Đề: Phân tích tâm trạng đợi tàu của chị em Liên trong truyện ngắn “Hai đứa
trẻ” của nhà
văn Thạch Lam. Trong bài “Ngoại cảnh văn chương”, Hoài Thanh có viết: “Nhà văn không có phép thần thông để vượt ra ngoài thế giới này, , nhưng thế giới này trong con mắt nhà văn phải có một hình sắc riêng.”. Với nhận định này, Hoài Thanh muốn nói rằng thế giới vật chất mà chúng ta đang sống tuy giống nhau, nhưng thông qua mỗi đôi mắt của một nhà văn, thế giới mà ngòi bút họ vẽ nên lúc nàu cũng mang một gam màu khác biệt. Giống với nhận định của Mác-xen Pruxt: “Một cuộc thám hiểm thật sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới.”. Và thế giới văn chương của nhà văn Thạch Lam càng củng cố thêm tính thực tế của hai nhận định trên, bởi văn của ông không chỉ giàu hình ảnh, nhạc điệu mà còn uyển chuyển, tinh tế cùng với cách tả cảnh vô cùng độc đáo, những điều này đều được thể hiện qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của ông, nhưng không chỉ dừng lại ở cảnh, “Hai đứa trẻ” còn cho người đọc cơ hội cảm nhận được những khát vọng đổi đời dù còn mơ hồ của người dân nơi phố huyện nghèo, được thể hiện rõ nhất qua góc nhìn tâm trạng của nhân vật Liên trong khi chờ đợi đoàn tàu đi qua. Nhà văn Thạch Lam là một thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn, tên khai sinh của ông là Nguyễn Tường Vinh, là một thành viên trong một gia đình công chức gốc quan lại. Ông học ở Hà Nội, sau khi đỗ tú tài thì ra làm báo và viết văn. Thạch Lam đã có nhiều đóng góp đối với nền văn học hiện đại của Việt Nam, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm như: Gió lạnh đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Ngày mới (1939),… Văn chương của Thạch Lam hướng về cuộc sống của tầng lớp dân nghèo, tiểu tư sản, tri thức nghèo và người lao động có cuộc sống cực nhọc bế tắc bởi thế nên nhân vật của ông thường mang tâm trạng, cảm xúc hơn là tư duy. Hai yếu tố hiện thực và lãng mạn luôn đan cài trong phong cách nghệ thuật của ông, tạo nên một nét đặc thù khó lẫn. Điều này ta có thể thấy rõ qua đoạn truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, được in trong tập “Nắng trong vườn” của nhà văn Thạch Lam. Về truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, đây là loại truyện tâm tình, truyện nhưng không có cốt truyện bởi xuyên suốt tác phẩm chỉ là những dòng cảm xúc, những đoạn hội thoại rời rạc giữa các nhân vật với nhau, cũng vì lí do đó ta mới cảm nhận được bầu không khí ảm đạm của phố huyện lúc chiều tàn cho đến đêm khuya. Nội dung bao trùm của truyện chính là tấm lòng “êm mát và sâu kín” của nhà văn Thạch Lam đối với những kiếp người nghèo khổ, sống lam lũ, quẩn quanh, đồng thời thể hiện sự trân trọng của ông đối với những khát vọng sống tuy rất mơ hồ của người dân nơi phố huyện tù túng, quẩn quanh. Để ta có thể thấy rõ hơn tâm trạng của Liên trước khi đoàn tàu đến, ta trước hết phải nắm được hoàn cảnh sống của cô. Giống với bao người dân khác nơi phố huyện, gia đình Liên có một gian hàng nhỏ “thuê lại của bà lão móm”, gian hàng đã nhỏ, lại còn “ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”, được mẹ của Liên giao cho cô trông coi khi bà bận làm hàng xáo, mọi người ở đây ai cũng có một gian hàng riêng để kiếm sống qua ngày, như chị Tí thì có hàng nước dưới gốc cây bàng, bác Siêu thì có gánh phở, gia đình bác xẩm thì ăn xin bằng nghề ca hát. Duy chỉ khác biệt một chỗ, gia đình Liên từng là gia đình khá giả, lúc ấy mẹ Liên nhiều tiền nên Liên mới được thưởng thức những “thức quà ngon lạ”, những “cốc nước lạnh xanh đỏ”, nhưng bây giờ một bát phở cũng là một “thứ quà xa xỉ” đối với Liên và An. Con người ta sinh ra trong nghèo khổ thì sẽ quen với nghèo khổ, còn Liên, cô cũng nghèo khổ, nhưng không phải do sinh ra là đã thế, Liên “rơi” vào nó chứ không phải nghèo khổ đã có sẵn bên cô, bởi thế nên hơn ai hết, Liên thấm thía được cái “khổ” của chữ “nghèo”, và cũng vì vậy, hơn ai hết, Liên và An cũng trông ngóng đoàn tàu, xem nó như là một sứ giả của sự đổi đời. Trước khi đoàn tàu đến, Liên và An “buồn ngủ ríu cả mắt”, An thì tựa đầu vào gối chị rồi ngủ, nhưng còn Liên, cô không ngủ, không phải chỉ vì chờ đoàn tàu, mà cũng vì lòng cô “có những cảm giác mơ hồ không hiểu”, hẳn ai ngắm cảnh đêm cũng có cảm giác buồn mơ hồ ấy, nhưng cái buồn của Liên là cái buồn rất lạ và không rõ hình hài, cái buồn được hình thành bởi sự trớ trêu của số phận, trong cái cảm xúc buồn vô thức ấy lại chứa đựng rất nhiều ước mơ, khát khao cao đẹp của cô, cũng bởi tâm hồn cô đẹp, nhạy cảm và tinh tế. Khi đoàn tàu đến, bác Siêu là người đầu tiên phát hiện ra những dấu hiệu của đoàn tàu “Đèn ghi đã ra kia rồi”, vì bác cũng như ai khác, mong chờ đoàn tàu với hi vọng đổi đời, mẹ con chị Tí cũng như thế, một ngày của chị là một ngày quẩn quanh, chỉ “mò cua, bắt tép” rồi lại bán hàng nước cho mấy anh lính phu, lính lệ, một cuộc sống bế tắc như vậy nên hẳn chị cũng mong ngóng đoàn tàu, chờ đợi nó đi ngang rồi mới dọn hàng. Còn đối với An và Liên, An “lấy tay dụi mắt cho tỉnh hẳn”, “hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”, hai người quan sát không bỏ sót chi tiết nào của đoàn tàu cho đến khi tàu đi mất, đáp lại họ tiếp tục là một khoảng không vô tận của bóng tối, “Tàu hôm nay không đông, chị nhỉ”, câu nói của An thể hiện rằng An và Liên ngày nào cũng quan sát đoàn tàu, nhưng câu nói cũng có thể cho người đọc một cảm nhận rằng bóng tối của phố huyện đang ngày càng dày đặc hơn, ước mơ của người dân phố huyện khi ngắm đoàn tàu nay đã mơ hồ, giờ lại càng trở nên mờ nhạt hơn. Hình ảnh đoàn tàu mang một ý nghĩa vô cùng đặc biệt bởi nó là hoạt động cuối cùng của nơi phố huyện, nó làm phố huyện bừng sáng lên và nó cũng là niềm vui duy nhất trong ngày đối với những người dân nơi ấy, đoàn tàu ban cho họ khát vọng đổi đời, nó như là sứ giả của cuộc sống khác, nó gợi cho Liên những “kí ức xa xăm”, ánh sáng, âm thanh của đoàn tàu giống như một “Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Thế nhưng ta cũng có thể ví đoàn tàu như một ngôi sao băng, nó mang theo hi vọng và cũng mất hút cùng với những hi vọng ấy, trả lại cho người dân phố huyện một sự thật rằng đoàn tàu rốt cuộc cũng chỉ là ảo ảnh mà thôi. Tuy vậy nó cũng đưa Liên về với những quá khứ, tuổi thơ êm đềm, dù chỉ là ảo ảnh nhưng nó vẫn có giá trị tinh thần vô cùng lớn lao, là hi vọng sống, là mục đích chung của những người dân nghèo sống chuỗi ngày quẩn quanh, bế tắc ở nơi phố huyện. Và cũng ngay tại đây, ta thấy nhà văn Thạch Lam đã thể hiện rất xuất sắc ở sở trường viết truyện ngắn của mình, bằng cảm nhận tinh tế, ông đã miêu tả được những chuyển biến rất tinh vi của tâm trạng con người, qua đó bày tỏ nỗi lòng cho những con người dù phải đối mặt với cuộc sống khó khăn nhưng vẫn không ngừng mơ ước về ngày mai tươi sáng. Tâm trạng nhân vật luôn là thứ rất khó thể hiện bằng ngòi bút hay kể cả giọng nói, nhưng nhà văn Thạch Lam lại có thể thành công trong việc ấy, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” cũng thể hiện rất rõ quan niệm của ông về văn chương: “Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, vừa để tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.”. Em cũng đồng ý với ý kiên ấy, thế nên việc không thi vị hóa cuộc sống đã giúp con người ta sống mạnh mẽ hơn, biết yêu thương nhau hơn, cuối cùng cốt truyện của “Hai đứa trẻ” tuy đơn giản, chỉ chứa những cảm xúc của nhân vật nhưng nó lại có sức ám ảnh rất lớn, cùng với những bút pháp miêu tả sinh động, khắc họa chân thật mâu thuẫn giữa ánh sáng và bóng tối, giọng văn thủ thỉ, tâm tình, có thể nói rằng truyện ngắn “Hai đứa trẻ” đã thể hiện rất rõ Thạch Lam là con người đôn hậu và tinh tế, đồng thời thể hiện rất rõ sự đan xen giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn: kiếp sống tàn tạ, quẩn quanh, không tương lai và khát vọng nhỏ bé của những con người rất đỗi bình thường, mong muốn được “sống” dù chỉ trong giây phút.