huống đặc sắc của truyện: Huấn Cao bị bắt giam, chờ ngày thụ án tử
hình trong ngục viết chữ tặng người cai ngục; Gợi lên được thời gian nghệ thuật của thiên truyện:
tử tù -> Gợi cái chết cận kề, viết chữ trong đêm cuối cùng ở nhà giam -> Nổi bật không gian nghệ
thuật của truyện là những nét chữ được sinh thành và sáng tạo trong không gian nhà tù; Thể hiện
một cách tập trung chủ đề, quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân về cái đẹp, khẳng định mạnh
mẽ sự chiến thắng, bất tử của cái đẹp.
* Đặc điểm truyện ngắn hiện đại: Cốt truyện, kết cấu, nhân vật, tình huống, chi tiết + sự việc,
ngôn ngữ, cách miêu tả hoàn cảnh, lời kể.
2.Tình huống truyện
a. Tình huống: Sự gặp gỡ giữa Huấn Cao và viên quản ngục trong tù trước ngày Huấn Cao thụ
án tử hình.
- Huấn Cao:
+ Người tù, phạm tội phản nghịch: thủ xướng chống lại triều đình
+ Tài hoa, viết chữ đẹp nổi tiếng
-Viên quản ngục :
+ Là người đứng đầu nhà ngục, đại diện cho triều đình
+ Sở nguyện có được chữ Huấn Cao treo trong nhà.
b. Ý nghĩa:
- Tình huống oái oăm, éo le, giàu kịch tính: trên bình diện xã hội họ là những kẻ đối địch, là tử thù
của nhau; ở bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ -> truyện vận động trong mâu thuẫn, xung
đột -> giữ được độ căng thẩm mĩ, khiến độc giả hồi hộp, lo lắng, hứng thú.
- Làm nổi bật vẻ đẹp hình tượng Huấn Cao và tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”của quản ngục.
- Thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm.
- Ca ngợi và bảo tồn một trong những nghệ thuật truyền thống quý báu và tao nhã của dân tộc: thư
pháp.
2. Hình tượng Huấn Cao
a. Một nghệ sĩ tài hoa xuất chúng:
- Huấn Cao là một nghệ sĩ thư pháp nổi danh viết chữ đẹp.
- Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao được miêu tả dưới nhiều hình thức:
+ Gián tiếp:
*Cuộc đối thoại, thái độ của viên quản ngục và thầy thơ lại :
->Vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao được dư luận rộng rãi công nhận, khiến người đời cảm phục.
->Tạo tính khách quan cho lời nhận xét.
->Tăng tính hấp dẫn cho hình tượng.
*Sở nguyện của viên quản ngục :
->Chữ ông Huấn phải rất đẹp, rất quý.
* Hành động biệt đãi Huấn Cao của viên quản ngục:
->Hành động liều lĩnh, bất chấp cả pháp luật: Tạo ấn tượng mạnh với người đọc và tạo nên sự tò
mò về chữ của Huấn Cao; khẳng định được sức mạnh và khả năng chinh phục của cái đẹp.
+ Trực tiếp: Cảnh cho chữ
* Phong thái : ung dung, thư thái, dồn hết tâm lực và tài năng để sáng tạo cái đẹp.
*Những nét chữ : vuông vắn, tươi tắn nói lên những hoài bão tung hoành của đời người.
- Ý nghĩa:
+ Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ là một trong những đặc điểm nổi bật trong thế giới nhân vật của Nguyễn
Tuân.
+ Sự trân trọng, tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, thể hiện tinh thần dân
tộc.
b. Một trang anh hùng có khí phách:
- Hành động thủ xướng triều đình-> Bị bắt giam và vượt ngục nhiều lần -> phản kháng mạnh mẽ
đối với cường quyền bạo ngược, tàn ác bất công.
- Thái độ coi thường, khinh bạc trước quyền uy -> Uy vũ bất năng khuất
+ Trong buổi đón tù trước ánh mắt, lời nói dọa dẫm thị uy của bọn lính gác tù Huấn Cao không
thèm nghe, không thèm để tâm đến, thậm chí thách thức thúc mạnh đầu gông xuống thềm đá tảng
đánh huỳnh một cái .
+ Thản nhiên nhận rượu thịt -> Ung dung, tự tại vượt lên và bất chấp hoàn cảnh.
+ Coi thường, khinh bạc quản ngục trong cách trả lời: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một
điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây -> Câu ngắn, ngắt thành nhiều vế, cách xưng hô ta –
nhà ngươi, giọng điệu dứt khoát đầy khẩu khí. -> Như một mệnh lệnh quyền uy,trịch thượng, kiểu
bề trên, không hề run sợ, sẵn sàng đương đầu với uy quyền, tàn bạo => Thái độ vừa khinh bỉ quản
ngục vừa thách thức thể chế xã hội đương thời.
- Thái độ coi thường danh lợi: Nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết chữ
bao giờ -> Đặt những nét chữ - tài hoa, nhân cách trên danh vọng, giàu sang => Bản lĩnh của một
con người không dễ bị mua chuộc, bị khuất phục bởi danh lợi Phú quý bất năng dâm ( Trong cảnh
giàu sang không mê muội. Ngay cả khi ngồi trên núi tiền cũng phải sống có chừng mực, biết những
giới hạn của bản thân).
- Thái độ coi thường cái chết:
+ Khi nhận được tin ngày mai phải vào kinh thụ án tử hình Huấn Cao vẫn bình thản, ung dung-
>Bản lĩnh cứng cỏi: lặng nghĩ rồi mỉm cười trong lúc thầy thơ lại hớt hơ hớt hải, viên quản ngục
tái nhợt người Điều duy nhất ông băn khoăn, để tâm nghĩ ngợi lúc ấy là: Thiếu chút nữa ta phụ
một tấm lòng trong thiên hạ ->Quyền lực, cái chết cũng không thể khuất phục được Huấn Cao -
>Vượt lên bản năng thường tình của con người -> Con người phi thường.
->Bút pháp tương phản -> bật rõ thái độ bình thản đón nhận cái chết.
+ Huấn Cao vẫn bình tĩnh, say mê sáng tạo,viết chữ, vẫn cảm nhận được mùi thơm của thoi mực
trong lúc cận kề cái chết-> Sự hiên ngang, bản lĩnh phi thường của một trang anh hùng, sự vượt
ngục bằng tinh thần.
* Miêu tả khí phách Huấn Cao vừa có tác dụng, ý nghĩa :
+ Hoàn thiện nhân cách, vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật .
+ Góp phần thể hiện tinh thần dân tộc, thái độ phủ định thực tại xã hội của Nguyễn Tuân.
c. Một người có thiên lương cao cả (thiên lương: bản tính tốt trời cho):
- Nét chữ tài hoa, khí phách cứng cỏi -> Cũng là biểu hiện của một con người có nhân cách đẹp.
-Thái độ rất mực quý chữ: Nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết chữ bao
giờ đó không chỉ là biểu hiện của khí phách mà là biểu hiện của ý thức tự trọng, ý thức về danh
dự, nhân phẩm, đó là nhân cách, là cái tâm trong sáng của người nghệ sĩ sống hết mình vì cái đẹp.
- Thái độ trân trọng thiên lương quản ngục: Khi nhìn quản ngục như kẻ đại diện cho triều đình
Huấn Cao rất mực khinh bạc. Nhưng khi hiểu được tấm lòng của thầy quản thì Huấn Cao đã hoàn
toàn thay đổi thái độ, đối xử đầy chân tình và quý trọng.
+ Hành động quyết định cho chữ :
*Với Huấn Cao quản ngục là người tri âm tri kỉ-> lòng ngưỡng mộ tài hoa và thiên lương.
*Trong giờ khắc cuối cùng của đời mình Huấn Cao không sợ chết mà chỉ sợ phụ mất một
tấm lòng trong thiên hạ -> Với Huấn Cao lúc ấy một tấm lòng trong thiên hạ còn đáng quý hơn cả
vàng bạc, châu báu, thậm chí là sinh mạng mình.
+ Thái độ, cử chỉ trân trọng :
* Ngôn ngữ : Cách xưng hô từ ta - nhà ngươi đầy khinh bạc, trịch thượng đổi sang ta – thầy
quản chân thành, ngang hàng
*Thái độ, cử chỉ : đỡ quản ngục ngồi dậy -> quan tâm, chia sẻ, bình đẳng
+ Hành động nâng đỡ thiên lương quản ngục :
*Khuyên bảo chân thành nên về quê mà ở, bỏ cái nghề này đi -> lo lắng về nghịch cảnh trớ trêu
của quản ngục ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững rồi cũng nhem nhuốc mất cái đời lương
thiện đi -> thái độ nâng niu, trân trọng, chăm chút vun đắp thiên lương con người.
*Huấn Cao đã nhìn thấy quản ngục là Thanh âm trong trẻo, đốm sáng giữa ngục tù tối tăm bẩn
thỉu-> Ông đã dành những phút giây cuối cùng của đời mình để nâng niu và tìm cách giúp quản
ngục hướng thiện, phục thiện.
d. Đánh giá:
- Nội dung – tư tưởng:
* Qua nhân vật Huấn Cao ta thấy được tài năng khắc họa nhân vật của Nguyễn Tuân. Nhân
vật Huấn Cao mang vẻ đẹp lí tưởng: một nghệ sĩ rất mực tài hoa, một anh hùng có khí phách lẫm
kiệt, hiên ngang dù chí lớn không thành, một con người có tâm hồn trong sáng, thanh cao, quý
trọng thiên lương con người.
*Qua nhân vật Huấn Cao nhà văn thể hiện tập trung chủ đề, tư tưởng của tác phẩm
+ Huấn cao là nhân vật được xây dựng từ nguyên mẫu là Cao Bá Quát – một con người văn võ
song toàn trong xã hội phong kiến Việt Nam. Qua nhân vật Huấn Cao, tác giả nhằm thể hiện thái
độ ngợi ca những trang anh hùng có nghĩa khí của dân tộc; thái độ trân trọng đối với cái đẹp, một
cái tôi nghệ sĩ say mê kiếm tìm và tôn vinh cái đẹp, tinh thần dân tộc sâu sắc và sự trân trọng giá
trị truyền thống của mình.
*Hình tượng Huấn Cao cũng thể hiện quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân về cái đẹp :
+ Cái đẹp là sự tổng hòa của cái tài, cái tâm, cái mỹ, cái thiện. Cái đẹp không chỉ nhìn từ góc độ
thẩm mĩ mà còn từ góc nhìn đạo đức.
+ Cái đẹp có sức sống mãnh liệt, lớn lao, không cái ác, cái xấu nào có thể cảm hóa.
+ Cái đẹp không thể chung hòa với cái ác, cái xấu. Để bải vệ cái đẹp con người phải biết tách
mình khỏi cái xấu.
- Nghệ thuật:
+ Bút pháp lãng mạn:
+)Khái niệm: Là hệ thống những phương tiện, biện pháp, cách thức thể hiện cái nhìn lãng
mạn của nhà văn trước cuộc đời (cái nhìn mang đậm màu sắc chủ quan đầy cảm xúc)...
+)Biểu hiện: Nhà văn thường chú trọng việc xây dựng những tương quan đối lập giữa tính
cách và hoàn cảnh; có xu hướng tìm đến những yếu tố phi thường, kì lạ; sự thể hiện của hình ảnh
nhà văn qua nhân vật ...
Bút pháp lãng mạn thể hiện trong Chữ người tử tù:
*Lí tưởng hóa nhân vật -> Tính cách vượt lên hoàn cảnh, không bị hoàn cảnh chi phối.
*Tương phản: ánh sáng và bóng tối; không gian ngục tù tương phản với không gian cái đẹp rực
rỡ, thanh cao; hoàn cảnh tương phản với nhân cách con người.
+ Đặt nhân vật trong tình huống nghệ thuật đặc sắc: bị giam cầm trong ngục tù, có cuộc kì ngộ với
quản ngục.
+ Nghệ thuật dẫn chuyện linh hoạt, uyển chuyển, bất ngờ, hấp dẫn. Nhân vật vừa được miêu tả
trực tiếp vừa được miêu tả gián tiếp.
*Giọng điệu: trang trọng, cổ kính
3. Hình tượng quản ngục:
a. Hoàn cảnh: Làm nghề coi ngục và luôn sống trong phòng giam với những tên lính gác ngục,
với những người tù -> Nơi hội tụ của cái ác, cái xấu: Phải ăn đời ở kiếp…với đống cặn bã.
Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, làm quan cai ngục có nghĩa là làm tay chân của chế
độ bất công, bạo ngược.
b. Tính cách, phẩm chất:
b1.Tâm hồn nghệ sĩ say mê cái đẹp
- Ông có tình yêu đặc biệt với nghệ thuật thư pháp. Đặc biệt là những nét chữ của Huấn Cao.
- Tình yêu ấy đã giúp quản ngục có sức mạnh tinh thần lớn lao để đi đến quyết định biệt đãi rượu
thịt.
- Chính vì thế khi nghe tin Huấn Cao phải vào kinh thụ án tử hình, ông đã tái nhợt người đi, hốt
hoảng kể rõ tâm sự của mình với thầy thơ lại.
- Trong cảnh cho chữ:
+ Quản ngục có sự chuẩn bị chu đáo, trân trọng cho cảnh cho chữ. Phòng giam chật hẹp, ẩm ướt,
tối tăm đã được thầy quản thắp sáng lên bằng những bó đuốc. Trong hoàn cảnh đó, hành động của
quản ngục thực sự liều lĩnh, quản ngục bất chấp tất cả, kể cả phép nước để sống trọn với niềm đam
mê, tình yêu cái đẹp của mình.
+ Tình yêu ấy còn được gửi gắm qua tấm lục bạch còn nguyên vẹn lần hồ, mùi mực thơm ngào
ngạt. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu hương thơm ngào ngạt của mực tạo nên không gian
thanh cao, trang trọng, không gian của cái đẹp.
+ Tâm trạng đầy xúc động, thái độ khúm rúm, run run của thầy quản khi Huấn Cao viết chữ -> Ta
nhìn thấy một con người đang đắm say với cái đẹp và bị cái đẹp khuất phục.
b2.Tấm lòng biệt nhỡn liên tài: Thái độ kính trọng Huấn Cao:
- Trong buổi đón tù: Bày tỏ sự kính nể đối với ông Huấn và các đồng chí của ông, nhìn họ với
ánh mắt hiền lành và không dở những mánh khóe thường lệ ra => Lính ngục phải ngạc nhiên.
- Hành động biệt đãi rượu thịt không chỉ với mục đích xin chữ mà còn bày tỏ sự kính mến đối
với người có nghĩa khí. Hành động này là sự thách thức về pháp luật, phép nước triều đình, nếu để
lộ ra sẽ rất phiền lụy => Tấm lòng quý trọng người tài lớn hơn ý thức trách nhiệm, bổn phận xã
hội.
- Ngôn ngữ, thái độ: Lễ phép, kính trọng -> Cách xưng hô: tôi – ngài, giọng điệu nhã nhặn và
khiêm nhường Ngài có cần gì nữa xin cho biết tôi sẽ cố gắng chu tất. Ngay cả khi bị Huấn Cao
đối xử với thái độ khinh bạc, quản ngục vẫn không hận thù, vẫn giữ được sự lễ phép, lui ra xin
lĩnh ý và sau đó rượu thịt đưa ra còn hậu hĩnh hơn => Quý trọng người tài, có khí phách hơn cả
lòng tự trọng, sự sĩ diện bản thân.
b3. Thiên lương trong sáng:
- Sở thích cao quý: chơi chữ là một thú chơi tao nhã của những tao nhân mặc khách xưa, thú chơi
chỉ dành cho những con người có tâm hồn thanh cao, trong sáng. Với thầy quản đó là một khát
khao cháy bỏng suốt cả cuộc đời.
- Đấu tranh nội tâm để hướng thiện:
+ Ân hận, day dứt khi chọn nhầm nghề Chọn nhầm nghề mất rồi -> dư vị xót xa trước nghịch cảnh
oái oăm của đời mình.
+ Huấn Cao xuất hiện tạo nên cuộc đấu tranh trong tâm hồn quản ngục: giữa con người công quyền
>< với con người nghệ sĩ, giữ cái ác và cái thiện, giữa cái đẹp và cái xấu. Sự đấu tranh ấy thể hiện
bằng 2 hình thức: Bức tranh thiên nhiên mang tính biểu tượng và chân dung thầy quản:
*Bức tranh thiên nhiên: Thầy quản ngồi suy tư trong không gian, thời gian đặc biệt. Trại giam
tỉnh Sơn về đêm…những âm thanh phức tạp…Tương phản với không gian tối tăm và âm thanh
hỗn tạp ấy là hình ảnh bầu trời với ngôi sao hôm từ biệt vũ trụ. Hình ảnh thiên nhiên ở đây vừa tả
thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng: sự hướng thiện trong tâm hồn quản ngục.
*Chân dung quản ngục: Mở đầu là bức chân dung đầy tâm trạng thể hiện sự dằn vặt, dằng xé dữ
dội trong nội tâm của nhân vật Bên góc án thư ngục quản băn khoăn ngồi bóp thái dương…cây
đèn leo lét dọi vào khuôn mặt tư lự. Nhưng sau đó gương mặt trở nên nhẹ nhõm, thanh thản như
mặt nước ao xuân => Phản chiếu tâm hồn quản ngục khi quyết định đi theo tiếng gọi của cái đẹp.
B.4.Thái độ chân tâm phục thiện:
Quản ngục xúc động chân thành trước sự chỉ giáo của Huấn Cao. Sau khi viết Huấn Cao
cất lời khuyên bảo: Thầy quản nên thay chốn ở đi, ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững.Quản
ngục đã đáp tạ bằng một thái độ kính cẩn và lòng biết ơn sâu sắc: Ngục quan chắp tay vái lạy
người tù và nói một câu mà dòng nước mắt rơi vào kẽ miệng làm nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin
bái lĩnh => Quản ngục đã thực sự được cảm hóa bởi Huấn Cao, bởi cái đẹp.
**Đánh giá:
-Nội dung-tư tưởng:
+ Tác phẩm đã khắc học thành công, sinh động nhân vật quản ngục với tình huống oái oăm, tâm
hồn thanh cao đẹp đẽ và tấm lòng biệt nhỡn liên tài, chân tâm phục thiện.
+ Góp phần làm nổi bật hình tượng nhân vật Huấn Cao. Những vẻ đẹp của Huấn Cao được thể
hiện rõ nét qua cuộc gặp gỡ quản ngục. Quản ngục đã giúp Nguyễn Tuân bày tỏ sự ngưỡng mộ,
trân trọng với Huấn Cao.
+ Nhân vật quản ngục góp phần thể hiện tập trung quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp:
. Khẳng định sức mạnh của cái đẹp.
. Thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sự cảm hóa của cái đẹp.
. Góp phần thể hiện tập trung chủ đề của tác phẩm, thể hiện cái tài nghệ sĩ, khám phá say mê cái
đẹp của Nguyễn Tuân.
-Nghệ thuật:
+ Quản ngục được miêu tả theo nguyên tắc của chủ nghĩa lãng mạn. Đặc biệt là thủ pháp tương
phản (hoàn cảnh tương phản với nhân cách; vị thế xã hội tương phản với hành động).
+ Tình huống đặc sắc: Quản ngục được đặt trong hoàn cảnh oái oăm (tâm hồn và nhân cách thanh
cao nhưng phải làm nghề quản ngục)
+ Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật thành công bằng nhiều hình thức: qua ngoại hình, tả cảnh
ngụ tình, ngôn ngữ độc thoại nội tâm, lời bình luận ngoại đề của tác giả.
+ Chi tiết và hình ảnh đặc sắc, mang tính biểu tượng cao.
+ Ngôn ngữ đậm màu sắc cổ kính và nhiều từ Hán Việt.
4.Cảnh cho chữ: Cảnh tượng xưa nay chưa từng có
a. Cảnh cho chữ:
- Thời gian: Đêm khuya, đêm cuối cùng, khoảnh khắc cuối cùng của Huấn Cao ở trại giam tỉnh
Sơn, ngày mai ông vào kinh chịu án tử hình -> gợi tính chất hệ trọng, thiêng liêng.
- Không gian:
+ Không gian của nhà lao, nơi giam giữ người tù ->Không gian của cái ác, cái xấu -> Hoàn toàn
xa lại với nghệ thuật.
+ Sự tương phản mạnh mẽ, dữ dội giữa bóng tối và ánh sáng, sự bẩn thỉu tương phản với sự thanh
cao, đẹp đẽ. Bóng tối bị đẩy lùi bởi ba bó đuốc, khói tỏa ra cay mắt như đám cháy nhà, giữa phòng
giam là tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ được căng sẵn. Là hương mực thơm ngào ngạt, là
những nét bút vuông vắn. Không gian nhà lao trở thành không gian nghệ thuật và cái đẹp, một
không khí thiêng liêng, một vẻ đẹp thanh cao quen thuộc của cảnh cho chữ xưa nay đã xuất hiện
trong phòng giam chật hẹp, bẩn thỉu.
- Nhân vật: Người viết chữ là người tù, người xin chữ là quản ngục -> Những con người mà nghề
nghiệp và hoàn cảnh hoàn toàn xa lạ với nghệ thuật thư pháp.
- Diễn biến:
* Cảnh Huấn Cao viết chữ (tái hiện lại) :
+Vừa làm nổi bật được cảnh ngộ của nhân vật, vừa toát lên khí phách hiên ngang và vẻ đẹp tài hoa
của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ vẫn hiên ngang, lẫm liệt, say mê sáng tạo, bất chấp cái chết đang
cận kề.
+ Di bút của Huấn Cao, món quà quý giá mà Huấn Cao để lại cho quản ngục lag những nét chữ
vuông tươi tắn, nó nói lên cái hoài bão tung hoành của đời con người -> Những nét chữ vừa thể
hiện tài hoa vừa là hiện thân của hoài bão, khát vọng, khí phách hiên ngang của ông Huấn cho dù
chí lớn không thành.
+ Thái độ ngưỡng mộ, cảm phục, kính trọng đặc biệt của quản ngục và thầy thơ lại đối lập với vị
thế của họ. Trong những hành động ấy ta cảm nhận được niềm xúc động mãnh liệt trước cái đẹp.
Sự trân trọng, quý mến đối với người có tài.
*Huấn Cao khuyên bảo quản ngục (tái hiện lại): Sau khi viết chữ Huấn Cao đã cất lời khuyên
bảo chân thành, thầy quản bày tỏ niềm xúc động biết ơn sâu sắc.
b. Ý nghĩa:
- Thâu tóm tình huống đặc sắc của thiên truyện, thể hiện tình huống oái oăm của các nhân vật:
+ Huấn Cao và quản ngục đều là những nhân cách thanh cao nhưng bị đặt trong hoàn cảnh trớ
trêu: ngục tù tối tăm, bẩn thỉu.
+ Họ là những người tri âm, đồng điệu trong nghệ thuật và tâm hồn nhưng đối nghịch nhau trong
xã hội.
+ Cảnh cho chữ thể hiện tình huống đối nghịch đến tri âm.
-Thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của các nhân vật:
+ Huấn Cao: Tài năng, tài hoa (qua nét chữ và phong thái,viết chữ say mê), khí phách (nét chữ,
phong thái lẫm liệt hiên ngang-> cuộc vượt ngục tinh thần), tâm đức trong sáng (trân trọng tấm
lòng quản ngục, nâng đỡ thiên lương quản ngục)
+ Quản ngục: Tâm hồn say mê cái đẹp, tấm lòng biệt nhỡn liên tài (chuẩn bị cho Huấn Cao viết
chữ, sự xúc động và ngưỡng mộ chân thành), chân tâm phục thiện, hướng thiện.
-Thể hiện quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân về cái đẹp:
+ Cái đẹp là sự kết hợp giữa tài, tâm, mĩ, thiện.
+ Cái đẹp có sức mạnh lớn lao, chiến thắng cái xấu, cái ác (có sức cảm hóa lớn lao, không thể
dung hòa với cái xấu).
*Đánh giá:
- Nội dung – tư tưởng: Cảnh cho chữ thể hiện tập trung tư tưởng chủ đề tác phẩm, ngợi ca vẻ đẹp
lí tưởng của Huấn Cao.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng rộng rãi thủ pháp tương phản.
+ Ngòi bút miêu tả thiên nhiên và con người chân thực, sinh động, đặc sắc và tài tình. Đặc biệt tác
giả đã tạo dựng không khí cổ xưa trang trọng, thiêng liêng trong cảnh cho chữ. Vận dụng thủ pháp
tương phản của nghệ thuật tạo hình để tái hiện chân thực chân dung nhân vật.
+ Ngôn ngữ cổ kính, mang màu sắc cổ xưa.
+ Hình ảnh, chi tiết nghệ thuật đặc sắc tạo sức gợi, mang tính biểu tượng cao.
III. Tổng kết:
1.Nội dung: Trong truyện ngắn Chữ người tử tù Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công vẻ đẹp của
hình tượng nhân vật Huấn Cao, qua đó thể hiện được quan điểm thẩm mĩ, khẳng định sự bất tử của
cái đẹp và bộc lộ lòng yêu nước thầm kín của ông.

2.Nghệ thuật: Nguyễn Tuân thể hiện tài năng trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo, tạo
không khí cổ xưa, thủ pháp đối lập, ngôn ngữ góc cạnh, giàu giá trị tạo hình.

You might also like