You are on page 1of 8

1.

CẢNH ĐỢI TÀU

Trở về những năm 30-45 của thế kỉ trước, trào lưu văn học lãng mạn dường như đã khẳng định được
vị thế của mình trên văn đàn văn học Việt Nam với hàng loạt những cây bút tên tuổi. Ta đã từng bắt
gặp một Nhất Linh đau khổ, dằn vặt trên con đường đi tìm lý tưởng, hạnh phúc; một Khái Hưng sôi
nổi yêu đời để hòa mình vào những ảo tưởng đẹp đẽ và ngây thơ hay một Thanh Tịnh mang trong
mình vẻ đẹp đằm thắm, trong trẻo đậm chất lãng mạn thì Thạch Lam lại hiện lên như một thiên sứ
mang một sứ mệnh đặc biệt với phong cách hoàn toàn mới lạ. Người con của tự lực văn đoàn không
đưa ta đến những chân trời phiêu du, mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng thường thấy trong
trào lưu lãng mạn mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đang sống. Con người dịu dàng nhân ái ấy đã
nguyện gắn ngòi bút của mình với những kiếp người đau khổ, vẫn luôn trân trọng sự sống nơi trần
gian. Ông từng nới rằng: “Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng
ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật” Và
có lẽ nhờ vào khát khao đi tìm cái đẹp ấy đã là nguồn cảm hứng để ông sáng tác truyện ngắn “Hai
đứa trẻ” – áng văn xuôi đặc sắc của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng. Đặc biệt trong tác
phẩm, cảnh đợi chuyến tàu đêm của hai chị em Liên chính là nơi kết tinh những giá trị nghệ thuật
sâu sắc và tiến bộ được Thạch Lam thể dưới ngòi bút đầy nhân đạo và trữ tình.

Câu chuyện không có một tình huống thật li kì, một mâu thuẫn thắt nút cần giải quyết như nhiều
truyện ngắn khác. Cái làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn Thạch Lam là những rung động tinh vi,
những biến động thầm lặng mà mãnh liệt trong diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên đã gieo vào
lòng người đọc nỗi băn khoăn, day dứt về kiếp người, về những thân phận bé mọn luôn khát khao
được thay đổi. Thạch Lam không chọn một điểm nhìn bên ngoài, ông quan sát từ bên trong nội tâm
nhân vật bằng cách hóa thân vào Liên – một cô bé mới lớn, nhạy cảm, nhân hậu và giàu mơ ước.
Dưới lăng kính hiện thực, phố huyện hiện lên trong thời gian ngắn ngủi bắt đầu từ lúc chiều tàn cho
đến lúc đêm khuya, sự tương phản giữa tĩnh và động, tối và sáng, giữa nếp sống ảm đảm nơi phố
huyện nghèo với khoảnh khắc huyên náo khi đoàn tàu qua giúp cho chủ đề của tác phẩm được thể
hiện một cách ấn tượng.

Thạch Lam đã dồn bút lực để tạo dựng tình tiết cuối cùng của thiên truyện. Đó chính là điểm sáng
nhân, văn tạo nên giá trị của tác phẩm. Dù khắc khoải, buồn bã với kiếp sống quẩn quanh, Liên cũng
như biết bao con người trong bóng tối, trong cái phố huyện nghèo nàn kia vẫn luôn có một niềm hy
vọng mơ hồ, họ mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống ảm đạm hằng ngày của họ.
Niềm hy vọng mong manh được Thạch Lam khéo léo gửi gắm qua chuyến tàu cuối cùng từ Hà Nội
chạy qua phố huyện để lại trong ta biêt bao xúc cảm.

Không chỉ có chị em Liên mà tất cả những người dân nơi phố huyện nghèo đều đợi chuyến tàu đêm
đi ngang qua. Với những người dân trong phố huyện, họ chờ tàu để bán hàng, để thêm vào cuộc
sống mưu sinh hằng ngày vài đồng lẻ ít ỏi, nhưng với Liên và An, họ thức chờ tàu vì nguyên nhân sâu
xa hơn. Trước hết đây là những đứa trẻ ngoan ngoãn biết vâng lời, chúng làm theo đúng lời mẹ dặn,
cố thức đợi tàu để xem có ai mua gì nữa không. Nhưng Liên “không trông mong còn ai đến mua nữa.
Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”, dường như việc chờ tàu hằng đêm của Liên
và Anh không hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu của đời sống vật chất mà hầu như chỉ xuất phát từ
nhu cầu của đời sống tinh thần. Hai đứa trẻ buồn ngủ ríu cả mắt, An trước khi ngủ còn dặn với chị
đánh thức trước khi tàu đến bởi lẽ với chúng, đoàn tàu có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Nó là “sự
hoạt động cuối cùng của đêm khuya”, hoạt động ấy có khả năng khuấy động mạnh liệt nhịp sống tẻ
nhạt, tù đọng nơi “ao tù phẳng lặng” (Tỏa nhị kiều_Xuân Diệu) , đem lại cho phố huyện nghèo phút
chốc bừng tỉnh sau giấc ngủ dài. Cả một ngày dài leo lét, quẩn quanh chỉ có chuyến tàu mang đến
cho chị em Liên một sự khác biệt, một thế giới hoàn toàn khác với thực tại tựa như có phép màu
lướt qua nơi đây.

Chuyến tàu hiện lên qua cảm nhận của Liên từ xa đến gần rồi cứ thế xa mãi trong tầm mắt của chị.
Cảnh chuyến tàu sắp đến dường như mang một sức sống kỳ diệu, cả phố huyện giờ đây mới thực sự
bắt đầu động đậy. Khi tiếng còi xe lửa ở xa vang lại, Liên liền đánh thức em dậy: “Dậy đi An, tàu sắp
đến rồi”, còn bác Siêu thì nghển cổ nhìn ra phía ga rồi mừng rỡ: “Đèn ghi đã đến kia rồi”. Những lời
giục giã, những tiếng reo thoảng thốt trong mừng rỡ vì nếu chậm sẽ không được nhìn thấy đoàn tàu
nữa. Thạch Lam không dùng từ ngữ nào để miêu tả sự háo hức của người dân phố huyện mà sự háo
hức ấy vẫn hiện lên sống động và đầy chất nhân văn. Đoàn tàu còn ở phía xa, Liên đã trông thấy
ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, những âm thanh huyên náo “tiếng còi xe lửa ở đâu
vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng
dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”, “tiếng tàu rít lên và tàu rầm rộ đi tới”. Những âm thanh ấy hoàn
toàn khác với thứ âm thanh ảo não cuả tiếng trống thu không hay tiếng trống cầm canh khô khan,
của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve hay tiếng đàn bầu rung lên bần bật trong yên lặng. Một thế giới
khác được đoàn tàu đem tới cho phố huyện nghèo, Liên và An say mê ngắm nhìn “các toa đèn sáng
trưng…những toa trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”,
dường như ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu đã xua tan đi cái “bóng tối” đang gặm nhấm phố huyện
từng khắc một. Ánh sáng ấy không tù mù, leo lét như quầng sáng từ ngọn đèn chị Tí, từ khe sáng hé
ra nơi cánh cửa của các nhà trong phố, hay vệt sáng nhỏ nhoi, yếu ớt của những con đom đóm. Cư
dân phố huyện như choáng ngợp bởi sự náo động của đoàn tàu và cứ thế họ dần mơ về một thế giới
thật đẹp đẽ và rực rỡ…

Thực ra, đó là chuyến tàu không đông đúc như mọi khi, “thưa vắng người và hình như kém sáng”,
vậy mà nó vẫn đem đến cho hai đứa trẻ biết bao xúc động. Con tàu đi qua sẽ chẳng có gì đặc biệt
trong nhận thức của con người, có chăng Tế Hanh đã từng thốt lên:

“Tôi thấy tôi thương những con tàu


Ngày đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy
Với những toa đầy nặng khổ đau”

Nhưng với chị em Liên thì hoàn toàn khác, chuyến tàu mà hai đứa trẻ hằng mong đợi không phải để
chở đi những đau khổ của kiếp người mà nó là ánh sáng, là hi vọng cuối cùng của phố huyện này có
thể bấu víu vào. Khi An cố hỏi chị một câu hỏi gì đó nhưng Liên không đáp, dường như chị lặng người
theo những mơ tưởng về một thế giới khác mà đoàn tàu vừa đem tới. Hai chữ Hà Nội ngân nga
trong lòng cô bé nghèo: “…họ ở Hà Nội về!… Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”
Đoàn tàu mang đến cho chị em Liên một niềm mơ tưởng xa xăm mà rất êm đềm về quá khư tươi
đẹp tại chốn mỹ lệ Hà Nội “băm mươi sáu phố phường”.

Quả là “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, niềm vui của người dân phố huyện chỉ hiện lên trong chốc lát
và ngay sau đó là nỗi buồn ập đến một cách thấm thía. Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi
sao băng rạch qua bầu trời nơi phố huyện nghèo rồi mất hút vào đêm tối. Liên và An đứng lặng
người dù chuyến tàu đã đi qua, hai chị em nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa
sau cùng, xa mỗi rồi khuất sau rặng tre. Đêm nào cũng vậy, cả phố huyện đều khắc khoải mong
ngóng, kiên nhẫn chờ đợi chuyến tàu đi qua rồi mới chìm vào bóng tối thăm thẳm quen thuộc của
mình: chị Tí và bác Siêu về làng, gia đình bác xẩm ngủ ngục trên manh chiếu rách bên đường còn chị
dần ngập vào giấc ngủ yên tĩnh. Rồi chi tiết cuối cùng gây ám ảnh đến người đọc về một cuộc sống
bế tắc “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ
chiếu sáng một vùng đất nhỏ”, dường như những cảnh đời nơi phố huyện chứa đầy bóng tối. Bóng
tối ấy không phải là của vũ trụ mà là bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó. Cuộc sống ấy là vậy, đơn
điệu, tẻ nhạt, kém sức sống và lặp đi lặp lại như cỗ máy được lập trình sẵn giống như thơ Huy Cận
từng viết:

“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu


Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện”

Chuyến tàu đêm khẳng định một khát vọng chân chính của con người. Với chị em Liên, đoàn tàu như
một kí ức vui, một khát vọng mơ hồ, nó chẳng khác nào ảo ảnh nhưng lại mang niềm vui trong sáng
cho những đứa trẻ ngây thơ. Với người dân phố huyện, chuyến tàu như một ước mơ cổ tích giúp họ
thêm niềm tin để cho họ tiếp tục chờ đợi để sống. Suy cho cùng, chuyến tàu mà nơi phố huyện
nghèo ấy mong đợi tựa chiếc phao tinh thần để cứu rỗi cuộc sống nghèo nàn, bế tắc trong tăm tối.
Dưới ngòi bút Thạch Lam, chuyến tàu tường chừng bình thương nhưng ẩn sâu trong đó là tấm lòng
nhân đạo của nhà văn. Ông nâng niu, trân trọng niềm vui nhỏ bé, hiếm hoi của con người và đó
chính là điểm sáng trong giá trị nhân đạo của tác phẩm. Tuy bức tranh phố huyện được vẽ lên từ
những gam màu hiện thực song Thạch Lam không quên điểm tổ vào bức tranh của mình những khát
vọng cao đẹp hướng tới cuộc sống, giúp con người dần tự ý thức giá trị bản thân, qua đó để họ vươn
tới cuộc sống có nghĩa và xứng đáng hơn cũng như nhà văn Nga Sôlôkhôp: “Đối với con người,sự
thực đôi khi nghiệt ngã,nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở
tương lai.Tôi mông muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn,tâm hồn trong sạch
hơn,thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và
tiến bộ của loài người”.

Quả thực ta đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh táo của Nam Cao, hả hê
bất ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn Công Hoan và khóc cùng những giọt nước
mắt trong văn Nguyên Hồng. Giời đây đọc văn Thạch Lam, ta thấy yêu cái nét đẹp nhã nhăn, bình dị,
đượm buồn phảng phất phát chút gì đó tựa bài thơ trữ tình “thoang thoảng hương hoàng lan được
chưng cất từ nỗi đời đau khổ”.

Có người từng nói rằng: “ Thạch Lam là nhà văn ngắt câu bằng màu, chấm câu bằng nốt nhạc, chuyển
đoạn bằng hình” bởi lẽ vậy “Hai đứa trẻ” hiện lên như một bức tranh dệt bằng cảm giác”, giản dị mà
sâu lắng, man mác mà thấm thía. Câu chuyện soi tỏ những bí ẩn thi vị mà cao đẹp trong tâm hồn cô
bé Liên để rồi bộc lộ những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thạch Lam không có tham vọng tạo
ra những tình huống truyện éo le, nghịch cảnh. Vậy nhưng ông vẫn đạt đến độ toàn thiện, toàn mĩ
của một truyện ngắn nhiều dư âm. Người đọc được dẫn đi trong một thế giới nhân vật và không gian
bàn bạc nỗi buồn, lặng lẽ suy ngẫm nhưng triết lý nhân sinh và những thông điệp cuộc sống giàu ý
nghĩa. Đặc biệt, cảnh đợi chuyến tàu đêm đã ánh lên những tia hy vọng rất đời, rất người mà Thạch
Lam bằng cả tài năng, tâm huyết xây dựng!

2 PHÂN TÍCH

Đã mấy mươi năm trôi qua, người đọc vẫn không quên một dáng hình khiêm nhường, từ tốn, rất
mực đôn hậu bước những bước thật nhẹ vào làng văn hiện đại Việt Nam, mang theo những trang
văn nồng nàn hồn thơ. Đúng như Nguyễn Tuân nói, “sáng tác của Thạch Lam đem lại một cái gì đó
nhẹ nhõm, thơm tho và mát dịu”. Ta bắt gặp những cảm xúc ấy không chỉ ở “Dưới bóng hoàng lan”,
“Gió lạnh đầu mùa” hay “Cô hàng xén”, “Hai đứa trẻ” lại một lần nữa dắt ta vào thế giới trẻ thơ với
những cảm xúc êm nhẹ, buồn thương.
Đến với “Hai đứa trẻ”, trước hết ta được thấm cảm bức tranh thiên nhiên và đời sống con người nơi
phố huyện qua cái nhìn tinh nhạy của cô bé Liên – nhân vật chính trong truyện. Bức tranh thiên
nhiên gói gọn trong hay từ “êm ả” và “đượm buồn”. Có âm thanh của tiếng trống thu không đánh
lên từng hồi xa vọng, âm thanh của tiếng ếch kêu ran gợi tĩnh lặng một miền quê, âm thanh của tiếng
muỗi vo ve đậm tô sự nghèo nàn. Không gian mở ra bởi màu “đỏ rực” của phương Tây, màu “ánh
hồng” của mây trời, màu “đen sẫm” của tre làng. Có chút thanh bình, êm ả, nhưng cũng không ít thê
lương, ảm buồn, nó đưa ta vào một miền không gian nửa lạ nửa quen, nửa quê nửa tỉnh, với những
xúc cảm giăng mắc nhẹ nhàng.

Nơi phố huyện được nới rộng ra theo không gian của một phiên chợ tàn: “Người về hết và tiếng ồn
ào cũng mất. Trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Không còn là “lao xao
chợ cá làng ngư phủ”, phiên chợ buổi vãn chiều thưa thoáng người, vắng sự náo nhiệt, tô đậm thêm
sự lụi tàn.

Hiện lên trên nền cảnh của một buổi chiều tàn, một phiên chợ tàn là những kiếp người tàn. Không
phải những người nông dân bị rượt đuổi bởi sưu cao thuế nặng, đồng tiền bát gạo như trong sáng
tác của Ngô Tất Tố, Nam Cao. Không phải những ông quan Tây học, cô gái thôn quê sống an nhàn
dưới nếp khói lam chiều như trong sáng tác của Nhất Linh, Hoàng Đạo. Phận người mà Thạch Lam
quan tâm là những kiếp người bé mọn vô danh, sống lụi tàn trong một xã hội đen tối mịt mùng.
Thạch Lam đã viết về họ bằng tất cả niềm ai hoài cảm thương rung lên từ “chân cảm” của mình. Đó
là những đứa trẻ nhà nghèo “cúi lom khom” nhặt nhạnh những thanh tre thanh nứa còn sót lại trên
nền chợ, là mẹ con chị Tí với quán hàng bán chẳng được bao nhưng đêm nào cũng dọn, là bà cụ Thi
với tiếng cười ghê rợn đi lần vào trong bóng tối, là bác Siêu với gánh phở ế ít người vào ăn, là gia
đình bác xẩm với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm. Họ đều là những phận người nhỏ bé, sống lê
lết từng ngày trong sự tù đọng quẩn quanh trên cái “ao đời phẳng lặng”. Viết về những kiếp người
vô danh ấy, Thạch Lam bày tỏ một mối quan hoài sâu sắc về cuộc sống của hai đứa trẻ. Giữa lứa tuổi
mà đáng lẽ thơ ngây còn chưa hết, Liên và An đã phải lo toan cho cuộc sống gia đình. Hai chị em
trông coi hàng giúp mẹ ở một gian hàng nhỏ thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng phên nứa dán
giấy nhật trình. Thức hàng cũng chỉ là vài quả sơn đen hay mấy bánh xà phòng. Cơ cực đã đành,
nhưng điều làm ta xa xót hơn là đời sống tinh thần của hai đứa trẻ ấy dường đang dần ngưng trệ.
Chúng ngày ngày phải giam mình trong không gian u tối của phố huyện, tự cầm cố tuổi xuân và sức
trẻ, và có thể sẽ chẳng bao giờ biết đến thế giới xa xăm ngoài kia.

Nhưng vốn là người “yêu mến và trang trọng trước sự sống”, Thạch Lam sẽ không bao giờ muốn
dừng lại ở việc phản ánh hiện thực cuộc sống dẫu hiện thực ấy có chân thật đến đâu. Cố tìm mà hiểu
chất ngọc sáng ẩn tàng nơi mỗi con người, khơi sâu “cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới”, đó mới là điều
Thạch Lam luôn muốn làm. Có người nói, Thạch Lam sinh ra là để hóa giải hai khuynh hướng sáng
tác, có lẽ điều ấy thể hiện rõ nhất là ở những vẻ đẹp trong tâm hồn cô bé Liên được nhà văn viết
bằng cảm hứng lãng mạn. Giữa một phố huyện nghèo nàn xơ xác vẫn sáng lên những xúc cảm tinh
nhạy của một cô bé biết rung động trước thiên nhiên. Liên nghe tiếng chiều buông xuống mà lòng tự
thốt lên: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”, chị thấy ở đó sự yên bình, và thấy cả lòng “buồn
man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Nghe hương ẩm từ nền chợ bốc lên mà tưởng như đó là
“mùi riêng của đất, của quê hương này”. Trong cuộc sống lụi tàn, có mấy ai cảm được từ “một đêm
mùa hạ êm như nhung” những gợn gió thoảng qua, thổi mát tâm hồn, mấy ai để tâm đến hoa bàng
rụng xuống vai khe khẽ từng loạt một? Vậy mà những chứng tích của một tâm hồn mới lớn đã gọi về
hết thảy những cảm xúc ấy: vừa rung động trước cái đẹp nhẹ nhàng, vừa buồn thoáng qua trước yên
bình tĩnh lặng.
Không chỉ có một tâm hồn tinh nhạy, ở Liên còn có một niềm trắc ẩn sâu sắc, một mối đồng cảm
nồng hậu với những kiếp người nhỏ bé quanh mình. Cuộc sống chẳng khá hơn họ, nhưng không vì
thế mà Liên khép lại lòng thương đối với những đứa trẻ nghèo, hay bớt đi lời quan tâm với mẹ con
chị Tí. Chị cũng chẳng ngại rót đầy cốc rượu cho bà cụ Thi, chẳng thờ ơ với gánh phở bác Siêu, gia
đình bác xẩm. Sự động lòng và niềm bao dung đối với những người xung quanh phải chăng là lòng
đồng cảm yêu thương mà Thạch Lam đã gửi gắm gián tiếp qua nhân vật của mình?

Trân trọng, yêu thương và không ngừng tin tưởng, Thạch Lam còn nhìn thấy ở những đứa trẻ kia
một khát vọng luôn thường trực mà chúng tự nhen lên ngay trong cuộc sống bế tắc của mìn. Sinh
thời, Thạch Lam từng tâm niệm: “Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ cách này, người cách
khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ.” Hai đứa trẻ đã tự tìm cho mình niềm vui ở những lần
chúng ngược dòng tâm tưởng, trở về quá khứ, miên man trong những tháng ngày vui vẻ ở Hà Nội
nơi chúng từng được vui chơi, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Hay những lần chúng ngước lên
bầu trời đầy sao, tìm kiếm dòng sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông, cũng chính là lúc
chúng để cho lòng mình lặng theo mơ tưởng. Nhưng có lẽ khao khát vẹn tròn nhất, ước mơ đủ đầy
nhất, hai đứa trẻ gửi cả vào đoàn tàu. Không chỉ hai chị em Liên mà “từng ấy người trong bóng tối
trông đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ của họ”, và có lẽ đoàn tàu chính là nguồn
sáng mãnh liệt nhất. Đoàn tàu – hoạt động cuối cùng của một ngày – trong con mắt Liên và những
người dân nơi phố huyện lại chính là động lực cho họ cố bám bíu vào cuộc sống này. Đoàn tàu xuất
hiện bắt đầu bằng tiếng reo của bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi”. Đoàn tàu mang theo ánh sáng rực
rỡ, mang theo âm thanh náo nhiệt, chứ không tù đọng như không gian phố huyện, không leo lét như
ngọn đèn của chị Tí hay ánh lửa của bác Siêu. Chị em Liên cố thức chờ tàu không phải vì để bán được
dăm ba món hàng, mà để được chìm đắm trong những cảm xúc mãnh liệt nhất về một “Hà Nội xa
xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Hà Nội ấy từng đựng đầy những kỉ niệm thân thương về
một thời gia đình còn khấm khá, Hà Nội ấy trong tâm thức hai đứa trẻ là miền không gian đẹp vô tận
và bạt ngàn niềm vui. Vì lẽ đó mà đoàn tàu vừa như một tia hồi quang đưa hai chị em ngược dòng về
quá khứ, vừa như một tia vọng quang thắp sáng cả tương lai. Nhưng nhìn ở một góc nào, phải chăng
chính đoàn tàu lại càng tô đậm cuộc sống bế tắc của người nông dân, khi mà niềm vui lớn nhất trong
ngày của họ chỉ là chờ tàu, chẳng thể làm gì hơn để vượt thoát khỏi không khí tù đọng cứ ôm trùm
ấy. Qua đây, nhà văn muốn gửi một thông điêp: Cần phải thay đổi xã hội để cho những con người vô
danh kia không phải sống vô nghĩa.

Hấp dẫn ta ở thiên truyện không chỉ bởi những nội dung tư tưởng sâu sắc thấm thía, tình cảm nhân
đạo nồng nàn, mà còn ở những yếu tố nghệ thuật mang đậm phong cách Thạch Lam. Không xây
dựng một cốt truyện bề thế hay một tình huống độc đáo li kì, “Hai đứa trẻ” chỉ như một “bài thơ trữ
tình cảm thương” với những dòng tâm trạng đan xem, những chi tiết nhỏ lẻ, đủ gợi dư âm dư ảnh
trong lòng bạn đọc. Tình huống Thạch Lam xây dựng không phải tình huống nhận thức, tình huống
hành động, mà là tình huống tâm trạng – những dòng tâm trạng men theo lối chữ mà trải đều ra
trên trang giấy. Nhân vật vì thể cũng là nhân vật tâm trạng. Liên hiện lên là một cô bé có những xúc
cảm mong manh mơ hồ, chứ không phải những dòng tâm lí phức tạp như nhân vật của Nam Cao.
Giọng văn vì thế cũng chỉ là giọng tâm tình thủ thỉ, ngôn ngữ nồng nàn chất thơ, mang đúng “cái
tạng” của Thạch Lam.

Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người, vì cuộc đời, nghệ thuật đích thực là nghệ thuật
biết lấy chất liệu từ cuộc ống và con người để dệt nên những trang văn sâu sắc trong tư tưởng, độc
đáo trong hình thức thể hiện. Một lần nữa Thạch Lam đã làm được điều đấy qua “Hai đứa trẻ”.
Thạch Lam mãi là nhà văn đáng được yêu thương và trân trọng nhất trong làng văn học hiện đại Việt
Nam.
3 TAM HON LIEN

Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn nhân vật Liên – Hai đứa trẻ

Trong truyện ngắn nhà văn luôn chọn một nhân vật để làm điểm nhìn
cho tác phẩm của mình. Tất cả những sự kiện, tình tiết hay biến cố
đều được nhìn nhận và đánh giá qua góc nhìn của nhân vật ấy. Nếu
như Nguyễn Thi chọn điểm nhìn qua nhân vật Việt trong truyện ngắn
Những đứa con trong gia đình thì Thạch Lam chọn nhân vật Liên để
nhìn nhận sự kiện tình tiết trong tác phẩm Hai đứa trẻ. Qua đó ta
thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Liên – một cô gái vẫn còn rất nhỏ
nhưng sớm thấm nhuần được sự cực khổ của miền quê mình.

Chọn Liên là điểm nhìn tác phẩm nhà văn cho thấy dụng ý của mình.
Tại sao lại không chọn An một trong hai nhân vật chính của truyện.
Điều này cũng rất dễ lý giải bởi vì An còn quá nhỏ thì không thể nào
cảm nhận được hết những hiện thực diễn ra. Hay cũng không thể
chọn chị Tý hay Bác Siêu vì họ mải mê kiếm tiền và không hiểu hết
được những cảm nhận của hai đứa trẻ. Vậy cho nên chỉ có thể là
Liên.

Chính cuộc sống và hoàn cảnh gia đÌnh đã khiến cho Liên có một vẻ
đẹp tâm hồn nhất định. Liên trước kia sống ở Hà Nội và có một cuộc
sống khá đày đủ nhưng do cha thất nghiệp nên cả nhà phải dọn về
quê ngoại sinh sống tại đây Liên được trải qua cuộc sống mưu sinh
cho nên sớm hiểu chuyện và cảm nhận được những vất vả của cuộc
đời con người. Có lẽ chính vì thế mà Liên hình thành những vẻ đẹp
tâm hồn mình một cách hoàn thiện nhất.
Trước hết Liên là một cô gái nhạy cảm. Là một cô gái còn nhỏ và sớm phải
bước vào cuộc sống mưu sinh, sống nơi phố huyện nghèo ảm đạm Liên
cảm nhận được rất nhiều thứ. Có thể nói chỉ những người có tâm hồn
nhạy cảm mới cảm nhận được cái buồn phảng phất của cảnh tượng phố
huyện. Cảnh tượng phố huyện cứ hiện lên qua con mắt của Liên, nói cách
khác Liên đang dẫn người đọc bước đi cùng dòng thời gian từ cảnh chiều
tàn, chợ tàn cho đến đêm tối và đoàn tàu từ Hà Nội về.
Cảnh phố huyện khi chiều về với tiếng trống thu không trên cái chòi của
phố huyện văng ra để gọi buổi chiều và những hình ảnh của dãy tre làng,
mặt trời đỏ rực. Không chỉ có màu sắc mà bức tranh phố huyện nghèo còn
hiện lên với những âm thanh như tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái kêu ran
ngoài đồng hay nhịp điệu chiều về qua câu văn “chiều, chiều rồi”. Tất cả
những điều ấy được nhìn qua ánh mắt của Liên, cảm nhận bằng giác quan
của Liên. Phải nói Liên quả thật là một cô gái nhạy cảm lắm mới có thể
cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên quê hương đẹp êm ả như ru
đến như thế. Không những thế bức tranh ấy giống như một bức họa đồng
quê giản dị đơn sơ mộc mạc nhưng lại đậm chất thơ và nhạc. Tuy nhiên
bức họa đồng quê ấy cũng mang một nét buồn phảng phất “Liên không
hiểu sao lòng mình buồn man mác”. Trước hình ảnh thiên nhiên của phố
huyện Liên cảm thấy lòng mình buồn. Tại sao ư? Có lẽ là tại cảnh tượng
đó đẹp nhưng nó ấn định cái nghèo, xơ xác, cái tiêu điều trên từng cảnh
vật khiến cho tâm trạng của Liên thấy buồn man mác.

Không những thế đến cảnh chợ tàn điểm nhìn Liên lại cho ta thấy được
những cảnh tượng của rác rưởi vỏ bưởi vỏ thị. Đặc biệt chi tiết thể hiện rõ
sự nhạy cảm của tâm hồn Liên chính là chi tiết Liên cảm nhận được cái
mùi âm ẩm bốc lên. Đó có lẽ là mùi của đất cát và đó cũng chính là mùi
quê hương.

Đến đêm tối về Liên cảm nhận được những hột sáng, khe sáng leo lắt phát
ra từ đèn của bác phở Siêu hay ngọn đèn chị Tý. Nhưng những ánh sáng
ấy cũng không thể nào xua tan đi được bóng tối. “Tối hết cả đường từ nhà
ra sông”. Thế nhưng tâm hồn Liên vẫn cứ ngập tràn trong ánh sáng của
“những ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Và cứ thế “một đêm mùa hạ êm như
nhung và thoảng qua gió mát” đã thể hiện sự nhạy cảm trong tâm hồn
Liên.

Hay khi ánh đèn của xe lửa về, Liên cảm nhận được sự sang trọng trong
những toa có điện sáng trưng và những người lố nhố trên đó. Nó khiến cho
Liên được an ủi và nhớ về những kỉ niệm khi còn được sung túc. Phải nói
Liên nhạy cảm lắm thì mới có thể lấy niềm vui từ ánh sáng của chiếc xe
lửa để nhớ lại những kí ức đẹp của tuổi thơ.

Không chỉ là một cô gái nhạy cảm Liên còn là một cô gái giàu lòng yêu
thương con người. Cụ thể là chị thấy hình ảnh những đứa trẻ nghèo lang
thang lom khom nhặt nhạnh những mảnh nứa mảnh tre còn sử dụng được.
Nhìn thấy chúng Liên thương lắm nhưng hoàn cảnh của Liên cũng chắng
hơn gì chúng nó. Liên thương bà cụ Thi điên nên đã rót đầy cốc rượu cho
bà. Đó chỉ là một cử chỉ nhỏ để Liên xót thương cho số phận một người
đàn bà đã già mà không nơi nương tựa. Không chỉ vậy Liên còn thương
cho mẹ con chị Tý sáng vất vả mò cua bắt tép chiều tối về lại dựng quán
nước bán tới tận đêm. Liên thương gia đình bác Xẩm hát rong nhưng chưa
hát vì không có khách hay bác Siêu dọn gánh hàng nhưng cũng chưa ai ăn
vì theo Liên thì phở của bác là một món quà xa xỉ tại nơi phố huyện nghèo
này. Có lẽ chính hoàn cảnh đã khiến cho Liên đồng cảm với những số
phận con người ấy.

Vẻ đẹp tâm hồn còn được thể hiện qua khoảnh khắc cố thức đợi đoàn tàu
từ Hà Nội về. Cụ thể là nét đẹp của một cô bé sống trong hoàn cảnh khó
khăn nhưng vẫn luôn nhớ về quá khứ và hướng tới một tương lai tươi
sáng hơn. Nếu như những người dân trong phố huyện đợi đoàn tàu về để
kiếm thêm vài đồng mưu sinh thì chị em Liên đợi đoàn tàu về để hưởng lấy
thứ ánh sáng mà phố huyện này không có. Đoàn tàu như thắp sáng cho
niềm tin về một tương lai đầy ắp ánh sáng hi vọng ấy. Đoàn tàu cũng gợi
nhắc cho Liên về một quá khứ với ban đêm đi chơi bờ hồ được ăn những
cốc kem xanh đỏ mát lạnh.

Có người nói đó ước mơ của Liên, có phần rõ ràng hơn so với những
người dân phố huyện. Nhưng đó phải là ước vọng, vì ước mơ sẽ hướng
đến tương lai, còn ước vọng sẽ chỉ là quá khứ. Xét đến cùng Liên cũng
vẫn giống họ, dù có mong chờ thật nhưng cũng chẳng dám nhìn xa đến
tương lai. Vậy nên, Liên thương người dân phố huyện, Thạch Lam lại
thương Liên. Ông nhìn thấy chiều sâu khao khát của nhân vật, để nó le lói
lên, trỗi dậy theo bản năng nhưng vẫn không thể để Liên có sự bứt phá
được. Đó không phải là hạn chế của Thạch Lam mà là hạn chế chung của
cả thời đại, cả một giai đoạn văn học như thế.

Cuối cùng bao khao khát về cuộc đời, về thứ ánh sáng mà con tàu lao qua
phố huyện, thứ ánh sáng khác hẳn với ngọn đèn của chị Tí… lại trở về
trong tĩnh lặng. Liên để mọi thứ lắng lại trong bóng đêm tĩnh mịch và
những khoảng lặng mơ hồ rồi chìm trong giấc ngủ. Phố huyện lại trở về với
những gì vốn có của nó: yến ắng, buồn tẻ, ngưng đọng. Có chăng nỗi ước
vọng của Liên hằng đêm phần nào sẽ “khuấy động” cái “ao đời bằng
phẳng” ấy trong tác phẩm.

You might also like