You are on page 1of 7

1.

Nguyễn văn thạc đã từng viết: cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thwucj tế và trên trang sách.
Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn với niềm khổ đau, cái nên thơ còn
lấp lánh giọt nước mắt ở đời. Cuộc sống vốn dĩ là như vậy ! Niềm vui luôn đi đôi với nỗi buồn,
ánh sáng luôn kề cạnh bóng tối, cái xấu vẫn xen lẫn cái đẹp và niềm hi vọng thường xuất phát từ
nỗi bất hạnh. Khi đó, sứ mệnh của người nghệ sĩ cầm bút để khám phá những cái đẹp đang bị ẩn
lấp, che dấu, viết nên những trang văn chân chính “tạo vẻ đẹp cho dòng nước mắt và biến nỗi
thống khổ thành tiếng hát vô biên”. Vì lẽ ấy mà khi sống ở phố huyện nghèo cẩm giàng, hải
dương, sống với những kiếp đời thừa lay lắt, nghèo nàn, thạch lam đã chọn nghè viết như một
phương thức giải tỏa những nỗi niềm chất chứa trong trái tim, bộc lộ tình yêu thương con người
sâu sắc. Viết về những kiếp người tàn, về cuộc đời cơ cực, nghèo khó và tràn ngập bóng
tooisnhwungx văn chương thạch lam vẫn lấp lánh ánh sáng, man mác chất thơ. HĐT chính là 1 tp
như thế. Tp tái hiện bức tranh cs nơi phố huyện nghèo nàn, xơ xác, nó như một cuốn hồi kí ghi lại
những năm tháng tuổi thơ, những năm tháng phải “lận đận với đời” của chính TL. Đặc biệt cảnh
đợi chuyến tàu đêm của hai chị em Liên chính là nơi kết tinh những giá trị nghệ thuật sâu sắc
và tiến bộ được Thạch Lam thể dưới ngòi bút đầy nhân đạo và trữ tình.

2. Giới thiệu chung

 Cây bút hiện thực tài hoa NC đã tâm niệm: văn chương không cần đến những người thợ
khéo tay, chỉ biết làm theo kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết
đào sâu, biết tìm tòi, khoi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa ai có. Nghệ
thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, đòi hỏi người nghệ sĩ phải lao động sáng tạo, nhìn đời
bằng “đôi mắt mới”, để biến tấu những chất liệu hiện thực, chất vàng mười của đời sống
trỏ thành những áng văn chân chính. Xét trên bình diện ấy, TL thật sự là một ngòi bút tài
hoa, một người nghệ sĩ biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng taọ
những gì chưa ai có. Không chọn lối viết lãng mạn, thoát ly hiện thực như những nhà văn
trong tự lực văn đoàn, không dữ dội như ngô tất tố hay trào phúng, sâu cay như vũ trọng
phụng, TL chọn cho mình một lối đi riêng : viết về tầng lớp bình dân nghèo khổ,những
điều bình dị, giản đơn bằng ngòi bút lãng mạn đan cài hiện thực. văn chương thạch lam
trong trẻo, nhẹ nhàng nhưng cũng khiến ngta xót xa, thấm thía trước nỗi khổ của kipees
người, của một thời dân tộc khốn khổ. HĐT in trong tập NTV 1938, chính là 1 tp như thế.
Nhà văn đã dung cảm xúc và ngôn từ để thêu dệt nên bức tranh phố huyện nghèo tiêu
điều, xơ xác trong tưng bước chuyển của thời gian từ lúc chiều tàn cho đến lúc đêm
khuya, sự tương phản giữa tĩnh và động, tối và sáng, giữa nếp sống ảm đảm nơi phố
huyện nghèo với khoảnh khắc huyên náo khi đoàn tàu qua. Số ng giữ a phố huyện
nghèo khắc khoải, buồn bã với kiếp sống quẩn quanh “chừng ấy con người trong
bóng tối vẫn mong đợi 1 điều gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hang ngày của họ.”
Cá i ướ c mong, hi vọ ng cả u họ đượ c thẻ hiện qua việc chwof tà u.

Cảnh chờ tàu


Ông từng nới rằng: “Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi
vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật” Và có lẽ
nhờ vào khát khao đi tìm cái đẹp ấy đã tiếp them sức mạnh để TL khám phá những vẻ đẹp ẩn lấp của
nơi phố huyện nghèo. Không chỉ có chị em Liên, tất cả người dân nói phố huyện nghèo nàn đều
mong chờ chuyến tàu hà nội đi qua. Với những người dân nơi đây, họ đợi tàu để bán them vài ba
món hang lặt vặt, góp them đồng bạc ít ỏi vào cs mưu sinh chật vật hằng ngày của họ. Nhưng đối
với Liên và An, hai đứa trẻ thức đợi tàu vì nguyên nhân sâu xa hơn. Trước hết đây là những đứa trẻ
ngoan ngoãn biết vâng lời, chúng làm theo đúng lời mẹ dặn, cố thức đợi tàu để xem có ai mua gì
nữa không. Nhưng trong tiềm thức Liên “không trông mong còn ai đến mua nữa.- Với lại, đêm họ
chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”, dường như việc chờ tàu hằng đêm của Liên và Anqqqq
không hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu của đời sống vật chất mà hầu như chỉ xuất phát từ nhu cầu
của đời sống tinh thần, từ khoat khát, hi vọng mãnh liệt trong trái tim 2 mầm dương. Hai đứa trẻ
buồn ngủ ríu cả mắt, An trước khi ngủ còn dặn với chị đánh thức trước khi tàu đến bởi lẽ với chúng,
đoàn tàu có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Nó là “sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”, hoạt động
ấy có khả năng khuấy động mạnh liệt nhịp sống tẻ nhạt, tù đọng nơi “ao tù phẳng lặng” (Tỏa nhị
kiều_Xuân Diệu) , đem lại cho phố huyện nghèo phút chốc bừng tỉnh sau giấc ngủ dài. Cả một ngày
dài leo lét, quẩn quanh chỉ có chuyến tàu mang đến cho chị em Liên một sự khác biệt, một thế giới
hoàn toàn khác với thực tại tựa như có phép màu lướt qua nơi đây. . “Cố thức đợi tàu là một nỗ lực
vừa mơ hồ vừa rõ rệt của chị em Liên để ngoi lên bám vào cái phao tinh thần để khỏi chìm ngập đi
trong cái phố huyện này” (Chu Văn Sơn).

Cảnh chuyến tàu sắp đến dường như mang một sức sống kỳ diệu, cả phố huyện giờ đây mới thực sự
bắt đầu động đậy.. Đoàn tàu còn ở phía xa, Liên đã trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như
ma trơi, những âm thanh huyên náo “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo
ngọn gió xa xôi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”,
“tiếng tàu rít lên và tàu rầm rộ đi tới”. Những âm thanh ấy hoàn toàn khác với thứ âm thanh ảo não
cuả tiếng trống thu không khô khan, của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve hay tiếng đàn bầu rung lên
bần bật trong yên lặng. Một thế giới khác được đoàn tàu đem tới cho phố huyện nghèo, Liên và An
say mê ngắm nhìn “các toa đèn sáng trưng…những toa trên sang trọng lố nhố những người, đồng và
kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”, dường như ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu đã xua tan đi cái “bóng
tối” đang gặm nhấm phố huyện từng khắc một. Ánh sáng ấy không tù mù, leo lét như quầng sáng từ
ngọn đèn chị Tí, từ khe sáng hé ra nơi cánh cửa của các nhà trong phố, hay vệt sáng nhỏ nhoi, yếu ớt
của những con đom đóm. Cư dân phố huyện như choáng ngợp bởi sự náo động của đoàn tàu và cứ
thế họ dần mơ về một thế giới thật đẹp đẽ và rực rỡ…

Nói về con tàu, ta cảm giác như có một bến chở tâm hồn mà Tế Hanh đã từng thốt lên:
“Tôi thấy tôi thương những chuyến tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy
Với những toa đầy nặng khổ đau”
Còn với Liên, nó như một niềm khao khát, con tàu trở thành một điểm sáng quy tụ, là tương lai và
mơ ước vươn tới của “Hai đứa trẻ”. Đoàn tàu không chỉ đi qua sự phẳng lặng, tẻ nhạt của cuộc sống
phố huyện mà còn đưa Liên trở về một thời quá khứ xa xưa khi cha cô chưa bị mất việc cả nhà vẫn còn
sống ở Hà Nội huyên náo, nhộn nhịp, hai đứa trẻ đang được sống và vui chơi trong những tháng ngày
tươi đẹp. “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở- Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Và dường như dáng hình của
Hà Nội đã trở thành một nửa phần hồn trong tim của hai đứa trẻ. Liên nhớ về “Những thức quà ngon,
lạ bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền”; những lần “được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ".,
Đối với Liên, ánh sáng rực rỡ của “Hà Nội nhiều đèn quá" “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và
huyên náo”chỉ còn là những kỉ niệm những hoài vọng về quá khứ như những vệt sáng lóe lên trong đêm
tối, trở thành một nỗi khát khao, hi vọng giúp Lien vượt qua cuộc sống tối tăm, đơn điệu. Có ai đó đã
từng nói: “Hy vọng chính là một nghệ thuật sống”, đọc những trang viết của Thạch Lam người ta
thấy sáng lên một niềm hi vọng được nhà văn nhóm lên bằng chính những đau khổ, mờ mịt của
cuộc đời . “Một ngày nào đó bạn sẽ nhận ra ý nghĩa của ước mơ không phải ở chỗ nó có phù
hợp với khả năng thực tế hay không. Điều quan trọng là nó cho phép bạn sống một cuộc đời
nữa với cảm xúc riêng bạn” (Trích trong tác phẩm “Tôi là Bêtô”). Chuyến tàu HN thật sự đã cho
lien và an sống them một cuộc đời nữa, một cuộc đời với ánh sáng diệu kì, đủ đầy, khác hẳn
cái leo lét, tàn tạ của phố huyện.

Quả là “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, tre. Càng háo hức bao nhiêu, hai đứa trẻ càng ngẩn ngơ khi
thấy tàu vụt qua bấy nhiêu. Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi sao băng rạch qua bầu trời nơi
phố huyện nghèo rồi mất hút vào đêm tối. Liên và An đứng lặng người dù chuyến tàu đã đi qua, hai
chị em nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa mỗi rồi khuất sau rặng tre
Con tàu từ Hà Nội về thực sự đã hút hồn chị em Liên. Tàu qua, An băn khoăn nghĩ ngợi; “Tàu hôm nay
không đông chị nhỉ?”. Còn Liên thì “lặng theo mơ tưởng”. Niềm vui, sự háo hức cũng qua nhanh như con
tàu qua phố huyện, hai đứa trẻ lại trở về với thực tại tối tăm. Đối diện với những cảnh đời khổ cực: mẹ
con chị Tí, bác Siêu, và vợ chồng Bác Xẩm đã ngủ gục trên manh chiếu rách...tâm hồn Liên lại nặng trĩu
u buồn. “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu
sáng một vùng đất nhỏ”. ”, dường như những cảnh đời nơi phố huyện chứa đầy bóng tối.
Bóng tối ấy không phải là của vũ trụ mà là bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó. Cuộc sống ấy là
vậy, đơn điệu, tẻ nhạt, kém sức sống và lặp đi lặp lại như cỗ máy được lập trình sẵn giống như thơ
Huy Cận từng viết:
“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện”
Rồi tương lai của Liên, một cô bé chưa đến tuổi trưởng thành liệu có khác gì so với tương lai của chị Dậu
trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố? Một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối,
tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu con đường phía trước không hề le lói chút ánh sáng nào, còn
đối với Liên trong tim đã nuôi dưỡng ánh sáng hi vọng, dẫu thứ ánh sáng trước mắt cô chỉ là ảo vọng
trong chốc lát thứ ánh sáng điểm tô một chút xíu, rồi cũng đi nhanh như cơn gió thoảng qua.. Đó là
cái ám ảnh của một kiếp đời tăm tối bủa vây tâm hồn ngây thơ của những đứa trẻ. Thật tội nghiệp!
Nếu không yêu cuộc sống, không trân trọng nâng niu và đặt cả con tim vào ước muốn, khao khát
đấu tranh cho sự sống tươi đẹp của con người, thì có lẽ câu chữ của Thạch Lam không thể rung cảm
trong trái tim ta những nhịp đập thổn thức và đậm sâu đến vậy. Như nhà văn Nga Sô-lô- khốp khẳng
định: “Đối với con người, sự thực đôi khi nghiệt ngã, nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong
lòng người đọc niềm tin ở tương lai”.

Buổi chiều tàn


- Ở nơi phố huyện nghòe nàn, vạn vật đều chìm vào trạng thái ảm đạm, mất dần sinh khí.
- Ta từng bắt gặp cảnh chờ chiều dông đúc, náo nhiệt trong CNH, hay cảnh chợ eo seo,
buổi đò đông trongTV, và giờ đây ta bắt gặp một chợ chiều ảo nảo, buồn tẻ đến nao lòng.
- Chiều… lời thông báo nhẹ nhàng như một câu hát vang vọng chất chứa bao nỗi niềm.
Buổi chiều quê êm dịu, nhẹ nhàng và man mác buồn.
- Không bắt đầu bằng hình ảnh cò bay sải cánh trên những cánh đồng lúc bao la, không
thoang thoảng mùi rơm rạ khói bếp hay những phong vị đặc trưng của đồng bằng bắc bộ.
Thạch lam khắc tạc nên buổi chiều với những âm thanh, màu sắc lạ lùng.
- Tiếng trống thu không… tiếng trống hòa thanh khô khốc, vang động mở ra một không
gian bao la nhưng chẳng hề náo nhiệt, rộn ràng mà ảo nảo, buồn tẻ vì thứ âm thanh rời
rạc, đứt đoạn. tiếng trông ấy đã in hằn vào trong tiềm thức người dân nơi phố huyện và
ám ảnh tâm trí bạn đọc.
- Phố huyện cũng có những âm thanh riêng của nó: tiếng ếch nhái văng vẳng, tiếng muỗi
bắt đầu vo ve, tiếng chõng lún kêu cót két… những âm thanh chẳng thể làm cuộc đời phố
huyện vui vẻ hơn mà còn đan cài tạo nên bản nhạc đồng quê thì thầm, man mác nỗi buồn.
- Khung cảnh phố huyện được Thạch Lam khắc họa bằng những gam màu trầm ấm nhưng
úa tàn.
- Mặt trời ở phương Tây cố gắng chiếu tỏa những ánh sáng cuối cùng “đỏ rực như lửa
cháy”, làm những đám mây trên nền trời cũng “ánh hồng như hòn than sắp tàn”.
- Rặng tre làng không còn xanh mơn mởn, tràn trề nhựa sống mà đã khoác lên mình lớp áo
choàng đen, “đen lại và cắt rõ rệt trên nền trời.”
- Bóng tối đã trút xuống và bao bọc lấy không gian, thấm đẫm vào cả hồn người và đôi mắt
Liên.
- Ánh sáng thì le lói, yếu ớt :… chẳng đủ sức xua tan bóng tối.
- Dấu hiệu của sự lụi tàn đang xâm chiếm cảnh vật và con người nơi phố huyện.
- Trên khung cảnh úa tàn, những kiếp người hiện lên với nhiều nỗi bất hạnh, cơ cực, đáng
thương.
- Chợ đã vãn từ lâu, tiếng ồn ào đã mất thay vào đó là sự im lặng, hiu quạnh, chỉ còn tiếng
rì rào, thủ thỉ của ..
- Trên đất còn rơi vãi những võ nhãn, vỏ mít,… sự xơ xác, tiêu điều của chợ tàn
- Những kiếp người úa tàn : mấy đứa trẻ lom khom nhặt nhạnh…
- Ngta nói tức cảnh sinh tình, trước cảnh úa tàn của quê hương, tâm trạng lien có những
biến chuyển sâu sắc. Ngồi lặng yên bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt chị bóng tối
ngập tràn dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị.
- Đôi mắt vốn là cửa sổ tâm hồn, như nnt có viết :” Chúng ta không thể nhìn một người mà
không thể nhìn vào đôi mắt cua họ. Một đôi mắt sẽ cho ta biết họ yêu mến điều gì và
quan trọng hơn nữa, họ đã hi sinh vì điều gì.” Và ở Liên, ta thấy một đôi mắt long lanh,
nhạy cảm, đa sầu đa cảm. Đôi mắt ấy nhìn thấu những nét đượm buồn của quê hhuowng.
Buổi đêm khuya

Nếu như bức tranh đời sống phố huyện lúc chiều muộn nhà văn đặc trưng tả bằng khung cảnh ngày tàn,
nhấn mạnh cái xác xơ, tiêu điều của cuộc sống thì bức tranh phố huyện về đêm lại được đặc tả ở bóng tối,
bóng tối được đặt trong một cuộc tranh chấp quyết liệt với những nguồn sáng bé nhỏ quanh quầng nơi
phố huyện. Bóng đêm phố huyện đã hiện lên với không ít chất thơ và dịu dàng: “Trời đã bắt mà đầu
đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát". Một đêm phố huyện với “quần trời
hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Đấy là một đêm rất riêng của một vùng quê khi bóng tối hiện
diện tràn lan với tất cả sắc độ đậm nhạt khác nhau của nó: "đường phố và các ngõ con dẫn dân chúa
đây bóng tối". Người đọc thấy được bước chuyển mình của thời gian rung lên bằng những nhịp điệu
trùng điệp như ca hát. Bóng tối như phủ đầy thiên truyện, phủ mở cảnh vật và đè nặng lên cuộc đời của
những con người “bé nhỏ" nơi phố huyện nghèo xác xa. Nói như Thế Lữ: "Thứ bóng tối nhẫn nại, uất
ức đời thôn quê". Trong thế giới đó, ánh sáng thật hiếm hoi, nhỏ bé từ những “cửa chỉ để hé ra một khe
ánh sáng”; những “vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành
cây”, đến những “quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị
TÍ" tới "từng hội sáng lọt qua phên nứa” là những nguồn sáng lắt léo trong bóng tối. Giữa cái đêm
bóng tối bao trùm và phủ mở cả thiên truyện, những nguồn sáng nhỏ bé kia như những ước mơ hi vọng
của con người nơi đây vẫn ngày đêm cháy sáng dù là nhỏ bé nhưng chưa bao giờ mất đi, chưa bao giờ
thôi chiếu tỏa. Và nếu ai đã từng đọc những áng văn của Thạch Lam hẳn không thể nào quên hình ảnh của
bóng tối - hình ảnh quen thuộc biểu tượng cho những kiếp đời, những mảng đen tối của cuộc đời mỗi
nhân vật. Đó là thứ bóng tối mịt mù, tối tăm, âm u và xâm xịt trong "Nhà mẹ Lê", hay cái bóng tối chập
choạng theo từng bước chân của "cô hàng xén", và khi đọc "Hai đứa trẻ", ta lại thêm một lần cảm nhận
thứ bóng tối len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng trong sự sống của mọi người nơi đây, hiện hữu rõ
ràng và đầy ấn tượng. Ta thêm đau đầu cho số phận con người, bất hạnh cất lên từ tâm hơn người nghệ sĩ
trước đất quê hương. Mà nói như Thế Lữ: “Lòng yêu quê hương là niềm dĩ vãng trong anh". Dĩ vãng
ấy đã tạo nên những áng văn chương tài hoa, mang gương mặt của người nghệ sĩ Thạch Lam.

. Trong thiên nhiên có ánh sáng sao đêm trên trời cao, và dưới mặt đất là ánh sáng của bầy đom
đóm. Những nguồn ánh sáng ấy gắng gượng chống lại khi bóng đêm bắt đầu dày đặc thêm tràn ngập lối.
Những nguồn sáng nơi phố huyện ấy, là sự chờ đợi, khát vọng con người hướng tới tương lai thoát khỏi
bóng tối của cuộc sống bản cùng qua phố huyện. Nhà văn Thạch Lam đã dồn hết tâm lực vào bút sống
từng khoảnh khắc, chạm tới vào dòng chảy của thời gian để vẽ nên bức tranh hiện thực để mô tả sự tù
đọng bế tắc, quẩn quanh của những kiếp người nghèo khổ.
m. Hình ảnh đêm tối được Thạch Lam miêu tả nhiều, cứ trở đi trở lại như một ám ảnh, day dứt trong
truyện “Hai đứa trẻ”. Phố huyện nhỏ ngập tràn dưới bóng tối và đêm đen: “Tối hết cả, con đường
thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”, Bóng tối
là hiện thân của sự tù túng, ngột ngạt, bế tắc không lối thoát. Đó là bóng tối của sự nghèo đói, lam lũ.
Là hình ảnh của dân tộc ta trước năm 1945:
“Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi”
(Chế Lan Viên) “Có thể thấy ở ‘Hai đứa trẻ’, truyện của xung đột giữa bóng tối và ánh sáng, bóng
tối hay nghèo nàn và cô đơn, ánh sáng chỉ là ước mơ thoáng qua” (Đỗ Đức Hiếu).
thầm trong bóng đêm của phố huyện là những mảnh đời bé nhỏ, cam chịu một cuộc đời tối tăm. Họ
xuất hiện thoáng qua như những chiếc bóng, Chị em Liên: bền bỉ, nhẫn nại ngồi trông cửa hàng và đợi
mẹ.May nhờ có chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng thoát ẩn, thoắt hiện phía xa khiến bé An nhận ra đó là
bác Siêu, “kìa hàng phở của bác Siêu đến kia rồi”. Thạch Lam đặc tả cái “bóng” của bác “mênh
mông ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ”. Bát phở của bác Siêu là thứ
quà xa xỉ đối với chị em Liên và cả những con người nơi góc phố huyện nghèo. Chính vì thế nên
gánh phở của bác thành ra “ế”. Rồi lại thêm gánh hát của gia đình bác xẩm cũng đang “ế khách”: họ
“ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe”.
Đời sống vật chất và tinh thần nơi phố huyện đều ế ẩm, cạn kiệt

Và trong cái buổi đêm khuya hiu quạnh, vẳng lạng ấy, ta bắt gặp những day dứt, trăn trở trong tâm hồn
của một đứa trẻ. Cô gái nhỏ cố gắng mở lòng đốn nhận vẻ đẹp thiên nhiên đêm mùa hạ đẹp như nhung,
“lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm song Ngân Hà và con vịt đi theo ông thần nông” khao khát
tìm đến những cái đẹp, những ánh sáng lung linh. Nhưng bầu trời lấp lánh thì xa xôi, bao la đầy bí ẩn
thế kia mà hiện thực luôn bủa vậy khiến Liên mệt moit và kéo các em trở về thực tại buồn tẻ nơi phố
huyện. chìm đắm trong bóng tối bủa vây, lien. “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở -Khi ta đi đất bỗng hóa tâm
hồn”. Và dường như dáng hình của Hà Nội đã trở thành một nửa phần hồn trong tim của hai chị. Hà
Nội với cô đó là một kí ức đẹp, đó là những ngày tháng gđ lien còn sung túc, đủ đầy. Liên nhớ về
“Những thức quà ngon, lạ bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền”; những lần “được đi chơi bờ hồ uống những
cốc nước lạnh xanh đỏ"., Đối với Liên, ánh sáng rực rỡ của “Hà Nội nhiều đèn quá" chỉ còn là những kỉ
niệm trở thành một nỗi khát khao những hoài vọng về quá khứ như những vệt sáng lóe lên trong đêm tối,
là niềm hi vọng về cuộc sống, giúp con người vượt qua cuộc sống tối tăm, đơn điệu bằng niềm khát khao
sống. Thạch Lam đã chủ động hướng ngòi bút về quá khứ, trân trọng quá khứ, để đưa niềm tin len lỏi vào
tương lai, bởi còn nhớ nghĩa là còn tha thiết, còn hi vọng nghĩa là còn khát khao. Thạch Lam đã nâng con
người lên trong đòn đau của số phận, lấy quá khứ làm chiếc phao cứu sinh cứu vớt tâm hồn con người.

Leonit leonop đã kđ: một tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá vè nội dung.”
Hđt cũng không phải ngoại lệ. một câu chuyện không có cốt chuyện, ,” những tình tiết nhỏ
đan xen lẫn nhau tạo thành một mạch kể hoàn chỉnh hàm chứa những tín hiệu
thẩm mỹ tuyệt diệu.chỉ đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật để khám phá ra giá trị cuộc sống, vẻ
đẹp con người trong suy nghĩ và cảm nhận của Liên. Lối viết nhẹ nhàng,ngôn ngữ mộc mạc nhưng
giàu cảm xúc trở thành dòng suối mát ôm ấp, vỗ về tâm khảm độc giả. Bút pháp hiện thực kết
hợp hài hòa lãng mạn. Hình ảnh đoàn tàu mặc dù không mới mẻ nhưng lại được khắc họa như
là điểm nhấn của toàn bộ tác phẩm. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương
phản đối lập vô cùng độc đáo. Sự nhộn nhịp khi đoàn tàu đến đã khiến ta cảm nhận rõ hơn sự
im ắng, vắng vẻ của phố huyện nghèo. Tất cả tạo nên một HĐT, hiện lên như một bức tranh dệt
bằng cảm giác”, giản dị mà sâu lắng, man mác mà thấm thía.xúc động lòng người và chi tiết cảnh chờ
tàu đặc sặc khẳng định một khát vọng chân chính của con người. Với chị em Liên, đoàn tàu như một
kí ức vui, một khát vọng mơ hồ, nó chẳng khác nào ảo ảnh nhưng lại mang niềm vui trong sáng cho
những đứa trẻ ngây thơ. Với người dân phố huyện, chuyến tàu như một ước mơ cổ tích giúp họ thêm
niềm tin để cho họ tiếp tục chờ đợi để sống.

Có người từng nói rằng: “Thạch Lam là nhà văn ngắt câu bằng màu, chấm câu bằng nốt nhạc,
chuyển đoạn bằng hình” Dưới ngòi bút Thạch Lam, chuyến tàu tường chừng bình thương nhưng ẩn
sâu trong đó là tấm lòng nhân đạo của nhà văn.tl đã tái hiện lại nột gđ lịch sử cả dân tộc đói nghèo
trong rơm rạ. Ông nâng niu, trân trọng niềm vui nhỏ bé, hiếm hoi của con người và ẩn chứa trong đó
những khát vọng cao đẹp hướng tới cuộc sống, giúp con người dần tự ý thức giá trị bản thân, qua đó
để họ vươn tới cuộc sống có nghĩa và xứng đáng hơn cũng như nhà văn Nga Sôlôkhôp: "Đối với con
người,sự thực đôi khi nghiệt ngã,nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm
tin ở tương lai.Tôi mông muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn,tâm hồn trong
sạch hơn,thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo
và tiến bộ của loài người". Thạch Lam đã gặp Sô-lô-khốp trong quan niệm văn chương ấy, khi ông
đề những cao hi vọng, ước mơ của con người, dù là nhỏ nhất hoặc cũng có thể là rất mong manh.
Nhà phê bình Vũ Bằng, người sống cùng thời với Thạch Lam nhận xét về con người ông: “Trong nhóm
Phong hóa - Ngày nay, muốn nói đến một người tôn trọng nhân bản thực sự, một người yêu thương
đồng bào xót xa từ tâm can tỳ phế thương ra thì người ấy chính là Thạch Lam”. Dường như Thạch
Lam chính là suối nguồn kết tinh của đất trời và tạo hóa, mang cái hương sắc thanh nhã mà dễ rung
động hồn người. Không mạnh mẽ, cầu kì, văn Thạch Lam cứ nhẹ nhàng tình tứ mà băng băng đi vào lòng
người đọc. TL là người sống hết tất cả từng ý văn, từng câu văn anh từng viết trên trang giấy. Sự thật của
tâm hồn mà TL diễ trong lời

Quả thực ta đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh táo của Nam Cao, hả hê bất
ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn Công Hoan và khóc cùng những giọt nước mắt
trong văn Nguyên Hồng. Giời đây đọc văn Thạch Lam, ta thấy yêu cái nét đẹp nhã nhăn, bình dị,
đượm buồn phảng phất phát chút gì đó tựa bài thơ trữ tình “thoang thoảng hương hoàng lan được
chưng cất từ nỗi đời đau khổ”.
bởi lẽ vậy “Hai đứa trẻ” hiện lên như một bức tranh dệt bằng cảm giác”, giản dị mà sâu lắng, man
mác mà thấm thía. Câu chuyện soi tỏ những bí ẩn thi vị mà cao đẹp trong tâm hồn cô bé Liên để rồi
bộc lộ những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thạch Lam không có tham vọng tạo ra những tình
huống truyện éo le, nghịch cảnh. Vậy nhưng ông vẫn đạt đến độ toàn thiện, toàn mĩ của một truyện
ngắn nhiều dư âm. Người đọc được dẫn đi trong một thế giới nhân vật và không gian bàn bạc nỗi
buồn, lặng lẽ suy ngẫm nhưng triết lý nhân sinh và những thông điệp cuộc sống giàu ý nghĩa. Đặc
biệt, cảnh đợi chuyến tàu đêm đã ánh lên những tia hy vọng rất đời, rất người mà Thạch Lam bằng cả
tài năng, tâm huyết xây dựng!

Nghệ thuật chân chính phải là nghệ thuật vị nhân sinh, vì con người và cuộc đời. Nhà văn chân
chính phải biết lấy chất liệu từ cuộc sống mà "dệt" nên những trang văn để đời. Thạch Lam
không chỉ "để" "nắng trong vườn", mà còn "vẽ" nắng thật đẹp trong lòng mỗi chúng ta…

You might also like