You are on page 1of 16

‘’’ Trở về những năm 30-45 của thế kỉ trước, trào lưu văn học lãng mạn

dường như đã khẳng định được vị thế của mình trên văn đàn văn học Việt
Nam với hàng loạt những cây bút tên tuổi. Ta đã từng bắt gặp một Nhất Linh
đau khổ, dằn vặt trên con đường đi tìm lý tưởng, hạnh phúc; một Khái Hưng
sôi nổi yêu đời để hòa mình vào những ảo tưởng đẹp đẽ và ngây thơ hay một
Thanh Tịnh mang trong mình vẻ đẹp đằm thắm, trong trẻo đậm chất lãng mạn
thì Thạch Lam lại hiện lên như một thiên sứ mang một sứ mệnh đặc biệt với
phong cách hoàn toàn mới lạ. Người con của tự lực văn đoàn không đưa ta
đến những chân trời phiêu du, mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng
thường thấy trong trào lưu lãng mạn mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đang
sống. Con người dịu dàng nhân ái ấy đã nguyện gắn ngòi bút của mình với
những kiếp người đau khổ, vẫn luôn trân trọng sự sống nơi trần gian. Ông
từng nới rằng: “Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ
hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện cái
đẹp kín đáo và che lấp của sự vật” Và có lẽ nhờ vào khát khao đi tìm cái đẹp
ấy đã là nguồn cảm hứng để ông sáng tác truyện ngắn “Hai đứa trẻ” – áng
văn xuôi đặc sắc của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng. Đặc biệt trong
tác phẩm, cảnh đợi chuyến tàu đêm của hai chị em Liên chính là nơi kết tinh
những giá trị nghệ thuật sâu sắc và tiến bộ được Thạch Lam thể dưới ngòi
bút đầy nhân đạo và trữ tình.

Câu chuyện không có một tình huống thật li kì, một mâu thuẫn thắt nút cần
giải quyết như nhiều truyện ngắn khác. Cái làm nên sức hấp dẫn của truyện
ngắn Thạch Lam là những rung động tinh vi, những biến động thầm lặng mà
mãnh liệt trong diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên đã gieo vào lòng người
đọc nỗi băn khoăn, day dứt về kiếp người, về những thân phận bé mọn luôn
khát khao được thay đổi. Thạch Lam không chọn một điểm nhìn bên ngoài,
ông quan sát từ bên trong nội tâm nhân vật bằng cách hóa thân vào Liên –
một cô bé mới lớn, nhạy cảm, nhân hậu và giàu mơ ước. Dưới lăng kính hiện
thực, phố huyện hiện lên trong thời gian ngắn ngủi bắt đầu từ lúc chiều tàn
cho đến lúc đêm khuya, sự tương phản giữa tĩnh và động, tối và sáng, giữa
nếp sống ảm đảm nơi phố huyện nghèo với khoảnh khắc huyên náo khi đoàn
tàu qua giúp cho chủ đề của tác phẩm được thể hiện một cách ấn tượng.

Thạch Lam đã dồn bút lực để tạo dựng tình tiết cuối cùng của thiên truyện.
Đó chính là điểm sáng nhân, văn tạo nên giá trị của tác phẩm. Dù khắc khoải,
buồn bã với kiếp sống quẩn quanh, Liên cũng như biết bao con người trong
bóng tối, trong cái phố huyện nghèo nàn kia vẫn luôn có một niềm hy vọng
mơ hồ, họ mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống ảm đạm
hằng ngày của họ. Niềm hy vọng mong manh được Thạch Lam khéo léo gửi
gắm qua chuyến tàu cuối cùng từ Hà Nội chạy qua phố huyện để lại trong ta
biêt bao xúc cảm.

Không chỉ có chị em Liên mà tất cả những người dân nơi phố huyện nghèo
đều đợi chuyến tàu đêm đi ngang qua. Với những người dân trong phố
huyện, họ chờ tàu để bán hàng, để thêm vào cuộc sống mưu sinh hằng ngày
vài đồng lẻ ít ỏi, nhưng với Liên và An, họ thức chờ tàu vì nguyên nhân sâu
xa hơn. Trước hết đây là những đứa trẻ ngoan ngoãn biết vâng lời, chúng
làm theo đúng lời mẹ dặn, cố thức đợi tàu để xem có ai mua gì nữa không.
Nhưng Liên “không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua
bao diêm hay gói thuốc là cùng”, dường như việc chờ tàu hằng đêm của Liên
và Anh không hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu của đời sống vật chất mà hầu
như chỉ xuất phát từ nhu cầu của đời sống tinh thần. Hai đứa trẻ buồn ngủ ríu
cả mắt, An trước khi ngủ còn dặn với chị đánh thức trước khi tàu đến bởi lẽ
với chúng, đoàn tàu có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Nó là “sự hoạt động
cuối cùng của đêm khuya”, hoạt động ấy có khả năng khuấy động mạnh liệt
nhịp sống tẻ nhạt, tù đọng nơi “ao tù phẳng lặng” (Tỏa nhị kiều_Xuân Diệu) ,
đem lại cho phố huyện nghèo phút chốc bừng tỉnh sau giấc ngủ dài. Cả một
ngày dài leo lét, quẩn quanh chỉ có chuyến tàu mang đến cho chị em Liên một
sự khác biệt, một thế giới hoàn toàn khác với thực tại tựa như có phép màu
lướt qua nơi đây.

Chuyến tàu hiện lên qua cảm nhận của Liên từ xa đến gần rồi cứ thế xa mãi
trong tầm mắt của chị. Cảnh chuyến tàu sắp đến dường như mang một sức
sống kỳ diệu, cả phố huyện giờ đây mới thực sự bắt đầu động đậy. Khi tiếng
còi xe lửa ở xa vang lại, Liên liền đánh thức em dậy: “Dậy đi An, tàu sắp đến
rồi”, còn bác Siêu thì nghển cổ nhìn ra phía ga rồi mừng rỡ: “Đèn ghi đã đến
kia rồi”. Những lời giục giã, những tiếng reo thoảng thốt trong mừng rỡ vì nếu
chậm sẽ không được nhìn thấy đoàn tàu nữa. Thạch Lam không dùng từ ngữ
nào để miêu tả sự háo hức của người dân phố huyện mà sự háo hức ấy vẫn
hiện lên sống động và đầy chất nhân văn. Đoàn tàu còn ở phía xa, Liên đã
trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, những âm thanh
huyên náo “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo
ngọn gió xa xôi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng dồn dập, tiếng xe rít
mạnh vào ghi”, “tiếng tàu rít lên và tàu rầm rộ đi tới”. Những âm thanh ấy
hoàn toàn khác với thứ âm thanh ảo não cuả tiếng trống thu không hay tiếng
trống cầm canh khô khan, của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve hay tiếng đàn
bầu rung lên bần bật trong yên lặng. Một thế giới khác được đoàn tàu đem tới
cho phố huyện nghèo, Liên và An say mê ngắm nhìn “các toa đèn sáng
trưng…những toa trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh,
và các cửa kính sáng”, dường như ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu đã xua tan
đi cái “bóng tối” đang gặm nhấm phố huyện từng khắc một. Ánh sáng ấy
không tù mù, leo lét như quầng sáng từ ngọn đèn chị Tí, từ khe sáng hé ra
nơi cánh cửa của các nhà trong phố, hay vệt sáng nhỏ nhoi, yếu ớt của
những con đom đóm. Cư dân phố huyện như choáng ngợp bởi sự náo động
của đoàn tàu và cứ thế họ dần mơ về một thế giới thật đẹp đẽ và rực rỡ…

Thực ra, đó là chuyến tàu không đông đúc như mọi khi, “thưa vắng người và
hình như kém sáng”, vậy mà nó vẫn đem đến cho hai đứa trẻ biết bao xúc
động. Con tàu đi qua sẽ chẳng có gì đặc biệt trong nhận thức của con người,
có chăng Tế Hanh đã từng thốt lên:

“Tôi thấy tôi thương những con tàu


Ngày đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy
Với những toa đầy nặng khổ đau”

Nhưng với chị em Liên thì hoàn toàn khác, chuyến tàu mà hai đứa trẻ hằng
mong đợi không phải để chở đi những đau khổ của kiếp người mà nó là ánh
sáng, là hi vọng cuối cùng của phố huyện này có thể bấu víu vào. Khi An cố
hỏi chị một câu hỏi gì đó nhưng Liên không đáp, dường như chị lặng người
theo những mơ tưởng về một thế giới khác mà đoàn tàu vừa đem tới. Hai
chữ Hà Nội ngân nga trong lòng cô bé nghèo: “…họ ở Hà Nội về!… Hà Nội xa
xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” Đoàn tàu mang đến cho chị em
Liên một niềm mơ tưởng xa xăm mà rất êm đềm về quá khư tươi đẹp tại chốn
mỹ lệ Hà Nội “băm mươi sáu phố phường”.

Quả là “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, niềm vui của người dân phố huyện
chỉ hiện lên trong chốc lát và ngay sau đó là nỗi buồn ập đến một cách thấm
thía. Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi sao băng rạch qua bầu trời
nơi phố huyện nghèo rồi mất hút vào đêm tối. Liên và An đứng lặng người dù
chuyến tàu đã đi qua, hai chị em nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh
treo trên toa sau cùng, xa mỗi rồi khuất sau rặng tre. Đêm nào cũng vậy, cả
phố huyện đều khắc khoải mong ngóng, kiên nhẫn chờ đợi chuyến tàu đi qua
rồi mới chìm vào bóng tối thăm thẳm quen thuộc của mình: chị Tí và bác Siêu
về làng, gia đình bác xẩm ngủ ngục trên manh chiếu rách bên đường còn chị
dần ngập vào giấc ngủ yên tĩnh. Rồi chi tiết cuối cùng gây ám ảnh đến người
đọc về một cuộc sống bế tắc “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi
không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”,
dường như những cảnh đời nơi phố huyện chứa đầy bóng tối. Bóng tối ấy
không phải là của vũ trụ mà là bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó. Cuộc
sống ấy là vậy, đơn điệu, tẻ nhạt, kém sức sống và lặp đi lặp lại như cỗ máy
được lập trình sẵn giống như thơ Huy Cận từng viết:

“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu


Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện”

Chuyến tàu đêm khẳng định một khát vọng chân chính của con người. Với chị
em Liên, đoàn tàu như một kí ức vui, một khát vọng mơ hồ, nó chẳng khác
nào ảo ảnh nhưng lại mang niềm vui trong sáng cho những đứa trẻ ngây thơ.
Với người dân phố huyện, chuyến tàu như một ước mơ cổ tích giúp họ thêm
niềm tin để cho họ tiếp tục chờ đợi để sống. Suy cho cùng, chuyến tàu mà nơi
phố huyện nghèo ấy mong đợi tựa chiếc phao tinh thần để cứu rỗi cuộc sống
nghèo nàn, bế tắc trong tăm tối. Dưới ngòi bút Thạch Lam, chuyến tàu tường
chừng bình thương nhưng ẩn sâu trong đó là tấm lòng nhân đạo của nhà văn.
Ông nâng niu, trân trọng niềm vui nhỏ bé, hiếm hoi của con người và đó
chính là điểm sáng trong giá trị nhân đạo của tác phẩm. Tuy bức tranh phố
huyện được vẽ lên từ những gam màu hiện thực song Thạch Lam không
quên điểm tổ vào bức tranh của mình những khát vọng cao đẹp hướng tới
cuộc sống, giúp con người dần tự ý thức giá trị bản thân, qua đó để họ vươn
tới cuộc sống có nghĩa và xứng đáng hơn cũng như nhà văn Nga Sôlôkhôp:
“Đối với con người,sự thực đôi khi nghiệt ngã,nhưng bao giờ cũng dũng cảm
củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai.Tôi mông muốn những tác
phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn,tâm hồn trong sạch hơn,thức tỉnh
tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân
đạo và tiến bộ của loài người”.

Quả thực ta đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh táo
của Nam Cao, hả hê bất ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn
Công Hoan và khóc cùng những giọt nước mắt trong văn Nguyên Hồng. Giời
đây đọc văn Thạch Lam, ta thấy yêu cái nét đẹp nhã nhăn, bình dị, đượm
buồn phảng phất phát chút gì đó tựa bài thơ trữ tình “thoang thoảng hương
hoàng lan được chưng cất từ nỗi đời đau khổ”.

Có người từng nói rằng: “ Thạch Lam là nhà văn ngắt câu bằng màu, chấm
câu bằng nốt nhạc, chuyển đoạn bằng hình” bởi lẽ vậy “Hai đứa trẻ” hiện lên
như một bức tranh dệt bằng cảm giác”, giản dị mà sâu lắng, man mác mà
thấm thía. Câu chuyện soi tỏ những bí ẩn thi vị mà cao đẹp trong tâm hồn cô
bé Liên để rồi bộc lộ những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thạch Lam
không có tham vọng tạo ra những tình huống truyện éo le, nghịch cảnh. Vậy
nhưng ông vẫn đạt đến độ toàn thiện, toàn mĩ của một truyện ngắn nhiều dư
âm. Người đọc được dẫn đi trong một thế giới nhân vật và không gian bàn
bạc nỗi buồn, lặng lẽ suy ngẫm nhưng triết lý nhân sinh và những thông điệp
cuộc sống giàu ý nghĩa. Đặc biệt, cảnh đợi chuyến tàu đêm đã ánh lên những
tia hy vọng rất đời, rất người mà Thạch Lam bằng cả tài năng, tâm huyết xây
dựng!
/ĐỀ CƯƠNG VĂN HỌC KÌ 1

I. ĐỌC HIỂU
II. TÁC PHẨM
1. Tác phẩm Hai Đứa Trẻ
2. Dù buồn ngủ díu cả mắt nhưng đêm nào, Liên cà An cũng cố thức đợi chuyến tàu
khuya từ Hà Nội về. Tại sao vậy? Để bán hàng theo lời mẹ dặn? Hoàn toàn không
phải vậy. Hai chị em Liên cố thức không phải để mở hàng đón khách như bao người
buôn bán khác trên sân ga, trái lại hai chị em đóng cửa hàng, chờ tàu là vì cớ khác.
Vậy thì là gì? Phải chăng vì hai chị em học muốn được nhìn thấy chuyến tàu – là sự
hoạt động của cuối cùng của đêm khuya. Có lẽ vậy, và cũng bởi vì con tàu như đem
một thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn với vầng sáng ngọn đèn của chị Tý
và ánh lửa của Bác Siêu. Phố huyện chìm trong màn đêm tối tăm, lụi tàn, nghèo nàn,
mòn mỏi thì con tàu như đem một thế giới sáng rực, giàu sang, vui vẻ và huyên
náo.Vì con tàu như đem một thế giới khác đi qua, chị em Liên lặng lẽ đón đợi tàu với
bao xúc cảm vừa bâng khuâng, mơ hồ, vừa hồi hộp, háo hức. Chị em Liên đón đợi
chuyến tàu như đón đợi phút giây giao thừa thiêng liêng mỗi khi Tết đến, xuân về.
Cậu bé An buồn ngủ, mí mắt sắp sửa rơi mà vẫn còn dặn chị: “ Tàu đến, chị gọi em
thức dậy nhé!”. Còn Liên ngồi yên không động đậy ngắm sao trời lấp lánh và hoa
bàng khẽ rơi, tâm hồn Liên tỉnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ, không hiểu. Dường
như cô bé đã hoàn toàn bứt mình ra khỏi cuộc sống mưu sinh cơ cực để đắm vào
thế giới thần tiên, mộng mơ.

Nhìn thấy ánh đèn ghi từ xa, nghe tiếng còi vọng lại, Liên đã vội đánh thức em dậy: “
Dậy đi, An. Tàu đến rồi!” Lời gọi đầy hối thúc, giục dã vang lên như tiếng reo vui hồ
hởi. Rồi tiếng còi rít lên, tàu rầm rộ đi tới, cả phố huyện bừng lên, sáng rực rỡ, sôi
động, sang trọng, Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua. Hai chị em háo
hức muồn hòa mình vào thế giới đông vui náo nhiệt ấy. Càng háo hức bao nhiêu, hai
đứa trẻ càng ngẩn ngơ khi thấy tàu vượt qua bấy nhiêu. Chuyến tàu đi vào đêm tối,
hai chị em vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng rồi ra xa
mãi, khuất sau rặng tre. Con tàu từ Hà Nội về thực sự đã hút hồn chị em Liên. Tàu
qua, An băn khoăn nghĩ ngợi; “Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?”. Còn Liên thì mơ
hồ lặng theo mơ tưởng. Dẫu chuyến tàu không vui như mọi khi, thưa vắng người
qua lại và hình như kém sáng hơn bình thường nhưng cô bé vẫn hân hoan vui sướng
bởi con tàu ở Hà Nội về. Con tàu đã đưa Liên trở về tuổi thơ êm đềm, thời quá khứ
ngọt ngào của tuổi thần tiên, đồng thời thức dậy trong cô bé, niềm tin vào một
tương lai tươi sáng.

3. GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO CỦA TÁC PHẨM


Đêm nào, Liên và An cũng thao thức, hồi hộp đợi tàu. Trong con mắt của không ít
người, đó là việc bâng quâng, không đâu thậm chí lẩn thẩn, vô nghĩa. Thế nhưng với
trái tim giàu lòng trắc ẩn, Thạch Lam đã phát hiện ra những tâm sự sâu kín, những
khát khao lãng mạn của hai chị em. Đợi tàu trở thành một nếp sống, một nhu cầu
tinh thần không thể thiếu. Đợi tàu để được trở về thời quá khứ dịu êm, ngọt ngào
của tuổi hồn nhiên, ngây thơ. Đợi tàu để được cháy lên khát vọng mãnh liệt, mạnh
mẽ, táo bạo: khát vọng đổi đời. Khát vọng ấy như mầm cây tươi non mọc lên trên
vùng đất cằn cỗi, như ánh sao nhỏ nhoi lấp lánh mãi trên bầu trời đen thẳm không
cùng. Qua việc tả cảnh đợi tàu, Thạch Lam thể hiện thái độ vừa cảm thương xót xa
trước cuộc sống lay lắt, bế tắc của những kiếp người nhỏ bé, nhất là những đứa trẻ,
vừa nâng niu vừa trân trọng, khát vọng vươn ra ánh sáng, khát vọng đổi đời của
những con người ấy. Từ cuộc sống của con người nơi phố huyện, trang văn của
Thạch Lam còn rung lên tiếng nói tha thiết có sức lay tỉnh sâu xa trong tâm hồn
người đọc: Hãy cứu lấy những đứa trẻ! Hãy thay đổi cuộc sống bế tắc này đi!. Làm
thế nào để cho trẻ thơ được sống trong hi vọng giống như những chồi non xanh
biếc căng tràn nhựa sống trên cành mà không phải chỉ tồn tại rồi tài lụi đi trong
miền đất chết. Có thể thấy, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chân thực, sinh động,, giàu giá
trị hiện thực mà thấm đẫm cảm xúc nhân văn cao quý, dào dạt chất thơ lãng mạn.
Đọc “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam ta bất giác nhớ đến “ Cô bé bán diêm” của An-đéc-
xen. Họ là hai nhà văn thuộc về hai đất nước, hai thời đại khác nhau nhưng cùng
đồng điệu trong tiếng nói yêu thương nhân văn vì trẻ thơ.

Cảnh đợi tàu cũng là cảnh khép lại thiên truyện vừa nhẹ nhàng, lắng đọng của Thạch
Lam. Đó là một cảnh tượng sẽ ám ảnh mãi trong tâm chí người đọc. Khép lại tác
phẩm, ta vẫn thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương ấm áp mà sâu kín, về
những tình cảm trắc ẩn bình dị mà xâu xa. “Hai đứa trẻ” thực sự đã hoàn thành sứ
mệnh của văn chương chân chính khi khơi gợi của người đọc tình cảm trong sáng và
giàu ý nghĩa nhân văn

Tác phẩm "Chữ người tử tù" (Nguyễn Tuân)


Nhà văn Pauxtopki từng khẳng định: “Nhà văn là người dẫn đường đến xứ
sở của cái đẹp. Bước vào thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế
giới của cái đẹp”. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại có một lí tưởng riêng. Nếu
Thạch Lam đưa người đọc đến với thế giới cái đẹp dịu dàng, êm đềm mà
u buồn, man mác thì Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ tận hiến suốt đời cho
cái đẹp lại dẫn ta đến thế giới thanh cao, sang trọng, lịch lãm mà cổ kính.
Trong thế giới nghệ thuật độc đáo ấy của Nguyễn Tuân nổi bật lên hình
tượng Huấn Cao – nhân vật chính của “Chữ người tử tù”, một nét son chói
lọi trong văn nghiệp của Nguyễn Tuân.

Là một người nghệ sĩ coi cái đẹp là một tôn giáo, giàu lòng yêu nước và
tinh thần dân tộc, trước Cách mạng, bất mãn xã hội Tây tàu nhặng xị,
Nguyễn Tuân trở về quá khứ kiếm tìm, nâng niu những vẻ đẹp còn vương
xót lại. Trong hành trình đi tìm kiếm cái đẹp “Vang bóng một thời”, Nguyễn
Tuân chợt phát hiện ra không gì đẹp bằng những con người tài hoa tài tử.
Nổi bật trong lớp người tài hoa ấy là danh sĩ Cao Bá Quát, một nhà Nho
uyên bác, một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhà thư Pháp kiệt xuất. Dựa
trên nguyên mẫu về danh sĩ Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên
hình tượng Huấn Cao – một nhân vật đẹp và sang nhất trong cuộc đời
Nguyễn Tuân. Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, tài tử, Huấn Cao còn là
một đấng anh hùng. Ở Huấn Cao có sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp của
tâm hồn nghệ sĩ và khí phách của trang anh hùng hào kiệt.

Nghệ thuật thư pháp là một bộ môn nghệ thuật cổ xưa. Một nghệ sĩ thư
pháp đòi hỏi một tay bút tài hoa điêu luyện, với những nét chữ rồng bay
phượng múa, một học vấn uyên thâm, một cốt cách thanh cao. Với những
đòi hỏi khắt khe như thế, thật ít nghệ sĩ dám theo đuổi bộ môn nghệ thuật
thư pháp cao siêu. Thế mà Huấn Cao dám dấn thân và tận hiến đời mình
cho nghệ thuật thư pháp và trở thành người nghệ sĩ tài hoa tột bậc. Huấn
Cao có tài viết chữ nhanh, đẹp, vuông. Hơn thế nữa, mỗi con chữ chứa
đựng cả hoài bão khát vọng của người nghệ sĩ. Danh tiếng của Huấn Cao
lan truyền đến chốn ngục tù khiến cho những kẻ suốt đời tưởng chỉ biết
đến đòn roi đánh đập, hành hạ, tra tấn cũng phải ngưỡng mộ, đặc biệt đối
với quản ngục. Ngay từ khi đọc vỡ sách thánh hiền, ngục quan đã ấp ủ
được treo ở nhà riêng đôi câu đối do tay Huấn Cao viết. Vì ngưỡng mộ tài
năng, sùng kính nhân cách của ông Huấn, quản ngục đã có lối ứng xử lạ
lùng chưa từng thấy đối với kẻ từ tù. Không chỉ tỏ thái độ kiêng nể kính
trọng, ngục quan còn sẵn sàng hi sinh tất cả những gì vốn được coi là quý
báu. Có được chữ của ông Huấn, quản ngục vô cùng hạnh phúc, cảm
động cung kính vái lạy người tử tù trong dòng nước mắt nghẹn ngào “Kẻ
mê muội này xin bái lĩnh”. Vẫn biết những tác phẩm nghệ thuật chân chính
luôn có khả năng thanh lọc tâm hồn, cảm hóa con người nhưng thực sự
hiếm có tác phẩm nào có sức cảm hóa mạnh mẽ diệu kì, lạ lùng chưa từng
thấy như những con chữ viết của Huấn Cao.

Là người nghệ sĩ tài hoa tột bậc, đồng thời Huấn Cao còn là người anh
hùng có khí phách phi thường. Nếu vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ Huấn Cao được
miêu tả gián tiếp thì khí phách hiên ngang bất khuất được miêu tả trực tiếp
qua hành động, ngôn ngữ. Là một nhà Nho có chí khí, Huấn Cao không
chấp nhận cảnh sống cá chậu chim lồng, nhắm mắt làm ngơ trước cảnh
đời thối nát để mong vinh thân phì gia. Vì sự công bằng của xã hội, hạnh
phúc dân lành, Huấn Cao nổi dậy chống lại triều đình. Sự nghiệp anh hùng
không thành, Huấn Cao bị khép vào án tử hình. Trước cái chết cận kề,
Huấn Cao không hề hối tiếc hay lo lắng, sợ hãi. Trái lại, Huấn Cao luôn tỏ
rõ dũng khí hiên ngang, bất khuất. Bẻ khóa vượt ngục đã trở thành tài của
Huấn Cao khiến quản ngục và thầy thơ lại thán phục. Bất cứ lời nói hành
động nào của Huấn Cao dường như cũng toát lên khí phách hiên ngang,
bất khuất của vị đại trượng phu. Tuy nhiên, nếu phải chọn một hành động
điển hình cho khí phách ấy, nhiều người chọn hành động dỗ gông lúc nhập
ngục. Đối mặt với bọn tiêu lại giữ tù, cai tù hống hách, bạo ngược, Huấn
Cao không hề khúm núm, sợ sệt như những tù nhân khác. Hành động của
Huấn Cao có khác nào một cái tát khinh bỉ vào mặt bọn cai tù cặn bã. Dõi
theo hành động, thái độ của Huấn Cao trong nhà giam những ngày cuối
cùng, người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chẳng những Huấn
Cao thản nhiên nhận rượu thịt – quà biếu của quản ngục coi đó là việc vẫn
là trong hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Trước cường quyền không
lùi bước, trước cái chết không chịu khuất phục, đó là khí phách anh hùng
Huấn Cao. Khi thầy thơ lại ngập ngừng báo tin cho ông biết sáng sớm mai
ông phải về kinh lãnh án tử hình, không một phút lo âu, không một giây sợ
hãi, Huấn Cao đón nhận cái chết bằng nụ cười. Đó là nụ cười ngông ngạo
của người sẵn lòng tin “giữ trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn”. Không chỉ là
người nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao đúng là trang anh hùng có khí phách phi
thường.

Nhà văn vĩ đại V.Hugo đã từng nói: “Trước bộ óc vĩ đại ta phải cúi đầu
nhưng trước trái tim vĩ đại ta phải quỳ gối”. Học theo tư tưởng của văn hào
Hugo, trước hình tượng Huấn Cao, mỗi người đọc chúng ta ắt phải cúi đầu
và quỳ gối. Bởi Huấn Cao không chỉ là một nghệ sĩ tài năng siêu biệt, một
đấng anh hùng có khí phách phi thường mà ông còn là hiện thân của nhân
cách cao đẹp, thiên lương trong sáng vô ngần. Là một người nghệ sĩ thư
pháp tài hoa tột bậc, những con chữ của Huấn Cao là một vật báu đối với
bao người. Cả đời, Huấn Cao mới tặng chữ cho ba người. Không mềm
lòng trước tiền bạc, quyền uy, trước sau Huấn Cao chỉ trân trọng tình tri
âm, tri kỉ. Đến khi hiểu được ước nguyện của quản ngục, Huấn Cao chẳng
những cho chữ mà còn mỉm cười mãn nguyện. Quả thật, không hạnh phúc
sao được khi giữa thế giới ngục tù, tối tăm, bẩn thỉu ta lại bắt gặp một tấm
lòng trong sáng, biết trọng người ngay, biết kính mến khí phách và tài
năng. Tuy sẵn lòng cho chữ quản ngục nhưng Huấn Cao vẫn day dứt
“Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Ở trên đời
này, khi mắc lỗi, hầu hết con người ta tìm cách trốn tránh và đổ lỗi cho
người khác, cho hoàn cảnh thế nên hành động ăn năn, hối hận là rất đáng
quý chỉ có ở những nhân cách tử tế. Lại day dứt ân hận trước những sai
lầm suýt mắc phải, những sai lầm chỉ mình mình biết, mình mình hay, chỉ
có ở những nhân cách cao đẹp mới như vậy.

Kết lại truyện “Chữ người tử tù” là cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa
nay chưa từng có. Không chỉ vậy, nó còn là bệ phóng hoàn hảo làm nổi
hình nổi bật các nhân vật và nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Đặc
biệt ở cảnh cho chữ, ta thấy tài năng và khí phách của Huấn Cao. Vậy là,
bằng tài năng và tâm huyết, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình
tượng nhân vật Huấn Cao, sự hiện thân cho cái đẹp kì diệu cùng hình
tượng quản ngục và cảnh cho chữ. Không chỉ “Vang bóng một thời”, mà
“Chữ người tử tù” sẽ neo đậu mãi trong tâm hồn người đọc như một dấu
son không bao giờ phai.
Phân tích nhân vật Huấn Cao
Trong quá trình sáng tác của mình, mỗi người nghệ sĩ lại lựa chọn không gian nghệ
thuật riêng, những đề tài riêng, những góc nhìn riêng để đi về. Cũng bởi điều này
đã tạo nên sự đa dạng trong những tác phẩm của nền văn học hiện đại Việt Nam.
Đến với Nguyễn Tuân là đến với những trang văn khác biệt độc đáo bởi lối viết,
cách xây dựng cốt truyện, tình huống, nhân vật mà không một nhà văn nào trùng
lặp. Nét độc đáo ấy được thể hiện rất rõ qua tác phẩm “Chữ người tử tù” – một
truyện ngắn xuất sắc trong tập “Vang bóng một thời”. Với bàn tay tài hoa của
mình, Nguyễn Tuân đã dựng lên một nhân vật Huấn Cao - với vẻ đẹp văn võ song
toàn.
Tiếp xúc với văn chương của Nguyễn Tuân, ta bắt gặp ẩn tàng trong những
trang văn là “cảm xúc mạnh, là hơi thở nồng” (Nguyễn Đăng Mạnh) của cái
tôi trữ tình nghệ sĩ mang khát vọng cuồng nhiệt, muốn biến những trang văn
thành những trang hoa lộng lẫy, yêu kiều vừa mê hoặc, vừa thách đố người
đọc. Được biết tới trong nền văn học Việt Nam với hình ảnh của một người
nghệ sĩ ngông nghênh, kiêu bạc. Dùng cả cuộc đời của mình để theo đuổi chủ
nghĩa xê dịch, đi một lối đi riêng biệt trong văn chương, Nguyễn Tuân in dấu
đậm nét bản ngã của mình trong từng tác phẩm, từng hình tượng. Và Huấn
Cao trong “Chữ người tử tù” là một hình tượng điển hình cho vẻ đẹp xưa cũ. Tác
phẩm lúc đầu tên là “Dòng chữ cuối cùng” đăng trên tạp chí Tao đàn số 29 năm
1938, sau đó được in trong tập “Vang bóng một thời” (một tập truyện ngắn có giá
trị như một kiệt tác viết về những thú chơi tao nhã, về những con người tài hoa thời
phong kiến) và đổi tên là “Chữ người tử tù”. Tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên
năm 1940.
Nguyễn Tuân tài tình lắm, tài tình nhất là trong việc lựa chọn những nhân vật
chính trong tác phẩm của mình. Tôi còn nhớ hình ảnh ông Lý Văn trong truyện
“Ném bút chì”, với sức ngang tàng của cái “bút chì” ấy có thể lụy cả một cành tre,
cho đến cái nghệ thuật cầu kỳ trong việc lồng ghép cả một tích truyện vào trong
chiếc đèn xẻ rãnh của ông Cử Hai làm cho cậu con Ngộ Lang. Và cách lựa chọn
nhân vật của Nguyễn Tuân, vẫn luôn cầu kỳ như vậy. Nguyễn Tuân tìm đến với
nhân vật Huấn Cao cũng là thêm một lần nữa tìm về cái đẹp, thêm một lần nữa ghi
dấu ấn bản ngã của chính bản thân mình lên những trang văn. Huấn Cao vốn là một
anh hùng sa cơ lỡ vận, thủ lĩnh của những người “phản nghịch” đứng lên chống lại
triều đình. Bị kết án tử, giam trong ngục tù chờ ngày xét xử nơi pháp trường. Chí
lớn của cả một đời người nay bị kìm kẹp bởi vẻ ngoài của một người tử tù sắp đi
vào cõi chết. Trước hết, Huấn Cao hiện lên là con người hết mực tài hoa, qua lời
nhận xét của quản ngục và thầy thơ lại: “Văn võ đều toàn tài cả”. Ông có tài viết
chữ rất nhanh, rất đẹp khiến mọi người ở vùng tỉnh Sơn khen ngợi không dứt
miệng “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm” hay “có được chữ Huấn Cao mà
treo là có một báu vật trên đời.” Chữ được ví như một báu vật trên đời thì chắc hẳn
trong con chữ ấy đã phải kết tinh đủ cái Tâm, cái Tầm của người nghệ sĩ. Cốt cách
phi thường của một bậc đạo Nho đã khước từ Huấn Cao theo lễ nghi Nho học
truyền thống mà chống lại những áp bức bóc lột của triều đình xuống dân mọn.
Nếu ông theo triều đình, chắc hẳn ông đã được hưởng lộc trọn đời không hết.
Nhưng không, trước cái khổ đau của người dân, ông không nỡ và càng không thể
làm ngơ mà vạch ra con đường chính nghĩa: đứng lên đấu tranh đòi quyền cho
những người dân vô tội. Nghiệp lớn không thành ông đã phải chịu cảnh tù đày, chờ
ngày xử tử. Tiếng đồn ông có tài “bẻ khóa, vượt ngục” càng khẳng định sự vẹn
toàn văn võ của ông.
Không chỉ vậy, Huấn Cao còn mang trong mình một khí phách hiên ngang, không
chịu khuất phục trước quyền uy bạo lực. Thử hỏi trong xã hội đương thời rối ren
đầy những bất công ấy, có mấy ai có đủ khí dung như Huấn Cao mà đứng lên lãnh
đạo để phản kháng lại? Ngay cả đến khi mang phận tử tù ông cũng rất ung dung tự
tại, không hề tỏ ra lo sợ. Thể xác ông tuy bị giam cầm mà tâm hồn vẫn tự do sảng
khoái bằng hành động đáp lại sau lời dọa và giễu cợt của tên lính: “Huấn Cao lạnh
lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thanh gông xuống thềm đá
tảng đánh thuỳnh một cái”. Ông đứng đầu gông, cổ tuy chịu sự gông kìm nhưng
vẫn mang trong mình tướng tá của một vị chủ soái: thất thế nhưng vẫn giữ được uy
thế của mình. Ngay cả với viên quan coi ngục – kẻ tay sai đại diện cho tầng lớp
thống trị “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng đặt
chân vào đây “, “đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là cái trò tiểu nhân
oái thị này”. Từ ngôn từ cho đến nếp nghĩ đều thể hiện sự hung hăng ngang tàn mà
không một thế lực cường quyền nào có thể đè nén. Ông không hề sợ những sự trả
thù mà mình có thể gánh chịu. Với ông, đó đều là những trò tiểu nhân ông đáng
khinh gườm mà ông không cho phép mình cùng ngang với chúng “bần tiện bất
năng di, uy vũ bất năng khuất” (đói nghèo không thể lay chuyển, uy lực không thể
khuất phục). Cái chết gần kề mà ông vẫn ung dung, bình thản đón nhận “thản
nhiên nhận rượu thịt, coi đó như việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị
giam cầm”. Tinh thần vẫn thoải mái, vẫn tự do hưởng lộc tự nhiên. Hỏi mấy ai
trong thiên hạ gặp thế sa cơ còn có thể thư thái nhường vậy?
Sau tất cả, Huấn Cao chính là người có thiên lương trong sáng, nhân cách cao đẹp.
Khi biết được tấm lòng viên quản ngục, Huấn Cao cũng ngỡ ngàng và vui vẻ nhận
lời cho chữ “Ta rất cảm kích tấm lòng biệt nhãn liên tài của các người. Nào ta có
biết đâu
một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu
chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao bình sinh rất hiếm
khi cho chữ, “không vì vàng ngọc hay quyền thế mà bắt mình phải viết câu đối bao
giờ”. Ông cho việc chơi chữ là một thú vui tao nhã và cũng chỉ xứng đáng với
những người có lương tri hướng về cái thiện. Hành động chấp nhận cho chữ của
ông chứng tỏ ông là người yêu cái đẹp, mến cái tài, ông trân trọng mọi tấm lòng
trong thiên hạ. Và đêm hôm đó, tại nơi ngục tù tối tăm bẩn thỉu đã diễn ra cảnh cho
chữ mà thông thường nên phải ở những tầng lầu trăng thanh gió mát bên tách trà
ấm của người quân tử. Sau cảnh cho chữ ấy, Huấn Cao càng khiến ta nể phục khi
không chỉ biết cách giữ đức tính lương thiện của lòng mình mà cũng khuyên người
khác cố giữ bản tính còn chưa bị chốn này làm vẩn đục: “Thầy hãy thoát khỏi cái
nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho
lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời nói với viên
quản ngục phải chăng là nói với cả một lớp người ngoài kia, Huấn Cao không hề
muốn bùn nhơ làm vẩn đục những nhân cách đáng quý ấy. Nguyễn Tuân đã tạc cho
nhân vật Huấn Cao một vẻ đẹp khá toàn diện: vừa tài hoa, vừa hiên ngang khí
phách lại vừa mang một lý tưởng cao đẹp trong nhân cách bất chấp mọi quyền uy
lẽ trái trên đời. Ông luôn đặt chữ “Tâm” lên trên chữ “Tài” và có quan niệm thống
nhất giữa cái đẹp và cái thiện: cái đẹp và cái thiện chỉ có thể đi đôi với nhau, song
hành với nhau, không bao giờ có thể tách rời nhau được. Đó cũng là quan niệm
thẩm mĩ của Nguyễn Tâm đã hết lòng gửi gắm trong đó. Huấn Cao là một hình
mẫu lý tưởng mang thiên lương thật đáng ngưỡng mộ.
Nhà phê bình văn học người Nga Bêlinxki từng viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ
chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét
khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc
trả lời những câu hỏi đó”. Nghệ sĩ là con người suốt đời đi tìm kiếm cái đẹp và
làm rực sáng những cái đẹp, thiên nhiên tuyệt mỹ con người phải tài hoa,
uyên bác. Và Nguyễn Tuân chính là một người nghệ sĩ tài hoa như vậy. Ông
đã đem đến cho cuộc đời, cho nền văn học Việt Nam những quan niệm sáng
tác lớn lao đầy triết lý. Ngòi bút của ông luôn hướng đến cái cao cả, lý tưởng và
uyên thâm và làm cho nó cháy sáng như ngọn đuốc tỏa ra những miền nghệ thuật
khác. Những tác phẩm của ông có giá trị như cốt lõi của cuộc sống, là những hiện
tượng lớn lao, là sự lên tiếng của nghệ thuật. Ngòi bút ông làm nên tất cả! Bởi lẽ
tất cả đã chiếu vào kiệt tác “Chữ người tử tù” của ông cũng cùng quan điểm ấy.

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ


Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói
đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn
Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên
mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó là
tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân
vật Huấn Cao và cảnh cho chữ - một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều
biết văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có
nghĩa là nhà vàn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những
vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc
phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát.
Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một con người phi
thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất
nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy
tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.
Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất đầu tiên của Huấn Cao là tài hoa.
Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục
và thơ lại. Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta
thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn.
Cái tài được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ
thuật thư pháp - một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân
tộc. Ở sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi
thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Bởi thế mỗi
con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn
của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và
tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ
vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là
những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính
vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn
nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản
ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh
của mình. Nhưng Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông
còn có một tấm lòng - đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con
người.
Một nhà văn nước ngoài đã nói về chân lí sâu xa. Hãy đập vào trái tim mình
thiên tài là ở đó. Thì ra gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái
tâm. Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao.
Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường không làm nghề
thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu giếm, đến
khi nhận ra viên ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn
mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận. Bằng tất cả sự
xúc động, Huấn Cao đã nói: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các
ngươi... Thiếu chút nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói ấy đã
hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách sống là phải
xứng đáng với những tấm lòng.

Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những
hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Ông Huấn
Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một
con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã
hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự
nghiệp không thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng tù đày, gông cùm và cái
chết cùng không khuất lạc được ông. Ông luôn tìm thấy ở những nơi mà tự
do bị tước bỏ. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều
vô nghĩa. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng
sự khinh bạc đến điều... lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông phải
rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói nghĩa là ông không hề
run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể Huấn Cao
sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường bất
khuất, uy vũ bất năng khuất.

You might also like