You are on page 1of 5

HAI ĐỨA TRẺ

- Thạch Lam-
I. Tác giả, tác phẩm:
1. Tác giả:
- Tự lực văn đoàn:
+ Tự lực văn đoàn là một tổ chức do Nhất Linh (Nguyễn Tường Lam) khởi xướng năm
1933. Tổ chức này ban đầu bao gồm các anh em trong dòng họ Nguyễn Tường và một số
văn nghệ sĩ khác.
+ Cơ quan ngôn luận của Tự lực văn đoàn là tuần báo Phong hóa
+ Quan điểm sáng tác:
Dùng lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho, lối văn có tính cách An Nam. Ca tụng nét hay,
vẻ đẹp nước nhà có tính chất bình dân khiến người khác phải đem lòng yêu nước một
cách bình dân không trưởng giả quý phái. Ngoài ra trọng tự do cá nhân, làm cho người ta
biết đạo Khổng không còn hợp thời nữa thay vào đó là đem phương pháp văn học mang
hơi hướng phương Tây áp dụng vào văn chương An Nam.
+ Tác phẩm chính: Hồn bước mơ tiên, Nửa chừng xuân (Khái Hưng); Gánh hàng hoa
(Nhất Linh, Khái Hưng), Gió đầu mùa (Thạch Lam)

- Thạch Lam (1910-1942)- Nguyễn Tường Vinh sau này đổi thành Nguyễn Tường Lân,
biệt danh gọi là Việt Sinh. Là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn. Ông là người đôn
hậu, điềm đạm và rất đỗi tinh tế. Ông là người có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến
bộ và có biệt tài về truyện ngắn. Ông thường viết những truyện không có chuyện, chủ yếu
khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc
sống thường ngày. Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam như một bai thơ trữ tình đượm buồn,
giọng điệu chân tình của tác giả. Văn Thạch Lam trong sáng và giản dị, thâm trầm mà sâu
sắc.
Tác phẩm chính: liệt kê theo sgk
2. Tác phẩm.
- Hai đứa trẻ là truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, được in trong tập Nắng trong vườn
(1938). Tập truyện Nắng trong vườn trong trẻo, nhẹ nhàng nhưng lại là những câu
chuyện buồn tái hiện những kiếp người nhỏ bé, mong manh trong xã hội Việt Nam trước
CMT8. Nắng trong vườn mang đặc trưng tiêu biểu cho dòng văn học lãng mạn giai đoạn
1930-1945, đó là tiếng nói của cái tôi trữ tình tràn đầy cảm xúc, sử dụng thủ pháp đối lập
để tô đậm cái tuyệt mĩ, lời văn da diết trữ tình.
- Truyện ngắn Hai đứa trẻ có sự hòa quyện giữa hai yếu tố: hiện thực và lãng mạn trữ
tình, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.
- Bố cục của tác phẩm:
+ Phần 1: Từ đầu đến “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”: phố huyện lúc
chiều tàn.
+ Phần 2: Tiếp theo đến “…. sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”: phố huyện khi đêm
xuống.
+ Phần 3: Còn lại: phố huyện đợi tàu.
II. Nội dung.
1. Tình huống truyện:
Hai đứa trẻ thuộc loại tình huống tâm trạng, nghĩa là Thạch Lam đã đẩy nhân vật đến
những biến động trong thế giới tình cảm, khai thác nhân vật ở đời sống tình cảm, tâm hồn
với những biểu hiện phong phú. Đây cũng chính là một trong những yếu tố quyết định
đến tính trữ tình của truyện ngắn này.
2. Đoạn một: Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn.
- Cảnh không gian, tạo vật của buổi chiều quê hiện lên thật bình dị, quen thuộc nhưng
đượm buồn.
+ Âm thanh: tiếng trống báo hiệu trời sắp tối, tiếng ếch nhái ngoài đồng, tiếng muỗi kêu
trong cửa hàng của chị em Liên.
+ Màu sắc: tác giả đã sử dụng gam màu nóng để ghi lại cái hồn của buổi hoàng hôn. Đó
là màu “đỏ rực” của bầu trời phương Tây (phương Tây đỏ rực như lửa chảy), màu hồng
của áng mây chiều (những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn), màu đen của hình
bóng dãy tre làng (dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời)
=> Với những câu văn êm đềm, uyển chuyển, tinh tế, Thạch Lam đã gợi ra được linh hồn
của buổi hoàng hôn. Chỉ qua mấy dòng văn mà tác giả đã dựng lại được cả một bức họa
đồng quê với những hình ảnh mang đậm “hồn xưa đất nước”, mang cốt cách của làng quê
Việt Nam. Điều đó cho thấy được tình yêu quê hương tha thiết và sự gắn bó sâu nặng của
nhà văn với vùng quê yên bình, xinh đẹp.
- Cảnh phiên chợ tàn và những kiếp người tàn:
+ Cái nghèo khó hiện hình trên nền chợ vãn: vắng vẻ (Người về hết và tiếng ồn ào cũng
mất); dơ bẩn (trên đất chỉ còn rác rưởi, vở bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía), phảng phất
mùi vị của sự nghèo khổ ; ế ẩm.
+ Hình ảnh con người cũng xuất hiện: Mấy đứa trẻ con nhà nghèo “cúi lom khom trên
mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có
thể….. những người bán hàng để lại”. Mẹ con chị Tí nghèo khổ ngày “mò cua bắt tép”
đêm xuống “dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng”. Bà cụ Thi hơi điên, nghiện
rượu với tiếng cười khanh khách. Chị em Liên là nhân vật có hoàn cảnh tội nhất trong
phố huyện nghèo: Thầy Liên mất việc, cả nhà phải dọn từ Hà Nội về quê ở, mẹ làm hàng
xáo, chị em Liên trông coi cửa hàng nhỏ bán vài thứ lèo tèo. Cuộc sống cứ thế mà quẩn
quanh.
=> Tất cả đều thể hiện sự tàn lụi; sự nghèo đói, khó khăn, tiêu điều đến thảm hại của
người dân nơi phố huyện.
- Tâm trạng của nhân vật Liên: buồn, xúc động,cảm thương.
+ Trước cảnh chiều quê, Liên thấy “lòng buồn man mác”. Cái buồn này cứ lặp đi lặp lại
trong mỗi buổi chiều tà từ cái thuở gia đình Liên dọn từ Hà Nội về phố huyện. Cảnh vật
xơ xác, tiêu điều, ga xép nhỏ nằm giữa cánh đồng vắng tanh và bóng chiều ôm trùm bao
phủ tác động sâu sắc vào tâm hồn con gái của Liên nên “buồn man mác” cũng là một
điều dễ hiểu.
+ Liên- một cô gái nhạy cảm, tinh tế và sâu sắc khi cảm nhận được “mùi riêng của đất,
của quê hương”. Hóa ra đất quê cũng có mùi vị mà chỉ những ai gắn bó trọn tâm hồn
mình mới có thể cảm nhận đưuọc cái “mùi riêng” quen thương ấy. “Mùi riêng” của bãi
chợ với những thứ rác rưởi còn sót lại trên mặt đất đã đi sâu vào tâm can của cô gái này.
+ Liên- một cô gái có tấm lòng nhân hậu: “động lòng thương” những đứa trẻ nơi phố
huyện nghèo; chu đáo hỏi han chị Tí; rót cho cụ Thi- người đàn bà hơi điên và nghiện
rượu- “một cút rượu đầy” để cụ thỏa lòng.
=> Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn và yêu thương con
người.
Bằng sự quan sát, miêu tả tỉ mỉ, tinh tế với nhiều biến đổi tinh vi, phong phú. Thạch Lam
đã giúp cho người đọc cảm nhận sâu sắc về cảnh vật nơi phố huyện lúc chiều tàn như
thấm vào lòng người hay nỗi buồn của Liên của tâm hồn Liên đang lan tỏa nhuốm vào
cảnh vật.
3. Đoạn hai: Phố huyện lúc về đêm
- Thạch Lam đã sử dụng rất thành công thủ pháp đối lập để thiể hiện sự tương quan giữa
bóng tối và ánh sáng.
+ Đêm xuống, phố huyện chìm ngập trong bóng tối mênh mông: “đường phố và các ngõ
con dần dần chứa đầy bóng tối”; “tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường
qua chợ về nhà , các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Đây không chỉ là bóng tối
của màn đêm bao phủ theo quy luật tự nhiên, mà còn là đêm đen của xã hội VN trước
CMT8. Ở đó con người chìm khuất trong cuộc sống nghèo khổ, tẻ nhạt, quẩn quanh, bế
tắc.
+ Ánh sáng le lói, nhỏ nhoi, yếu ớt: ánh sáng lóe ra từ một vài cửa hàng còn thức thành
“khe ánh sáng”; ánh sáng của những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời; “vệt sáng” của những
con đom đóm; “chấm lửa” nhỏ và vàng lơ lửng trong đêm tối, thoắt ẩn thoắt hiện; ngọn
đèn con của chị Tí và bếp lửa của bác Siêu “chiếu sáng một vùng đất cát”; “từng hột
sáng” từ ngọn đèn vặn nhỏ của Liên… Ánh sáng nhỏ bé ấy như chính cuộc đời, thân
phận của những người nơi đây, không biết sẽ bị dập tắt lúc nào bởi bóng đêm đầy uy lực.
- Với giọng văn đều đều như hơi thở, chậm buồn, da diết Thạch Lam đã giúp cho người
đọc nhận rõ cuộc sống lặp đi lặp lại hằng ngày với nhịp điệu buồn tẻ, đơn độc của người
dân nơi phố huyện.
+ Gánh phở của bác Siêu: một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, nỗi niềm mơ ước của chị em
Liên và trẻ con nơi phố huyện.
+ Hàng nước của chị Tí ế ẩm. Dẫu bán chẳng được bao nhiêu tiền nhưng hôm nào chị Tí
cũng chăm chỉ dọn hàng, mỏi mòn chờ đợi khách.
+ Vợ chồng bác Xẩm với “tiếng đàn bầu bật trong yên lặng” - âm thanh buồn tủi của
cuộc đời. Thời nào cũng vậy, kiếp hát rong ruổi mưu sinh luôn reo vào lòng người những
trắc ẩn, xót xa.
=> Nhà văn Thạch Lam hạ bút viết một câu đầy ẩn ý: “Chừng ấy người trong bóng tối
mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ”. Đây là thông điệp mà
nhà văn đã gửi gắm thông qua câu chuyện man mác buồn, gợi nhắc về ước mơ mong
manh bình dị, khát khao đổi đời của người dân phố huyện.
4. Đoạn ba: Phố huyện khi chuyến tàu đêm vụt qua.
- Tác giả miêu tả thật tỉ mỉ tâm trạng đợi tàu của chị em Liên, qua đó khẳng định: dù
trong hoàn cảnh khó khăn, chị em Liên vẫn âm thầm đợi chờ “một cái gì đó” thắp sắng
cho cuộc đời mình dẫu mơ hồ không rõ.
- Tàu chưa đến, chị em Liên khắc khoải mong chờ. Đứa em tội nghiệp tuy buồn ngủ ríu
cả mắt nhưng vẫn sợ mình ngủ quên, và sợ không ngắm được đoàn tàu đêm vụt qua phố
huyện. Dường như là hình ảnh quen thuộc với chị em Liên và nếu không ngắm được
đoàn tàu thì nó là nỗi thiếu thốn rất lớn của chị em Liên, An. Đoàn tàu mang đến niềm
vui, mang đến ánh sáng, sự mong chờ vào tương lai của chị em Liên.
Khi nhận ra cái tín hiệu đoàn tàu sắp đến, hai chị em đứng dậy trong tư thế đón đợi
chuyến tàu như mong ngóng người bạn thân thuộc, cố nhân. Sau ngọn đèn báo hiệu của
người gác ghi, “ngọn lửa xanh biếc” loe lên sáng dần, âm thanh “còi xe lửa ở đâu vang
lại” kéo dài dẫn đoàn tàu rầm rộ về qua gác xép giữa cánh đồng đêm phần phật gió. Phải
là một người gắn bó thiết tha với chuyến tàu và những hồi ức đẹp gợi lên từ chuyến tàu
thì mới có thể đợi chờ đến mòn mỏi, tha thiết như vậy.
- Tàu đến, hai chị em hân hoan, ngắm nhìn như muốn nuốt chửng hình ảnh tươi sáng ấy
vào tâm hồn thơ dại của mình. Khoảng cách giữa đoàn tàu và hai chị em Liên, An bây giờ
rất gần. Khác với không gian tối tăm lu mờ của phố huyện từ buổi chiều tàn đến khi đoàn
tàu chưa tới, lúc này cả con phố dường như bừng tỉnh, rực sáng trong cái im lặng mênh
mông của đêm tối. Một phố huyện vui vẻ, huyên náo được Thạch Lam vẽ ra bằng ngôn
ngữ đậm chất thơ: “Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng
trưng,…”
Đoàn tàu đêm đã đem đến cho phố huyện nghèo nàn kia một luồng sinh khí mới. Những
chi tiết thoáng qua trước mắt người đọc nhưng để lại ý nghĩa sâu sắc trong lòng: “toa
hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”,
chi tiết nào cũng sang trọng và cũng sáng rực. Gợi về thành phố xa hoa đối lập với hình
ảnh, cảnh sống nghèo nàn và thiếu thớn nơi phố huyện.
- “Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối”, câu văn chùng xuống, giọng điệu nuối tiếc, bâng khuâng
bàng bạc từ đây cho đến cuối truyện. Hạnh động của hai chị em Liên qua lời kể của
Thạch Lam vừa xúc động lại vừa đáng thương. Phố huyện trở về với đêm đen thăm thẳm.
An nhận ra: “Tàu hôm nay không đông, chị nhỉ? Liên không đáp, bởi chính Liên cũng
nhận ra điều này. Tuy nhiên việc đông hay không đông cũng không ảnh hưởng gì đến chị
em Liên bởi điều mà hai đứa mong chờ chính là kí ức đẹp về Hà Nội xa xăm, chốn mà
hai chị em từng gắn bó.
- Chuyến tàu đêm có ý nghĩa vô cùng to lớn với hai chị em: Ở phố huyện nghèo nàn,
trên mảnh đất khô cằn, bên những mảnh đời cơ cực này, những mầm non như hai chị em
cũng chẳng thể nào tươi tốt được. Phố huyện nghèo trước CMT8 đã cướp đi niềm vui vủa
hai chị em, để lại những điều nhạt nhòa, buồn tẻ. Hình ảnh chiếc tàu như suối nguồn yêu
thương, tưới lên tâm hồn khô héo của hai chị em để hai đứa trẻ tiếp tục lớn lên, mầm non
tiếp tục vươn về phía ánh sáng. Dẫu cho ánh sáng ấy có nhạt nhòa, phai nhạt trong hiện
tại nhưng biết ddaaau nó sẽ rực rỡ, lộng lẫy trong tương lai.
* Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh đoàn tàu:
- Đoàn tàu là hình ảnh của một thế giới thật đáng sống, một thế giới sáng rực và đủ đầy
đối lập với sự nghèo nàn, cô đơn, khó khăn của phố huyện
- Đoàn tàu cũng gợi lại cho Liên những ký ức tuổi thơ, về Hà Nội “sáng rực và huyên
náo”
=> Tác giả muốn lay tình những tâm hồn uể oải, đang lụi tàn, nhen lên trong họ những
ngọn lửa của lòng khát khao được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khát khao thoát
khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ.
5. Gía trị nội dung:
- Được xây dựng trên nền một phố huyện nghèo xác xơ trước CMT8, một cái chợ nhỏ,
một cái ga xép nằm giữa cánh đồng đêm đêm có chuyến tàu từ Hà Nội vụt qua. Trên
mảnh đất cằn cỗi, bạc màu ấy, hai đứa trẻ như hai mầm xanh lạng lẽ nhú lên. Từ đây,
Thạch Lam khiến cho ngyuoiwf đọc trở nên day dứt, lo âu về số phận con người, về
tương lai mịt mù.
Có nguyên mẫu từ phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), nơi TL từng sống một tuổi thơ
buồn và không ít lận đận. Trong truyện, TL không gọi đích danh phố huyện mà ngậm
ngùi biến nó thành một chốn không tên, một miền đất bị quên lãng.
6. Gía trị nghệ thuật:
- Cốt truyện nhẹ nhàng, đơn giản, thấm thía và giàu cảm xúc
- Giong văn êm ái như hơi thở
- Hình ảnh được chọn lọc, trong sáng
- Thủ pháp đối lập được vận dụng triệt để nhằm làm sáng tỏ tương quan giữa ánh sáng
và bóng tối.
7. Gía trị hiện thực và giá trị nhân đạo:
- Tác phẩm là một bức tranh chân thực và đượm buồn về một phố huyện nghèo trước
CMT8, nơi đó có những mkieenf đời bị rơi vào quên lãng.
+ Miền đất bị lãng quên: phố huyện nghèo
+ Miền đời bị quên lãng: những kiếp người tàn tạ
=> Ngòi bút hiện thực đậm chất trữ tình của Thạch Lam: viết bằng chính ký ức của tuổi
thơ mình tại phố huyện Cẩm Giàng. Ngày ấy, trước Cách mạng, nó còn là một phố huyện
nhỏ nghèo nàn xa vắng. Mỗi câu chữ đều phập phồng nhịp điệu trái tim giàu lòng trắc ẩn
của nhà văn.
- Thạch Lam vốn là người đôn hậu, yêu thương con người, vì thế mà khi viết mỗi truyện
ngắn ông đều thổi vào từ hơi thở nhân đạo cao quý. Hai đứa trẻ cũng là tác phẩm không
ngoại lệ. Tư tưởng nhân đạo làm nên tác phẩm văn học chân chính trong tác phẩm này,
nó thể hiện qua các phương tiện:
+ Cảm thương cho số phận nhỏ bé, vô danh
+ Tố cáo thế lực đã chà đạp, hủy hoại cuộc sống con người, đẩy con người vào cuộc sống
tăm tối.
+ Khẳng định sức mạnh của khát vọng, niềm tin, mơ ước. Khi con người có niềm tin vào
cuộc đời, nỗ lực vươn lên phía trước thì khi đó con người sẽ đủ sức mạnh vượt lên những
thử thách, gian lao.

You might also like