You are on page 1of 28

Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ

Bài làm 1
Một truyện ngắn hay theo quan niệm truyền thống phải có cốt truyện đặc
biệt được tạo ra bởi những tình huống éo le đầy kịch tính. Không đi theo lối
mòn đó, truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” của Thạch Lam
chỉ là một chuyện tâm tình nhỏ nhẹ nhưng không vì thế mà ta có thể dễ dàng
quên được tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên.
Ngày lại ngày khi đêm về khuya, chuyến tàu từ Hà Nội về đi qua phố
huyện vậy mà hai chị em Liên vẫn khắc khoải thao thức và nhẫn nại, hồi hộp
chờ đợi được nhìn nó với bao vui buồn và hi vọng.Thạch Lam là một nhà văn
lãng mạn tiêu biểu của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Sáng tác của ông thiên về phản
ánh hiện thực đời sống của tầng lớp người nghèo ở các phố huyện nhỏ và làng
quê nghèo. Đọc những truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa”, “Dưới bóng hoàng
lan”… nhất là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta dễ dàng nhận ra một lối viết thật tinh
tế cùng tấm lòng rất mực nhạy cảm và nhân hậu. Ở đó, ông chủ yếu đi sâu thể
hiện những xúc cảm mong manh mơ hồ trong thế giới nội tâm nhân vật vì thế
truyện ngắn của ông còn được ví như “một bài thơ trữ tình đượm buồn”.
Câu chuyện được bắt đầu với những xao động trong tâm hồn hai đứa trẻ
khi nghe tiếng trống thu không gọi chiều về trên phố huyện. Tiếp đó, màn đêm
buông xuống, bóng tối “ngập đầy dần đôi mắt Liên”. Đêm tối như ôm trùm lên
tất cả phố huyện và càng dày đặc mênh mông hơn khi nhà văn điểm vào đó
những “hột sáng”, “quầng sáng” leo lét, lờ mờ và một chấm lửa nhỏ lơ lửng trôi
đi trong đêm… Nổi bật lên giữa thế giới đầy bóng tối và sự tàn tạ của cảnh vật:
chiều tàn, chợ tàn, chõng tàn… là cảnh sống lam lũ quẩn quanh của những đứa
trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí với gánh hàng nước ế ẩm, gia đình bác xẩm, bà cụ
Thi điên và hai chị em Liên và An với gian hàng tạp hoá còm cõi, lèo tèo, xơ
xác. Cuộc sống của hai chị em thật lay lắt, tẻ nhạt, ngày cũng như đêm cứ lặp đi
lặp lại thật đơn điệu và buồn chán. Hai em như hai cái mầm non mọc trên mảnh
đất cằn cỗi, bạc phếch. Nhưng con người tự muôn đời nay luôn luôn sống trong
khao khát và hi vọng những gì tươi sáng hơn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Sống giữa phố huyện nghèo đầy bóng tối nhưng chị em Liên cũng như
chừng ấy người nơi phố huyện vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho
sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm
đêm vẫn cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua bởi chuyến tàu chỉ vụt qua
nhưng đã mang đến cho họ một thế giới khác hẳn vừng sáng ngọn đèn của chị
Tí và ánh lửa trong gian hàng bác Siêu chứ không đơn thuần là vâng lời mẹ dặn
để có thể bán thêm một ít hàng bởi “họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là
cùng”. Bởi lẽ đó mà Liên “dù buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố thức, còn An “đã nằm
xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống vẫn không quên dặn chị “Tàu đến chị đánh
thức em dậy nhé”.Có lẽ bởi vậy mà chuyến tàu được nhà văn tập trung bút lực
miêu tả một cách tỉ mỉ theo trình tự thời gian, qua tâm trạng của hai chị em Liên
và An.
Khi đêm đã về khuya, Liên vẫn thao thức không ngủ cho tới lúc “tiếng
còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”.
Liên đã reo lên “Dậy đi, An. Tàu đến rồi”. Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây
lát rồi đi vào đêm tối mênh mông giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt
bay qua nền trời rồi vụt tắt, mang theo bao ước mơ và hoài bão đi tới nơi nào
chẳng rõ vậy nên hai chị em Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn
xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”.
Chuyến tàu đêm nay không đông và kém sáng hơn mọi ngày nhưng Liên
vẫn “lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo.
Con tàu như đã đem một thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với
Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”.
Đó là hình ảnh của Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, Hà Nội của những kỉ niệm đẹp
mà bấy lâu nay chị em Liên vẫn tha thiết hướng về dù chỉ trong giây lát “theo
dòng mơ tưởng”. Phải chăng những kỉ niệm tươi sáng thường in đậm và khắc
sâu trong tâm hồn tuổi thơ giống như một chiếc gối êm đềm ru ta vào giấc ngủ
dịu êm dù thực tại có phũ phàng hay ảm đạm. Xa Hà Nội đã lâu rồi nhưng chị
em Liên vẫn “nhớ như in” những lần “đi chơi bờ hồ được uống những cốc nước
lạnh xanh đỏ, ăn những thức ăn ngon lạ”. Họ nhớ như in “một vùng sáng rực và
lấp lánh” dù hiện tại với hai em mùi phở của bác Siêu thật hấp dẫn nhưng “quá
xa xỉ, nhiều tiền,hai chị em không bao giờ mua được”.
Tuy vậy, nó cứ gợi nhớ mùi thơm của hồi nào… Hình ảnh chuyến tàu
đêm là kí ức đẹp của tuổi thơ một thời nhớ lại trong tiếc nuối. Chuyến tàu càng
sáng rực, vui vẻ thì Liên càng ý thức rõ hơn cảnh sống tăm tối, buồn tẻ và chìm
lặng của phố huyện nghèo. Đoàn tàu đi rồi, đêm tối vẫn “bao bọc chung quanh”.
Liên gối đầu lên tay và nhắm mắt lại để “hình ảnh thế giới xung quanh mình mờ
mờ đi trong mắt chị”. Đó là lúc thấm thía sâu sắc nỗi buồn về một cuộc sống
mòn mỏi, quẩn quanh không thể đổi thay, Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu
sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất
nhỏ”. Đó là hình ảnh gây ấn tượng day dứt buồn cuối cùng đi vào giấc ngủ của
cô bé Liên. Nhưng đâu chỉ buồn và tiếc nuối, hai chị em Liên còn hồi hộp vui
sướng khi tàu về như “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn đến với cuộc sống
nghèo khổ thường ngày của họ”. Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn
tẻ, chuyến tàu từ Hà Nội về như đã đem lại một chút thế giới khác đi qua phố
huyện nghèo. Bởi vậy, khi tàu về rồi “khuất dần sau rặng tre” mà Liên vẫn cứ
“lặng theo mơ tưởng”. Dường như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao
thay đổi cuộc sống của hiện tại vẫn le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó
được trở lại cuộc sống tươi sáng của ngày xưa như khi còn ở Hà Nội.
Trong ý nghĩ hồn nhiên, non nớt và tội nghiệp của Liên, Hà Nội là một
thiên đường ở trong mơ. Nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong lòng
Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến, ánh mắt của Liên cứ đắm chìm vào
cõi mơ tưởng. Liên nghĩ về quá khứ, nghĩ về tương lai và hiện tại. Quá khứ tuổi
thơ tươi sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ mịt mong manh còn hiện tại thì đầy
bóng tối. Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một
tâm hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân hậu của Thạch Lam mới có thể
phát hiện và thể hiện được. Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ
là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tuy mơ hồ nhưng đẹp như một
giấc mơ trong truyện cổ tích thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt sáng lên rồi tắt dần,
xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao nó vẫn là niềm
vui, một niềm an ủi làm vơi đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của hiện tại để hai chị em
Liên đi vào giấc ngủ sau một ngày dài đầy buồn tẻ.
Không một chi tiết éo le, truyện hai đứa trẻ chỉ xoay quanh tâm trạng hồi
hộp, khắc khoải đợi tàu trong đêm của chị em Liên. Bắt đầu từ tiếng trống thu
không, thời gian cứ trôi qua theo sự xuất hiện từng mảnh đời tàn tạ của phố
huyện nghèo, người đọc bỗng nhận ra trong tiếng reo “Dậy đi, An. Tàu đến
rồi”là tình cảm bùi ngùi thương cảm của nhà văn dành cho những con người
nhỏ bé, tội nghiệp như bị chôn vùi trong cuộc sống leo lét vô nghĩa trong xã hội
cũ trước cách mạng.
Còn gì thương cảm hơn khi niềm vui, niềm an ủi và ước mơ, hi vọng của
họ chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt qua trong giây lát. Trang sách
cuối cùng khép lại mà tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên cứ ám ảnh, cứ vấn
vương ta hoài cứ như thầm thì nói hộ Thạch Lam: có những cuộc đời mới đáng
thương và tội nghiệp làm sao nhưng cũng thật cảm động và đáng trân trọng biết
bao khi họ vẫn vượt lên mọi tối tăm, lầm than trong hiện thực để ước mơ và hi
vọng, để không mất đi niềm tin vào cuộc sống có chút ánh sáng trong tương lai.
Ngày lại ngày, đêm lại đêm, Liên vẫn cố thức đợi tàu là những nỗ lực vừa cụ
thể vừa mơ hồ muốn thoát ra khỏi hiện tại. Niềm tin và ước vọng ấy tuy mong
manh nhưng tha thiết vô cùng trong tâm hồn hai đứa trẻ. Qua đó, ta nhận ra một
tiếng kêu thổn thức trong trái tim của Thạch Lam. Cần phải thay đổi thế giới
tăm tối này, cần phải đem đến cho con người nhất là trẻ thơ một cuộc sống hạnh
phúc. Phải chăng hình ảnh hai chị em Liên cũng là hình ảnh của hai chị em cậu
bé Vinh (tên hồi nhỏ của nhà văn Thạch Lam) ngày nào trên một phố huyện
nghèo nay đã lùi sâu vào dĩ vãng của ông.Là một truyện ngắn không có cốt
truyện, đặc biệt nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới nội tâm của hai đứa trẻ, đó là
những biến thái mơ hồ, mong manh trong tâm trạng hai đứa trẻ nhưng đã được
cảm nhận và thể hiện thật tinh tế trong lối viết văn mềm mại, trong sáng, giàu
hình ảnh và nhạc điệu.
Chỉ một âm thanh “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm kéo dài ra
theo ngọn gió xa xôi” cũng đủ để ta hình dung ra cô bé Liên đang sống trong
mơ tưởng. Đó là âm thanh của chờ đợi và hi vọng nhưng cũng là dư âm của tiếc
nuối. Đặc biệt là hình ảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm
tiếc nuối một quá khứ tươi sáng đã mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại
nhưng nó lại vừa gióng lên một cái gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu
đêm được coi là một “nhãn tự” của bài thơ trữ tình đượm buồn này.
Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta có cảm giác như được đọc một “bài thơ
trữ tình đượm buồn” bởi qua tâm trạng đợi tàu của hai chị em Liên ta rất dễ
nhận ra một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng thấm thía vô cùng
trong lòng người đọc.
Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ
Bài làm 2
Nhà văn Thạch Lam là một nhà văn thường sáng tác về truyện dài nhưng
lại có thành công ở thể loại truyện ngắn. Ông có phong cách sáng tác riêng biệt,
thường viết loại truyện không có cốt truyện mà chủ yếu là những dòng cảm xúc
như một bài thơ trữ tình, nhưng chiều sâu của tác phẩm lại làm cho người đọc
ngỡ ngàng, thường mang đến cho người đọc những tình cảm chân thành, tha
thiết. Đến với truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, đây cũng là một truyện ngắn tiêu biểu
cho phong cách của Thạch Lam, nhẹ nhàng và sâu lắng. Đặc biệt, truyện ngắn
đã đem đến cho người đọc một cảnh tượng xúc động ở cuối bài: cảnh chờ tàu,
mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc.
Hàng ngày, chị em Liên luôn có một thói quen là thức đợi tàu. Sự mong
móng về khoảng thời gian tàu đi qua Phố huyện Cẩm Giàng của hai chị em
được tác giả khắc họa rõ nét. Lý do chờ tàu của hai chị em Liên khác hẳn hoàn
toàn so với những lý do của người dân phố huyện Cẩm Giàng. Nếu người dân
chờ tàu để bán hàng, để hy vọng có thể kiếm thêm được một ít vật chất, thì chị
em Liên lại muốn thỏa mãn nhu cầu về tinh thần. Khoảng thời gian tàu đến, là
lúc hai chị em Liên như được sống với những kỉ niệm của quá khứ, những ngày
còn ở Hà Nội với cuộc sống đủ đầy. Tàu đến là một thế giới đầy âm thanh và
ánh sáng giúp một ngày tẻ nhạt của hai chị em như có thêm làn gió mới. Giữa
cuộc sống nghèo nàn, vẫn có những đứa trẻ giữ được tâm hồn tinh tế, trong sáng
và lãng mạn. Hai chị em đợi tàu để được ngắm nhìn đoàn tàu, sống lại những kí
ức tuổi thơ vui vẻ, đầy đủ, khoảng thời gian hạnh phúc đã mất trong quá khứ, để
được sống ở một thế giới huyên náo hơn, rực rỡ, nhiều ánh sáng, khác hẳn cuộc
sống tối tăm, tù túng ở nơi phố huyện này.
Chuyến tàu là biểu tượng cho sự sống, có ánh sáng, âm thanh, nó biểu
tượng cho một cuộc sống đông vui, náo nhiệt. Khi tàu đến, Liên nhớ về Hà Nội,
gắn với những kí ức về gia đình, cuộc sống sung túc. Hình ảnh đoàn tàu mang
đến cho Liên không gian ánh sáng và âm thanh của một Hà Nội huyên náo, rực
rỡ và vui vẻ. Cuộc sống ấy nó khác hẳn với cuộc sống tẻ nhạt, tù túng và tăm
tối, bế tắc nơi phố huyện Cẩm Giàng. Qua cảnh chờ tàu, nhà văn Thạch Lam đã
thể hiện thái độ trân trọng, thương cảm đối với những kiếp người nhỏ bé. Đồng
thời, tác giả muốn đánh thức những con người đang sống trong cuộc sống quẩn
quanh, bế tắc những triết lý về cuộc sống. Đó là: hãy nỗ lực vươn lên, đừng để
bản thân chìm trong đêm tối, đừng sống cuộc đời vô nghĩa lý. Hiện thực cuộc
sống xung quanh có thể nghèo đói hay thiếu thốn, tù túng hay tăm tối, nhưng
con người không bao giờ được phép ngừng tin tưởng và hy vọng vào một tương
lai tốt đẹp hơn. Hình ảnh đoàn tàu mang đến nhiều ánh sáng cũng thể hiện niềm
lạc quan, tin tưởng của tác giả về một tương lai tươi sáng hơn đối với con
người. Qua cảnh chờ tàu, nhà văn thể hiện niềm tin vào khát vọng vươn lên của
con người. Cho dù cuộc sống có bế tắc hay tăm tối thì họ vẫn luôn có một tinh
thần hướng đến tương lai, không nguôi khát vọng đổi đời. Tác giả đã góp tiếng
nói của mình để lên án xã hội đã không quan tâm đến số phận con người, để họ
phải sống lay lắt từng ngày, trong nghèo đói và bóng tối. Qua đó lên tiếng đòi
đổi thay cuộc sống, để con người có cuộc sống xứng đáng hơn.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” với việc xây dựng một đoạn kết đầy ấn tượng
với cảnh tượng chờ tàu đầy xúc động. Chỉ một chi tiết nhỏ nhưng nhà văn đã
đem đến cho người đọc những ý nghĩa sâu sắc, thể hiện được chiều sâu tác
phẩm và tình cảm nhân đạo từ nhà văn Thạch Lam.
Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ
Bài làm 3
Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh sau đổi thành Nguyễn
Tường Lân, sinh tại Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại nhưng
tuổi thơ gắn liền với quê ngoại ở phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Thạch
Lam là một thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn cho dòng văn học lãng mạn.
Thạch Lam là người đôn hậu và tinh tế, điều này ảnh hưởng rất lớn đến các sáng
tác của ông.
Thành công nhất của Thạch Lam là ở thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn
của Thạch Lam thường không có cốt truyện mà chủ yếu khai thác thế giới nội
tâm con người với những cảm xúc mong manh, mơ hồ, những rung động nhẹ
nhàng. Truyện ngắn của ông có giọng điệu như bài thơ trữ tình đượm buồn với
văn phong sáng sủa và giản dị thể hiện niềm yêu mến của nhà văn với con
người và cảnh vật. Các tác phẩm tiêu biểu: Tập truyện ngắn “Gió đầu mùa”,
“Nắng trong vườn” và “Sợi tóc”; tiểu thuyết “Ngày mới”; tiểu luận và phê bình
“Theo dòng”; tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường”.
Tác phẩm “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn đặc sắc của
Thạch Lam, in trong tập “Nắng trong vườn” (1938). Cũng như nhiều truyện
ngắn khác của ông, “Hai đứa trẻ” có sự hòa quyện hai yếu tố hiện thực và trữ
tình lãng mạn. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực cao vừa thấm đượm một giá trị
nhân đạo sâu sắc. Qua truyện ngắn này, nhà văn thể hiện niềm thương cảm sâu
sắc, thông cảm và xót thương vô hạn với những người nghèo khổ, khao khát
một sự đổi thay đến với cuộc đời của họ. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện một
tài năng viết truyện ngắn bậc thầy của Thạch Lam. Đây là một truyện ngắn có
cốt truyện đơn giản, một kiểu truyện ngắn trữ tình có nhiều chi tiết ngỡ như là
vụn vặt, vô nghĩa nhưng thực ra đó chính là sự chọn lọc và sự sắp xếp một cách
chặt chẽ để diễn tả tâm trạng nhân vật. Qua đó tác giả gửi gắm những tâm tình
một cách kín đáo, nhẹ nhàng nhưng không kém phần thấm thía tư tưởng nhân
đạo đáng quý.
Con người tự muôn đời nay luôn luôn sống trong khao khát và hi vọng
những gì tươi sáng hơn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Sống giữa phố huyện
nghèo đầy bóng tối nhưng chị em Liên cũng như chừng ấy người nơi phố huyện
vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày
của họ”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm đêm vẫn cố thức để được nhìn
chuyến tàu đi qua bởi chuyến tàu chỉ vụt qua nhưng đã mang đến cho họ một
thế giới khác hẳn vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa trong gian hàng bác
Siêu chứ không đơn thuần là vâng lời mẹ dặn để có thể bán thêm một ít hàng
bởi “họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”. Bởi lẽ đó mà Liên “dù buồn
ngủ ríu cả mắt vẫn cố thức", còn An “đã nằm xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống
vẫn không quên dặn chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”.
Có lẽ bởi vậy mà chuyến tàu được nhà văn tập trung bút lực miêu tả một
cách tỉ mỉ theo trình tự thời gian, qua tâm trạng của hai chị em Liên và An. Khi
đêm đã về khuya, Liên vẫn thao thức không ngủ cho tới lúc “tiếng còi xe lửa ở
đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Liên đã reo lên
“Dậy đi, An. Tàu đến rồi”. Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm
tối mênh mông giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời
rồi vụt tắt, mang theo bao ước mơ và hoài bão đi tới nơi nào chẳng rõ vậy nên
hai chị em Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa
sau cùng, xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”.
Chuyến tàu đêm nay không đông và kém sáng hơn mọi ngày nhưng Liên
vẫn “lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo.
Con tàu như đã đem một thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với
Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”.
Đó là hình ảnh của Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, Hà Nội của những kỉ niệm đẹp
mà bấy lâu nay chị em Liên vẫn tha thiết hướng về dù chỉ trong giây lát “theo
dòng mơ tưởng”. Phải chăng những kỉ niệm tươi sáng thường in đậm và khắc
sâu trong tâm hồn tuổi thơ giống như một chiếc gối êm đềm ru ta vào giấc ngủ
dịu êm dù thực tại có phũ phàng hay ảm đạm.
Xa Hà Nội đã lâu rồi nhưng chị em Liên vẫn “nhớ như in” những lần “đi
chơi bờ hồ được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ, ăn những thức ăn ngon
lạ”. Họ nhớ như in “một vùng sáng rực và lấp lánh” dù hiện tại với hai em mùi
phở của bác Siêu thật hấp dẫn nhưng “quá xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không
bao giờ mua được”. Tuy vậy, nó cứ gợi nhớ mùi thơm của hồi nào… Hình ảnh
chuyến tàu đêm là kí ức đẹp của tuổi thơ một thời nhớ lại trong tiếc nuối.
Chuyến tàu càng sáng rực, vui vẻ thì Liên càng ý thức rõ hơn cảnh sống tăm tối,
buồn tẻ và chìm lặng của phố huyện nghèo. Đoàn tàu đi rồi, đêm tối vẫn “bao
bọc chung quanh”. Liên gối đầu lên tay và nhắm mắt lại để “hình ảnh thế giới
xung quanh mình mờ mờ đi trong mắt chị”. Đó là lúc thấm thía sâu sắc nỗi buồn
về một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh không thể đổi thay, Liên “thấy mình
sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu
sáng một vùng đất nhỏ”. Đó là hình ảnh gây ấn tượng day dứt buồn cuối cùng đi
vào giấc ngủ của cô bé Liên.
Nhưng đâu chỉ buồn và tiếc nuối, hai chị em Liên còn hồi hộp vui sướng
khi tàu về như “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn đến với cuộc sống nghèo khổ
thường ngày của họ”. Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn tẻ, chuyến
tàu từ Hà Nội về như đã đem lại một chút thế giới khác đi qua phố huyện nghèo.
Bởi vậy, khi tàu về rồi “khuất dần sau rặng tre” mà Liên vẫn cứ “lặng theo mơ
tưởng”. Dường như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao thay đổi cuộc
sống của hiện tại vẫn le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó được trở lại
cuộc sống tươi sáng của ngày xưa như khi còn ở Hà Nội. Trong ý nghĩ hồn
nhiên, non nớt và tội nghiệp của Liên, Hà Nội là một thiên đường ở trong mơ.
Nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong lòng Liên cứ rộn lên những bồi
hồi, xao xuyến, ánh mắt của Liên cứ đắm chìm vào cõi mơ tưởng. Liên nghĩ về
quá khứ, nghĩ về tương lai và hiện tại. Quá khứ tuổi thơ tươi sáng qua lâu rồi,
tương lai thì mờ mịt mong manh còn hiện tại thì đầy bóng tối.
Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một tâm
hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân hậu của Thạch Lam mới có thể phát
hiện và thể hiện được. Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ là kí
ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tuy mơ hồ nhưng đẹp như một giấc mơ
trong truyện cổ tích thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt sáng lên rồi tắt dần, xa dần
trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao nó vẫn là niềm vui,
một niềm an ủi làm vơi đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của hiện tại để hai chị em
Liên đi vào giấc ngủ sau một ngày dài đầy buồn tẻ.
Không một chi tiết éo le, truyện Hai đứa trẻ chỉ xoay quanh tâm trạng hồi
hộp, khắc khoải đợi tàu trong đêm của chị em Liên. Bắt đầu từ tiếng trống thu
không, thời gian cứ trôi qua theo sự xuất hiện từng mảnh đời tàn tạ của phố
huyện nghèo, người đọc bỗng nhận ra trong tiếng reo “Dậy đi, An. Tàu đến rồi”
là tình cảm bùi ngùi thương cảm của nhà văn dành cho những con người nhỏ bé,
tội nghiệp như bị chôn vùi trong cuộc sống leo lét vô nghĩa trong xã hội cũ
trước cách mạng. Còn gì thương cảm hơn khi niềm vui, niềm an ủi và ước mơ,
hi vọng của họ chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt qua trong giây lát.
Trang sách cuối cùng khép lại mà tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên cứ ám
ảnh, cứ vấn vương ta hoài cứ như thầm thì nói hộ Thạch Lam: có những cuộc
đời mới đáng thương và tội nghiệp làm sao nhưng cũng thật cảm động và đáng
trân trọng biết bao khi họ vẫn vượt lên mọi tối tăm, lầm than trong hiện thực để
ước mơ và hi vọng, để không mất đi niềm tin vào cuộc sống có chút ánh sáng
trong tương lai. Ngày lại ngày, đêm lại đêm, Liên vẫn cố thức đợi tàu là những
nỗ lực vừa cụ thể vừa mơ hồ muốn thoát ra khỏi hiện tại. Niềm tin và ước vọng
ấy tuy mong manh nhưng tha thiết vô cùng trong tâm hồn hai đứa trẻ. Qua đó, ta
nhận ra một tiếng kêu thổn thức trong trái tim của Thạch Lam. Cần phải thay
đổi thế giới tăm tối này, cần phải đem đến cho con người nhất là trẻ thơ một
cuộc sống hạnh phúc. Phải chăng hình ảnh hai chị em Liên cũng là hình ảnh của
hai chị em cậu bé Vinh (tên hồi nhỏ của nhà văn Thạch Lam) ngày nào trên một
phố huyện nghèo nay đã lùi sâu vào dĩ vãng của ông.
Là một truyện ngắn không có cốt truyện, đặc biệt nhà văn chỉ đi sâu vào
thế giới nội tâm của hai đứa trẻ, đó là những biến thái mơ hồ, mong manh trong
tâm trạng hai đứa trẻ nhưng đã được cảm nhận và thể hiện thật tinh tế trong lối
viết văn mềm mại, trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Chỉ một âm thanh
“tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi” cũng
đủ để ta hình dung ra cô bé Liên đang sống trong mơ tưởng. Đó là âm thanh của
chờ đợi và hi vọng nhưng cũng là dư âm của tiếc nuối. Đặc biệt là hình ảnh
chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá khứ tươi
sáng đã mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên
một cái gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn
tự” của bài thơ trữ tình đượm buồn này.
Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta có cảm giác như được đọc một “bài thơ
trữ tình đượm buồn” bởi qua tâm trạng đợi tàu của hai chị em Liên ta rất dễ
nhận ra một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng thấm thía vô cùng
trong lòng người đọc.
Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ
Bài làm 4
“Mỗi truyện của Thạch Lam như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm
đạm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu, chân thành và sự nhạy cảm
của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người”. Quả thực đúng
như vậy, những trang văn của Thạch Lam không đi vào những biến cố mà đi
sâu vào chiều sâu tâm trạng của con người. Cảnh chờ tàu của hai chị em Liên và
An đã được tác giả nắm bắt những chuyển biến tế vi nhất trong tâm trạng của
hai nhân vật.
Liên và An vốn là những đứa trẻ đã từng sống ở thị thành, nhưng gia đình
sa sút nên phải chuyển về phố huyện nghèo. Liên và An tuy còn nhỏ tuổi nhưng
cũng tham gia vào việc nuôi sống gia đình bằng cách trông một cửa hàng nhỏ ở
chợ. Quanh Liên cũng là biết bao kiếp sống nhỏ bé, mòn mỏi như chị Tí cùng
đứa con vất vả mưu sinh, chật vật để sống qua ngày, gia đình bác xẩm góp vào
bằng tiếng đàn bần bật trong yên lặng,… Cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, quẩn
quanh nhưng những con người nơi đây vẫn luôn hướng về một ngày tươi sáng:
“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống
nghèo khổ hằng ngày của họ”.
Đêm nào cũng vậy, dù buồn ngủ nhưng cả Liên và An đều cố thức để chờ
hoạt động cuối cùng của đêm, đó chính là đợi đoàn tàu khuya từ Hà Nội đi
ngang qua. Vì sao những đứa trẻ ngây thơ ấy lại phải cố gắng đợi đoàn tàu đi
qua mới có thể ngủ? Có phải chúng nghe lời mẹ dặn? Có phải cố nán lại để bán
thêm phong kẹo, cái bánh từ những người khách qua đường. Nhưng không phải
“Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là sự hoạt
động cuối cùng của đêm khuya”. Trong sự chờ đợi ấy chứa đựng cả những khao
khát, ước mong cháy bỏng của những trái tim trẻ thơ non nớt. Bởi vậy, An trước
khi đi ngủ đã dặn chị: “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé” khao khát của chúng
là vô thức nhưng cũng thật mãnh liệt. Chuyến tàu đi qua, mang đến một thế giới
khác, thế giới của âm thanh và ánh sáng rực rỡ.
Trong thời gian đợi tàu xuất hiện, chị Liên thả tâm hồn mình vào vũ trụ
để cảm nhận hết thảy vẻ đẹp của thiên nhiên khi đêm về. Qua những kẽ lá bàng,
“ngàn sao vẫn lấp lánh” trên nền trời, những nụ hoa bàng nhỏ khẽ rơi trên vai
chị. Tâm hồn Liên thả trôi theo những cảm xúc bâng khuâng mà chính chị cũng
cảm thấy mơ hồ không hiểu hết.
Tiếng trống cầm canh ở huyện đánh vang cùng với lời thông báo của bác
Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi” xua tan sự tĩnh mịch của màn đêm, để chuẩn bị cho
sự hoạt động cuối cùng của đêm - con tàu từ Hà Nội dần dần xuất hiện. Ban đầu
là ngọn lửa xanh biếc như ma trơi, rồi tiếp đến là làn khói trắng bừng lên từ xa.
Liên gọi em dậy và cả hai chị em quan sát kĩ từng chuyển động của chiếc tàu.
Tiếng Liên gọi An: “Dậy đi An. Tàu đến rồi” câu nói không đơn thuần chỉ là để
gọi An dậy mà trong đó còn kèm cả sự vui thích, nó như một tiếng reo vui, hối
thúc em dậy để cùng ngắm nhìn khoảnh khắc đoàn tàu vụt qua.
Khoảnh khắc tàu đến, lòng hai chị em vui sướng, hân hoan đến lạ kì, dù
chỉ là thoáng qua nhưng cũng đủ để hai tâm hồn tinh tế ấy nắm bắt trọn vẹn sự
vật, sự việc đang diễn ra trên tàu: “các toa đèn sáng trưng, chiếu sáng cả xuống
đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những
người, đồng và kền vàng lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Con tàu trong khoảnh
khắc đã chỉ còn lại chiếc chấm đỏ nhỏ, rồi khuất sau rặng tre. Bé An hồn nhiên
nhưng cũng đã nhận ngay ra dường như tàu hôm nay không đông như mọi khi.
Còn Liên thì đã nhận thấy sự thưa thớt cũng như kém sáng hơn của đoàn tàu:
“Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như
kém sáng hơn”. Dẫu đoàn tàu hôm nay có kém sáng hơn, có kém đông vui hơn
mọi khi nhưng nó từ Hà Nội về, nó mang theo một thế giới khác hẳn đối với
Liên, đó là thế giới của ánh sáng, của niềm vui và của hạnh phúc. Lòng cô bé
trào dâng niềm vui, niềm hạnh phúc khó tả khi được sống lại những ngày xưa
khi cô được uống những cốc nước lạnh xanh xanh đỏ đỏ, và nhớ về một Hà Nội
sáng rực, lấp lánh.
Đêm nào Liên và An cũng đợi tàu, dù có buồn ngủ díp mắt, chúng cũng
phải chờ được đoàn tàu đi qua mới ngủ. Đây không phải là một hành động ngẫu
nhiên, vô nghĩa mà nó dường như là một nhu cầu, một đòi hỏi thiết yếu đối với
Liên và An. Đằng sau đó còn chứa đựng cả những mơ ước, khao khát về một
cuộc sống mới đẹp đẽ và hạnh phúc hơn. Hình ảnh những đoàn tàu vụt xuất hiện
rồi biến mất nhưng cũng đủ để chúng được trở lại, được sống với những kỉ niệm
tuổi thơ êm ấm trước đây. Khao khát chờ đoàn tàu đi qua cũng ánh lên những
khát vọng mãnh liệt của những đứa trẻ, đó là khát vọng đổi đời. Tại sao lại đặt
khát vọng ấy vào hai nhân vật Liên và An mà không phải là chị Tí, bác Siêu, …
bởi chúng là những đứa trẻ, chúng là mầm non, là tương lai của cuộc sống. Bởi
vậy, khao khát đổi đời khi được tập trung thể hiện ở hai nhân vật sẽ trở nên ý
nghĩa hơn, giàu sức gợi hơn. Đồng thời qua khung cảnh đợi tàu, Thạch Lam
cũng thể hiện thái độ cảm thương đối với những số phận người nhỏ bé, bất hạnh
phải sống mòn mỏi với cuộc đời chật vật, bế tắc; đồng thời ông cũng trân trọng,
nâng niu những khao khát, những ước mơ đẹp đẽ của Liên và An nói riêng, của
những người dân phố huyện nói chung. Không chỉ vậy, qua khung cảnh chờ
chuyến tàu đêm, Thạch Lam còn dóng lên tiếng gọi tha thiết, lay động tâm hồn
người đọc: hãy thay đổi cuộc sống, khiến nó trở nên đẹp đẽ hơn, biến nó thành
môi trường sống lành mạnh để những đứa trẻ được sống cuộc đời hạnh phúc.
Với nghệ thuật miêu tả tâm lí và cảnh vật tài tình, cảnh đoàn tàu kết lại
tác phẩm đã để lại dư âm, ấn tượng sâu lắng trong lòng người đọc. Đóng lại
cuốn sách người đọc vẫn không khỏi thổn thức trước những số phận kiếp người
mòn mỏi nơi phố huyện. Nhưng đồng thời cũng trân trọng, nâng niu những mơ
ước tha thiết, mãnh liệt của họ về một cuộc sống khác, về sự đổi đời.
Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ
Bài làm 5
“Trong nhóm Tự lực văn đoàn, Hoàng Đạo là người lý thuyết, Nhất Linh
là người thực hành, Khái Hưng đả phá vào nếp sống cũ để tiến tới một đời sống
mới… còn Thạch Lam một người yêu thương đồng bào, xót xa từ tâm can tỳ
phế.” Văn phong Thạch Lam nhẹ nhàng mà sâu lắng nhưng con người trong
trang văn của ông không thoát li khỏi hiện thực tàn khốc. Ông yêu thương đồng
bào vô cùng, tuy nhân vật của ông dù sống cảnh nghèo khó nhưng họ vẫn không
ngừng vươn tới, vẫn ánh lên tia hy vọng tươi mới. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
với cảnh đợi tàu của chị em Liên là minh chứng cho điều đó.
Liên và An trước đây từng sống ở Hà Nội - chốn thị thành huyên náo,
nhộn nhịp có nhiều điều mới lạ. Ở đó hai chị em được mẹ đưa đi chơi Hồ Tây,
được ăn những món ngon nhưng kể từ khi cha cô bị mất việc gia đình phải
chuyển về quê_nơi phố huyện nghèo để sinh sống. Con người và cuộc sống nơi
đây đối lập hoàn toàn với quá khứ xa xăm của Liên. Giờ đây hai chị em được
mẹ giao cho nhiệm vụ trông nom cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu bán những đồ vặt
vãnh để phụ giúp cho thu nhập gia đình nhưng cũng chẳng đáng là bao. Cảnh
vật nơi đây từ lúc chiều tà cho đến lúc về đêm đều u tối, tĩnh mịch, ảm đạm và
buồn bã. Những con người xung quanh cô cũng là những kiếp người nghèo khổ,
sống lay lắt qua ngày. Chính điều đó đã khiến cho tâm trạng Liên luôn mang
một nỗi buồn man mác thấm sâu vào tâm hồn nhạy cảm của người con gái mới
lớn.
Màn đêm buông xuống lúc con người ta mong muốn được nghỉ ngơi sau
một ngày làm việc mệt mỏi. Liên, An và những con người nơi đây cũng vậy
nhưng ngày nào họ cũng cố thức để chờ chuyến tàu từ Hà Nội chạy qua, dù cho
hai chị em đã “buồn ngủ ríu cả mắt”, mí mắt An sắp sửa rơi xuống vẫn cố nhắc
chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Trong lúc An chợp mắt một chút Liên
ngồi khẽ quạt cho em và thả hồn mình vào thiên nhiên. Cô quan sát từ trên
cao“ngàn sao vẫn lấp lánh” xuống mặt đất “một con đom đóm bám vào dưới lá,
vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy” rồi tinh tế hơn nữa là cô cảm nhận thấy hoa
bàng rụng khẽ trên vai từng đợt một. Điều đó cho Liên cảm giác thật mơ hồ khó
hiểu. Cô quả là một con người có cái nhìn tinh tế, nhạy cảm. Cô quan sát cả
những con người nơi đây không gian vẫn vắng lặng, trống cầm canh đánh tung
lên một tiếng khô khan càng làm cho khung cảnh trở nên yên ắng, tĩnh mịch.
Mẹ con chị Tí, gia đình bác Siêu, bác xẩm… họ vẫn cố thức đợi tàu.
Tại sao lại như vậy? Họ đợi đoàn tàu chạy qua để làm gì? phải chăng
giống như lời mẹ Liên dặn là “để bán hàng- may ra còn có một vài người mua”.
Nhưng không Liên và An chẳng mong chờ gì vào điều đó bởi cô biết họ chỉ
mua bao diêm hay gói thuốc là cùng. An và Liên thức là vì cớ khác, vì muốn
được nhìn chuyến tàu đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya, “chừng ấy
người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng
ngày của họ”.
Đó là chuyến tàu của khát vọng tương lai. Chuyến tàu đem đến cho hai
chị em và những con người ở phố huyện nghèo những điều xa lạ của một thế
giới khác hẳn với ánh đèn của chị Tí, ngọn lửa leo lét của bác Siêu và hột sáng
thưa thớt của Liên. Ánh sáng trưng của các toa đèn, ánh sáng lấp lánh của đồng
và kền, đốm than đỏ rực bay lung lung tất cả ánh sáng ấy xé toạc bầu trời tăm
tối, mù mịt nơi phố xá nghèo nàn. Âm thanh của đoàn tàu với tiếng còi vọng lại
từ xa, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng huyên náo của hành khách phá tan sự tĩnh
lặng, u sầu của không gian. An, Liên và những kiếp người lay lắt cố thức là vì
điều đó. Họ háo hức, khao khát nhìn thấy sự đổi thay mà đoàn tàu mang đến cho
họ một ước mơ, khát vọng về một cuộc sống mới ở tương lai tốt đẹp hơn.
Mặt khác chuyến tàu còn đưa Liên trở về với kí ức xưa với “Hà Nội xa
xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”_nơi mà gia đình cô còn khá giả, hai
chị em còn được vui chơi. Đoàn tàu như vệt sao băng vụt qua sáng lóa trên bầu
trời tăm tối. Đoàn tàu vừa là kỉ niệm đẹp của tuổi thơ vừa là hy vọng ở ngày
mai. Thạch Lam thật là tinh tế và sâu sắc khi phát hiện ra khao khát vừa đáng
thương vừa đáng chân trọng ấy để cho nhân vật của ông dù sống trong nghèo
khó nhưng không tuyệt vọng mà vẫn không ngừng hy vọng, ước mơ. Chi tiết ấy
khiến cho ai đã đọc “Vợ nhặt” của Kim Lân mà nhớ tới lời của bà cụ Tứ động
viên, tạo dựng niềm tin cho con dâu và con trai vào một tương lai hạnh phúc,
ấm no. Bà chỉ nhẹ nhàng bảo “Vợ chồng chúng mày lo mà làm ăn, rồi trời
thương. Ai giàu ba họ, ai khó ba đời bao giờ đâu”. Dù hiện thực nghiệt ngã, cái
đói cái nghèo đeo bám hằng ngày lúc con người ta tưởng chừng như tuyệt vọng
đứng bên bờ vực giữa sự sống và cái chết nhưng bà cụ già gần đất xa trời vẫn
hy vọng, vẫn an ủi cho đôi vợ chồng trẻ một niềm tin. Giá trị nhân đạo ngưng
đọng lại ở đó làm nên một tác phẩm có sức sống lâu bền với thời gian.
Thạch Lam có quan niệm dứt khoát về thiên chức của văn chương: "Đối
với tôi, văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly
hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà
chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm
cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn". Cảnh đợi tàu của hai
chị em Liên đã làm sáng ngời lên tuyên ngôn văn học của ông. Với văn phong
lãng mạn, bút pháp trữ tình trong truyện ngắn và sự thành công của nghệ thuật
miêu tả thế giới nội tâm nhân vật Thạch Lam nhà văn tài ba đã khắc họa cảnh
chờ tàu của chị em Liên thật tỉ mỉ, sinh động để lại cho người đọc người nghe
nhiều suy tư, chiêm nghiệm và bài học về niềm tin trong cuộc sống.
Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ
Bài làm 6
Thạch Lam là nhà văn nổi tiếng của Văn học Lãng mạn những năm 1930-
1945. Là một trong những cây bút của Tự lực văn đoàn, nhưng văn chương của
Thạch Lam không quá xa vời thực tế như những cây bút trong nhóm. Mà văn
chương của ông nhẹ nhàng chất đời lãng mạn. Nổi bật nhất phải kể đến truyện
ngắn “Hai đứa trẻ”, câu chuyện chờ đợi tàu của chị em Liên nơi phố huyện Hà
Nội những năm tháng trước Cách Mạng. Thiên truyện ngắn cốt truyện đơn giản
nhưng lại đọng lại những suy ngẫm sâu sắc đặc biệt cảnh chờ đợi tàu của hai chị
em Liên.
Truyện mở ra bằng tiếng trống thu không, hoàng hôn dần buông xuống
nơi phố huyện heo hút. Rồi ánh đèn leo lét xuất hiện, cuộc sống con người quẩn
quanh nơi phố huyện khi màn đêm dần bao phủ. Hai chị em Liên ngồi lặng im
nhìn ngắm phố huyện, lòng đầy suy nghĩ. Trong nỗi nhớ về Hà Nội qua gánh
phở bác Siêu, cũng là lúc tàu chuẩn bị đến.
Tàu chưa đến, chị em Liên và những con người nơi phố huyện dù mệt
mỏi nhưng vẫn ngắc ngoải, mong chờ điều gì đó. Liên thấy “tâm hồn yên tĩnh.”
Cái yên tĩnh bình yên, lặng lẽ trong khung cảnh đêm xuống. Rồi khi tàu đến, từ
xa “ngọn lửa xanh biếc như trời”, “tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra
theo ngọn gió xa xôi”. Tàu đến gần, ánh sáng toả rạng một vùng. Đó là ánh sáng
của “Ngọn đèn ghi” “toa tàu đèn sáng trưng, chiếu xuống đường”, “người, đồng
và kền lấp lánh”. Âm thanh vang vọng trong không gian tiếng ghi tàu mạnh mẽ
“tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng
trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ.”
Đoàn tàu đến đem theo ánh sáng rực rỡ, sáng lóa làm lu mờ mọi ánh đèn
leo lét nơi phố huyện, bừng lên mạnh mẽ. Không chỉ mang theo ánh sáng mà
tàu đến mang theo cả thứ âm thanh rộn rã khác hẳn tiếng vo ve của muỗi trong
hàng hay tiếng ếch nhái từ ngoài đồng ruộng xa. Bằng ngòi bút lãng mạn, bút
pháp miêu tả đối lập, Thạch Lam đã khắc họa nên hai thế giới hoàn toàn khác
biệt, đối lập để thấy rằng đoàn tàu đến mang theo mọi điều đẹp nhất.
Nhưng rồi đoàn tàu nhanh chóng vụt qua để lại bao tiếc nuối, ngậm ngùi.
Đoàn tàu đi cuốn theo cả thế giới rực rỡ, vang động. Liên cảm nhận được sự
thiếu hụt về cả âm thanh và con người khi đoàn tàu đi qua. Dường như em đã
gắn bó với nơi này từ rất lâu, ghi nhớ sâu sắc từng khoảnh khắc. Đoàn tàu đi
qua trả lại cho phố huyện sự im lặng. Đoàn tàu đi qua cũng là lúc khiến cho
Liên lặng vào mơ tưởng nhớ về Hà Nội, nhớ về những kỉ niệm ngọt ngào xa
xôi. Em buồn thương cho hiện tại mờ mịt, tiếc nuối cho quá khứ hạnh phúc và
mơ tưởng về một tương lai.
Bằng những câu văn ngắt ngắn, liên hoàn Thạch Lam diễn tả sinh động
tâm trạng bồi hồi, mang chút gì đó vừa xót thương vừa hi vọng của nhân vật
Liên. Liên như thấy mình “sống giữa bao sự xa xôi”. Kết thúc truyện để lại
trong lòng người đọc bao sự day dứt. Đoàn tàu đến mang theo ánh sáng lấp
lánh, rực rỡ, mang theo âm thanh sinh động, vang vọng. Nhưng nó thuộc về thế
giới khác. Thế giới không phải của Liên của An hay cửa con người nơi phố
huyện. Nhưng đoàn tàu đi qua lại nhen lên cho những con người nơi đây ước
mơ, khát khao về một tương lai dù mờ mịt nhưng họ không hề từ bỏ. Ngày nào
họ cũng thức từ sáng đến đêm để đợi đoàn tàu đi qua, để ước mơ về điều gì đó
xa xôi. Nhưng ước mơ của họ không biến mất mà âm ỉ chờ đợi điều gì đó làm
bùng lên.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” khắc họa sinh động thế giới tâm hồn của
những con người cùng khổ trong xã hội cũ trước những năm Cách Mạng diễn
ra. Hình ảnh đoàn tàu chỉ xuất hiện thoáng qua rồi vụt tắt mang theo ánh sáng,
âm thanh, ước mơ và khát vọng. Như một niềm an ủi một mơ ước không bao
giờ tắt, một chút ánh sáng cho ao đời tù đọng, đen tối triền miên của những số
phận hẩm hiu, bất hạnh nhưng vẫn hi vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn. Đó
cũng là thông điệp và tình thương của Thạch Lam dành cho những nhân vật.
Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ
Bài làm 7
Có lần nhà văn Thạch Lam từng nói rằng: "Cái đẹp man mác trong vũ trụ,
len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của
nhà văn là phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật". Niềm khát khao truy
tìm những cái đẹp lẩn khuất tiềm tàng khắp ở những con người, sự vật, sự việc
tầm thường như thế đã tiếp thêm sức mạnh trên con đường nghệ thuật cho nhà
văn, giúp ông sáng tác thành công tác phẩm Hai đứa trẻ, áng văn xuôi đặc sắc
của văn học Việt Nam trước cách mạng. Đặc biệt là cảnh đợi chuyến tàu đêm
của hai chị em Liên chính là nơi kết tinh những tư tưởng nghệ thuật sâu sắc và
tiến bộ của Thạch Lam với ngòi bút nhân đạo, trữ tình.
Chuyến tàu đêm chủ yếu hiện lên qua cái nhìn và cảm nhận, qua niềm
khát khao, mong đợi của Liên. Trong câu chuyện Thạch Lam đã tinh tế gài vào
những chi tiết rất nhỏ, nhưng rất có ý nghĩa, qua đó thể hiện niềm khát khao về
chuyến tàu qua phố huyện của Liên nó sâu sắc, thiết tha và mãnh liệt đến
nhường nào. Dù trời đã rất khuya, "An và Liên đã buồn ngủ đến ríu cả mắt",
nhưng hai chị em vẫn cố gắng thức để chờ tàu, không phải là để bán thêm được
chút hàng như lời mẹ Liên dặn, mà bởi vì đợi chuyến tàu cuối cùng của đêm. Sự
mong chờ mạnh mẽ của Liên với chuyến tàu có mối liên hệ mật thiết đến cái ý
thức sâu sắc của Liên về cuộc sống cơ cực, nghèo khó và tối tăm nơi phố huyện,
đồng thời qua chuyến tàu đêm Liên còn nhận thức rõ được một cuộc sống khác
hẳn với cái nơi mà Liên và An đang sống. Tâm trạng của nhân vật Liên được
Thạch Lam miêu tả một cách tinh tế, khi tàu chưa đến cô bé khát khao mong đợi
chuyến tàu từ xa, hồi hộp vui sướng khi chuyến tàu đến, rồi cuối cùng là buồn
bã thất vọng khi chuyến tàu đi xa.
Chuyến tàu hiện lên qua cảm nhận của Liên từ xa đến gần rồi xa mãi, con
tàu còn hiện lên chủ yếu qua phương diện âm thanh, ánh sáng và cuộc sống trên
tàu. Trước hết về ánh sáng, từ xa xa bác Siêu với ánh mắt trông mong đã kịp
nhận ra và reo lên vui mừng "Đèn ghi đã ra kia rồi", đánh động đến những cảm
nhận của Liên, trong tầm mắt Liên đó là những "ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất
như ma trơi" , đầy sức quyến rũ, vẫy gọi đối với tâm hồn tươi trẻ của chị em
Liên, sau đó cũng từ xa Liên cũng nhìn thấy "làn khói bừng sáng trắng lên đằng
xa". Càng đến gần thì ánh sáng của con tàu càng rực rỡ, lộng lẫy và tươi tắn,
"các toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường", "đồng và kền lấp lánh", "các
cửa kính sáng". Tất cả những thứ ánh sáng ấy đều mạnh mẽ khác hẳn với ánh
sáng nơi phố huyện, tù mù, tối tăm từ cái đèn dầu của chị Tí, bếp lửa của bác
Siêu, ánh đom đóm, ánh sáng từ cánh cửa khép hờ,... Khác hẳn với cái ánh sáng
leo lét, yếu ớt, mong manh, tội nghiệp nơi phố huyện của chị em Liên, cái ánh
sáng mà dường như bị màn đêm nuốt chửng không chừng.
Tuy nhiên cái ánh sáng mạnh mẽ, đầy mơ ước ấy nó không ở lại lâu với
chị em Liên mà chỉ thoáng qua trong chốc lát rồi vụt tắt hẳn, cái nó để lại chính
là sự nuối tiếc, hụt hẫng là bóng tối bao trùm, yên lặng đến cùng cực. Hình ảnh
"đốm than đỏ bay tung trên đường sắt", "hai chị em còn cố trông theo cái chấm
nhỏ của ngọn đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất theo rặng tre"
là những chi tiết có sức ám ảnh mạnh mẽ đối với người đọc, ánh mắt của hay
đứa trẻ là cái nhìn đầy nuối tiếc vừa như muốn níu giữ lại vừa như muốn đi theo
con tàu đêm ấy, thoát khỏi cái phố huyện nghèo nàn này.
Chuyến tàu đêm còn hiện lên qua những âm thanh tinh tế và đặc sắc trong
cảm nhận của Liên, ngay từ khi ở rất xa âm thanh của con tàu cũng đầy sức hấp
dẫn với tâm hồn thơ trẻ của Liên, "tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại kéo dài ra
trong gió xa xôi", âm thanh còn khá mơ hồ nhưng mạnh mẽ, phá tan cái yên tĩnh
u buồn nơi phố huyện, xuyên qua bóng tối mang về cho phố huyện một xúc cảm
khác hẳn. Thứ âm thanh ấy khác hẳn với những tiếng trống thu không, tiếng
trống cầm canh khô khan, ngắn ngủi rồi chìm luôn vào bóng tối, không thể nào
thoát ra nổi cái u buồn tịch mịch nơi làng quê nghèo đói.
Càng đến gần âm thanh của chuyến tàu đêm càng mạnh mẽ, càng náo nức
"hai chị em chờ không lâu, tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới", "tiếng dồn
dập", tiếng bánh xe "rít mạnh vào ghi". m thanh khuấy động cả phố huyện tăm
tối, khác hẳn với những âm thanh nhỏ bé, buồn tẻ của phố huyện như tiếng
muỗi vo ve, tiếng ếch nhái, tiếng chó sủa đêm. Nhưng cũng giống như ánh sáng,
những âm thanh của con tàu cũng theo nhịp bánh của con tàu rồi mất hút ở phía
xa "tiếng vang động của xe hỏa nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối, lắng tai cũng
không nghe thấy nữa", sự biến mất của âm thanh cũng như ánh sáng để lại trong
lòng chị em Liên những niềm nuối tiếc sâu sắc.
Cuộc sống trên tàu hiện lên qua bút pháp miêu tả của Thạch Lam và qua
những cảm nhận tinh tế của Liên, dẫu rằng chỉ khi con tàu đến gần Liên mới có
thể nhìn thấy một chút cuộc sống trên tàu "Liên chỉ thoáng trông thấy những toa
hạng trên sang trọng lố nhố những người", "đồng và kền lấp lánh", "các cửa
kính sáng". Liên chỉ chú ý những khoang hạng sang, bởi chỉ có cuộc sống trên
ấy nó mới khác hẳn, giàu có, sung túc, sang trọng, tươi sáng như những gì mà
Liên vẫn thường mơ về, không như cuộc sống tối tăm, nghèo nàn nơi phố
huyện.
Như vậy về mọi phương diện, âm thanh, ánh sáng, cuộc sống trên tàu thì
có thể nhận thấy rằng thế giới mà con tàu mang theo là một thế giới khác hẳn
với phố huyện, chính vì vậy cho nên chuyến tàu đêm mới trở thành niềm khát
khao, hy vọng của chị em Liên và những người dân nơi đây. Không chỉ khác
với phố huyện, chuyến tàu đêm còn khác với chính nó trong những đêm trước
đó "chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như
kém sáng hơn", gợi nỗi buồn, nỗi thất vọng, nhưng vẫn không không dập tắt
được niềm khao khát mãnh liệt của Liên. Liên vẫn kiên trì lặng người theo mơ
tưởng "nhưng họ ở Hà Nội về", đưa Liên về những ký ức về một "Hà Nội xa
xăm sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Cuối cùng, cái đích chính của những khát
khao mong đợi chính là "con tàu mang một chút thế giới khác đi qua", con tàu
chính là sứ giả của một thế giới khác, và Hà Nội chính là hiện thân cụ thể của
thế giới ấy.
Niềm khát khao mong đợi chuyến tàu đêm, cũng là niềm khát khao mong
đợi về một thế giới khác hẳn với cái thế giới mình đang sống, niềm khát khao về
một thế giới tươi sáng, tốt đẹp, đủ đầy, đưa chị em Liên ra khỏi cuộc sống tù
túng bó hẹp trong cái phố huyện nghèo nàn, chán nản với những ngày tàn, chợ
tàn và những kiếp người tàn. Đó là khát vọng đổi đời, dẫu còn mơ hồ nhưng lại
vô cùng sâu sắc, thiết tha và mãnh liệt, của những con người giai đoạn tháng
tám, ám ảnh hầu hết các nhà văn lúc bấy giờ.
Nhưng qua cảm nhận của Liên con tàu cũng chạy nhanh quá, nó mang đi
theo hết những ánh sáng rực rỡ, âm thanh náo nức, cuộc sống tốt đẹp đi về phía
xa để lại chị em Liên trong bóng tối, trong sự tĩnh lặng, trong sự nghèo khổ cơ
cực của phố huyện. Con tàu tượng trưng cho sự vỡ mộng, nỗi thất vọng dấy lên
từ một ước mơ mỏng manh, quá xa vời khó có thể trở thành hiện thực. Chuyến
tàu đi qua, trả lại một phố huyện yên lặng, thậm chí còn tăm tối, u buồn hơn, để
lại trong tâm hồn Liên những khoảng trống mênh mang mơ hồ. Từ đó nhà văn
Thạch Lam muốn gửi đến độc giả một thông điệp thật ý nghĩa rằng để có một
cuộc sống tươi đẹp, sung túc thì việc khát khao, mơ ước mãnh liệt là chưa đủ
mà con người ta cần phải có những hành động thực tế, những nỗ lực thay đổi
cuộc sống, nếu không ước mơ dẫu có đẹp đến mấy thì cũng mãi chỉ nằm trong
tưởng tượng.
Niềm khát khao mong đợi chuyến tàu đêm, Liên chuyển hướng tâm hồn
mình về một Hà Nội xa xăm, nơi mà Liên đã từng có cuộc sống ấm no sung túc,
gợi nhắc cô về một thời quá vãng xa xăm, về những ký ức tươi đẹp của tuổi thơ
đã mất. Song hành với những nuối tiếc quá khứ, thì chuyến tàu đêm lại càng
khiến Liên phải ý thức rõ ràng hơn về cuộc sống u ám, bế tắc của người dân nơi
phố huyện và của chính gia đình Liên nữa.
Trong tác phẩm Hai đứa trẻ Thạch Lam đã đi sâu vào khai thác tâm hồn
của nhân vật, của những đứa trẻ nghèo khổ, ý thức sâu sắc về cuộc sống cơ cực
nghèo khổ, là những cảm nhận tinh tế về bức tranh thiên nhiên làng quê Việt
Nam, là nỗi xót xa ái ngại trước những mảnh đời tàn. Qua đó nhà văn thể hiện
thái độ trân trọng những khát khao, hy vọng của con người về một cuộc sống tốt
đẹp hơn, đồng thời cũng truyền tải một thông điệp rằng muốn thay đổi cuộc
sống thì chỉ có khát khao, mong đợi thì không bao giờ là đủ, mà còn phải có cả
hành động thực tế biến ước mơ thành hiện thực.
Về nghệ thuật Thạch Lam đã thành công trong việc miêu tả những cung
bậc cảm xúc khác biệt trong tâm hồn của nhân vật Liên, văn phong trữ tình,
lãng mạn, sáng tạo nhiều hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng, kết hợp với phong
cách viết truyện mà không có cốt truyện đã làm nên thành công lớn cho cả tác
phẩm.
Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ
Bài làm 8
Thạch Lam nhà nhà văn với nhiều câu chuyện trữ tình, đi sâu vào lòng
người. Chỉ khi phân tích cảnh đợi tàu, bạn mới thấy ý nghĩa của cốt truyện, mà
tác giả truyền đạt. Tác phẩm “hai đứa trẻ” là sự nhạy cảm của Thạch lam trước
cảnh vật, làng quê nghèo và lòng người. Tác giả không đề cập đến những biến
cố, mà hầu hết là tình cảm, và chiều sâu tâm trạng. Cảnh chờ tàu của Liên và An
được Thạch Lam miêu tả chi tiết, tinh vi từng cảm xúc một.
Hai chị em Liên đợi tàu bởi vì “Mẹ vẫn dặn phải thức đến khi tàu xuống
– Ðường sắt đi ngang qua ngay trước mặt phố – để bán hàng, may ra còn có một
vài người mua”. Tuy nhiên, lý do mà chị em Liên đợi vì đoàn tàu đến mang theo
ánh sáng, người đông đúc của chốn đô thị. Bán hàng lúc tàu đến chỉ ít ỏi, “với
lại đêm họ chỉ mua bao diêm, hai gói thuốc là cùng”. Liên và An dù rất buồn
ngủ, chỉ ngồi trong bóng tối nhưng vẫn cố gắng đợi tàu đến.
Liên đợi chuyến tàu đêm như là một việc làm cuối cùng của ngày, lúc tối
muộn. Thực chất, Liên chỉ muốn thay đổi không khí của một ngày buồn bã, ảm
đạm, đoàn tàu mang sự vui nhộn tới. Không chỉ Liên, An cũng vậy, hầu hết các
đứa trẻ ở quê nghèo đều đợi tàu đến.
Qua đây chúng ta thấy Liên là người chị mẫu mực. Trước khi tàu đến, An
buồn ngủ, “mí mắt sắp sửa rơi xuống”. Tuy nhiên, em vẫn cố dặn chị Liên “tàu
đến chị đánh thức em dậy nhé”. Liên ngồi im ỉm trong bóng đêm và mong
ngóng, tập trung chờ đợi tàu. Hình ảnh “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma
trơi” là dấu hiệu quen thuộc báo tàu đến. Từ xa, Liên nghe được tiếng còi và
đánh thức An dậy. Liên gọi An với tâm thế vội vàng, cuống quýt, giục giã, chỉ
trễ 1 chút sẽ bị bỏ lỡ. An nhanh chóng dậy với động thái ngây thơ là “lấy tay dụi
mắt” rất đáng yêu.
Liên và An vô cùng háo hức, đợi tàu đến như đang chờ một điều gì đó
mới mẻ, tươi sáng hơn. Sau một ngày dài ảm đạm, đêm đến bóng tối bao phủ,
đoàn tàu đến mang lại ánh sáng, hy vọng lớn. Khi tàu đến “Liên dắt em đứng
dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường.
Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người,
đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Đoàn tàu “vụt qua” chỉ trong thời
gian ngắn, ánh sáng bao phủ, 2 chị em chỉ kịp thoáng nhìn.
Đoàn tàu chỉ đi ngang, thoáng qua nhanh chóng, nhưng mang đến những
điều khác biệt. Mỗi ngày 2 chị em đều chờ tàu, An còn hỏi “tàu hôm nay không
đông, chị nhỉ?”. Câu hỏi thể hiện sự so sánh, chú ý kỹ, tập trung nhất mỗi khi
tàu qua để nhìn hết được. Tuy nhiên, Liên không trả lời câu hỏi của An, cảm
xúc của cô vẫn còn xao xuyến. Đoàn tàu làm Liên mơ về Hà Nội, nơi rất xa
xăm, giàu sang, ánh sáng rực rỡ. Qua đó chúng ta thấy Liên càng thêm chán
nản, ngán ngẩm cuộc sống của cô.
Đoàn tàu mang đến cho 2 chị em Liên hy vọng hơn về tương lai tốt đẹp,
rực rỡ, vui tươi. 2 cô gái luôn mơ mộng về một cuộc sống mới năng động, vui
sướng. Khi tàu đi “Tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ dần, và mất dần trong
bóng tối, lắng tai cũng không nghe thấy nữa”. Liên và An lại trở về với nỗi
buồn, tiếp tục hy vọng tàu đến vào ngày mai. Niềm vui, sự chờ đợi mỏi mòn của
2 chị em chỉ đến và đi trong nháy mắt.
Phố huyện lại im ắng, chìm trong màn đêm u tối, Liên và An đi vào giấc
ngủ quên. Liên vẫn mang trong trình tâm trạng tiếc nuối, suy nghĩ lan man về
cuộc sống hiện tại. Cảnh đợi tàu của 2 chị em liên nói riêng và hoàn cảnh của cả
phố huyện nghèo nói chung giống nhau.
Cảnh đợi tàu của Liên và An có rất nhiều ý nghĩa, tác giả muốn nói về
ước mơ của những người dân nghèo. Họ luôn khao khát, chờ đợi, mơ về một
cuộc sống tốt, ý nghĩa hơn. Thạch Lam đã miêu tả rất lãng mạn. Đoàn tàu là
điểm nhấn của cả một bài văn, làm cho tâm lí nhân vật thêm đa dạng.
Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ
Bài làm 9
Hai đứa trẻ là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Từ
những chuyện dường như không có gì đáng kể, nhà văn đã đề cập một cách tinh
tế, kín đáo mà sâu sắc những vấn đề thiết thực đối với con người và xã hội.
Ngòi bút Thạch Lam đã dành cho những số kiếp lầm than một tình cảm xót
thương. Và đặc biệt chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện trở thành hình ảnh đầy
ý nghĩa, phần nào thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Những ai đã đọc Hai
đứa trẻ chắc không quên hình ảnh này vì chính nó là biểu hiện của nỗi khát khao
cho những người như chị em Liên. Hình ảnh chị em Liên đêm đêm cố thức đợi
tàu trở thành nỗi ám ảnh trong lòng người khi gấp lại trang cuối tác phẩm.
(Vì sao cố thức để đợi tàu?) Bối cảnh cho chuyến tàu đêm xuất hiện là
cuộc sống quẩn quanh nơi phố huyện trong thời gian chiều về tối và khuya
vắng. Từ buổi chiều với nỗi buồn man mác, cảnh vật cứ đi dần vào màn đêm
với bóng tối dày đặc đè nặng lên bao mảnh đời đáng thương. Cuộc sống buồn
chán, một nỗi buồn chán mơ hồ, không nguyên cớ cứ đan kín, tràn ngập nỗi
niềm thấm thía.
Trong đêm tối mênh mông của ga xép quạnh quẽ, các nhân vật hiện ra
như những mảnh đời nhỏ bé, âm thầm. Các nhân vật yên lặng nhiều hơn cử
động, nghĩ nhiều hơn nói. Họ tựa hồ như cái bóng âm thầm trong bóng đêm
rộng lớn vô cùng. Họ đang hiện ra trong cái bóng đêm của kiếp người, hiện ra
trong cái bóng tối lờ mờ của những ngọn đèn không đủ sáng. Trong thế giới
lặng thầm và có nguy cơ chìm khuất ấy liệu có gì khuấy động và níu giữ được
không. Ấy có thể chỉ là đoàn tàu! Trên nền cảnh ấy, Thạch Lam đã khắc họa
thấm thía tâm trạng khắc khoải đợi chuyến tàu đêm của hai đứa trẻ
Liên và An đã có những ngày hạnh phúc khi gia đình còn sung túc ở Hà
Nội. Giờ đây cuộc sống của chúng thiếu hẳn ánh sáng và niềm vui. Ngày lại
ngày chúng quanh quẩn bên cửa hàng tạp hóa, bán cho khách những món hàng
lặt vặt không hề thay đổi: bao diêm, phong thuốc lá, bánh xà phòng, cuộn chỉ,
cây kim. Chiều chiều, trong ánh hoàng hôn nhập nhoạng, Liên ngồi kiểm lại
những đồng tiền vụn thu được trong ngày giữa tiếng muỗi vo ve. Cuộc đời của
hai đứa trẻ đơn điệu, nhàm chán làm cho chúng chưa lớn đã sớm già nua, tàn tạ
như chiếc chõng tre mà chúng bê ra ngoài cửa hàng ngồi mỗi chiều để thấm thía
nỗi buồn tẻ nơi phố huyện. Hằng ngày chỉ quanh quẩn lặp lại với ngần ấy người
tàn tạ, khốn khổ.
Những đứa trẻ ngây thơ bé bỏng ấy biết làm gì để thay đổi số phận của
chúng. Chúng chẳng thể làm được gì ngoài việc quay về bốn phía, ngẩng lên
nhìn trời cao tìm mọi nguồn sáng tưởng như cuộc đời đỡ tăm tối hơn. Mỗi
nguồn sáng xuất hiện như mốc thời gian đưa chúng đến gần với cái điều mà
chúng mong đợi, khát khao nhất: chuyến tàu chở ánh sáng từ Hà Nội, dừng lại ở
ga xép phố huyện trong chốc lát. Chúng đã chờ đợi chuyến tàu suốt một ngày
buồn tẻ của mình. Khắc khoải chờ từ lúc bóng chiều âm thầm đổ xuống, từ lúc
tiếng trống vang lên và chân trời phía tây rực lên như lò than hồng. Chúng vui
mừng khi thấy chị Tí thắp lên ngọn đèn hoa kì trên chõng nước, khi đốm lửa ở
gánh phở của bác Siêu hiện ra, gia đình bác xẩm lục tục kéo ra. Với các em, đó
là những bước đi cụ thể của thời gian đưa hai chị em nhích dần đến với chuyến
tàu, đến với niềm vui mong đợi. Mỗi đêm chỉ có một chuyến tàu từ Hà Nội về.
Mỗi chuyến tàu chỉ dừng ở ga xép ít phút…nên không thể bỏ lỡ. Bởi thế, cả
Liên và An dù đã buồn ngủ ríu mắt vẫn cố chống đỡ cơn buồn ngủ tự nhiên của
trẻ, vẫn kiên nhẫn đợi chờ. Sự chờ đợi thật tha thiết, cảm động.
Có một nguyên cớ sâu xa từ đáy tâm hồn của hai đứa trẻ. Chính nhà văn
Thạch Lam đã xót thương cho những cuộc đời bé nhỏ này, chính cảm xúc trìu
mến muốn hóa thân vào nhân vật đã khiến nhà văn cảm thông, lắng nghe khát
vọng âm thầm với tất cả tình thương. Đó cũng chính là một quãng đời Thạch
Lam như lời người chị đã viết “Tôi không ngờ em Sáu có trí nhớ dai thế, như
truyện em tôi tả hai chị em thức đợi chuyến tàu đêm qua rồi mới đi ngủ. Năm đó
tôi mới có chín tuổi, em tôi lên tám”. Thạch Lam thấu hiểu và trân trọng nỗi chờ
đợi ấy nên đã dành những trang viết sinh động, miêu tả tỉ mỉ hình ảnh chuyến
tàu. Chuyến tàu tuy còn ở trong màn đêm nhưng tự nó báo trước bằng tiếng còi
từ xa vọng lại trong đêm khuya kéo dài theo ngọn gió xa xôi. Trước đó, người
bẻ ghi đã ra với chiếc đèn có ánh lửa xanh biếc sát mặt đất chập chờn như ma
trơi. Người chờ tàu đã xôn xao. Hai người trong hiệu khách cầm đèn lồng lung
lay cái bóng dài đi đón bà chủ ở tỉnh về.
Đoàn tàu được đón từ xa với ngọn đèn xanh biếc và tiếng còi vang lại.
Rồi đoàn tàu “rầm rộ đi tới”, tiếng còi rít lên. Âm thanh của còi tàu, của bánh xe
rít trên đường ray, tiếng ồn ào của hành khách át đi bản hòa tấu đều đều buồn tẻ
của phố huyện. Con tàu tác động một ấn tượng mạnh mẽ, đưa cả phố huyện ra
khỏi cảnh sống tăm tối, tù đọng, u uẩn dù chỉ trong chốc lát. Vì vậy con tàu trở
thành nhu cầu, thành niềm khao khát chờ đợi của người dân phố nghèo. Khi tàu
đến An đã “nhổm dậy” “tỉnh cả người” và Liên “dắt em đứng dậy” để quan sát
kĩ từng chi tiết “tiếng dồn dập” đến làn khói trắng rồi những “toa”, “người”,
“đồng và kền” lấp lánh. Hình như hai chị em muốn thu lấy tất cả hình ảnh, âm
thanh, ánh sáng của đoàn tàu. Hai đứa trẻ bị đoàn tàu hút hồn. Đoàn tàu tiếp tục
cuộc hành trình. Hai đứa trẻ như bị hút theo những đốm lửa than bay tung trên
đường sắt, cái chấm nhỏ của đèn xanh treo ở toa cuối xa dần rồi khuất hẳn sau
lũy tre làng…Giờ đây, tương phản với đoàn tàu rực sáng như sao băng vừa vụt
qua lại là màn đêm và cuộc sống tẻ nhạt của phố huyện.
Từ cái nhìn rồi mơ tưởng trông theo con tàu đã khuất, phải chăng những
con người nơi phố huyện đang có khát vọng muốn thoát ra cái không khí tối
tăm, bế tắc, nuôi niềm hi vọng về một cái gì khác với thế giới buồn chán. Đoàn
tàu như tia chớp. Tàu đến rồi đi, nó thuộc về một thế giới khác với luồng ánh
sáng chói lòa, với âm thanh vang vọng. Chuyến tàu còn mang nét xa xăm, là
giấc mơ huyền ảo, là niềm khát khao, là nhu cầu tinh thần không thể thiếu.
Người ta có thể đói nghèo nhưng không thể không có những ước mơ, không thể
thiếu những ước ao, hoài vọng.
Không chỉ là cuộc sống xơ xác quạnh hiu với những nhân vật nhỏ bé
trong vùng ánh sáng tù mù, Thạch Lam còn muốn khắc sâu ấn tượng về chuyến
tàu khi đề cập đến tâm trạng thiết tha của hai tâm hồn ngây thơ. Liên phải cố
gượng để thức khuya, còn An vì chờ đợi quá lâu trong không khí phố huyện
buồn tẻ đã không thể thức được nữa, gối đầu lên tay chị, mi mắt sắp sửa rơi
xuống còn dặn với “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Sự chờ đợi thật tha
thiết. Tác giả muốn nói với người đọc về những tâm hồn trẻ thơ khao khát ánh
sáng đến mức độ nào.
(Ý nghĩa biểu tượng của đoàn tàu) - Đoàn tàu tượng trưng cho một niềm
vui, niềm chờ đợi nơi phố huyện, những kiếp sống nhỏ nhoi như chị Tý, …Cố
thức để nhìn chuyến tàu đi qua, vì để có một cái gì đó khác thường. Đoàn tàu là
niềm vui duy nhất để giải tỏa tâm lí sau một ngày đơn điệu và buồn chán. Ánh
sáng, sự giàu sang, náo nhiệt…đã đem lại cho những con người tội nghiệp một
chút dư vị, dư âm lạ. Con tàu với âm thanh, ánh sáng và màu sắc khác lạ tượng
trưng cho “một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái quầng sáng ngọn
đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Phải chăng đó là “niềm mong đợi một
cái gì đó tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Với người dân
phố huyện đoàn tàu là hơi hướng mới lạ của một thế giới rực rỡ, kiêu sa văn
minh và hạnh phúc đối lập với sự tối tăm, lạc hậu của phố huyện. Nó khơi dậy
ánh sáng, niềm tin, ước mơ về cuộc sống mới tốt đẹp, hạnh phúc, no đủ.
Đoàn tàu ấy là hiện thân của dĩ vãng, hoài niệm đẹp đẽ. “Liên lặng theo
mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Liên và An
đã từng sống nhưng ngày phong lưu ở Hà Nội…Con tàu là hiện thân của ánh
sáng kỉ niệm thời thơ ấu mà Liên còn lưu giữ, nâng niu. Với chị em Liên đó là
tia hồi quang gợi nhớ về Hà Nội với quá khứ êm đềm, hạnh phúc, là niềm an ủi
duy nhất để chị em Liên không đắm trong công việc mưu sinh làm cằn cỗi, khô
héo tâm hồn. Con tàu nối liền quá khứ, hiện tại và tương lai. Qua đó cho ta thấy
những con người phố huyện tuy nghèo nhưng họ vẫn sống chân thành, yêu tha
thiết cuộc sống. Thạch Lam trân trọng, nâng niu khát vọng vươn ra ánh sáng,
vượt thoát khỏi cuộc sống tù túng, quẩn quanh, không cam chịu hiện tại tầm
thường, nhạt nhẽo đang vây quanh của người dân phố huyện. Qua đó ông gửi
gắm thông điệp: đừng bao giờ để cuộc sống bị nhấn chìm, hãy sống cho ra sống,
phải có khát vọng xây dựng cuộc sống tốt đẹp. Đó chính là giá trị nhân văn,
nhân bản đáng quý của truyện ngắn này.
So với toàn truyện, Thạch Lam đã dành vài đoạn rất ngắn để tả đoàn tàu.
Thật ra không đối xứng và chính sự không đối xứng này góp phần thể hiện ý
nghĩa tác phẩm. Tâm trạng thiết tha đợi tàu là bằng chứng nói lên cuộc sống
người dân phố huyện quá mòn mỏi, buồn chán, tội nghiệp. Đây là chủ đề nhức
nhối trong các trang viết của Nam Cao. Phải chăng tất cả đang sống trong cái ao
đời bằng phẳng với nhịp điệu quanh quẩn như bài thơ của Huy Cận.
Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người
Vì quá quen nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại cũng chỉ ngần ấy chuyện
May sao cuộc sống vẫn còn một chút sáng rực, huyên náo đêm đêm để
đem theo niềm vui. Những người dân phố huyện vẫn chờ đợi và hi vọng một cái
gì sẽ đến như chúng ta đã bao nhiêu lần chờ đợi trong đời. Ai chẳng chờ đợi hy
vọng chuyến tàu cuộc đời mình nên đọc “Hai đứa trẻ” ta thấy dư vang nỗi lòng
Thạch Lam. Đó chính là niềm xót thương vô hạn đối với những kiếp người
không bao giờ biết ánh sáng và hạnh phúc. Riêng đối với Liên, nhà văn muốn
nói với chúng ta rằng chuyến tàu luôn luôn đánh thức tâm hồn cô, vẫn cùng cô
hướng tới tương lai, biết vượt qua cái tẻ nhạt hàng ngày để ước mơ. Đó là tấm
lòng đồng cảm của tác giả, như một tiếng nói tha thiết hãy cứu lấy cuộc sống
con người, đặc biệt là những đứa trẻ.
Qua những cuộc đời, qua tâm trạng đợi tàu đó Thạch Lam làm sống dậy
những số phận của một thời, họ không hẳn là những kiếp người bị áp bức bóc
lột. Nhưng từ cuộc đời ấy Thạch Lam gợi cho người đọc sự thương cảm, trân
trọng ước mong vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn của họ. Vì vậy tác phẩm vừa có
giá trị hiện thực vừa có giá trị nhân đạo.
Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ
Bài làm 10
Tuổi thơ là những ngày tháng đầy ắp kỉ niệm về những lần chờ đợi. Có ai
mà không từng chờ đợi kì nghỉ hè để được chơi thỏa thích, chờ đợi đêm giao
thừa để được quần áo mới hay đơn giản hơn là chờ đợi vài viên kẹo mỗi khi bà
đi chợ về. Có chờ đợi nên chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được sự hồi hộp, háo hức, hi
vọng của chị em Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ. Bao nhiêu nỗi niềm vui
buồn của tuổi thơ và cả những khát vọng đời thường của con người được Thạch
Lam gửi gắm hết vào cảnh đợi chờ chuyến tàu đêm từ Hà Nội qua phố huyện
nghèo của chị em Liên.
Câu chuyện mở ra bằng âm thanh của tiếng trống thu không văng vẳng và
cảnh tượng buổi chiều tan chợ của một phố huyện nhỏ. Cảnh tượng gợi trước
mắt người đọc một không gian chật hẹp, nhỏ bé với những con người cũng lầm
lũi, đáng thương. Nơi ấy, có hai chị em Liên và An vẫn ngày ngày ngồi bên gian
hàng tạp hóa nhỏ trông hàng cho mẹ. Nơi ấy, mỗi chiều buông xuống, tiếng ếch
nhái gọi nhau buồn tẻ, tiếng muỗi vo ve nao lòng. Cái âm thanh vốn ít ỏi, nhỏ
bé ấy lại lọt thỏm vào màn đêm dày đặc. Bóng tối mỗi lúc mỗi phủ lấy mọi
không gian, nó dày đặc, mịt mù khiến “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái
buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ..”Phố huyện nghèo
chốc lát bỗng thu nhỏ lại bên gian hàng nước của chị Tí. Cả ngọn đèn thưa thớt
của chị Tí và bếp lửa của bác Siêu cũng không đủ sức xua đi phần nào cái bóng
tối bao trùm.
Chị em Liên ngồi đấy, thu mình và đưa đôi mắt nhỏ bé ướt át để trông
chờ con tàu Hà Nội. Phải rồi, chính là Hà Nội, nơi mà ngày xưa chị em Liên có
cuộc sống sung túc cùng ba mẹ. Cái “vùng sáng rực và lấp lánh” ấy trong kí ức
hai chị em như được dát bằng vàng, bằng thứ vàng sáng vừa thực nhưng vừa ảo
diệu. Hà Nội đẹp và yên bình, không như cuộc sống buồn tẻ bên những kiếp
người tàn mà hai đứa trẻ đang sống. Sự lầm lũi trở đi trở lại mỗi ngày khiến họ,
những con người đã từng hi vọng trở thành những cái bóng bị khuất mờ bởi
màn đêm.
Có thể Liên may mắn hơn chị Tí, bác Xẩm, bác Siêu vì em còn có một kí
ức tươi đẹp về vùng sáng để mà có những phút giây tưởng nhớ và mơ mộng.
Thế nhưng điều đó cũng mang lại cho em nỗi buồn lặng lẽ. Khi con người ta
biết hạnh phúc và vui sướng thì cái cảm giác buồn tẻ sẽ càng nặng nề hơn một
người suốt đời chưa có ngày thoát ra khỏi cái buồn. Tâm hồn của hai đứa trẻ
vốn nhạy cảm, thơ ngây nên việc mơ mộng và khao khát là điều chính đáng. Lý
do để hai chị em đợi đoàn tàu dù cả hai mắt đã ríu lại không phải để bán thêm ít
hàng hoặc mong đợi một món quà nào của những người thân. Điều Liên và An
chờ đợi chính là ánh sáng của Hà Nội đoàn tàu mang theo, đó là quá khứ vui vẻ
cũng là tuổi thơ mà lẽ ra hai chị em được sống. Với hai chị em, đoàn tàu chưa
qua có nghĩa là hoạt động cuối cùng trong ngày chưa kết thúc.
Không nhiều suy tư như chị mình vì An còn là cậu bé ngây thơ, duy chỉ
có sự háo hức mong chờ là không mất đi dù cho đêm đã quá khuya. An nhiều
lần căn dặn chị gọi mình khi tàu đến và chi tiết “An nhổm dậy, lấy tay dụi mắt
cho tỉnh hơn” đã bộc lộ sự trưởng thành của đứa trẻ sớm phải xa rời cuộc sống
êm ấm thị thành. An không như những đứa trẻ hay nhõng nhẽo, phụng phịu mỗi
khi người lớn gọi dậy trong cơn mê ngủ. Với em, con tàu còn hơn cả giấc ngủ
ngon. Chỉ có niềm say mê lớn lao mới đủ sức khiến một đứa trẻ chờ đợi bằng cả
hi vọng như thế. Hiểu được tâm lý của hai chị em An và Liên, Thạch Lam đã
chứng tỏ mình là người tinh tế, nhạy cảm và hơn hết là hiểu được tâm lí, tính
cách của trẻ em.
Tín hiệu đầu tiên làm Liên nhận ra đoàn tàu không phải là đèn ghi hay
tiếng máy xe xình xịch mà là “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi”.
Ngọn lửa sáng ấy chính là ánh sáng mà Liên khao khát, mong chờ. Cuối cùng
sự chờ đợi ấy đã đến, hai chị em dồn mọi giác quan để được nghe, nhìn và cảm
nhận đoàn tàu đang tiến về phía trước. Đáp lại sự mong đợi ấy, đoàn tàu như
hiểu được tình cảm của những con người nơi phố huyện nên cứ nấn ná, chậm
chạp. Con tàu hữu tình hay chính tấm lòng của nhà văn đã thổi niềm ưu ái vào
số kiếp của những con người bé nhỏ. Cứ thế đoàn tàu hiện ra rõ ràng trước đôi
mắt háo hức của Liên và An “các toa đèn sáng trưng, chiếu sáng cả xuống
đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng, lố nhố những
người đồng và kền lấp lánh..” Ngoại trừ ánh sáng của ngọn đèn dầu và bếp lửa
hiu hắt đầu truyện thì cho đến khi đoàn tàu xuất hiện, cái ánh sáng rực rỡ mới
thật sự xuất hiện. Ánh sáng nhiệm màu ấy dù đến trong phút chốc nhưng mới
thật sự đủ sức xua đi bóng đêm u ám bao trùm cả tác phẩm.
Trong phút chốc, cả phố huyện không chỉ bừng sáng mà còn nhộn nhịp
bởi âm thanh vui vẻ từ toa tàu “tiếng còi rít lên, tiếng hành khách ồn ào”. Cái
âm thanh nhộn nhịp của thành thì mà đoàn tàu mang đến khác hẳn với cuộc
sống im lặng, đơn điệu của xóm huyện nghèo. “Chừng ấy người trong bóng tối
mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ”. Thế rồi khi con
tàu khuất dần sau rặng tre chỉ để lại những chấm sáng nhỏ cũng là lúc một ngày
khép lại. Bao nhiêu sự mong chờ, nuối tiếc và ước vọng đều theo thứ ánh sáng
ấy ra đi.
Thạch Lam đã rất thành công khi khắc họa trạng thái tâm lý của hai đứa
trẻ thông qua cảnh chờ đợi chuyến tàu đêm. Kết hợp với giọng văn nhẹ nhàng
đậm chất thơ, câu chuyện vẽ nên một bức tranh về hai đứa trẻ và những con
người bé nhỏ nơi phố huyện nhưng bị chìm lặng trong bóng tối. Hình ảnh con
tàu mang ánh sáng Hà Nội là tấm lòng mà nhà văn dành cho những kiếp người
lẻ loi như bị lãng quên. Nhà văn ước muốn đều họ mong mỏi là thoát khỏi cuộc
sống tẻ nhạt, u tối. Thông qua chi tiết chờ đợi con tàu, Thạch Lam muốn thức
tỉnh lòng khát sống của những tâm hồn đang uể oải vì thời cuộc. Điều đáng sợ
không phải là không có gì để hi vọng và chờ đợi mà là không dám hi vọng và
chờ đợi.
Dù sáng tác trong trào lưu văn học lãng mạn nhưng Thạch Lam lại hướng
đến những kiếp người nhỏ bé, đơn độc. Thông qua việc xây dựng thành công
hai nhân vật Liên và An trong cảnh đợi chuyến tàu đêm, nhà văn đã thể hiện
được tư tưởng nhân văn và tấm lòng nhân đạo của mình. Chẳng còn An và Liên
cùng chuyến tàu đêm nữa nhưng đâu đó trong cuộc đời cần lắm thông điệp của
Thạch Lam để vực dậy những kiếp người lẻ loi, bất hạnh “hãy thắp ngọn lửa hi
vọng cho mỗi cuộc đời dù đó chỉ là ngọn lửa nhỏ bé trong phút chốc”.
Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ
Bài làm 11
Dù chỉ xuất hiện trên văn đàn vẻn vẹn có 5 năm nhưng Thạch Lam sớm
khẳng định là một cây bút truyện ngắn độc đáo. Sinh thời, ông từng quan niệm
”Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, lẩn khuất khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở
mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở những chỗ
không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật để cho người đọc
trông nhìn và thưởng thức”. Rút ra từ tập truyện ngắn “Nắng trong vườn”, “Hai
đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách độc đáo không trộn lẫn của
Thạch Lam. Đến với “Hai đứa trẻ” độc giả ai ai cũng thấy cảnh đợi tàu là sự
kiện tiêu biểu nơi ngòi bút của Thạch Lam thăng hoa.
Tuy là thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và là em ruột của Nhất
Linh, Hoàng Đạo nhưng sáng tác của Thạch Lam đi theo hướng riêng khá mới
mẻ. Ông dành tình cảm, tấm lòng xót thương cho những lớp người nghèo trong
xã hội thời bấy giờ. Ngòi bút của Thạch Lam thường đi vào những trạng thái
cảm xúc mơ hồ, tinh tế của con người. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn không có
truyện. Toàn bộ câu chuyện diễn ra như một thước phim chậm rãi về một phố
huyện nghèo xung quanh chị em Liên vào một buổi chiều tối mùa hè. Không có
thắt nút, không có mở nút nhưng truyện ngắn dễ dàng đi vào tâm trí người đọc
bởi một nỗi buồn sâu lắng mà rất đẹp - vẻ đẹp của một cuộc sống bình thường
được Thạch Lam khám phá ra. Đặc biệt nhất là cảnh đợi tàu trong truyện ngắn.
Dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng đêm nào, Liên và An cũng cố thức đợi
chuyến tàu khuya từ Hà Nội về. Tại sao vậy? Để bán hàng theo lời mẹ dặn?
Hoàn toàn không phải vậy. Hai chị em Liên cố thức không phải để mở hàng đón
khách như bao người buôn bán khác trên sân ga, trái lại hai chị em đóng cửa
hàng, chờ tàu là vì cớ khác. Vậy thì là gì? Phải chăng vì hai chị em học muốn
được nhìn thấy chuyến tàu - là sự hoạt động của cuối cùng của đêm khuya. Có
lẽ vậy, và cũng bởi vì con tàu như đem một thế giới khác đi qua, một thế giới
khác hẳn với vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của Bác Siêu. Phố
huyện chìm trong màn đêm tối tăm, lụi tàn, nghèo nàn, mòn mỏi thì con tàu như
đem một thế giới sáng rực, giàu sang, vui vẻ và huyên náo. Vì con tàu như đem
một thế giới khác đi qua, chị em Liên lặng lẽ đón đợi tàu với bao xúc cảm vừa
bâng khuâng, mơ hồ, vừa hồi hộp, háo hức. Chị em Liên đón đợi chuyến tàu
như đón đợi phút giây giao thừa thiêng liêng mỗi khi Tết đến, xuân về. Cậu bé
An buồn ngủ, mí mắt sắp sửa rơi mà vẫn còn dặn chị: “Tàu đến, chị gọi em thức
dậy nhé!”. Còn Liên ngồi yên không động đậy ngắm sao trời lấp lánh và hoa
bàng khẽ rơi, tâm hồn Liên tỉnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ, không hiểu.
Dường như cô bé đã hoàn toàn bứt mình ra khỏi cuộc sống mưu sinh cơ cực để
đắm vào thế giới thần tiên, mộng mơ.
Nhìn thấy ánh đèn ghi từ xa, nghe tiếng còi vọng lại, Liên đã vội đánh
thức em dậy: “Dậy đi, An. Tàu đến rồi!” Lời gọi đầy hối thúc, giục dã vang lên
như tiếng reo vui hồ hởi. Rồi tiếng còi rít lên, tàu rầm rộ đi tới, cả phố huyện
bừng lên, sáng rực rỡ, sôi động, sang trọng, Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn
xe vụt qua. Hai chị em háo hức muốn hòa mình vào thế giới đông vui náo nhiệt
ấy. Càng háo hức bao nhiêu, hai đứa trẻ càng ngẩn ngơ khi thấy tàu vượt qua
bấy nhiêu. Chuyến tàu đi vào đêm tối, hai chị em vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ
của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng rồi ra xa mãi, khuất sau rặng tre. Con tàu
từ Hà Nội về thực sự đã hút hồn chị em Liên. Tàu qua, An băn khoăn nghĩ ngợi;
“Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?”. Còn Liên thì mơ hồ lặng theo mơ tưởng.
Dẫu chuyến tàu không vui như mọi khi, thưa vắng người qua lại và hình như
kém sáng hơn bình thường nhưng cô bé vẫn hân hoan vui sướng bởi con tàu ở
Hà Nội về. Con tàu đã đưa Liên trở về tuổi thơ êm đềm, thời quá khứ ngọt ngào
của tuổi thần tiên, đồng thời thức dậy trong cô bé, niềm tin vào một tương lai
tươi sáng.
Đêm nào, Liên và An cũng thao thức, hồi hộp đợi tàu. Trong con mắt của
không ít người, đó là việc bâng khuâng, không đâu thậm chí lẩn thẩn, vô nghĩa.
Thế nhưng với trái tim giàu lòng trắc ẩn, Thạch Lam đã phát hiện ra những tâm
sự sâu kín, những khát khao lãng mạn của hai chị em. Đợi tàu trở thành một nếp
sống, một nhu cầu tinh thần không thể thiếu. Đợi tàu để được trở về thời quá
khứ dịu êm, ngọt ngào của tuổi hồn nhiên, ngây thơ. Đợi tàu để được cháy lên
khát vọng mãnh liệt, mạnh mẽ, táo bạo: khát vọng đổi đời. Khát vọng ấy như
mầm cây tươi non mọc lên trên vùng đất cằn cỗi, như ánh sao nhỏ nhoi lấp lánh
mãi trên bầu trời đen thẳm không cùng. Qua việc tả cảnh đợi tàu, Thạch Lam
thể hiện thái độ vừa cảm thương xót xa trước cuộc sống lay lắt, bế tắc của
những kiếp người nhỏ bé, nhất là những đứa trẻ, vừa nâng niu vừa trân trọng,
khát vọng vươn ra ánh sáng, khát vọng đổi đời của những con người ấy. Từ
cuộc sống của con người nơi phố huyện, trang văn của Thạch Lam còn rung lên
tiếng nói tha thiết có sức lay tỉnh sâu xa trong tâm hồn người đọc: Hãy cứu lấy
những đứa trẻ! Hãy thay đổi cuộc sống bế tắc này đi!. Làm thế nào để cho trẻ
thơ được sống trong hi vọng giống như những chồi non xanh biếc căng tràn
nhựa sống trên cành mà không phải chỉ tồn tại rồi tài lụi đi trong miền đất chết.
Có thể thấy, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chân thực, sinh động, giàu giá trị hiện
thực mà thấm đẫm cảm xúc nhân văn cao quý, dào dạt chất thơ lãng mạn. Đọc
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam ta bất giác nhớ đến “Cô bé bán diêm” của An-
đéc-xen. Họ là hai nhà văn thuộc về hai đất nước, hai thời đại khác nhau nhưng
cùng đồng điệu trong tiếng nói yêu thương nhân văn vì trẻ thơ.
Cảnh đợi tàu cũng là cảnh khép lại thiên truyện vừa nhẹ nhàng, lắng đọng
của Thạch Lam. Đó là một cảnh tượng sẽ ám ảnh mãi trong tâm trí người đọc.
Khép lại tác phẩm, ta vẫn thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương ấm
áp mà sâu kín, về những tình cảm trắc ẩn bình dị mà sâu xa. “Hai đứa trẻ” thực
sự đã hoàn thành sứ mệnh của văn chương chân chính khi khơi gợi của người
đọc tình cảm trong sáng và giàu ý nghĩa nhân văn.
Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ
Bài làm 12
Trở về những năm 30-45 của thế kỉ trước, trào lưu văn học lãng mạn
dường như đã khẳng định được vị thế của mình trên văn đàn văn học Việt Nam
với hàng loạt những cây bút tên tuổi. Ta đã từng bắt gặp một Nhất Linh đau
khổ, dằn vặt trên con đường đi tìm lý tưởng, hạnh phúc; một Khái Hưng sôi nổi
yêu đời để hòa mình vào những ảo tưởng đẹp đẽ và ngây thơ hay một Thanh
Tịnh mang trong mình vẻ đẹp đằm thắm, trong trẻo đậm chất lãng mạn thì
Thạch Lam lại hiện lên như một thiên sứ mang một sứ mệnh đặc biệt với phong
cách hoàn toàn mới lạ. Người con của tự lực văn đoàn không đưa ta đến những
chân trời phiêu du, mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng thường thấy
trong trào lưu lãng mạn mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đang sống. Con người
dịu dàng nhân ái ấy đã nguyện gắn ngòi bút của mình với những kiếp người đau
khổ, vẫn luôn trân trọng sự sống nơi trần gian. Ông từng nói rằng: “Cái đẹp man
mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm
thường. Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp của sự
vật” Và có lẽ nhờ vào khát khao đi tìm cái đẹp ấy đã là nguồn cảm hứng để ông
sáng tác truyện ngắn “Hai đứa trẻ” - áng văn xuôi đặc sắc của nền văn học Việt
Nam trước Cách mạng. Đặc biệt trong tác phẩm, cảnh đợi chuyến tàu đêm của
hai chị em Liên chính là nơi kết tinh những giá trị nghệ thuật sâu sắc và tiến bộ
được Thạch Lam thể dưới ngòi bút đầy nhân đạo và trữ tình.
Câu chuyện không có một tình huống thật li kì, một mâu thuẫn thắt nút
cần giải quyết như nhiều truyện ngắn khác. Cái làm nên sức hấp dẫn của truyện
ngắn Thạch Lam là những rung động tinh vi, những biến động thầm lặng mà
mãnh liệt trong diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên đã gieo vào lòng người
đọc nỗi băn khoăn, day dứt về kiếp người, về những thân phận bé mọn luôn
khát khao được thay đổi. Thạch Lam không chọn một điểm nhìn bên ngoài, ông
quan sát từ bên trong nội tâm nhân vật bằng cách hóa thân vào Liên - một cô bé
mới lớn, nhạy cảm, nhân hậu và giàu mơ ước. Dưới lăng kính hiện thực, phố
huyện hiện lên trong thời gian ngắn ngủi bắt đầu từ lúc chiều tàn cho đến lúc
đêm khuya, sự tương phản giữa tĩnh và động, tối và sáng, giữa nếp sống ảm
đạm nơi phố huyện nghèo với khoảnh khắc huyên náo khi đoàn tàu qua giúp
cho chủ đề của tác phẩm được thể hiện một cách ấn tượng.
Thạch Lam đã dồn bút lực để tạo dựng tình tiết cuối cùng của thiên
truyện. Đó chính là điểm sáng nhân, văn tạo nên giá trị của tác phẩm. Dù khắc
khoải, buồn bã với kiếp sống quẩn quanh, Liên cũng như biết bao con người
trong bóng tối, trong cái phố huyện nghèo nàn kia vẫn luôn có một niềm hy
vọng mơ hồ, họ mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống ảm đạm
hằng ngày của họ. Niềm hy vọng mong manh được Thạch Lam khéo léo gửi
gắm qua chuyến tàu cuối cùng từ Hà Nội chạy qua phố huyện để lại trong ta biết
bao xúc cảm.
Không chỉ có chị em Liên mà tất cả những người dân nơi phố huyện
nghèo đều đợi chuyến tàu đêm đi ngang qua. Với những người dân trong phố
huyện, họ chờ tàu để bán hàng, để thêm vào cuộc sống mưu sinh hằng ngày vài
đồng lẻ ít ỏi, nhưng với Liên và An, họ thức chờ tàu vì nguyên nhân sâu xa hơn.
Trước hết đây là những đứa trẻ ngoan ngoãn biết vâng lời, chúng làm theo đúng
lời mẹ dặn, cố thức đợi tàu để xem có ai mua gì nữa không. Nhưng Liên “không
trông mong còn ai đến mùa nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói
thuốc là cùng”, dường như việc chờ tàu hằng đêm của Liên và Anh không hoàn
toàn xuất phát từ nhu cầu của đời sống vật chất mà hầu như chỉ xuất phát từ nhu
cầu của đời sống tinh thần. Hai đứa trẻ buồn ngủ ríu cả mắt, An trước khi ngủ
còn dặn với chị đánh thức trước khi tàu đến bởi lẽ với chúng, đoàn tàu có một ý
nghĩa vô cùng đặc biệt. Nó là “sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”, hoạt
động ấy có khả năng khuấy động mãnh liệt nhịp sống tẻ nhạt, tù đọng nơi “ao tù
phẳng lặng” (Tỏa nhị kiều Xuân Diệu) , đem lại cho phố huyện nghèo phút chốc
bừng tỉnh sau giấc ngủ dài. Cả một ngày dài leo lét, quẩn quanh chỉ có chuyến
tàu mang đến cho chị em Liên một sự khác biệt, một thế giới hoàn toàn khác với
thực tại tựa như có phép màu lướt qua nơi đây.
Chuyến tàu hiện lên qua cảm nhận của Liên từ xa đến gần rồi cứ thế xa
mãi trong tầm mắt của chị. Cảnh chuyến tàu sắp đến dường như mang một sức
sống kỳ diệu, cả phố huyện giờ đây mới thực sự bắt đầu động đậy. Khi tiếng còi
xe lửa ở xa vang lại, Liên liền đánh thức em dậy: “Dậy đi An, tàu sắp đến rồi”,
còn bác Siêu thì nghển cổ nhìn ra phía xa rồi mừng rỡ: “Đèn ghi đã đến kia rồi”.
Những lời giục giã, những tiếng reo thảng thốt trong mừng rỡ vì nếu chậm sẽ
không được nhìn thấy đoàn tàu nữa. Thạch Lam không dùng từ ngữ nào để
miêu tả sự háo hức của người dân phố huyện mà sự háo hức ấy vẫn hiện lên
sống động và đầy chất nhân văn. Đoàn tàu còn ở phía xa, Liên đã trông thấy
ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, những âm thanh huyên náo “tiếng
còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”,
“tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”,
“tiếng tàu rít lên và tàu rầm rộ đi tới”. Những âm thanh ấy hoàn toàn khác với
thứ âm thanh ảo não của tiếng trống thu không hay tiếng trống cầm canh khô
khan, của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve hay tiếng đàn bầu rung lên bần bật
trong yên lặng. Một thế giới khác được đoàn tàu đem tới cho phố huyện nghèo,
Liên và An say mê ngắm nhìn “các toa đèn sáng trưng…những toa trên sang
trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”, dường
như ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu đã xua tan đi cái “bóng tối” đang gặm nhấm
phố huyện từng khắc một. Ánh sáng ấy không tù mù, leo lét như quầng sáng từ
ngọn đèn chị Tí, từ khe sáng hé ra nơi cánh cửa của các nhà trong phố, hay vệt
sáng nhỏ nhoi, yếu ớt của những con đom đóm. Cư dân phố huyện như choáng
ngợp bởi sự náo động của đoàn tàu và cứ thế họ dần mơ về một thế giới thật đẹp
đẽ và rực rỡ…
Thực ra, đó là chuyến tàu không đông đúc như mọi khi, “thưa vắng người
và hình như kém sáng”, vậy mà nó vẫn đem đến cho hai đứa trẻ biết bao xúc
động. Con tàu đi qua sẽ chẳng có gì đặc biệt trong nhận thức của con người, có
chăng Tế Hanh đã từng thốt lên:
“Tôi thấy tôi thương những con tàu
Ngày đời không đủ sức đi mau
Có chi vướng víu trong hơi máy
Với những toa đầy nặng khổ đau”
Nhưng với chị em Liên thì hoàn toàn khác, chuyến tàu mà hai đứa trẻ
hằng mong đợi không phải để chở đi những đau khổ của kiếp người mà nó là
ánh sáng, là hi vọng cuối cùng của phố huyện này có thể bấu víu vào. Khi An cố
hỏi chị một câu hỏi gì đó nhưng Liên không đáp, dường như chị lặng người theo
những mơ tưởng về một thế giới khác mà đoàn tàu vừa đem tới. Hai chữ Hà Nội
ngân nga trong lòng cô bé nghèo: “…họ ở Hà Nội về!… Hà Nội xa xăm, Hà
Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” Đoàn tàu mang đến cho chị em Liên một
niềm mơ tưởng xa xăm mà rất êm đềm về quá khứ tươi đẹp tại chốn mỹ lệ Hà
Nội “băm mươi sáu phố phường”.
Quả là “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, niềm vui của người dân phố
huyện chỉ hiện lên trong chốc lát và ngay sau đó là nỗi buồn ập đến một cách
thấm thía. Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi sao băng rạch qua bầu
trời nơi phố huyện nghèo rồi mất hút vào đêm tối. Liên và An đứng lặng người
dù chuyến tàu đã đi qua, hai chị em nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh
treo trên toa sau cùng, xa mỗi rồi khuất sau rặng tre. Đêm nào cũng vậy, cả phố
huyện đều khắc khoải mong ngóng, kiên nhẫn chờ đợi chuyến tàu đi qua rồi
mới chìm vào bóng tối thăm thẳm quen thuộc của mình: chị Tí và bác Siêu về
làng, gia đình bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu rách bên đường còn chị dần
ngập vào giấc ngủ yên tĩnh. Rồi chi tiết cuối cùng gây ám ảnh đến người đọc về
một cuộc sống bế tắc “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết
như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”, dường như
những cảnh đời nơi phố huyện chứa đầy bóng tối. Bóng tối ấy không phải là của
vũ trụ mà là bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó. Cuộc sống ấy là vậy, đơn
điệu, tẻ nhạt, kém sức sống và lặp đi lặp lại như cỗ máy được lập trình sẵn
giống như thơ Huy Cận từng viết:
“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện”
Chuyến tàu đêm khẳng định một khát vọng chân chính của con người.
Với chị em Liên, đoàn tàu như một kí ức vui, một khát vọng mơ hồ, nó chẳng
khác nào ảo ảnh nhưng lại mang niềm vui trong sáng cho những đứa trẻ ngây
thơ. Với người dân phố huyện, chuyến tàu như một ước mơ cổ tích giúp họ
thêm niềm tin để cho họ tiếp tục chờ đợi để sống. Suy cho cùng, chuyến tàu mà
nơi phố huyện nghèo ấy mong đợi tựa chiếc phao tinh thần để cứu rỗi cuộc sống
nghèo nàn, bế tắc trong tăm tối. Dưới ngòi bút Thạch Lam, chuyến tàu tưởng
chừng bình thường nhưng ẩn sâu trong đó là tấm lòng nhân đạo của nhà văn.
Ông nâng niu, trân trọng niềm vui nhỏ bé, hiếm hoi của con người và đó chính
là điểm sáng trong giá trị nhân đạo của tác phẩm. Tuy bức tranh phố huyện
được vẽ lên từ những gam màu hiện thực song Thạch Lam không quên điểm tổ
vào bức tranh của mình những khát vọng cao đẹp hướng tới cuộc sống, giúp con
người dần tự ý thức giá trị bản thân, qua đó để họ vươn tới cuộc sống có nghĩa
và xứng đáng hơn cũng như nhà văn Nga Sôlôkhôp: “Đối với con người,sự thực
đôi khi nghiệt ngã,nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc
niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con
người tốt hơn,tâm hồn trong sạch hơn,thức tỉnh tình yêu đối với con người và
khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người”.
Quả thực ta đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh
táo của Nam Cao, hả hê bất ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn
Công Hoan và khóc cùng những giọt nước mắt trong văn Nguyên Hồng. Giời
đây đọc văn Thạch Lam, ta thấy yêu cái nét đẹp nhã nhặn, bình dị, đượm buồn
phảng phất phát chút gì đó tựa bài thơ trữ tình “thoang thoảng hương hoàng lan
được chưng cất từ nỗi đời đau khổ”.
Có người từng nói rằng: “ Thạch Lam là nhà văn ngắt câu bằng màu,
chấm câu bằng nốt nhạc, chuyển đoạn bằng hình” bởi lẽ vậy “Hai đứa trẻ” hiện
lên như một bức tranh dệt bằng cảm giác”, giản dị mà sâu lắng, man mác mà
thấm thía. Câu chuyện soi tỏ những bí ẩn thi vị mà cao đẹp trong tâm hồn cô bé
Liên để rồi bộc lộ những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thạch Lam
không có tham vọng tạo ra những tình huống truyện éo le, nghịch cảnh. Vậy
nhưng ông vẫn đạt đến độ toàn thiện, toàn mĩ của một truyện ngắn nhiều dư âm.
Người đọc được dẫn đi trong một thế giới nhân vật và không gian bàn bạc nỗi
buồn, lặng lẽ suy ngẫm nhưng triết lý nhân sinh và những thông điệp cuộc sống
giàu ý nghĩa. Đặc biệt, cảnh đợi chuyến tàu đêm đã ánh lên những tia hy vọng
rất đời, rất người mà Thạch Lam bằng cả tài năng, tâm huyết xây dựng!

You might also like