You are on page 1of 7

Đề 1 : vẻ đẹp tâm hồn Liên trước bức tranh phố huyện lúc chiều tàn

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp
nhất, trong sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng. Dưới con mắt của ông,
đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả đất trời, quên cả mọi người mà còn có cả
những nỗi đau. Ngòi bút Thạch Lam hòa cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm
hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa
trẻ). Hai đứa trẻ là truyện ngắn được nhà văn Thạch Lam viết vào những năm khi mà xã hội
Việt Nam ở vào một trong những thời kì đen tối nhất. Đây là truyện mang đậm phong cách của
Thạch Lam, cốt truyện không có những nút thắt nổi bật độc đáo nhưng khi đọc xong luôn ám
ảnh lòng người. Một trong những thành công của truyện là tác giả đã tái hiện lại bức tranh sinh
động về đời sống ở một ga xép khi màn đêm buông xuống mà qua đó nhà văn đã gửi gắm tình
cảm của mình với những cảnh đời khác nhau.

Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh sau đổi là Nguyễn Tường Lân, Sinh ra
ở huyện Cẩm Giàng_Hải Dương (quê mẹ), Tác phẩm của ông chủ yếu khai thác thế giới nội
tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Thạch Lam là cây bút nhẹ nhàng,
sâu lắng trong nhóm Tự lực văn đoàn, một cây bút thiên về tình cảm, ghi lại cảm xúc của mình
trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả , thầm lặng
chịu đựng và giàu lòng hi sinh. Những nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn nhạy
cảm của ông, cũng như điểm nhìn của tác giả. Truyện ngắn “ Hai đứa trẻ in trong tập nắng
trong vườn ( 1938) với sự kết hợp giữa 2 yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình. Hai đứa trẻ với
bói cảnh xhvn trước cmt8 , cụ thể hơn là ở phố huyện , dãy chợ nhỏ. . Nhân vật chính của tác
phẩm là hai chị em Liên . Ngày ngày hai chị em Liên trông coi căn hàng xén nho nhỏ với vài ba
bao thuốc, dăm bánh xà phòng… và chờ đợi đoàn tàu đi ngang phố huyện. Qua con mắt ngây
thơ của Liên, cuộc sống nơi phố huyện hiện lên chân thực, sống động. Truyện ngắn “Hai đứa
trẻ” bên cạnh việc miêu tả không gian cảnh vật bên ngoài và những cảnh người dường như
không có gì nổi bật đáng chú ý, nhưng đi vào nơi bên trong sâu lắng của tâm hồn mới phát hiện
ra những điều tinh tế gợi lên đó là mảng màu u tối trong không gian chật hẹp, tù túng với những
con người chậm chạp, vô hồn và nghèo đói và cũng là biết bao nỗi xót xa, thương cảm cho
những kiếp người nghèo khổ đồng thời trân trọng ước mơ của họ. Nhà văn Thạch Lam mở
đầu truyện ngắn Hai đứa trẻ bằng những hình ảnh vào thời khắc của một ngày sắp tàn.
Vào thời điểm đó cảnh vật của phố huyện nghèo hiện ra xơ xác, tiêu điều, với những con
người mỏi mệt quẩn quanh nơi phố chợ. Cùng xuất hiện với những gì tàn tạ nhất ở phố
huyện đó là nhân vật Liên và An. Qua cái cảm nhận của hai tâm hồn ngây thơ ấy, mọi cảnh
vật được hiện lên một cách chi tiết và chân thực nhất.

Bức tranh thiên nhiên mơ mộng mà đượm buồn, âm thanh còn vương lại chỉ là
"tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi
chiều", xa xa là tiếng ếch nhái kêu ran theo tiếng gió đưa vào. Âm thanh tưởng là náo động,
rộn rã mà hóa ra lại da diết, khắc khoải, ảm đạm. Có lẽ không gian phải vắng lặng, tĩnh
mịch lắm mới có thể nắm bắt trọn vẹn từng âm thanh ngoài kia đến vậy. Lúc này, mặt trời
cũng dần dần đi vào trạng thái nghỉ ngơi: "Phương Tây đỏ rực như lửa cháy", "Những đám
mây ánh hồng như hòn than sắp tàn", gam màu sáng, màu nóng nhưng tất cả đều gợi lên
sự lụi tàn. Bức tranh ấy tuy đẹp nhưng ẩn ở trong đó cả một nỗi buồn mà người vẽ lên đã
cố ý che lấp bằng những mảng màu sặc sỡ. Sở dĩ phải miêu tả cảnh vật ấy. Thạch Lam
như muốn giúp người ta đi tìm chút cảm giác nhẹ nhõm sau những trăn trở của cuộc đời.
Những dãy tre làng trước mặt đen lại cắt hình rõ rệt trên nền trời khiến cho sự ảm đạo bao
trùm lên cảnh vật khi bóng tối dần bủa vây xung quanh. Với nhịp điệu chậm, những câu văn
giàu tính nhạc tựa như một câu thơ đã vẽ nên khung cảnh yên bình, êm dịu của bức tranh
thiên nhiên.

Bức tranh phố huyện ấy không chỉ hiện lên bằng khung cảnh hoàng hôn rực lửa nhưng
buồn bã mà còn hiện lên ở những kiếp người nơi phố huyện – những kiếp đời tàn. Bắt gặp đầu
tiên là hình ảnh của những đứa trẻ hiện lên nơi phố huyện. Không phải hình ảnh những đứa trẻ
vui đùa, tinh nghịch chạy nhảy trên thảm cỏ xanh công viên mà là hình ảnh "mấy đứa trẻ con
nhà nghèo ở ven cái chợ cúi lom khom trên mặt đất, đi lại tìm tòi" trên nền cái "chợ tàn" của
phố huyện ấy. Cuộc sống quá lam lũ, nghèo đói đã đẩy những kiếp sống phải lụi tàn, những
đứa trẻ phải sống trên những đống rác rưởi bị bỏ lại sau phiên chợ, phải gieo hi vọng "nhặt
nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để
lại" trên đống rác của phiên chợ tàn kia. Và chính nhân vật Liên cũng cảm thấy động lòng
thương cảm trước những số phận đó, vậy nhưng "chính chị cũng chẳng có gì để cho chúng".
Liên thương cảm nhưng bất lực và đó cũng chính là cảm xúc mà Thạch Lam dành cho những
người lao động nghèo. Kế tiếp hình ảnh của những đứa trẻ là hình ảnh của mảnh đời chị Tí.
Chị Tí cũng là một người lao động nghèo trong cái phố huyện tối tăm ấy. Hàng ngày, buổi ban
ngày, "chị đi mò cua bắt tép", tới đêm lại mở hàng nước "từ chập tối cho đến đêm" chỉ để thêm
vài đồng xu lẻ mà cũng "chả kiếm được bao nhiêu Không chỉ số phận của chị Tí, của những
người phu xe phu gạo mà chính cảnh đời của chị em An, Liên cũng là một kiếp sống tàn nơi
phố huyện này. Chuỗi ngày sống tàn của gia đình Liên bắt đầu bằng sự kiện khi "thầy Liên mất
việc", chính điều này đã đẩy gia đình vào bế tắc. Không còn đủ sức trụ lại nơi phố phường Hà
Nội náo nhiệt, gia đình Liên chuyển về quê để tìm cách tháo gỡ cái bế tắc đang bủa vây. Về
quê, mẹ Liên trở thành hàng xáo, còn chị em Liên được giao trông coi hàng tạp hoá. Chính cái
gian hàng bé xíu ấy đã khắc thành ấn tượng trong mắt người đọc cái nghèo nơi phố huyện và
cái bế tắc của gia đình Liên. Thế nhưng, có cố gắng bao nhiêu thì bế tắc vẫn hoàn bế tắc khi
cuộc sống chẳng có lấy một chút hi vọng. Cuộc sống của gia đình Liên, chị em Liên vẫn cứ
quẩn quanh, đơn điệu như thếi. Những kiếp sống tàn ấy không chỉ có vậy, nó còn được thể
hiện điểm xuyết qua hình ảnh của bác Siêu, của bác xẩm, của cụ Thi điên nữa. Hình ảnh bác
Siêu hiện lên với gánh phở rong trên vai, với đòn gánh kĩu kịt giữa đêm tối. Gánh phở của bác
là "một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền" mà ít người có thể mua được. Chính vì vậy, gánh phở của bác
trong phố huyện này luôn ế khách. Thêm vào nữa là hình ảnh của gia đình bác xẩm mưu sinh
trên manh chiếu, họ cũng lại là những kiếp người tàn nơi phố huyện này. Gia đình bác xẩm
sống bằng nghề hát rong, Tài sản của bác chỉ là manh chiếu rách, chiếc đàn bầu và chiếc thau
sắt, đó là tất cả những gì mà gia đình bác có được. Cuối cùng là hình ảnh của bà cụ Thi điên
nghiện rượu. Cụ chính là biểu tượng cho một kiếp người tàn khi đến gần cuối cuộc đời, vẫn thê
lương, tàn tạ như thế. Khép lại bức tranh con người nơi phố huyện là hình ảnh bà cụ Thi điên
"đi lần vào trong bóng tối" với "tiếng cười khanh khách". Liên thương cảm, xót xa cho số phận
chị Tí, cho cuộc sống nghèo đói, tăm tối của một người đồng cảnh ngộ. Thế nhưng, khi hình
dung ra cuộc sống của gia đình mình, Liên cũng tự thấy xót xa cho chính bản thân mình, chị
thương cảm cho sự bế tắc của gia đình khi phải trải qua những tháng ngày vô nghĩa của cuộc
đời.

Bức tranh phố huyện tạm bợ, nghèo đói nay lại càng trở nên ảm đạm, ủ dột hơn dưới
con mắt của bé Liên – một trong những cư dân của phố huyện nghèo này . Bao trùm lấy tâm
trạng của chị là một nỗi buồn sâu thẳm từ trong tâm hồn nhạy cảm và trong sáng Là nhân vật
trung tâm, điểm nhìn của tác giả cũng bắt nguồn từ nhân vật này. Cô bé đã cảm nhận được sự
tiêu điều nơi phố huyện, cô xót thương cho những số phận bất hạnh, lận đận của mẹ con nhà
chị Tí, cho bà cụ Thi, tiếc nuối cái quãng thời gian mà gia đình khá giả còn được sống nơi phố
thị sung túc, đủ đầy. Tâm hồn nhạy cảm, từng trải và lối suy nghĩ già trước tuổi của mình, bé
Liên có một tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương mình, chẳng vậy mà chị có thể ngửi
được cái mùi quê hương, cái mùi đặc trưng nhất của mảnh đất phố huyện nghèo này "mùi âm
ẩm bốc lên trọn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc", sự ẩm mốc ấy lại trở thành một thứ gì đó quen
thuộc trong cuộc sống. Đáng lẽ ra, trẻ con phải có được một cái nhìn ngây thơ, non nớt, lạc
quan, yêu đời, thế nhưng với Liên, cô bé như cảm nhận cùng cảnh vật, có yên tĩnh, có buồn
thương, có tiếc nuối, có buông bỏ. Dù trong hoàn cảnh cùng cực, cô bé vẫn nhận thấy được sự
chăm chỉ, cần mẫn cố gắng, yêu thương nhau của mẹ con nhà chị Tí, vẫn "rót đầy một cút rượu
ty" cho bà cụ Thi điên dở, động lòng thương cho những đứa trẻ đang nhặt rác nhưng đành
ngậm ngùi quay đi bởi không có tiền cho chúng, và cũng không quên dành những tình cảm của
một người chị cho đứa em - cậu bé An. Cái tâm trạng của Liên cũng như cái hình ảnh của nơi
phố huyện nghèo này, cứ trầm lặng mà buồn bã. Đó là cái buồn của một cô gái mới lớn, nhạy
cảm với những xúc cảm xung quanh, mơ hồ, mong manh mà vô cùng thấm thía "cái buồn của
chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị", "chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ
khắc của ngày tàn". Nỗi buồn của Liên cũng chính là nỗi buồn của Thạch Lam trước xã hội
đương thời, một xã hội mà thời gian dường như ngưng đọng lại thành khoảnh khắc, không biến
chuyển, tàn tạ đến thê lương lòng người.

Thạch Lam viết về người lao động nghèo, nhưng ông không đi sâu vào những đói
nghèo của họ mà xoáy sâu vào trong bi kịch tinh thần của những con người đang sống kiếp đời
mòn mỏi, vô ý nghĩa. Sống giữa cái xã hội ấy là những con người như những hạt sáng, đốm
sáng, khe sáng, le lói, nhỏ nhoi, leo lét, chập chờn. Nhân vật Liên hay chính Thạch Lam đang
buồn man mác trước cái cuộc sống tối tăm ấy, chẳng có chút ánh sáng vào tương lai. Hiểu
được những bi kịch tinh thần đầy đau khổ ấy, phải chăng Thạch Lam đã thức tỉnh được ý thức
cá nhân, ý thức được quyền sống của con người, vậy nên ông thương cảm i xót xa cho những
mảnh đời vô ý nghĩa đó. Và có lẽ chính nhờ điều này đã làm nên chiều sâu trong ý nghĩa nhân
đạo cho tác phẩm mà Thạch Lam muốn gửi gắm.

Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn vừa khắc họa được bức tranh thiên nhiên đẹp mà
đượm buồn, vừa cho thấy cuộc sống quẩn quanh, bế tắc, nghèo nàn của những con người nơi
đây. Đằng sau bức tranh phố huyện ta còn thấy được tình yêu thiên nhiên, cũng như tấm lòng
nhân đạo sâu sắc của tác giả: trân trọng nâng niu những số phận và ước mơ đổi đời của họ.
Nghệ thuật miêu tả đặc sắc, chất trữ tình thấm đượm cũng là những yếu tố tạo nên sự thành
công cho tác phẩm.
đề 3 vẻ đẹp tâm hồn Liên trước cảnh chờ đoàn tàu đi qua phố huyện.

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất,
trong sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng. Dưới con mắt của ông, đời
không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả đất trời, quên cả mọi người mà còn có cả những
nỗi đau. Ngòi bút Thạch Lam hòa cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con
người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ). Hai
đứa trẻ là truyện ngắn được nhà văn Thạch Lam viết vào những năm khi mà xã hội Việt Nam ở
vào một trong những thời kì đen tối nhất. Đây là truyện mang đậm phong cách của Thạch Lam,
cốt truyện không có những nút thắt nổi bật độc đáo nhưng khi đọc xong luôn ám ảnh lòng
người. Một trong những thành công của truyện là tác giả đã tái hiện lại bức tranh sinh động về
đời sống ở một ga xép khi màn đêm buông xuống mà qua đó nhà văn đã gửi gắm tình cảm của
mình với những cảnh đời khác nhau.

Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh sau đổi là Nguyễn Tường Lân, Sinh ra
ở huyện Cẩm Giàng_Hải Dương (quê mẹ), Tác phẩm của ông chủ yếu khai thác thế giới nội
tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Thạch Lam là cây bút nhẹ nhàng,
sâu lắng trong nhóm Tự lực văn đoàn, một cây bút thiên về tình cảm, ghi lại cảm xúc của mình
trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả , thầm lặng
chịu đựng và giàu lòng hi sinh. Những nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn nhạy
cảm của ông, cũng như điểm nhìn của tác giả. Truyện ngắn “ Hai đứa trẻ in trong tập nắng
trong vườn ( 1938) với sự kết hợp giữa 2 yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình. Hai đứa trẻ với
bói cảnh xhvn trước cmt8 , cụ thể hơn là ở phố huyện , dãy chợ nhỏ. . Nhân vật chính của tác
phẩm là hai chị em Liên . Ngày ngày hai chị em Liên trông coi căn hàng xén nho nhỏ với vài ba
bao thuốc, dăm bánh xà phòng… và chờ đợi đoàn tàu đi ngang phố huyện. Qua con mắt ngây
thơ của Liên, cuộc sống nơi phố huyện hiện lên chân thực, sống động. Truyện ngắn “Hai đứa
trẻ” bên cạnh việc miêu tả không gian cảnh vật bên ngoài và những cảnh người dường như
không có gì nổi bật đáng chú ý, nhưng đi vào nơi bên trong sâu lắng của tâm hồn mới phát hiện
ra những điều tinh tế gợi lên đó là mảng màu u tối trong không gian chật hẹp, tù túng với những
con người chậm chạp, vô hồn và nghèo đói và cũng là biết bao nỗi xót xa, thương cảm cho
những kiếp người nghèo khổ đồng thời trân trọng ước mơ của họ. Hình ảnh chuyến tàu đêm
trong tác phẩm đã thể hiện một ước nguyện to lớn, và nó để lại trong trái tim người đọc nhiều
cảm xúc,Chính cuộc sống nghèo đói này làm cho họ luôn mong muốn có được một điều gì đó
nảy nở ra để cho họ bừng sáng, dù đó chỉ là trong phút chốc

Con tàu là phương tiện di chuyển xuất hiện từ thế kỷ 19 do thực dân Pháp xây dựng và
sử dụng.Sự xuất hiện của tuyến đường sắt và những con tàu hoạt động ngày đêm mang lại
nhiều thay đổi cho cuộc sống và xã hội. Đoạn trích Hai đứa trẻ tác giả Thạch Lam đã thành
công trong việc sử dụng con tàu giúp truyền tải nhiều thông điệp về cuộc sống. Bóng tối dần
bao trùm phố huyện, mang trong đó là thanh âm của sự tĩnh mịch, đầy u ám, lạnh lẽo.. Thạch
Lam đã lấy hình ảnh hai đứa trẻ chờ đón đoàn tàu, chờ đón một niềm vui nhỏ bé một cách đầy
chi tiết và tỉ mỉ. Nó không đơn giản là để việc bán hàng của hai chị em được thuận lợi mà kèm
theo đó là sự khao khát, mong mỏi được ngắm nhìn đoàn tàu sang trọng. Chuyến tàu đêm
trong truyện ngắn Hai đứa trẻ An và Liên cố thức để chờ chuyến tàu vì đó là hoạt động cuối
cùng của đêm khuya, cũng là giây phút duy nhất trong ngày phố huyện trở nên nhộn nhịp hơn
bởi ánh sáng và âm thanh sôi động, nó đối lập hoàn toàn với không khí tẻ nhạt của ban ngày.
Và với hai đứa trẻ như Liên và An thì chuyến tàu là cả một thế giới khác, tươi sáng và rực rỡ
hơn khác hẳn với cái lập lòe của ánh đèn của chị Tí và ngọn lửa của bác Siêu.

Thời điểm mà đoàn tàu sắp đi qua phố huyện được đánh dấu bằng sự trở lại của tiếng
trống thu không. Tiếng trống này đã xuất hiện ngay phần đầu truyện như một dấu hiệu của
ngày tàn. Đến đêm, nó lại vang lên “một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm
ngay vào bóng tối”. So với tiếng trống ban chiều rời rạc điểm nhịp sống nặng nề thì tiếng trống
cầm canh ban đêm cũng u uất không kém.. Dấu hiệu tiếp theo cho sự xuất hiện của đoàn tàu là
những người làm công trong hiệu khách đi đón bà chủ từ tỉnh về. Đoàn tàu xuất hiện với ánh
sáng của đèn ghi theo lời hô đầy phấn khởi của bác Siêu ” Đèn ghi đã ra kia rồi.”. Cố ngẩng về
phía tàu, Liên thấy thứ ánh sáng xa xa quên thuộc: “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma
trơi”. Và lắng nghe tiếng âm thanh phát ra từ chiếc tàu dài khổng lồ kia” còi xe lửa ở đâu vang
lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi”. Cảnh đợi tàu của hai chị em Liên, An và những
con người nhỏ bé nơi phố huyện được nhà văn miêu tả tỉ mỉ như thể đó chính là kỳ vọng của
nhân vật mình, háo hức đến không nỡ bỏ sót chi tiết nào. Mỗi hình ảnh, âm thanh trong lúc này
đều là sự sống, một sự sống đang cựa mình vang động trong đêm. Hai đứa trẻ dùng mọi giác
quan nhạy bén vốn có để nhìn, nghe, cảm những gì thuộc về đoàn tàu. Hai đứa trẻ “nghe thấy
tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”. Nhìn thấy “một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa,
tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”. Con tàu mỗi lúc mỗi tiến đến gần hơn, những dấu
hiệu của nó ngày thêm rõ rệt “tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới”. Khoảnh khắc đoàn tàu
đến trước mắt với hai đứa trẻ như một kỳ quan không phải mỗi đêm đều có mà là lâu lắm mới
được chứng kiến. Hai đứa trẻ đứng dậy, hành động này xuất phát từ mong muốn được ngắm
trọn vẹn mọi ngóc ngách của con tàu cũng là thái độ trân trọng dành cho những gì mình xem là
rất quan trọng.

Đáp lại sự mong mỏi của người phố huyện, con tàu hiện ra với “các toa đèn sáng trưng,
chiếu ánh cả xuống đường”. “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố
những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Một thế giới sáng rực cùng những
gam màu trong mơ “sáng trưng, chiếu ánh, đồng và kền lấp lánh, cửa kính sáng” cùng lúc xuất
hiện đãi ngộ cho thị hiếu non nớt nhiều mơ mộng của hai chị em. Thế nhưng cũng như lúc nó
xuất hiện, con tàu vội vàng “vụt” qua nơi này trong ánh nhìn còn dài nuối tiếc của bao nhiêu đôi
mắt chỉ quen với bóng tối nơi phố huyện. Cách nhà văn đặt đôi mắt cảm nhận ở nhân vật Liên
phát huy được hiệu quả diễn đạt. Chỉ có những đứa trẻ chưa hoàn toàn thành người lớn nhưng
vẫn có chút hiểu biết của người lớn mới có những giác quan nhạy bén để quan sát mọi thứ chi
li dù chỉ là “những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, “cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên
toa sau cùng” và nhận ra tàu hôm nay không còn đông như mọi khi nữa.

Đoàn tàu đã đi xa mãi rồi khuất sau rặng tre, rặng tre thì chìm trong bóng tối. Chuyến
tàu đêm đi qua, hoạt động cuối cùng cũng là hoạt động huyên náo nhất trong ngày của nơi này
đã kết thúc. Những gì thuộc về sự hào quang phút chốc còn lại cũng đã bị bóng tối nuốt chửng.
Chuyến tàu rực rỡ kia chẳng khác nào một tia chớp loé lên ngắn ngủi chưa kịp soi sáng từng
khuôn mặt của những người nơi phố huyện đã vụt mất . khi đoàn tàu đi họ lại mang trong mình
những dòng tâm trạng của sự nuối tiếc, con tàu đã mang lại cho họ một ước mơ về một tương
lai tươi sáng hơn, chính vì vậy khi nó đi nó để lại cho con người một sự nuối tiếc lớn lao, và cho
con người những cảm giác rất hụt hẫng.. Ánh sáng phút chốc của đoàn tàu không thể làm thay
đổi bóng tối cố thủ nơi phố huyện nhưng ít ra nó cũng mang đến những ý nghĩa tích cực cho
cuộc sống bế tắc, tù túng của con người. Được nhìn thấy đoàn tàu đêm đi qua đã làm người
dân phố huyện thoả mãn thị giác. Đôi mắt họ vốn chỉ quen với từng ấy người, từng ấy việc và
nhất là quen với bóng tối bao trùm thì việc nhìn thấy ánh sáng mới lạ của đoàn tàu giống như
cảm giác ngắm một ngôi sao xa, vừa ngỡ ngàng vừa thích thú

Hình ảnh đoàn tàu còn là biểu tượng của một thế giới đáng sống. Thế giới ấy có đầy đủ
tiện nghi “đồng kền lấp lánh”, có âm thanh, màu sắc và có những con người luôn an nhàn trên
những toa hạng sang mà không phải cúi mặt nhìn cuộc đời như bao nhiêu thân phận hẩm hiu
nơi phố huyện.. Đoàn tàu mang ý nghĩa vô cùng đặc biệt với chị em Liên và ng dân nơi phố
huyện, nó đem đến 1 thế giới tràn ngập âm thanh ánh sáng , 1 thế giới của sự giàu sang để
góp phần đánh thức và thay đổi nhận thức của con người nơi đây, giúp họ vượt qua cuộc sống
nghèo khôt , tăm tối quẩn quanh để hướng tới 1 cuộc sống tốt đẹp hơn, nuôi dưỡng ước mơ về
cuộc sống và tương lai tươi đẹp. Như vậy ý nghĩa không thể phủ nhận của chuyến tàu đêm là
nhen nhóm niềm hy vọng sống, dù hy vọng ấy ít ỏi, nhỏ bé. Xây dựng ý nghĩa đoàn tàu trên
phương diện này, nhà văn đã góp phần phản ánh hiện thực nghèo nàn, lạc hậu của một nơi
hẻo lánh dường như bị ánh sáng bỏ rơi. Ấy cũng là hiện thực chung của xã hội Việt Nam trước
Cách mạng cần lắm một ánh sáng lý tưởng soi đường. Không chỉ thế, chuyến tàu đêm xuất
hiện bằng cả tấm lòng yêu thương, trân trọng của Thạch Lam đối với những kiếp người vô
danh, vô định. Ông cố đem ánh sáng trong tim mình tỏa sáng đoàn tàu để gửi cho họ thông
điệp: cuộc sống cần lắm những hy vọng và ước mơ, dẫu cho hy vọng và ước mơ ấy có xa vời
cũng nên có hơn là chấp nhận sống lầm lũi, nhạt nhẽo. Vậy nên đoàn tàu còn là lời nhắn gửi
chân thành đến những con người bất hạnh: hãy cứ tiếp tục chờ đợi, tiếp tục kiên trì mà sống,
sự nhẫn nại rồi sẽ được đáp đền.

Phân tích hình ảnh đoàn tàu trong Hai đứa trẻ, ngoài giá trị nhân văn, nó còn mang giá
trị nội dung và nghệ thuật văn học độc đáo. Đó là cảnh đoàn tàu đến và đi được lột tả một cách
chân thực và sinh động. Nó cũng chính là nút thắt mở tạo nên cao trào của tác phẩm. Với nghệ
thuật hiện thực kết hợp với sự lãng mạn tinh tế, tác giả Thạch Lam đã biến hình ảnh đoàn tàu
bình thường thành một biểu tượng sống, mang ý nghĩa thâm sâu. Đối với độc giả, chuyến tàu
đêm cùng tâm trạng mong chờ, háo hức của những đứa trẻ không chỉ mang đến những nụ
cười vui vẻ, nhẹ nhàng mà còn mang đến bao bâng khuâng, thương cảm cho những số phận,
những con người nghèo khổ.

Một lần nữa, độc giả khẳng định lại óc quan sát tinh tế và sự nhạy cảm hiếm có trong
tâm hồn của nhà văn Thạch Lam. Chỉ có ông, người có trái tim luôn biết thương cảm với những
phận đời éo le mới có thể xây dựng nên bức tranh phố huyện và đoàn tàu chân thực, nhiều xúc
cảm như vậy. Đoàn tàu như một khối sắt khổng lồ thường ngày bỗng trở nên thật có hồn dưới
ngòi bút của tác giả. Hình ảnh đoàn tàu không chỉ là quá khứ tươi đẹp mà còn là những ước
mơ và khát vọng. Đó còn là niềm tin vào một ngày mai tươi sáng khi người dân phố huyện sẽ
không phải cực khổ từ túng nghèo nàn. Đó cũng chính là ánh sáng của cách mạng, con đường
đi tới xã hội mới của người dân Việt Nam.

You might also like