You are on page 1of 18

Đề 1: Bức tranh thiên nhiên, cảnh vật trong “Hai đứa trẻ” từ đó nói lên vẻ đẹp phong cách

Thạch Lam
Nguyễn Tuân từng nói “Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách
điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc…Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái
kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và tầng trải về sự đời”. Qủa thật, văn Thạch Lam
mang một phong cách đặc biệt, thể hiện tài năng, sở trường sáng tạo nghệ thuật độc đáo.
Phong cách sáng tác đặc biệt theo lối kể chuyện tâm tình, giản dị nhưng sâu sắc, thâm
trầm. Một trong những tác phẩm nổi bật lên phong cách sáng tác của ông là truyện ngắn
“Hai đứa trẻ”. Độc giả không khỏi ấn tượng với bức tranh thiên nhiên, cảnh vật thể hiện
hiện thực cuộc đời buồn tẻ, vô vọng ở phố huyện nhỏ được phác họa bằng ngòi bút tài
hoa của nhà văn Thạch Lam.
Thạch Lam được đánh giá là một hiện tượng đặc biệt có sở trường về truyện ngắn trong
nền văn học lãng mạn ở giai đoạn 1930 – 1945. Ông sở trường về truyện ngắn, có cái
nhìn rất tiến bộ về văn chương. Văn phong của Thạch Lam trong trèo, nhẹ nhàng, gợi
cảm. Và đằng sau những trang văn tinh tế đầy cảm xúc ấy là tấm lòng trắc ẩn đối với
những kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được in trong
tập “Nắng trong vườn”. Truyện không có cốt truyện mà chỉ là thế giới tâm hồn của hai
đứa trẻ Liên và An thay mẹ trông coi một gian hàng xén, đêm đêm thức đợi chuyến tàu từ
Hà Nội về.
Trước hết phong cách Thạch Lam được thế hiện qua giọng văn giàu chất thơ cùng các chi
tiết nghệ thuật giàu sức gợi, để miêu tả bức tranh thiên nhiên phố huyện nghèo trong
khoảnh khắc ngày tàn quen thuộc, tàn lụi qua cái buồn thấm thía của Liên. Ngay từ
những dòng đầu tiên, bức tranh thiên nhiên trong Hai đứa trẻ đã được tác giả thể hiện trên
cả hai phương diện là không gian và thời gian. Thiên nhiên hiện hữu trong khoảng thời
gian về chiều tối và trong không gian với không khí êm ái, tĩnh lặng của một buổi chiều
êm ả. Khi “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ” vang lên từng tiếng một
thì cũng là lúc thời gian về chiều được gọi đến với rất nhiều những hình ảnh ấn tượng.
“Tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” hay “tiếng muỗi vo ve
trong nhà” tạo nên một bản nhạc đồng quê rất quen thuộc khi chiều về. Đó là âm thanh
của làng quê Việt Nam ngàn đời. Tuy nhiên, Thạch Lam đã miêu tả âm thành từ to đến
nhỏ, từ không gian rộng lớn của phố huyện, rồi thu nhỏ vào “trong nhà”. Tính chất những
âm thanh không gợi ra sự vui nhộn, rộn rang, huyên náo mà trái lại nó rời rạc, yếu ớt.
Cụm từ “tiếng trống một” của tiếng trống thu không gợi nên sự mệt mỏi, lịm dần, tan vào
khoảng không khô khốc. Tiếng muỗi vo ve tù túng, ngưng đọng của không gian. Nghệ
thuật lấy động tả tĩnh, dùng âm thanh để thể hiện sự ngưng đọng, yên lặng của phố huyện
khi chiều về. Bức tranh thiên nhiên được miêu tả bằng màu sắc của một bức họa đồng
quê rất quen thuộc. Đó là hình ảnh “phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây
ánh hồng như hòn than sắp tàn” để rồi chính cái ánh hồng đó làm cho “dãy tre làng trước
mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Màu sắc thân quen của hoàng hôn ở làng quê.
Tuy nhiên màu, đường nét có sự vận động từ ánh sáng đến bóng tối, từ những gam màu
rực rỡ, tráng lệ xa xôi nơi chân trời đến màu tối sẫm nơi lũy tre làng khiến cảnh cùng tàn
lụi dần. Bức tranh phố huyện chiều tàn được, Thạch Lam miêu tả như một bài thơ trữ tình
đượm buồn:” Chiều chiều rồi, một chiều êm ả như ru”. Điệp từ “chiều” nhấn mạnh thời
gian chiều buông trong niềm khắc khoải của hai đứa trẻ. Nghệ thuật so sánh “như ru”, kết
hợp với từ láy “êm ả” gợi ra khung cảnh thiên nhiên yên tĩnh, êm đềm, quen thuộc. Miêu
tả không gian chiều về, Thạch Lam không chỉ dùng thị giác, thính giác, mà những mùi vị
quen thuộc của đồng nội được cảm nhận bằng khứu giác “một mùi âm ẩm bốc lên”, mùi
cát bụi quen thuộc quá”. Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế mà thấm thía vừa thể hiện tâm
trọng và sự gắn bó của Liên với phố huyện mà còn thể hiện tình yêu thương của Thạch
Lam với mảnh đất quê hương. Bức tranh thiên nhiên chiều về quen thuộc, gần gũi, bình
dị nhưng cũng rất đỗi thơ mộng. Cảnh vật từ sáng đến tối, âm thanh từ xa đến gần, từ to
đến nhỏ. Qua đó thể hiện sự tàn lụi của thiên nhiên, cảnh vật và đồng thời nổi bật lên tâm
hồn tinh tế, nhạy cảm, trong trẻo của Thạch Lam.
Khung cảnh thiên nhiên còn được phác họa qua hình ảnh chợ tàn. Cảnh chợ tàn với người
qua lại cũng khiến con người ta không khỏi suy ngẫm. Chợ là không gian sinh hoạt quen
thuộc của cuộc sống con người, không gian văn hóa, không gian cộng đồng để giao lưu,
trao đổi, không gian để phóng chiếu chất lượng cuộc sống ở mọi nơi. Trong văn chương,
hình ảnh những phiên chợ cũng được đi vào trong thơ Nguyễn Trãi “Lao xao chợ cá làng
ngư phủ”. Thạch Lam lựa chọn phiên chợ quê tàn lụi để phản ánh cuộc sống nghèo khổ.
Phiên chợ đã vãn từ lâu, người về hết, tiếng ồn ào cũng mất. Sau phiên chợ thì “trên đất
chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía” đã làm cho cảnh vật xuất hiện dù trong
cái không khí êm ái, tĩnh lặng của một buổi chiều êm ả, man mác nhưng lại lụi tàn, héo
úa. Tác giả đã miêu tả sự lụi tàn của phiên chợ qua âm thanh và hình ảnh. Âm thanh thì
tuyệt nhiên không có. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã thể hiện một phiên chợ tàn lạnh
ngắt, im lìm. Cái còn lại chỉ là những thứ bỏ đi: rác rưởi, lá nhãn, lá mía,…Nghệ thuật
liên kết nhưng không phải là những mặt hàng phong phú, nhiều màu sắc, trái lại chỉ là vỏ
bưởi, vỏ thị. Nhấn mạnh sự tiêu điều, xơ xác, đói nghèo. Dường như, khi chọn cái khoảnh
khắc của một ngày dần tàn vào thời điểm hoàng hôn, cảnh vật của phố huyện mỗi một
phút giây lại bị bóng tối dần chế ngự. Bóng tối ấy cứ dần dần lan tỏa khắp nơi để rồi tất
cả mọi thứ nơi phố huyện cứ lặng lẽ, âm thầm bị bao phủ bởi thứ bóng tối đáng sợ ấy.
Phong cách Thạch Lam còn được thể hiện qua bức tranh phố huyện lúc đêm xuống, được
tác giả xây dựng bằng hai mảng màu sáng tối, là thủ pháp đặc trưng của văn học lãng
mạn, gợi ra một khung cảnh để lại ấn tượng trong lòng lòng người đọc. Với giọng văn
giàu chất thơ, đầy lòng cảm thương Thạch Lam miêu tả cảnh thiên nhiên và cuộc sống
con người tăm tối, nghèo khổ, tù túng và mỏi mòn. Thiên nhiên, cảnh vật được cảm nhận
qua tâm hồn của Liên, thơ mộng và buồn man mác. Điểm nhìn của tác giả từ không gian
bao la của bầu trời đêm đến mặt đất tù đọng, tăm tối. Đêm mùa hạ “êm như nhung” câu
văn mở đầu cảnh đêm tối chủ yếu là tính từ và điệp từ “đêm” cùng nghệ thuật so sánh
“êm như nhung”. Không gian phố huyện về đêm êm đềm, tĩnh lặng và thơ mộng. Bầu trời
đêm với “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”, “vũ trụ thăm thẳm bao la”.
Qua tâm hồn của Liên, bầu trời đêm rất thơ mộng, thăm thẳm, xa xôi và bí ẩn. Thể hiện
tâm hồn trong trẻo, ngây thơ của những đứa trẻ. Ánh sáng bầu trời đêm quá xa xôi, không
đủ để chiếu sáng làm bừng lên không gian của phố huyện. Đối với không gian ở mặt đất,
Thạch Lam sử dụng nghệ thuật đối lập của chủ nghĩa lãng mạn. Thạch Lam miêu tả ánh
sáng và bóng tối trong thế đối lập. Bóng tối ở phố huyện hiện lên thông qua hình ảnh
“đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra
sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Chỉ với
hai câu văn ấy thôi nhưng người đọc có thể mường tượng ra cảnh bóng tối hiện diện ở
khắp mọi nơi, bóng tối bao trùm lên tất cả, mỗi lúc càng trở nên đặc quánh hơn. Câu văn
ngắn dài đan xen tạo nhịp điệu khiến câu văn giàu chất thơ. Trên cái nền đen đặc ấy có sự
xuất hiện của ánh sáng từ nhiều nguồn khác nhau, đó là ánh đèn trong các hình ảnh “khe
sáng” lọt ra từ các ngôi nhà, “quầng sáng” lay động trên ngọn đèn của chị Tí, rồi thì
những “hột sáng” của các ngọn đèn vặn nhỏ, yếu ớt và thưa thớt. Sau là nguồn sáng của
bếp lửa bác Siêu “chiếu sáng một vùng đất cát”, nhạt nhòa. Rồi ánh sáng của sao trời lấp
lánh, những vệt sáng của loài đom đóm cũng góp thêm vào cái nguồn sáng trong đêm nơi
phố huyện. Tất cả những thứ ánh sáng với nhiều sắc độ và hình thù ấy đều mang một
điểm chung ấy là sự yếu ớt, le lói, mong manh, không đủ sức chiếu sáng màn đêm, xuyên
thấu màn đêm, dường như đang bị bóng đêm nuốt chửng. Những ánh sáng chập chờn ấy
chỉ tô đậm thêm cái tối tăm vô tận, cái bế tắc mù mịt của màn đêm nơi phố huyện này.
Thạch Lam muốn truyền tải một ý nghĩa rằng ánh sáng chính là tượng trưng cho những
kiếp người nhỏ bé, mong manh và lay lắt ở phố huyện. Biểu trưng cho ước mơ, khát vọng
có vẻ mong manh, mơ hồ. Còn bóng tối mênh mông, thăm thẳm chính là tượng trưng cho
cái cảnh bế tắc, quanh quẩn, tối tăm mênh mông của xã hội cũ, đang nuốt chửng những
kiếp người nghèo khổ, yếu ớt. Qua đó thể hiện sự thương cảm, xót xa cho cuộc sống quẩn
quanh, không ánh sáng, tương lai của người dân nơi phố huyện.
Bức tranh thiên nhiên, cảnh vật trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được Thạch Lam miêu tả
thông qua âm thanh, màu sắc, mùi vị,….Bên cạnh đó, cách hành văn, dẫn dắt bằng câu từ
uyển chuyển, nhẹ nhàng nhưng vẫn thấm đượm cảm xúc, tâm trạng của nhà văn về không
gian và thời gian đều góp phần giúp cho Thạch Lam tạo nên sự thi vị cho tác phẩm truyện
ngắn của mình. Không gian của một vùng phố huyện bình dị cùng với khoảng thời gian
về chiều quen thuộc đã gợi nên hình ảnh của những vùng quê dẫu còn lắm những lo toan
nhưng người dân lại sống trong sự chan hòa, thân ái. Không những thế, việc tạo nên hệ
thống hình ảnh có sự tương phản về độ tối – sáng trong tác phẩm cũng là một nét đặc sắc
về nghệ thuật miêu tả của nhà văn. Bức tranh thiên nhiên, cảnh vật trong “Hai đứa trẻ”
đầy ấn tượng với khoảnh khắc về chiều đến đêm tối đã làm nổi bật lên đó là đời sống tiêu
điều, xác xơ. Qua đó cũng thể hiện phong cách của Thạch Lam với giọng điệu trong sáng,
giản dị mà thâm trầm, sâu sắc. Ngôn ngữ giàu nhịp điệu, như một bài trữ tình đượm
buồn.
Với những lời thủ thỉ tâm tình trong Hai đứa trẻ, nhà văn Thạch Lam đã tái hiện bức
tranh thiên nhiên và đời sống con người nơi phố huyện nghèo một cách chân thực và đầy
sinh động. Chất liệu trữ tình xoay quanh tâm trạng và suy tưởng của nhân vật đã thể hiện
phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Bên cạnh đó, sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp
lãng mạn cùng với xu hướng hiện thực, nhân đạo đã tạo nên sự thành công cho tác
phẩm…

Đề 2:
Nguyễn Tuân từng nói “Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách
điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc…Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái
kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và tầng trải về sự đời”. Những tác phẩm của ông luôn
chứa đựng những tình cảm dịu dàng, lắng đọng, những lãng mạn, tinh tế của cuộc sống
thường ngày thể hiện Thạch Lam có tư tưởng nhân đạo độc đáo, sâu sắc. Một trong
những tác phẩm thể hiện tư tưởng nhân đạo của Thạch Lam là truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của tác giả đã đạt sự thành công khi tái hiện một cách chân
thực và cảm động về cuộc sống cùng cực của những kiếp người sống chìm khuất, cực
khổ tại một phố huyện tối tăm và bình lặng.
Thạch Lam được đánh giá là một hiện tượng đặc biệt có sở trường về truyện ngắn trong
nền văn học lãng mạn ở giai đoạn 1930 – 1945. Ông sở trường về truyện ngắn, có cái
nhìn rất tiến bộ về văn chương. Văn phong của Thạch Lam trong trèo, nhẹ nhàng, gợi
cảm. Và đằng sau những trang văn tinh tế đầy cảm xúc ấy là tấm lòng trắc ẩn đối với
những kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được in trong
tập “Nắng trong vườn”. Truyện không có cốt truyện mà chỉ là thế giới tâm hồn của hai
đứa trẻ Liên và An thay mẹ trông coi một gian hàng xén, đêm đêm thức đợi chuyến tàu từ
Hà Nội về.
Giá trị nhân đạo là một thuật ngữ mang giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học được
tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của các nhà văn với nỗi đau của con người, những
mảnh đời mang số kiếp bất hạnh trong cuộc sống khó khăn và nỗi niềm. Yếu tố nhân đạo
song hành cùng nhau trong mỗi tác phẩm nghệ thuật nói chung và văn chương Thạch
Lam nói riêng. Ở Thạch Lam, bên cạnh cái tài còn có cái tâm, cái tâm cực kì trong sáng,
rực rỡ, đầy tình nhân ái chiếu sáng lên đời văn và toàn bộ văn phẩm của ông. Chân tình,
chân cảm ấy đã khiến trái tim ông rung động trước đời sống kín đáo và giản dị quanh
mình, nó chi phối mọi sáng tạo nghệ thuật của ông.
Trước hết, qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn đã phản ánh một cách chân thực về cuộc
sống mòn mỏi của những con người nơi phố huyện. Tác giả đã hóa thân vào nhân vật
chính mà mình xây dựng nên để mang lại cho người đọc cảm giác gần gũi, chân thực.
Tâm trạng của Liên, cũng chính là những xúc cảm nghẹn ngào của Nhà Văn khi Thạch
Lam đặt bút viết nên câu chuyện này. Cuộc sống của chị em Liên không hề khá giả so với
những kiếp người nghèo đói nơi phố huyện. Cảnh nhà sa sút, bố Liên mất việc cả nhà
phải bỏ Hà Nội về quê, e làm hàng xáo. Chị em Liên được mẹ giao cho trông nom một
cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, hàng bán chẳng ăn thua gì chỉ là để phục vụ cho nhu cầu ít ỏi
của người dân phố huyện. Đó chỉ là những mặt hàng thứ yếu hàng ngày: mấy phong
thuốc lào, mấy bánh xà phòng, mấy cút rượu,… Sự sống của gia đình Liên cũng chẳng
hơn gì mấy đứa trẻ và mẹ con chị Tí, một nhịp sống mòn mỏi, đơn điệu và sa sút. Sống ở
một nơi mà xung quanh mình là những quấn quanh của nghèo đói, đơn điệu của cuộc
sống, chắc hẳn không ai có thể mang trong mình những tâm trạng rạng rỡ, phấn khích.
Trước cảnh chiều buông, Liên thấy lòng buồn man mác: “Liên ngồi yên lặng, đôi mắt chị
bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ
của chị”. Đó là nỗi buồn lãng mạn, đa cảm trước sự chuyển giao của thời khắc từ ngày
sang đêm, từ ánh sáng sang bóng tối. Thạch Lam đã đem cái buồn của buổi chiều quê
thấm thía vào tâm hồn để giải thích cho cái buồn của nhân vật. Trước cảnh tượng những
đứa con nhà nghèo đi kiếm sống trên mặt đất, Liên động lòng thương nhưng cũng đầy
day dứt hối hận vì chính chị cũng không có tiền cho chúng. Đó là tình thương của một
con người cùng cảnh ngộ trong kiếp lầm than. Cái nghèo, cái đói đã biến cuộc sống của
những con người nơi đây trở nên bần cùng, xơ xác hơn bao giờ hết. Liên kể về những
người sống xung quanh mình.
Dù tình cảm không được bày tỏ một cách trực tiếp nhưng qua lời kể người đọc vẫn cảm
nhận được nỗi xót xa, đồng cảm trong tâm hồn Liên. Những số phận của những kiếp
người nghèo khổ trong bóng tối cứ từ từ hiện ra trước mắt. Chị Tý ban ngày mò cua bắt
ốc, tối đến mới dọn quán nước chè, thắp một ngọn đèn dầu leo lét. Đó là một gian hàng
tạm bợ, sơ sài, được đặt hàng dưới gốc cây bàng, cạnh một đống gạch. Chị có thể mang
trên đầu, trên tay tất cả các cửa hàng của chị. Khách hàng của chỉ là mấy chủ lính lệ,
người nhà thầy thừa, phu xe, phu gạo… những người lao động khốn khổ nghèo khó như
chính thân phận của mẹ con chị Tí vậy. Và dù chả kiếm được bao nhiêu nhưng chị cũng
dọn ra từ chập tối tới tận khuya. Chỉ bằng những nét vẽ không cầu kì, chau chuốt Thạch
Lam đã kể cho người đọc nghe về một cảnh đời nghèo khó trong một kiếp sống mờ mịt,
mòn mỏi, không có ánh sáng tương lai rọi tới. Trên cái ga nhỏ ấy còn là cuộc đời của cụ
Thi điên. Cụ hiện lên qua lời kể là một bà già hơi điên và nghiện rượu – khách hàng quen
thuộc của chị em Liên. Mặc dù vậy thì mỗi khi cụ Thi điên đến mua rượu, Liên vẫn còn
nguyên vẹn cảm giác sợ hãi, và có lẽ nhân vật đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người
đọc bởi tiếng cười khanh khách và những bước chân đi lần vào trong bóng tối. Những
tiếng cười vô hồn, những chuỗi âm thanh lạc điệu vang lên giữa cái tĩnh lặng, u buồn của
phố huyện nghe thật đáng sợ. Những bước chân của người đàn bà khốn khổ chìm vào
bóng tối cũng đủ sức gợi lên một số phận bi thảm, một cuộc đời mù mịt không tìm được
lối thoát. Những cảnh đời nghèo đói, khổ đau gieo vào tâm hồn Liên những đồng cảm xót
xa. Tấm lòng của Liên hay cũng chính là tấm lòng thương cảm của Thạch Lam dành cho
những kiếp người khốn khổ. Bằng ấy con người dường như vẫn chưa đủ, điểm vào đêm
tối trên phố huyện lại là những mảnh đời cơ cực khác. Đó là thức quà của bác phở Siêu.
Gánh phở của bác Siêu tỏa mùi thơm nhưng tiếc thay đó lại là thức quà xa xỉ, nhiều tiền ở
cái phố huyện nhỏ này mà có lẽ Liên và An chẳng bao giờ dám nghĩ tới. Trong bóng đêm
đen tối ấy còn có gia đình bác Xẩm ngồi trên mình chiếu rách, cái thau sát để trước mặt,
góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng, thằng con bò ra đất nghịch nhật
những rác bẩn và tiếng hát ế ẩm bác chưa hát vì chưa có khách nghe. Chị Tí dọn hàng từ
chập tối nhưng giờ lại phe phẩy canh chuối khô đuổi ruồi bỏ trên mấy thức hàng và chỉ
mong đợi những người nhà cụ Thừa. Đó là những mảnh đời tội nghiệp, đáng thương.
Cuộc sống lặp lại đơn điệu, nhàm chán nhưng họ vẫn suy nghĩ và mong đợi cái gì đó tươi
sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ. Ước mơ càng mơ hồ, tình cảnh của họ
càng tốt nghiệp vì không biết Số phận mình sẽ ra sao. Nhìn cuộc sống quẩn quanh, bế tắc
Liên không khỏi cảm thấy buồn chán. Tuy nhiên trong sâu thẳm tâm hồn cô vẫn ngời lên
một tấm lòng cảm thông, yêu thương và trân trọng. Đó cũng chính là những cảm xúc mà
nhà văn muốn dành cho những người dân nghèo quê mình. Trong “hai đứa trẻ” người đọc
không chỉ nhìn thấy những kiếp người mù mịt, tối tăm mà còn là những vẻ đẹp khuất lấp,
cái tính người không gì có thể phai nhoà được. Bằng cái nhìn chân thực và đồng cảm sâu
sắc với những mảnh đời bị lãng quên. Thạch Lam đã tài tình phát hiện ra những nét đẹp
ngời sáng đằng sau cuộc đời bi kịch, lam lũ đó.
Ttác phẩm chất chứa những tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Nhà văn cảm thông trân trọng
những ước mơ chính đáng, bình dị của người dân nghèo phố huyện, trân trọng những
hoài niệm đẹp đẽ, xa xăm của chị em Liên. Bị giam cầm trong bóng tối và bị ám ảnh bởi
cảnh sống buồn tẻ, lầm lũi, vô vọng của những người dân nơi phố huyện, Liên nhớ về
cuộc sống tươi đẹp trong quá khứ ở Hà Nội, như thể một phản kháng hồn nhiên của tuổi
thơ. Nhìn bác nhớ Siêu, thứ quá xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được,
Liên nhớ thời mẹ còn nhiều tiền – được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh
đỏ, và kỉ niệm đó còn là vùng sáng lấp lánh, Hà Nội nhiều đèn quá. Hà Nội xa xăm, Hà
Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Quá khứ đẹp đẽ tương phản gay gắt với cái tối tăm,
mù mịt. Hoài niệm không chỉ kích thích quá khứ sống dậy mà nhen nhóm bao khát vọng
âm thầm về ngày mai, dẫu chỉ là một ngày mai mơ hồ. Đó cũng chính là lý do vì sao du
buồn ngủ đến mấy nhưng hai đứa trẻ vẫn cố thức đợi đoàn tàu qua. Hai chị em đây háo
hức, say mê dắt nhau đứng dậy ngắm nhìn đoàn tàu vụt qua. Đoàn tàu đã trở thành thế
giới lung linh và kỳ ảo, ánh sáng rực rỡ của ngọn đèn xanh biếc, sát mặt đất, các toa đèn
sáng trưng chiếu ánh sáng tỏa xuống đường…Âm thanh sôi nổi vang xa như vô tận của
tiếng còi xe lửa kéo dài theo ngọn gió xa xôi…. Một thế giới đẹp đẽ, huyên náo đối lập
với cái tối tăm, nghèo đói của phố huyện nghèo. Thế nhưng sau những hình ảnh tả thực
lại là một dụng ý của nhà văn để nói nên cái khát vọng mãnh liệt, cháy bỏng của chị em
Liên cũng là của người dân nơi đây. Đoàn tàu đánh thức trong hai đứa trẻ giấc mơ về quá
khứ- một giấc mơ đáng thương xót xa. Đợi tàu là cách để hai chị em trải nghiệm hoạt
động sôi nổi cuối cùng của đêm khuya, được sống dù chỉ là ao ước. Tàu đến rồi lại đi,
phố huyện rầm rộ bỗng chốc lại chìm vào trong bóng đêm yên tĩnh. Từ hình ảnh đoàn
tàu, nhà văn khơi dậy trong người đọc những ước mơ, khát vọng sống, những hoài niệm
quá khứ và là một khát vọng sống hướng tới tương lai tươi đẹp. Nhà văn muốn đánh thức
những người trong phố huyện nghèo, hướng họ tới ước mơ, một tương lai tươi đẹp phía
trước. Qua đó thấy được tấm lòng nhân văn cao cả của nhà văn và đó cũng chính là giá trị
nhân đạo không thể tách rời của truyện ngắn”Hai đứa trẻ”.
Người đọc không ai không xúc động khi tấm lòng bùi ngùi thương cảm kín đào, nhẹ
nhàng mà chân thành, thấm thía của nhà văn đối với những kiếp người sống quẩn
quanh,leo lét trong xã hội cũ trước cách mạng. Ở đó, ta còn thấy thái độ rất mực trân
trọng và sự đồng cảm sâu xa của nhà văn đối với những mong ước tuy mơ hồ, mong
manh và xa vời trong tâm hồn họ vì đó chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt đi
qua phố huyện. Tư tưởng nhân đạo độc đáo ấy được thể hiện trong một truyện ngắn
không có cốt truyện mà cấu tứ như một bài thơ trữ tình. Thấp thoáng sau các cảnh, các
nhân vật là hình bóng của nhà văn – một con người nhân hậu, giàu tình thương, tinh tế,
dịu dàng, nhạy cảm với nỗi buồn và cái khổ của những người dân nghèo trong xã hội cũ.

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” hội tụ những phẩm chất đặc biệt của tâm hồn tài hoa Thạch
Lam. Nhà văn đặc biệt thành công trong việc khắc họa cuộc sống con người nơi phố
huyện nghèo, khổ cực nhưng họ vẫn hướng tới ước mơ, tương lai tươi đẹp.
Đề 3: Cảnh đợi tàu trong truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
Nguyễn Tuân từng nói “Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách
điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc…Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái
kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và tầng trải về sự đời”. Quả thực đúng như vậy,
những trang văn của Thạch Lam không đi vào những biến cố mà đi sâu vào chiều sâu tâm
trạng, tình cảm của con người. Tác phẩm “Hai đứa trẻ” là sự nhạy cảm của Thạch lam
trước cảnh vật, làng quê nghèo và lòng người. Cảnh đợi tàu của hai chị em Liên và An đã
được tác giả nắm bắt những chuyển biến tinh tế, chi tiết nhất trong tâm trạng của hai nhân
vật.
Thạch Lam được đánh giá là một hiện tượng đặc biệt có sở trường về truyện ngắn trong
nền văn học lãng mạn ở giai đoạn 1930 – 1945. Ông sở trường về truyện ngắn, có cái
nhìn rất tiến bộ về văn chương. Văn phong của Thạch Lam trong trèo, nhẹ nhàng, gợi
cảm. Và đằng sau những trang văn tinh tế đầy cảm xúc ấy là tấm lòng trắc ẩn đối với
những kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được in trong
tập “Nắng trong vườn”. Truyện không có cốt truyện mà chỉ là thế giới tâm hồn của hai
đứa trẻ Liên và An thay mẹ trông coi một gian hàng xén, đêm đêm thức đợi chuyến tàu từ
Hà Nội về.
Liên và An vốn là những đứa trẻ đã từng sống ở thị thành, nhưng do bố mất việc nên gia
đình chuyển từ Hà Nội về phố huyện nghèo. Mẹ làm hàng xáo, hai chị em Liên được giao
trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ ở chợ. Cảnh vật nơi đây từ lúc chiều tà cho đến lúc về
đêm đều u tối, tĩnh mịch, ảm đạm và buồn bã. Những con người xung quanh cô cũng là
những kiếp người nghèo khổ, sống lay lắt qua ngày. Chính điều đó đã khiến cho tâm
trạng Liên luôn mang một nỗi buồn man mác thấm sâu vào tâm hồn nhạy cảm của người
con gái mới lớn. Đêm nào cũng vậy, dù buồn ngủ nhưng cả Liên và An đều cố thức để
chờ hoạt động cuối cùng của đêm, đó chính là đợi đoàn tàu khuya từ Hà Nội đi ngang
qua. Vì sao những đứa trẻ ngây thơ ấy lại phải cố gắng đợi đoàn tàu đi qua mới có thể
ngủ? Có phải chúng nghe lời mẹ dặn? Có phải cố nán lại để bán thêm phong kẹo, cái
bánh từ những người khách qua đường. Nhưng không phải “Liên và em cố thức là vì cớ
khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”.
Trong sự chờ đợi ấy chứa đựng cả những khao khát, ước mong cháy bỏng của những trái
tim trẻ thơ non nớt. Bởi vậy, An trước khi đi ngủ đã dặn chị: “tàu đến chị đánh thức em
dậy nhé” khao khát của chúng là vô thức nhưng cũng thật mãnh liệt. Chuyến tàu đi qua,
mang đến một thế giới khác, thế giới của âm thanh và ánh sáng rực rỡ. Không chỉ có chị
em Liên mà tất cả những người dân nơi phố huyện nghèo đều đợi chuyến tàu đêm đi
ngang qua. Với những người dân trong phố huyện, họ chờ tàu để bán hàng, để thêm vào
cuộc sống mưu sinh hằng ngày vài đồng lẻ ít ỏi, nhưng với Liên và An, họ thức chờ tàu
vì nguyên nhân sâu xa hơn.
Khung cảnh trước khi tàu đến hiện lên là sự ngự trị gần như tuyệt đối và sự tĩnh lặng.
Trống cầm canh đánh tung lên tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa mà chìm
ngay vào bóng tối, người thì vắng vẻ nhưng một lát sau có mấy người làm cổng ở hiệu
khách đi đón bà chủ ở tỉnh về. Trước khi tàu đến, tâm trạng của hai chị em Liên vô cùng
háo hức và xáo động. Mặc dù mi mắt An như sắp sửa rơi xuống nhưng cậu vẫn cố gượng
dặn chị gọi dậy khi tàu đến. An và Liên thức đợi tàu không phải để bán hàng, chuyến tàu
đêm là hoạt động cuối cùng của đêm khuya nhưng chuyến tàu đó là niềm hy vọng, háo
hức và mong chờ nhất trong ngày. Với tâm hồn của lũ trẻ, chuyến tàu như một trò chơi
mang đến sự mới lạ, phá tan sự im lặng, buồn chán vốn có của một ngày dài. Liên quả là
một con người có cái nhìn tinh tế, nhạy cảm. Cô quan sát cả những con người nơi đây
không gian vẫn vắng lặng, trống cầm canh đánh tung lên một tiếng khô khan càng làm
cho khung cảnh trở nên yên ắng, tĩnh mịch. Mẹ con chị Tí, gia đình bác Siêu, bác xẩm…
họ vẫn cố thức đợi tàu. Tâm hồn cô bỗng có chút mơ hồ gì đó mà chính cô cũng không
hiểu.
Trong lúc đợi tàu, Liên cứ chăm chú nhìn về hướng đường ray để rồi chăm chú nhìn ngọn
lửa xanh biếc, vểnh tai nghe tiếng còi vang lên vọng lại từ xa xôi. Khung cảnh khi tàu đến
được tác giả tập trung miêu tả âm thanh. “Hai chị em chờ không lâu. Tiếng còi đã rít lên,
và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng
trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang
trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Sự xuất hiện của
đoàn tàu tượng trưng cho niềm vui, sự sang trọng, giàu có, đối lập với bức tranh phố
huyện hiện tại. Khi dấu hiệu tàu đến xuất hiện, Liên vội vàng cuống quýt gọi An dậy. Cả
hai lo sợ nếu không nhanh sẽ bị bỏ lỡ, không kịp nhìn thấy. Nhận được tín hiệu từ chị, An
vội “nhỏm dậy”, “lấy tay giụi mắt” để cho tỉnh hẳn. “An nhổm dậy, lấy tay dụi mắt cho
tỉnh hẳn. Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói
bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”. Một hành động
thể hiện sự nhanh chóng, rất ngây thơ, đáng yêu và cũng đáng thương của một đứa trẻ
đang ngủ ngon phải tỉnh giấc. Đối với bọn trẻ chuyến tàu phải rất quan trọng và ý nghĩa
thì mới được đón nhận bằng niềm háo hức và say mê đến thế. Liên quan sát đoàn tàu từ
xa đến gần và dõi theo cho đến khi tàu đi khuất hẳn. Niềm háo hức mong ngóng đợi tàu
của hai chị em như những đứa trẻ ngóng đợi mẹ đi chợ và mang về những món quà kỳ
diệu. Và sâu xa hơn, đó là niềm mong đợi về một điều gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống
tù túng, tả nhạt thường ngày nơi phố huyện nghèo này.
Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh mông giống như một ánh
sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt, mang theo bao ước mơ và hoài bão
đi tới nơi nào chẳng rõ vậy nên hai chị em Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc
đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”. Từ không gian
hiện tại, con tàu đánh thức kí ức tươi đẹp trong quá khứ của hai chị em Liên. Đó là lúc
thầy Liên chưa mất việc, được sống ở Hà Nội. Liên “lặng lẽ theo mơ tưởng”, đoàn tàu
gợi lại những hồi ức tươi đẹp, khiến tâm hồn nhạy cảm của Liên như sống dậy biết bao
ký ức xa xôi. Khi đoàn tàu biến mất, hai chị em Liên lại trở lại với cảm giác chán
chường, buồn bẻ của cuộc sống hàng ngày. Dường như niềm vui của hai chị em vừa lóe
lên đã vụt tắt theo đoàn tàu. Tất cả thứ ánh sáng của đoàn tàu đã tan biến, giờ đây chỉ còn
lại màn đêm với ánh đèn tù mù, chiếu sáng một vùng đất nhỏ bé xíu và chập chờn đi vào
giấc ngủ của hai chị em Liên. Qua đây, người đọc cảm nhận được tâm trạng tiếc nuối, và
khát khao về cuộc sống thay đổi tươi mới của chị em Liên. Địa danh “Hà Nội” được điệp
lại khiến câu văn của Thạch Lam giàu nhịp điệu đồng thời nhấn mạnh không gian đáng
sống trong quá khứ. Tác giả sử dụng nghệ thuật liệt kê “xa xăm, sáng rực, vui vẻ, huyên
náo” đã làm nổi bật ký ức tươi đẹp về Hà Nội của Liên. Nghệ thuật tương phản giữa quá
khứ tươi đẹp và hiện tại tù túng, nghèo khổ, giữa vùng ánh sáng trong quá khứ và phố
huyện tăm tối, giữa vùng âm thanh rộn rã, huyên náo và không gian tĩnh mịch, tù đọng.
Tác giả so sánh “Con tàu như mang theo một thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn
đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ảnh lửa của bác Siêu” đã làm
nổi bật sự khác biệt của thế giới đoàn tàu và thực tại. Hình ảnh “vầng sáng ngọn đèn của
chị Tí” và “ánh lửa bác Siêu” biểu tượng cho cuộc sống leo lét, tăm tối của phố huyện.
Điệp từ “khác khoải” xác nhận một sự thật là ngoài kia có một thế giới khác, con người
cũng cần sống, một cuộc sống khác. Nhờ có đoàn tàu, Liên lại nhận thức sâu sắc hơn hiện
tại mình đang sống. Chuyến tàu đêm không chỉ là chuyến tàu của thực tại mà đó là
chuyến tàu của ước mơ, của hy vọng. Nên chị em Liên buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn cố
đợi chuyến tàu đi qua. Chuyến tàu đêm còn là thế giới của khát khao xa xôi mà chị em
Liên không thể với tới, cũng là thế giới của ký ức xa xăm không thể trở lại. Sau khi tàu đi
qua, đêm tối lại mênh mông, hai chị em mỏi mệt và chìm dần vào giấc ngủ. Đó chính là
sự trở về của thực tại cuộc sống buồn bã, tù túng, tăm tối. Qua đó nhà văn bày tỏ nỗi
niềm xót xa, thương cảm với những kiếp người nhỏ bé. “Tuy vậy đêm nào hai chị em
Liên cũng thức để đợi tàu” là một chi tiết thể hiện dù sống trong bóng tối nhưng con
người không ngừng hy vọng, ước mơ. Qua đó nhà văn trân trọng ước mơ của con người,
đánh thức con người, kéo họ ra khỏi kiếp sống mòn để hướng tới cuộc sống ý nghĩa và
xứng đáng hơn.
Là một truyện ngắn không có cốt truyện, đặc biệt nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới nội tâm
của hai đứa trẻ, đó là những biến thái mơ hồ, mong manh trong tâm trạng hai đứa trẻ
nhưng đã được cảm nhận và thể hiện thật tinh tế trong lối viết văn mềm mại, trong sáng,
giàu hình ảnh và nhạc điệu. Chỉ một âm thanh “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm
kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi” cũng đủ để ta hình dung ra cô bé Liên đang sống trong
mơ tưởng. Đó là âm thanh của chờ đợi và hi vọng nhưng cũng là dư âm của tiếc nuối.
Đặc biệt là hình ảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá
khứ tươi sáng đã mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên
một cái gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn tự” của bài
thơ trữ tình đượm buồn này. Chuyến tàu đêm khẳng định một khát vọng chân chính của
con người. Với chị em Liên, đoàn tàu như một kí ức vui, một khát vọng mơ hồ, nó chẳng
khác nào ảo ảnh nhưng lại mang niềm vui trong sáng cho những đứa trẻ ngây thơ. Với
người dân phố huyện, chuyến tàu như một ước mơ cổ tích giúp họ thêm niềm tin để cho
họ tiếp tục chờ đợi để sống. Dưới ngòi bút Thạch Lam, chuyến tàu tường chừng bình
thương nhưng ẩn sâu trong đó là tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Ông nâng niu, trân
trọng niềm vui nhỏ bé, hiếm hoi của con người và đó chính là điểm sáng trong giá trị
nhân đạo của tác phẩm. Tuy bức tranh phố huyện được vẽ lên từ những gam màu hiện
thực song Thạch Lam không quên điểm tổ vào bức tranh của mình những khát vọng cao
đẹp hướng tới cuộc sống, giúp con người dần tự ý thức giá trị bản thân, qua đó để họ
vươn tới cuộc sống có nghĩa và xứng đáng hơn.
Cảnh đợi tàu là cảnh khép lại thiên truyện vừa nhẹ nhàng, lắng đọng của Thạch Lam. Đó
là một cảnh tượng sẽ ám ảnh mãi trong tâm trí người đọc. Khép lại tác phẩm, ta vẫn thấy
bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương ấm áp mà sâu kín, về những tình cảm trắc ẩn
bình dị mà xâu xa. “Hai đứa trẻ” thực sự đã hoàn thành sứ mệnh của văn chương chân
chính khi khơi gợi ở người đọc tình cảm trong sáng và giàu ý nghĩa nhân văn.
II. CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Đề 1: Nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn khao khát những
cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm”. Qủa thật, Nguyễn Tuân là người rất mực
tài hoa, uyên bác, có đóng góp lớn cho sự phát triển nền văn học dân tộc. Nguyễn Tuân là
nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Đặc biệt ông đã khẳng định được tài
năng của mình qua truyện ngắn “Chữ người tử tù”, một tác phẩm kết tinh tài năng của
Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Sự thành công này không thể kể đến những hình tượng
nhân vật độc đáo mà nổi bật lên là hình tượng ông Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”,
một con người không chỉ có tài mà còn có cái tâm trong sáng; mặc dù chí lớn không
thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang bất khuất.

Nguyễn Tuân là nhà văn là ông vua tùy bút, là viên ngọc của nền văn học Việt Nam. Ông
là nhà văn tài hoa, cả đời đi săn tìm cái đẹp và cái thực, thích xê dịch, lịch lãm, phóng
túng và rất ngông. Phong cách của Nguyễn Tuân được gói gọn trong một chữ “ngông” tài
hoa, uyên bác, độc đáo. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” được in trong tập “Vang bóng
một thời”. Truyện ngắn khắc họa thành công nhân vật Huấn Cao - một con người tài hoa,
có tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Qua đó nhà văn thể hiện quan
niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước.
Huấn Cao là một hình mẫu lí tưởng được tuyệt đối hoá vẻ đẹp cũng chính là hiện thân
của Cao Bá Quát, một người nổi tiếng với tài viết chữ đẹp, một anh hùng dám đứng lên
chống lại triều đình phong kiến đầy bất công, mục rỗng. Là nhân vật “toàn thiện, toàn
bích” nhất trong đời văn Nguyễn Tuân. Trong văn học xưa và nay, các nhà văn thường
luôn hướng tới những hình mẫu lý tưởng. Huấn Cao chính là điển hình cho kiểu nhân vật
tài hoa nghệ sĩ, có khí phách, tầm vóc, tài hoa và sự thiện lương. Huấn Cao chính là một
đúc kết cho một lý tưởng đầy tính nhân văn của Nguyễn Tuân.
Trước tiên, vẻ đẹp của Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa. Huấn Cao tiêu biểu cho vẻ đẹp
tài hoa của người nghệ sĩ trước Cách mạng. Huấn Cao là một người nghệ sĩ tài hoa trong
nghệ thuật thư pháp. Nghệ thuật thư pháp là một môn nghệ thuật cao quý, một thú chơi
tao nhã và là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Việt Nam. Sự tài hoa trong nghệ thuật
thư pháp của Huấn Cao được thể hiện gián tiếp khi nhân vật chưa xuất hiện. Tất cả mọi
người biết đến là một người có tài “ viết chữ rất nhanh và đẹp”. Tính từ “nhanh”, “đẹp”
được nhấn mạnh qua từ “rất” đã khẳng định chữ của Huấn Cao đã đạt đến trình độ Nghệ
thuật. Vừa điêu luyện, vừa rất thần thái, tươi dáng trong chữ viết. Trong cuộc đối thoại,
quản ngục và thầy thơ lại, quản ngục đã ngờ ngợ nhận ra Huấn Cao “ Hay là cái người ở
tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không? Hình thức câu hỏi là
lời khẳng định danh tiếng ảnh hưởng và tài năng được nhiều người mếm mộ, cảm phục
và ngợi ca. Ông nổi tiếng đến mức cả một tỉnh rộng lớn đều biết về tài của ông. Ông được
mọi người hết sức kính nể. Qua đó, thể hiện niềm ngưỡng mộ, sự trầm trồ, thán phục của
quản ngục nói riêng và các người tỉnh Sơn về tài năng của Huấn Cao. Khi vào nhà lao,
nơi mất tự do, con người bị cầm tù, trói buộc, vẻ đẹp tài hoa vẫn được nhà văn miêu tả
qua tâm nguyện và hành động “biệt nhỡn liên tài”. Tài năng này được thể hiện thông qua
thái độ tôn sùng, kính trọng, ước muốn, nguyện vọng có được câu đối do ông Huấn viết
để treo trong nhà của viên quản ngục: “Chữ ông đẹp lắm, vuông lắm… Có được chữ ông
Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Mỗi lần nói về chữ Huấn Cao, câu văn của
Nguyễn Tuân và cùng là lời của quản ngục đều được dùng những từ cực tả mức độ. Cái
đẹp, cái tài hoa của chữ viết Huấn Cao đã khiến viên quan coi ngục khao khát có được,
trân quý như “ một vật báu trên đời”. Chữ Huấn Cao đã là một hiện tượng đặc biệt, con
người Huấn Cao là một thần tượng mà quản ngục đã thầm ngưỡng mộ từ lâu. Tính từ
“đẹp lắm”,”vuông lắm”, chữ vuông vắn có hình khối cân đối, hài hòa. Đó không chỉ là
chữ mà đó là cái đẹp được khai sinh. Hình ảnh so sánh giữa “chữ Huấn Cao” một sản
phẩm tinh thần với “ vật báu trên đời” là sản phẩm vật chất quý đẹp và hiếm. Làm nổi bật
sự quý giá của chữ Huấn Cao, không chỉ đẹp mà còn được coi là báu vật trên đời. Qua đó
khẳng định tài năng vượt trội của Huấn Cao.
Để có được chữ Huấn Cao cũng như sự ngưỡng mộ của mình thì quản ngục không chỉ
mất ăn mất ngủ mà còn bất chấp tính mạng để biệt đãi Huấn Cao. Quản ngục sẵn sàng
đánh đổi tính mạng của mình để thể hiện niềm ngưỡng mộ với bậc kì tài. Vẻ đẹp tài hoa
của Huấn Cao được thể hiện trực tiếp qua lời của ông Huấn và cảnh cho chữ. Nét chữ ấy
là những nét chữ “ vuông tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con
người”. Chữ Huấn Cao không chỉ thể hiện ở hình thức mà còn đẹp ở nội dung. Mỗi nét
chữ đều thể hiện khí phách, tầm vóc kì vĩ, phi thường của người cho chữ. Do đó không tự
nhiên chữ Huấn Cao được lưu truyền trong không gian, thời gian, được lưu giữ trong
lòng người và trở thành sở nguyện mà viên quản ngục sẵn sàng đánh đổi bằng cả danh
dự, tính mạng để có được. Ông Huấn ý thức được tài năng và giá trị của chữ mình. Trong
lời của ông Huấn, Nguyễn Tuân đã lí giải vì sao mà chữ của Huấn Cao lại quý bởi nó đẹp
về hình khối, hài hòa về đường nét, mang khí phách, hoài bão. Từ “tung hoành” gợi biên
độ rộng trong không gian thể hiện chí hướng bốn phương của con người, nét viết phóng
khoáng, tài hoa còn ấp ủ chí lớn, mang theo hoài bão. Sự tài hoa còn thể hiện trong cảnh
cho chữ: “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ”. Cái cao
đẹp đối lập với dơ bẩn trong ngục tù. Chơi chữ đẹp, viết chữ đẹp là một nét đẹp cao,
trang trọng nhưng lại diễn ra cái dơ dáy hôi hám của tù ngục. Tất cả thể hiện nghĩa sâu
sắc “cái đẹp có thể sản sinh từ nơi tội ác ngự trị, giữa mảnh đất chết bởi một người cũng
sắp chết”. Qua tài năng của Huấn Cao trong nghệ thuật thư pháp, Nguyễn Tuân đã ngợi
ca thú chơi chữ của người xưa, tôn vinh những nét đẹp văn hóa trong phong tục của
người Việt và đồng thời thể hiện thái độ ngưỡng mộ đối với những bậc tài hoa.
Huấn Cao còn là một người anh hung có khí phách hiên ngang. Trước khi vào tù, Huấn
Cao mang khí phách của một bậc anh hung cái thế lẫm liệt, hiên ngang, dám hành động
chống lại thế lực triều đình bất công, nhu nhược. Là chủ xướng của phong trào nông dân
khởi nghĩa, dám chống lại triều đình, chọc trời khuấy nước. Trong mắt triều đình, ông là
một người cầm đầu bọn phản nghịch. Trong mắt dân chúng ông là một anh hùng đứng lên
vì chính nghĩa, dám chống lại triều đình bảo vệ lẽ phải là hiện thân của một con người
kinh bang tế thế, bậc anh hùng cái thế. Khi vào tù, Huấn Cao mang cái dũng của người
anh hùng ung dung đường bệ, tuy thất thế nhưng vẫn hiên ngang, bất khuất. Ông vẫn giữ
được thế lực, uy quyền của mình, coi thường cái chết, bình tĩnh, ung dung sống nốt
những ngày cuối cùng của cuộc đời oanh liệt. Là một tử tù đợi ngày ra pháp trường
nhưng Huấn Cao vẫn hoàn toàn tự do về tinh thần. Ông làm những gì mình muốn và
không làm bất cứ việc gì mà mình không thích. Trước mặt ngục quan và đám lính tù bắng
nhắng chực ra oai, Huấn Cao lạnh lùng cùng sáu người tử tù “khom mình thúc mạnh đầu
thang gông xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” để đuổi rệp, cũng là để khẳng định
cái oai phong của mình. Quản ngục vào buồng giam “khép nép hỏi ông Huấn: ngài có cần
gì thêm nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”. Ông trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta
chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Đúng là Huấn Cao đã “cố ý
làm ra khinh bạc đến điều”. Thật ngang tàng và kiêu dũng. Trong cách xưng hô, đối với
quản ngục, Huấn Cao rất lạnh lùng, khinh bạc, xưng hô “ta – ngươi”. Huấn Cao ý thức
được vị trí, tài năng, nhân cách của mình, đặt mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã”
của xã hội. Đó là con người “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Rồi nữa, trong
cảnh ngộ “một ngày tù bằng nghìn thu ở ngoài”, thế mà “ông Huấn Cao vẫn thản nhiên
nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam
cầm”. Người xưa có câu “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” nhưng đối với Huấn Cao,
thay vì buồn rầu, chán nản gậm một mối câm hờn trong cũi sắt thì ôn lại thản nhiên nhận
rượu thịt và ăn uống no say, coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Một con
người tự do về mặt tinh thần nhưng lại bị cầm tù về thể xác. Huấn Cao chỉ xem nhà tù
như một chốn dung chân để nghỉ ngơi, trong tù vẫn ung dung “chạy mỏi chân thì hẵng ở
tù”. Huấn Cao dám sống là chính mình trong mọi hoàn cảnh, tính ông rất “khoảnh”,
không tùy tiện cho chữ. Không vì quyền lực, tiền bạc mà ép mình cho chữ, viết chữ” Ta
nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”, cả đời chỉ
cho chữ ba người bạn. Ý thức về nhân cách, không cúi mình trước danh vọng, quyền lực,
chỉ cúi mình trước cái tài, cái đẹp, coi trọng tình nghĩa. Huấn Cao dù thất thế nhưng vẫn
hiên ngang, thân xác bị xiềng xích nhưng tinh thần hoàn toàn tự do. Đó là phong thái, khí
phách của người anh hùng xem cái chết nhẹ như long hồng, chẳng vì biệt đãi mà bị lung
lay hay vì quyền thế mà run sợ.
Không chỉ tài hoa, khí phách, như để hoàn chỉnh bức chân dung lí tưởng Huấn Cao,
Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên nhân vật có thiên lương trong sáng. Tâm trong sáng của
Huấn Cao, thể hiện qua việc trọng nghĩa khinh lời. Bản chất lương thiện với cái tâm trong
sáng đã giúp Huấn Cao có thái độ rõ ràng với cái xấu, cái ác, dám đứng lên chống lại
triều đình xâú xa, mục rỗng. Ông luôn ý thức được tài năng của bản thân, không vì vàng
ngọc hay quyền thế mà ép mình cho chữ, ông chỉ cho những ai biết trân trọng, thưởng
thức, nâng niu cái đẹp, cái tài. “Cả đời ta chỉ mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung
đường cho ba người bạn thân.” Suốt một đời, Huấn Cao chỉ cho chữ ba người bạn thân và
giờ đây, thêm một người thứ tư cũng là người cuối cùng. Sau khi nhận ra sở nguyện chân
thành mà tha thiết của ngục quan, có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, biết giá người, biết trọng
người ngay. Huấn Cao đã hối hận và trân trọng vì đã kịp phát hiện ra “ một tấm lòng
trong thiên hạ”. Trong buồng giam tối tăm, chật hẹp, bẩn thỉu, Huấn Cao cổ đeo gông,
chân vướng xiềng sẵn sàng viết chữ tặng ngục quan kèm theo một lời khuyên chân thành
xuất phát từ cái tâm trong sáng: “Ở đây lẫn lộn, ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi…
Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương
thiện đi.” Lời khuyên chân thành hay cũng là lời khẳng định một chân lý: cái đẹp khó có
thể dung hòa với cái xấu, người tốt không thể sống và làm việc ác. Không chỉ là người
cho chữ mà nhân cách của Huấn Cao còn soi sáng đường đi cho quản ngục, cứu quản
ngục ra khỏi con đường lầm đường lạc lối. Trước lời khuyên, viên quản ngục xúc động,
nghẹn ngào và nhận thức sâu sắc về hoàn cảnh sống của mình, là một người tù chung
thân. Huấn Cao cho chữ cùng lời di huấn như đang chuyển giao một nhân cách, nhân
cách tự do, chuyển giao cái đẹp, là giây phút sinh thành của cái đẹp để nó mãi nhân lên.
Huấn Cao đã khai sáng cuộc đời tăm tối, mở ra cánh cửa để viên quản ngục bước ra khỏi
nhà tù chung thân để được về quê sống với bản chất thiên lương của viên quản ngục.
Đồng thời, hình ảnh ngục quan xúc động, nghẹn ngào “ Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”
cũng là lúc thiên lương có thể cảm hóa được thiên lương. Từ hành động cho chữ của
Huấn Cao, Nguyễn Tuân khẳng định sự lên ngôi tuyệt đối của cái đẹp. Nó có thể xuất
hiện ở bất kỳ đâu, trong mọi cảnh ngộ kể cả nơi mà ta không ngờ tới. Nó có sức mạnh
cảm hóa, thanh lọc và cứu rỗi tâm hồn con người. Cái đẹp, nó không khuất phục người ta
bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó. Cái đẹp, nó không áp đặt
con người để người ta tuân theo nó, nó vực con người ta vươn lên, tự nguyện đi theo nó
để hướng đến cái chân, thiện, mỹ.
Nguyễn Tuân rất có sự đầu tư khi xây dựng nhân vật Huấn Cao. Bởi Huấn Cao chính là
nhân vật tư tưởng của ông. Miêu tả Huấn Cao, ông dần dần phác những nét ý nghĩa về
con người và cuộc đời của một nhân vật mang tầm tư tưởng lớn. Cái xấu xa không bao
giờ trù dập nổi cái đẹp, cái tài. Huấn Cao trong tù ngục chính là nét vẽ cao khiết nhất về
sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái cao cả, phàm tục và cái dơ bẩn, thấp hèn
mà qua cảnh cho chữ giữa Huấn Cao và viên quản ngục đã thể hiện sâu sắc và rõ nét tinh
thần ấy. Đó là biểu tượng cho sự chiến thắng của cái tài, cái tâm trước cái phàm tục, dơ
bẩn, của cái khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ. Cách xây dựng tình huống
truyện độc đáo, bút pháp lãng mạn – hiện thực thủ pháp tương phản đối lập, ngôn ngữ cổ
kính, trang trọng, giàu tính tạo hình. Quan niệm thẩm mĩ tiến bộ của nhà văn, cái đẹp là
sự tổng hòa của cái tài và cái tâm. Hình tượng nhân vật Huấn Cao còn thể hiện tấm lòng
nhà văn, trân trọng tài năng, cái đẹp và văn học cổ truyền của dân tộc. Đây là lý tưởng
thẩm mĩ của nhà văn, là ý nghĩa tư tưởng của hình tượng Huấn Cao với những điều cao
đẹp mà nhà văn muốn gửi gắm tấm chân tình của mình.
Như vậy, qua hình tượng nhân vật Huấn Cao khiến cho người đọc hiểu thêm được về sự
tài hoa, uyên bác, hiểu được thế nào là cái đẹp và niềm đam mê cái đẹp. Ngoài ra, nó còn
là sự hy sinh cho cái đẹp và cái tâm thế luôn luôn bảo vệ cái đẹp. Có thể nói "Chữ người
tử tù" với bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và
góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vời của Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng là một áng văn
chương một thời vang bóng và nó mãi mãi vang bóng trong bạn đọc nhiều thời.
Đề 2: Cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn khao khát những
cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm”. Qủa thật, Nguyễn Tuân là người rất mực
tài hoa, uyên bác, có đóng góp lớn cho sự phát triển nền văn học dân tộc. Nguyễn Tuân là
nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Đặc biệt ông đã khẳng định được tài
năng của mình qua truyện ngắn “Chữ người tử tù”, một tác phẩm kết tinh tài năng của
Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Trong tác phẩm “Chữ người tử tù” thì cảnh cho chữ
chính là trung tâm của mọi giá trị nghệ thuật, nó vừa khắc họa chân dung người tử tù hiên
ngang, thi vị lại vừa thể hiện được tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Nguyễn Tuân là nhà văn là ông vua tùy bút, là viên ngọc của nền văn học Việt Nam. Ông
là nhà văn tài hoa, cả đời đi săn tìm cái đẹp và cái thực, thích xê dịch, lịch lãm, phóng
túng và rất ngông. Phong cách của Nguyễn Tuân được gói gọn trong một chữ “ngông” tài
hoa, uyên bác, độc đáo. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” được in trong tập “Vang bóng
một thời”. Truyện ngắn khắc họa thành công nhân vật Huấn Cao - một con người tài hoa,
có tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Qua đó nhà văn thể hiện quan
niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước.
Từ xưa đến nay, chơi chữ được coi là một thú chơi tao nhã của những kẻ có học thức.
Thú chơi chữ thể hiện được toàn bộ cái đẹp, cái tài năng và cả trí tuệ của người viết cũng
như người thưởng thức. Cảnh cho chữ thường được diễn ra tại những nơi trang trọng, có
đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc. Rồi từ đó những nét chũ uyển chuyển
mang trong nó cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng cũng những nét chữ uyển chuyển có
hồn ấy, Nguyễn Tuân lại cho nó sinh ra trong một hoàn cảnh khác lạ, "một cảnh xưa nay
hiếm".
Trước đêm Huấn Cao cho chữ, quản ngục và ông vẫn là những người đối địch. Quản
ngục ngưỡng mộ, biệt đãi Huấn Cao. Ngược lại, Huấn Cao chưa biết đến tấm lòng của
quản ngục nên thể hiện thái độ “khinh bạc đến điều”. Sauk hi biết được tấm lòng “biệt
nhỡn liên tài”, Huấn Cao quyết định cho chữ. Cảnh cho chữ được diễn ra trong một
không gian và thời gian vô cùng đặc biệt. Thời gian vào nửa đêm, canh khuya, lúc trại
giam chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh. Thời gian cho chữ sao cũng thật đặc biệt, đó
không phải ban ngày hay bất cứ thời điểm nào khác trong ngày mà là giữa đêm khuya
khoắt, khi bóng tối bao phủ và khi mọi người đã chìm vào giấc ngủ. Huấn Cao lựa chọn
thời điểm đặc biệt như vậy có lẽ là muốn giúp viên quản ngục tránh được những điều
tiếng không đáng có. Bởi ngục tù là nơi đầy rẫy những thị phi, những bon chen và những
trò hãm hại nhau. Huấn Cao không muốn một con người tốt đẹp như viên quản ngục bị
cuốn vào vòng xoáy của sự bon chen xấu xa ấy. Không gian cho chữ khác biệt chưa từng
thấy bởi nó diễn ra ở nhà lao tỉnh Sơn. Nơi Huấn Cao viết lên những nét chữ “vuông lắm,
đẹp lắm” không phải nơi thư phòng sạch sẽ, cũng không phải nơi phong cảnh hữu tình
như thường lệ mà lại là không gian u tối, ngột ngạt của ngục tù “ một buồng tối, chật hẹp
ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Nguyễn Tuân
đã tạo ra bức tranh đối lập giữa ánh sáng và bóng tối. Giữa cái nhơ bẩn, hôi hám với cái
thuần khiết, trong sạch. Đối lập giữa không gian hôi hám, bẩn thỉu với tấm lụa trắng tinh,
màu mực thơm, giữa bóng tối và ánh sáng rừng rực của bó đuốc. Nghệ thuật quay cận từ
xa đến gần trong thủ pháp dụng cảnh giàu chất điện ảnh, toàn cảnh không gian buồng
giam được miêu tả chân thực. Sự đối lập giữa cái xấu xa và cái ác với thiên lương với tài
hoa và khí phách của con người.
Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao - người có tài viết
chữ nhanh , đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại - những người thích chơi chữ. Họ đã gặp
nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử hình và một
bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau
nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Huấn Cao là người
cho chữ lại có thân phận của một tử tù “Một người tù cổ đeo gông chai vướng xiềng đang
dậm tô những nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Câu văn của Nguyễn
Tuân giàu sức tạo hình, như một thước phim quay chậm để thâu lại giây phút Huấn Cao
khai sinh ra cái đẹp. Cùng khoảnh khắc ấy, tài năng, khí phách và thiên lương của Huấn
Cao được hội tụ tuyệt vời trong cảnh cho chữ. Khác với cách dùng danh từ bằng tên
riêng, cụm danh từ “một người tù” nhấn mạnh người cho chữ là một tử tù trong hoàn
cảnh mất tự do “cổ đeo gông”, “chân vướng xiềng”. Nghệ thuật đối lập giữa hoàn cảnh
mất tự do với phong thái bên trong và bên ngoài. Câu văn tiếp tục mở rộng hoạt động của
ông Huấn “đang dặm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Cả nhà tù, xiềng xích, gông
cùng sụp đổ dưới chân người tử tù. Dường như chỉ có người nghệ sĩ ung dung, tự tại và
say mê sáng tác cái đẹp. Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, mang khí phách của người
anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang. Đối nghịch với Huấn Cao, người nhận chữ là
thầy thơ lại “run run bưng chậu mực” và quản ngục thì “khúm núm nhận chữ”. Thầy thơi
lại và quản ngục là người có quyền lực nhưng mất quyền uy, uy quyền thuộc về Huấn
Cao – một tử tù. Trong nhà tù, quản ngục vốn là người có quyền sinh, quyền sát trong tay
giờ đây cũng phải quy phục trước Huấn Cao. Một cảnh tượng chưa từng có bởi sự hoán
đổi hoàn toàn về ngôi vị. Người có chức năng giáo huấn tội phạm lại được tội phạm giáo
dục. Quản ngục là người cứu Huấn Cao nhưng Huấn Cao lại soi đường dẫn lỗi cho quản
ngục. Giữa những phút giây đó, không còn tồn tại mối quan hệ xã hội giữa người tử tù và
quản ngục, thơ lại, mà chỉ còn người nghệ sĩ tài hoa đang tạo ra cái đẹp - những nét chữ
uốn lượn trước đôi mắt và sự kính phục của những tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và yêu
cái đẹp.
Những dòng chữ tươi tắn uốn lượn trên tấm lụa trắng hương thơm của thoi mực đã chiến
thắng, lấn át sự lạnh lẽo, ẩm ướt chốn ngục tù tăm tối. Người tử tù vươn lên làm chủ, còn
những người vốn có quyền uy tối cao tại buồng giam lại gọi Huấn Cao bằng danh xưng
“Ngài”, “xin bãi lĩnh”, “xin lĩnh ý” đầy tôn kính và thái độ nhún nhường, khép nép cùng
hành động cúi đầu, vái lạy trước tù nhân. Với cảnh tượng cho chữ độc đáo, chốn ngục tù
đã trở thành nơi tri ngộ, gặp gỡ của những con người yêu và say mê cái đẹp. Không chỉ
dừng lại ở đó, cảnh tượng cho chữ còn thể hiện những ý niệm sâu xa ẩn chứa trong lời
khuyên của Huấn Cao dành cho viên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản
nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét
chữ vuông tươi tắn, nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người...
Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này
đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi
cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời của Huấn Cao với quản ngục vừa
là sự dặn dò của một bậc tri kỉ những cũng gián tiếp thể hiện tư tưởng nghệ thuật của
Nguyễn Tuân. Huấn Cao vừa nâng niu, trân quý quản ngục, khen mực thơm, lụa trắng
cũng là ca ngợi, ghi nhận tấm lòng đáng quý của quản ngục. Lời khuyên cũng vừa
nghiêm khắc khẳng định cái đẹp có thể sinh ra từ cái xấu, cái ác nhưng không thể chung
sống với cái ác. Huấn Cao không chấp nhận một người biết yêu cái đẹp, có thú chơi tao
nhã mà lại làm điều ác. Giữ thiên lương, giữ bản chất là điều cần làm ngay, cái tài phải
gắn với cái thiện. Lời di nguyện cùa Huấn Cao và bức chữ “vuông tươi tắn” như một bức
di chúc cuối đời. Huấn Cao ngày mai sẽ phải kết thúc cuộc đời. Hình tượng mang vẻ đẹp
bi tráng.
Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản ngục xúc động “vái người tù một vái, chắp
tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái
lĩnh”. Giây phút đốn ngộ thiêng liêng. Cảm động vì khát khao một ngày kia có được chữ
ông Huấn “giờ đã thành hiện thực”, vì sau nhiều ngày “mất ăn mất ngủ”,”biệt nhỡn liên
tài” giờ được Huấn Cao coi như tri kỷ. Nhưng cũng cảm động xót xa vì ngày mai thôi,
Huấn Cao chỉ còn là huyền thoại. Hành động “chắp tay vái người tù một vái” thể hiện sự
cung kính, là sự cúi mình của một viên quan trước tài năng, thiên lương Huấn Cao. Hành
động bái lạy thể hiện quản ngục là người biết phục thiện, biết trọng người ngay, khiêm
nhường. Hình ảnh “giọt nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào” là một chi tiết rất
đặc sắc, đó không phải là giọt nước mắt yếu đuối mà là giọt nước mắt của thiên lương,
nhân cách. Nếu như Chí Phèo “ôm mặt khóc rung rức” khi bị cự tuyệt quyền là người thì
giọt nước mắt và hành động “bái lĩnh” của quản ngục là sự quy phục hoàn toàn trước cái
đẹp. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã
hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường đến với cái chết
Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối
của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên những cái
dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững chắc
của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân-
thiện-mỹ.
Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay
chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của
Nguyễn Tuân. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến
ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Sử dụng dày đặc những từ để tạo dựng không
khí cổ xưa, phục dựng lại vẻ đẹp văn hóa đã còn sót lại. Khi xây dựng nhân vật, Nguyễn
Tuân sử dụng bút pháp lí tưởng hóa, tương phản hoàn cảnh và tính cách. Cảnh cho chữ đã
ca ngợi vẻ đẹp tài hoa, khí phách thiên lương của Huấn Cao, đồng thời trân trọng cái tài
năng, nhân cách. Qua đó thể hiện thông điệp của nhà văn, cái đẹp là bất tử trong cuộc
đời. Cái đẹp có thể sinh ra từ miêu tả cái xấu, cái ác nhưng tuyệt nhiên không lẫn lộn với
cái ác. Thể hiện lòng yêu nước kín đáo và tinh thần dân tộc sâu sắc. Thể hiện phong cách
Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác, độc đáo, sâu sắc.
Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo
của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với
những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả
cũng kín đao bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy
hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có
những tấm lòng tỏa sáng.
III. CHÍ PHÈO
Đề 1: Sự xuất hiện của Chí Phèo (đoạn văn mở đầu miêu tả tiếng chửi) trong tác
phẩm Chí Phèo (Nam Cao)

Đề 2: Tâm trạng của Chí Phèo buổi sáng hôm sau khi gặp Thị Nở (trong truyện Chí
Phèo của Nam Cao)

You might also like