You are on page 1of 4

Cảm nhận bức tranh phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn Hai

đứa trẻ - Thạch Lam


“Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời”
(Nhớ Đồng – Tố Hữu)
Trong những ngày tháng gông nô lệ đã đeo vào cổ, kiếp đọa đày đã định sẵn phần thì con
người có muốn tìm được lẽ yêu đời cũng đâu phải dễ dàng. Có người mơ tiên, thoát tục, có
người say hoa, say nguyệt, người lại trốn vào trong vỏ bọc của hạnh phúc ảo tưởng. Nhưng
rồi có trốn tránh được đâu, có hạnh phúc được đâu khi ngoài kia là tiếng kêu thương của
những kiếp người đau khổ, ngoài kia mới thực sự là đời. Mặc dù bén rễ từ dòng văn chương
lãng mạng, Thạch Lam lại vươn cành lá của mình che chở cho đời thực bằng tấm lòng cảm
thông, yêu thương, trân trọng qua truyện ngắn Hai đứa trẻ. Với Thạch Lam tiểu thuyết không
phải cứ là tiểu thuyết mà là những mảnh đời bất hạnh như chị em Liên, An và những số phận
nhỏ bé ở cái phố huyện nghèo, là hiện thực xã hội đè nặng lên đôi vai con người.

Thạch Lam xuất thân là ngòi bút chủ lực trong Tự lực văn đoàn, thế nên văn chương của ông
ít nhiều mang hơi hướng lãng mạn. Tuy vậy sự lãng mạn ấy không hề thoát ly, không khai
sinh từ một thế giới khác mà mọc chồi ngay đời sống thực tại, tìm kiếm cái đẹp, cái dung dị
đời thường. Không xây dựng một cốt truyện gay cấn, nhiều tình tiết, Thạch Lam hướng ngòi
bút của mình đến đời sống nội tâm nhân vật với những cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng, giàu
chất thơ. Chính cái tình sâu xa gói gọn trong những trang văn giàu lòng trắc ẩn đã tạo một
dấu ấn Thạch Lam khiêm nhường, nhã nhặn mà rạng rỡ trong lòng người đọc
. Hai đứa trẻ không ai khác trong truyện chính là hai chị em Liên, An. Tuy nhiên nhan đề gợi
ra không chỉ có Liên, An mà còn là những đứa trẻ bất hạnh, sống lay lắt trong cái ao tù mà
chế độ nửa phong kiến thực dân gây ra. Nhan đề vang lên như lời thương cảm chân thành
của nhà văn dành cho những phận đời nhỏ nhoi, cô độc, sống tưởng chừng lạc loài trong một
xã hội ngột ngạt. Nỗi trăn trở về phận người và tình đời chi phối mạch truyện lắng sâu vào
dòng tâm tưởng của nhân vật, hoà vào trong bức tranh phố huyện lúc chiều và tối.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ kể về Liên và An, hai đứa bé từng sống những ngày sung túc ở Hà
Nội phồn hoa. Nhưng rồi gia đình kiệt quệ nên phải về quê sống trong phố huyện nhỏ bé,
mưu sinh bằng buôn bán lặt vặt ở cái tiệm tạp hoá gần ga tàu. Xung quanh hai đứa bé là
những mảnh đời cũng héo hắt, đáng thương như mẹ con chị Tí, vợ chồng bác Xẩm, bà cụ
Thi, gánh phở bác Siêu...Tất cả những kiếp sống lay lắt, buồn tẻ chẳng khác nào bức tranh
phố huyện nghèo. Vậy mà họ vẫn cố chờ đợi chuyến tàu đêm, một hoạt động cuối cùng của
ngày như chút niềm an ủi, như chờ đợi một niềm tin sáng sủa cho cuộc sống tăm tối hằng
ngày
Với một nhà văn thiên về nội tâm như Thạch Lam thì mỗi câu văn cũng thấm đẫm nỗi lòng, một
nỗi lòng êm dịu đượm buồn như chính bức tranh phố huyện buổi chiêu tàn và đằng sau ấy là
cảnh sống tàn tạ của những thân phận con người. Buổi chiều tàn được báo hiệu bằng những âm
thanh và cả hình ảnh nhưng cũng như tất cả những buổi chiêu dễ gợi cho người ta nỗi buồn ảm
đạm. “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi
chiêu. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy
tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.” Tiếng trống thu không trỗi lên như một
tín hiệu đặc biệt của bức tranh phố huyện. Tuy vậy âm thanh không đủ sức làm huyên náo cảnh
vật mà dường như nó chất chứa nỗi niêm con người nhiều hơn. Tiếng trống thu không “từng
tiếng một vang xa để gọi buổi chiều” cũng là để gọi bao nỗi niềm xao xác của cuộc sống trở
về. Thanh âm ấy như rời rạc, rệu rã chứ không vang động, hối thúc, cứ như việc vang lên mỗi
chiều là việc phải làm. Nếu ví tiếng trống thu không là nhịp thở của cuộc sống nơi phố huyện
thì rõ đây là một nhịp thở nặng nề, khô khốc, chìm lấp trong bóng tối và không đủ sức gợi ra
chút hăng say. Phải chăng khi đặt tiếng trống thu không đâu tác phẩm, Thạch Lam đã báo
trước hơi thở héo hắt của những kiếp sống nơi này. Cả cái màu rực rỡ nhất của bức tranh là
cảnh mặt trời lặn cũng dễ gieo vào lòng người nỗi mông lung khó tả của một ngày tàn. Bức
họa đồng quê tiếp tục được vẽ bằng những nét rất dung dị, hiện thực, rất dễ tìm thấy ở bất cứ
nơi nào “văng vắng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa
hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. Những sinh vật bé nhỏ này gợi linh hồn của một buổi
chiều heo hắt, âm thanh của nó gây cho lòng người u sầu cứ như bản thân nó mang nỗi buồn
của đồng quê nhỏ bé.
Câu văn chậm rãi, hàm súc, không cầu kỳ, bóng bẩy nhưng lại giàu chất thơ và nhạc đã vô
hình chung gieo vào lòng người một nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn “chiêu, chiều
rồi”. Chỉ cần một cảnh chiều đã đủ gợi những dự cảm bất an về số kiếp con người đang ẩn
đằng sau bức tranh kia, những con người có tương lai vô định cũng mù mịt tối tăm như chính
buổi chiều ấy vậy. Thạch Lam đưa ngòi bút miêu tả cảnh chợ vãn thông qua cái nhìn đây
thương cảm của nhân vật Liên: “Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã
mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến
chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Buổi chợ được xem là nơi đông
đúc nhất, nhộn nhịp nhất với kẻ mua người bán, thế mà cảnh chợ tàn nơi phố huyện này còn
lại chỉ là tàn tích của một cuộc sống lam lũ, thiếu thốn “mấy đứa trẻ con nhà nghèo...đi lại
nhặt nhạnh bất cứ cái gì đó có thể dùng được.” Thời gian và không gian nghệ thuật khéo kết
hợp làm nền cho một bức tranh phố huyện tiêu điều, xơ xác. Nơi ấy chính là nơi sống của
những con người vô vọng, những đứa bé lớn lên mà không biết tương lai ra sao, ngày mai
thế nào. Những thứ tưởng chừng bỏ đi như rác rưởi, vỏ thị..mà lại tranh nhau nhặt, cái đói cái
nghèo đã hiển hiện ra nét mặt của từng đứa trẻ, ẩn đằng sau là sự bám víu đời sống dai
dẳng, bám víu vào cả những thứ tưởng chừng đã bỏ đi. Bức tranh thiên nhiên buổi chiều tàn
nơi phố huyện đã cho thấy nghệ thuật tả cảnh tự nhiên, giàu chất nhạc, chất thơ và sự thấu
hiểu tâm lý nhân vật ở nhà văn
.
Cảnh chiều tàn nơi phố huyện vừa có chút gì êm ái, mơ mộng nhưng vẫn thoang thoảng nỗi
buồn mơ hồ. Cảnh và đời hòa quyện vào nhau tạo thành bức tranh: ngàytàn, chợ tan, những
kiếp người tàn tạ.
Truyện ngắn được viết theo sự chuyển động của thời gian từ chiều tàn đến nửa đêm, cảnh
phố huyện cũng chuyển mình trong tâm trạng buồn tẻ của những thân phận mỗi lúc hiện ra
trong cảnh túng cùng, bế tắc. Chút ánh sáng của buổi hoàng hôn đã tắt lịm, bóng tối được dịp
nghênh ngang choáng ngợp khắp phố huyện. “Đường phố và các ngõ con dân dân chứa đây
bóng tối. Các nhà đã đóng im im, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một
khe ánh sáng...Tối hết cả, con đường thăm thắm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các
ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa...Trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn,
khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối...”
Có thể nói cảnh phố huyện được đặc tả bởi bóng tối, thứ bóng tối ngự trị khắp mọi nơi. Tối từ
tiếng trống thu không đến lũy tre làng. Tối con đường tối cả mọi hang cùng ngõ hẹp. Mỗi lúc
bóng tối như dày đặc hơn, đen kịt lại tranh giành cả khoảng không để thở của con người.
Bóng tối khiến cuộc sống tù túng nơi nàythành ra ngột ngạt, không lối thoát. Thạch Lam đã
mượn bóng tối, nói nhiều về bóng tối để bóng tối không còn trong khuôn khổ của tự nhiên mà
trở thành nhân vật có linh hồn, có suy nghĩ và sự sống. Linh hồn, suy nghĩ, sự sống của nó
chính là khoảng trống vô thức và cả ý thức mà con người nhìn thấy ở chính mình. Vì lòng
không ánh sáng, không nhiều hy vọng nên nhìn thấy đâu đâu cũng chỉ toàn là bóng tối.
Trong bức tranh phố huyện về đêm đâu chỉ có bóng tối mà vẫn có chút ánh sáng. Tuy nhiên
sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối trong truyện ngắn của Thạch Lam là cuộc đối đâu không
cân xứng. Khi mà bóng tối càng bao trùm thì ánh sáng càng trở nên le lói, yếu ớt. Ánh sáng
từ cửa nhà ai chỉ để hé ra một “khe ánh sáng” hay “vệt sáng của những con đom đóm”,
“quầng sáng” thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chống hàng của chị Tí. Bóng tối
thì rộng lớn, bao trùm cả chiếc áo khổng lồ còn ánh sáng lại được tính bằng những đơn vị ít
ỏi, hoạ hoằn tưởng chừng chỉ cần một ngọn gió thổi qua là có thể làm cho tan biến. Nhìn
ngọn đèn đáng thương của chị em Liên, An trong cửa hàng như một sự đong đếm vừa vặn
đâu ngón tay “từng hột sáng lọt qua phên nứa”. Nhiều nhất cũng chỉ là “chiếu sáng một vùng
cát” của bếp lửa bác Siêu toả ra, vậy cũng đã là một món xa xỉ với đời thường.

Mượn ánh sáng để nói bóng tối, không gì có thể gợi hình hơn khi mà chúng ta nhận ra ánh
sáng càng yếu ớt, càng nhạt nhoà thì chứng tỏ bóng tối càng sâu thẳm. Thủ pháp nghệ thuật
này đã từng được Nguyễn Khuyến sử dụng trong bài thơ Thu ẩm: “Ngõ tối đêm sâu đóm lập
lòe”. Chút ánh sáng góp nhặt không đủ đánh lùi bóng tối mà chỉ khiến cho bóng tối càng cô
đặc, càng như vô tận. Bóng tối và ánh sáng trong truyện ngắn là dụng ý nghệ thuật nên đều
mang ý nghĩa biểu tượng. Bóng tối chính là hơi thở của cuộc sống nghèo nàn, túng quẫn
không lối thoát nơi bức tranh phố huyện. Ấy cũng là một xã hội thu nhỏ trước Cách mạng, khi
mà con người chịu chung cảnh nô lệ thì đời sống của người lao động nghèo thấp cổ, bé họng
lại càng chìm trong lâm than, cơ hàn. Cái ao đời phẳng lặng kia như Huy Cận đã từng nói:
“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu, vì quá thân nên quá đỗi buồn cười, môi nhắc lại cũng
ngần ấy chuyện”. Bóng tối làm nền để ánh sáng xuất hiện. Đến lượt mình, ánh sáng tượng
trưng cho những phận đời nhỏ bé, lay lắt, sống trong nỗi đau khổ thân phận phải mỏi mòn
chờ đợi những điều vô vọng. Dẫu không thể thắng được bóng tối nhưng ánh sáng chỉ cần le
lói cũng đáng quý.
Hoà lẫn vào trong nền bóng tối dày đặc ấy chính là những kiếp người hẩm hiu, ai nấy cũng
chật vật tìm chút hy vọng để tiếp tục sống. Mẹ con chị Tí dọn hàng, một hàng nước đơn sơ
vắng khách. Buôn bán chẳng được bao nhiêu nhưng ngày nào chị cũng chăm chỉ dọn hàng
và chờ đợi bởi vì cũng chẳng còn công việc gì mà lựa chọn trong cái thời buổi ấy. Gia đình
bác Xẩm gợi cho người đọc nhiều suy tư về số phận của con người và nghệ thuật trong bối
cảnh ảm đạm trước Cách mạng. Bác Xẩm, một người nghệ nhân hát dân ca Trù với tiếng đàn
bầu độc đáo mà lại rơi vào cảnh nghèo xơ xác, phải hát rong sống qua ngày. Giá trị của nghệ
thuật chẳng còn giữ được mình khi đứng trước cái đói, cái khổ. Tâm hồn con người cũng héo
hon, bào mòn chẳng còn lòng dạ để thưởng thức cái hay.
Số phận những con người nhỏ bé nơi phố huyện quy tụ lại trong cái dáng “lảo đảo” và tiếng
cười “khánh khách” của bà cụ Thi say rượu. Cái tù túng, ngột ngạt của phố huyện tưởng
chừng phẳng lặng kia dễ khiến người ta hoá điên chẳng biết nên cười hay nên khóc. Cảm xúc
và điệu bộ của bà cụ Thi có khác đời cũng vì đời mà ra. Cái điên của bà và cái say của bà là
biểu hiện cho sự bế tắc, chán ngán đến tột cùng. Phải chăng chính cuộc sống quá đỗi ảm
đạm đã đẩy con người ta triền miên trong những nỗi buồn. Muốn dứt khỏi cái buồn thì chỉ có
rượu và điên dù hai thứ ấy đều không phải là giải pháp.
Trong những số phận ấy, có lẽ hai chị em Liên, An khá hơn một chút khi có được một cửa
hiệu be bé bán vài thứ lặt vặt. Tuy nhiên dấu tích của cái nghèo vẫn không chừa một ai. Hai
chị em bị cơm áo trói buộc vào cửa tiệm để rồi không thể tìm chút niềm vui với những đứa trẻ
vô tư bên ngoài. Cả tuổi thơ bị mài mòn vì chẳng dám mơ đến một bát phở hiện tại chỉ có thể
luyến tiếc những ngày tháng đâm ấm ở quá khứ. Nỗi hụt hẫng cùng bao khao khát nhỏ nhoi
đã khiến chị em Liên trở nên trưởng thành hơn ở tuổi đời còn quá bé. Nhất là chị Liên, một cô
bé đảm đang, hiểu chuyện lại có đôi mắt nhạy cảm ẩn chứa nội tâm sâu sắc. Có lẽ đời sống
nội tâm phong phú và tấm lòng biết yêu thương của Liên đã tạo nên chất thơ cho câu
chuyện và cũng đặt ra vấn đề rất nhân văn. Tuổi thơ và những nỗi buồn không tên như hơi
nước bám vào cánh chuồn mỏng manh để từ đây tâm hồn những đứa trẻ buộc phải vững chãi
hơn để vượt qua giông bão(hà nội)
. Đâu chỉ những người nghèo mọn như chị Tí, vợ chồng bác Xẩm, cụ Thi, bác Siêu, người có
gánh phở xa xỉ cũng bán buôn ế ẩm. Từng ấy người chôn chặt cuộc đời mình trong cái phố
huyện chật hẹp. Họ chẳng biết đi đâu, làm gì khác vì ra khỏi sự chật hẹp này cũng chỉ là sự tù
túng khác mà thôi. Hết cảnh chiều tàn đượm buồn rồi lại đến đêm tối thăm thẳm. Dù ánh sáng
có len lỏi đâu đó nhưng đến cuối thì trong bức tranh chỉ còn lại những phận đời tàn tạ héo
mòn. Lũ trẻ vẫn phải nhặt rác lúc tàn buổi chợ; gánh phở bác Siêu vẫn lại kĩu kịt bước đi chỉ
còn chấm nhỏ trong đêm; gia đình bác Xẩm vẫn cố nán lại trên manh chiếu rách; mẹ con chị
Tí cứ dọn hàng ra rồi lại dọn vào; bà cụ Thi thì cứ say và điên rồi cười khanh khách. Thương
nhất vẫn là chị em Liên. Hai đứa trẻ ngây thơ để bóng mình lẫn vào nỗi buồn trên chiếc chõng
tre đã cũ. Họ tuy có khác nhau về hoàn cảnh, có hơi thở nhưng lại giống nhiều hơn cái bóng
vật vờ. Cái bóng mà đêm tối đã tạo nên bất tận, thắm sâu.
Bằng chất văn nhẹ nhàng như thơ, Thạch Lam đã khắc sâu vào lòng người những ấn tượng
sâu đậm về bức tranh phố huyện trong buổi chiều tàn và đêm tối. Thủ pháp đối lập giữa ánh
sáng và bóng tối, giữa cái ngột ngạt của phố huyện và những khát khao bé nhỏ của con
người đã đem đến những tầng nghĩa cho tác phẩm. Một bức tranh bằng ngôn ngữ được vẽ ra
trong trí tưởng tượng cả độc giả và cả trong trái tim rung động vì tình đời, tình người, biết yêu
thương, thấu hiểu thường trực trong mỗi con người. Truyện mà không như truyện, chỉ có
Thạch Lam, chỉ có tấm lòng khắc khoải của ông hướng về cuộc đời mới làm nên giá trị lâu
bền của Hai đứa trẻ và dựng lên một quang cảnh phố huyện tiêu điều, lay động lòng người
đến lạ.

You might also like