You are on page 1of 12

Đề 1: Vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh

Bài làm

Trong tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao đã bày tỏ một quan niệm, triết lý nhân sinh sâu sắc:
“Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì
khác đâu.” Thế nhưng với một trái tim ấm nồng giàu tình thương và lòng bác ái, Hồ Chí
Minh đã thực sự quên đi bản thân mình mà sẵn sàng sẻ chia, đồng cảm với mọi vui buồn
sướng khổ của người xung quanh. Đây chỉ là một nét vẽ nhỏ trong muôn vàn màu sắc tuyệt
đẹp phi thường ở bức tranh tâm hồn Người. Đặc biệt, thông qua thi phẩm Chiều tối (bài số
31 từ Nhật ký trong tù), ta lại càng thấy được vẻ đẹp tâm hồn Bác một cách sâu sắc hơn
khi Người bày tỏ tấm lòng mình trước cảnh thiên nhiên miền sơn cước và đời sống sinh
hoạt ấm áp ngày thường.

Nhắc đến Hồ Chí Minh là nhắc đến vị lãnh tụ vĩ đại, người anh hùng đem ánh sáng xua đi
những đêm trường tăm tối và chiếu rọi con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Người là
vầng thái dương, là mặt trời vĩnh cửu ngự trị trong tim của mọi người con từ khắp miền Tổ
quốc. Vậy mà bên cạnh một sự nghiệp chính trị gây tiếng vang toàn cầu/lớn lao như thế,
Người còn là danh nhân văn hóa thế giới, đóng góp nhiều cho nền văn học nước nhà. Vì
vây, tuy Bác luôn khiêm tốn và chưa bao giờ nhận mình là một nhà thơ thì chỉ riêng với tập
Nhật ký trong tù thôi đã đủ chứng minh Người là tác gia lớn như thế nào rồi. Trong đó, thi
phẩm Chiều tối quả thực là một nét chấm phá đặc sắc giàu tính nghệ thuật vì đã thể hiện
giá trị nổi bật của bài thơ: bức chân dung tự họa của Hồ Chí Minh, từ đó làm bật lên tư
tưởng và những tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của Người.

Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc trong văn chương nhưng sao khi bước vào những
trang văn của Bác lại trở nên thật đặc biệt. Có lẽ là do hoàn cảnh sáng tác cũng thật đặc
biệt chăng? Khi ấy là cuối năm 1942, khi Người đang trên chặng đường chuyển lao từ Tĩnh
Tây đến Thiên Bảo vào lúc chiều tối giữa núi rừng. Trong khoảng thời gian 4 tháng đầu bị
cầm tù đầy cực khổ ấy, thật hiếm có một người nào chân bị xiềng, tay bị xích, nhiều khi phải
lặn lội tới “năm mươi ba cây số một ngày” mà vẫn có thể rung cảm trước vẻ đẹp của thiên
nhiên, vẫn ung dung, lạc quan, kiên cường và đặc biệt còn chia vui với nỗi niềm nhỏ bé của
người dân lao động ven đường. Nói cách khác, đây chính là những biểu hiện cho vẻ đẹp
tâm hồn Hồ Chí Minh, một tinh thần nhân ái nâng niu tất cả mà chỉ quên chính mình.

Vẻ đẹp đó hiện lên xuyên suốt bài thơ. Và ngay từ hai câu đầu ta đã có thể thấy được tình
yêu thiên nhiên và phong thái ung dung, tự tại đậm đà tư chất của một người nghệ sĩ, thi sĩ
giàu rung cảm.

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ


Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ


Tầng mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Có thể thấy từ nhan đề của bài thơ, “Chiều tối” - một thi đề cổ điển quen thuộc khơi nguồn
cảm hứng không bao giờ vơi cạn cho con người. Vì vậy mà thi nhân cũng đã mở đầu tác
phẩm của mình bằng hai câu thơ viết về bức tranh thiên nhiên chiều muộn nơi núi rừng.
Cảnh thiên nhiên lúc chiều tàn được hiện lên thật đẹp và êm ả, thanh bình nhưng cũng thật
buồn và tĩnh lặng, quạnh vắng.

Buổi chiều đối với vạn vật thường là lúc đoàn tụ, nhưng cũng là khi con người ta thấy vô
cùng cô đơn nếu không có một chốn để về. Cánh chim mỏi sau một ngày kiếm ăn cũng đã
bay về tổ của mình, với động lực thúc đẩy và mục đích là trở về nơi nghỉ ngơi. Và nếu như
trong thơ ca cổ điển xưa nay vẫn hay sử dụng thủ pháp lấy không gian để miêu tả thời gian
nên trong cảnh chiều muộn thường xuất hiện hình ảnh cánh chim:

“Chim hôm thoi thóp về rừng”


(Nguyễn Du)
“Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”
(Huy Cận)

thì thơ ca của Bác cũng có hình ảnh “cánh chim bay mỏi” nhưng lại mang những sắc thái
thật riêng biệt. Cánh chim trong thơ Bác không hề nhuốm màu sắc ước lệ, không hướng
đến sự Mệt mỏi, trầm buồn, kết thúc như thơ xưa mà gắn liền với sự quan sát rất thực của
người tù cách mạng khi ngước lên bầu trời lúc chuyển lao. Trong con mắt mang theo tâm
trạng của Bác, cánh chim ấy là biểu tượng của sự Tự do, rộng mở và chứa chan lòng bác
ái. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày
đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm
quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.

Có thể thấy, giữa chủ thể trữ tình với hình ảnh cánh chim có nét tương đồng ở chỗ là đều
mỏi mệt, chim tiếp tục bay, người tù tiếp tục đi, nhưng lại có nét tương phản ở chỗ chim cố
gắng bay để được về tổ ấm, còn người tù tiếp tục đi cũng chỉ đến một nhà lao khác mà thôi.
Người tù chẳng có động lực thúc đẩy. Nếu không có bản lĩnh thì rất dễ mệt mỏi, chán nản.
Mặt khác, khi nhìn cánh chim bay về núi lúc chiều tối làm sao Bác khỏi chạnh lòng. Có lẽ
Người rất nhớ đất nước, nhớ đồng bào. Hình ảnh cánh chim chiều vừa mang ý nghĩa không
gian, vừa mang ý nghĩa thời gian, gợi sự liên tưởng đến hoàn cảnh của người tù đang trên
đường bị giải đi trong trạng thái rã rời, mệt mỏi, từ đó gửi gắm ước mơ trở về.

Song song với cánh chim là hình ảnh chòm mây lẻ trôi lững lờ giữa tầng không. Cũng như
cánh chim sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi bay về tổ để nghỉ ngơi, đám mây cũng như muốn
ngừng hoạt động. Tuy nhiên, bản dịch thơ “chòm mây trôi nhẹ” chưa hoàn toàn lột tả được
hết ý so với nguyên tác khi hình ảnh “cô vân” miêu tả một làn mây lẻ loi, đơn côi gợi nỗi
buồn cô quạnh của cảnh chiều còn Từ “mạn mạn” nghĩa là chầm chậm, uể oải lững lờ trôi.
Thay vào đó, bản dịch thơ lại khiến cho hình ảnh chòm mây không còn giữ nguyên ý là một,
là cô đơn, duy nhất như trước và cũng làm giảm đi nỗi buồn của con người. Đúng là tâm
trạng của một tù nhân vào buổi chiều tà nơi xa xứ bởi “người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ.” Buồn vì xa Tổ quốc, quê hương, bạn bè đồng chí trong khi Cách mạng đang chờ, buồn
vì mất tự do không biết bao giờ mới được ra khỏi tù: ”Người trong cảnh ấy, cảnh trong tình
này.” Chưa kể cảnh ngộ trong bài thơ Chiều tối của Bác còn là điểm tiếp nối hai sự đọa đày
của người tù: sự đọa đày ban ngày chưa qua, sự đọa đày ban đêm đã chờ đón phía trước.
Trong hoàn cảnh như vậy mà Bác vẫn hướng ánh nhìn yêu thương, trìu mến trước những
biểu hiện nhỏ nhoi của tạo vật, của sự sống, chứng tỏ Người phải có một tấm lòng giàu xúc
cảm và một nghị lực phi thường, cứng cỏi đến nhường nào.
Như vậy, chỉ với vài nét chấm phá cùng bút pháp tả cảnh ngụ tình, dùng điểm vẽ diện, lấy
tĩnh tả động độc đáo của thơ cổ, Bác đã vẽ nên một không gian bát ngát, cao rộng, gợi
không khí êm ả, thanh bình vào lúc trời chiều đồng thời bộc lộ vẻ đẹp của một tâm hồn thi
sĩ, nghệ sĩ say mê trước cảnh thiên nhiên (chất tình), một nhà hiền triết với phong thái ung
dung, tự tại và một chiến sĩ cách mạng với ý chí kiên cường, vượt lên khỏi hoàn cảnh nghiệt
ngã của mình (chất thép).

Chính vì bản lĩnh kiên cường, tấm lòng nhân đạo sẵn sàng gạt bỏ nỗi khổ lớn của mình
sang một bên như vậy mà Người có thể chia vui với cảnh lao động, với cuộc sống sinh hoạt
trần thế giản dị của giai cấp cần lao. Đây là biểu hiện của tinh thần nhân ái bao la với nhân
loại, một viên ngọc sáng trong vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh.

"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,


Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng."

(Cô em xóm núi xay ngô tối,


Xay hết, lò than đã rực hồng.)

Đến hai câu thơ này, bức tranh trữ tình về cảnh trời mây đã nhường chỗ cho bức tranh sinh
hoạt gần gũi và ấm áp của con người. Câu thơ chỉ là một lời kể bình thường nhưng ý thơ thì
sinh động và đẹp đẽ biết bao! “Xóm núi” là hình ảnh tả thực giản dị biểu tượng cho sự sống
bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ
đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm
điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu
nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa khi thiên
nhiên thường vắng bóng con người hoặc con người được đẩy ra xa, bị vùi lấp, che khuất để
làm nền cho cảnh vật như hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú


Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Còn Bác thì đưa hình ảnh cô gái lao động lên vị trí trung tâm, đẩy lùi về phía sau nền trời
chiều với cánh chim bay mỏi và làn mây trôi nhẹ. Không chỉ vậy, nếu như người phụ nữ
trong thơ xưa thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép
kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ thì người thiếu nữ trong thơ Bác gắn liền với công việc
lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống, góp phần làm nên vẻ đẹp lung linh
cho bức tranh. Với dụng ý như vậy thì bản dịch thơ “cô em xóm núi” đã không thể hiện được
cái nhìn trân trọng của tác giả cũng như làm mất đi màu sắc tươi trẻ, khỏe khoắn, căng tràn
nhựa sống của người thiếu nữ ở tuổi đẹp nhất của cuộc đời.

Cùng với sự làm việc miệt mài không ngừng nghỉ của cối xay ngô là sự chảy trôi lặng lẽ của
dòng thời gian. Từ cảnh trời chiếu chẳng mấy đã chuyển sang một màu tối mịt khi ngô vừa
xay xong là lò than rực hồng được bàn tay người thiếu nữ nhen lên. Điệp ngữ liên hoàn
(điệp ngữ vòng) “ma bao túc – bao túc ma hoàn” đã cho ta cảm nhận được thời gian đang
vận động, đang xoay vần theo từng vòng quay của chiếc cối. Tài hoa của thi nhân ở đây là
không cần phải sử dụng bất kỳ một chữ “tối” nào trong bài để miêu tả và chỉ ra không gian,
thời gian xung quanh nhưng chúng ta vẫn có thể nhận thấy được điều đó thông qua chữ
“hồng” - nhãn tự của bài thơ. Ở đây, tác giả đã dùng ánh sáng để nói về bóng tối. Đó là một
thủ pháp rất quen thuộc của thơ ca cổ điển. Song bản dịch đã đưa chữ “tối” vào làm giảm
tính hàm súc và vẻ đẹp cổ điển tinh tế đậm màu sắc rất Đường, Tống này của hình ảnh bài
thơ. Theo như nguyên tác, chữ “hồng” đã thực sự tiếp thêm sức sống, là điểm hội tụ của
bức tranh Chiều tối, đem đến cái thần cho thi phẩm tuyệt tác này. Đúng như Hoàng Trung
Thông đã nhận xét: “Với chữ “hồng” đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn
nữa đâu, mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô
gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ tình cảm Bác.” Như vậy chữ “hồng” rất xứng đáng là “ông
thánh thứ hai mươi tám” của bài thơ. Ánh hồng ấy không chỉ tỏa ra từ chiếc bếp lửa bình dị
của một “sơn thôn thiếu nữ” mà chủ yếu được tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan
của Hồ Chí Minh.

Qua bốn câu thơ của thi phẩm Chiều tối, ta không chỉ thấy được sự vận động của thời gian
mà còn cả trong hình tượng nghệ thuật đến tư tưởng, tình cảm của bài thơ. Đó là những
chuyển biến hết sức bất ngờ trong cảm xúc và mạch vận động khỏe khoắn từ chiều đến tối,
từ cảnh núi rừng lạnh lẽo, cô đơn đến bức tranh đời sống sinh hoạt ấm áp của con người,
từ âm u đến ánh sáng, và từ buồn đến vui “một cái vui tràn đầy trong cuộc sống” (Hoài
Thanh). Để mà từ đó ta khám phá ra được một nét nổi bật trong tư tưởng và phong cách
nghệ thuật Hồ Chí Minh là dẫu ở trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa thì sự kết tụ cuối cùng
của hồn thơ vẫn là niềm vui, ánh sáng và sự sống con người. Bác luôn hướng về người dân
và đời sống sinh hoạt bình dị, mang đậm tinh thần của thời đại Cách mạng. Con đường
cách mạng Việt Nam cũng vậy đi từ trong đêm trường nô lệ, đi trong chông gai để đến với
con đường vinh quang.

Là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật có sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và tinh thần
hiện đại, sự hòa quyện tuyệt vời giữa chất thơ và chất thép, Chiều tối đã để lại những dấu
ấn và niềm xúc động khó phai trong lớp lớp thế hệ độc giả chúng ta. Dẫu bao năm có trôi
qua thì ta vẫn sẽ nhớ về hình ảnh một xóm núi miền sơn cước thanh bình, tĩnh vắng với
cánh chim chao liệng, với làn mây trôi hững hờ và cô em chăm chỉ xay ngô bên ánh lửa rực
hồng. Hơn cả là tấm lòng nhân ái bao la luôn trân trọng và nâng niu con người, cuộc sống
của chủ tịch Hồ Chí Minh mặc bao sự khổ đau đang đày đoạ bản thân mình. Xin được
mượn bốn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu thay cho lời kết:
''Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa.''

Đề 2: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại

Thơ là tiếng nói tâm hồn, là sự kết tinh những truyền thống văn hóa của dân tộc và nhân
loại cùng những trải nghiệm phong phú của đời sống thực tế, trên cơ sở một cá tính sáng
tạo với một tài năng nghệ thuật thật sự. Và chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta có đầy
đủ những điều kiện ấy. Tuy Người chỉ sáng tác trong những giây phút có cảm hứng và luôn
giữ thái độ khiêm tốn trước danh hiệu thi sĩ thì với tập Nhật ký trong tù, Người đã tạo nên
một tác phẩm lớn như “đánh rơi” vào kho tàng văn học (theo cách nói của Đặng Thai Mai).
Trong đó, bài thơ thứ 31 - Chiều tối quả thực là một nét chấm phá đặc sắc giàu tính nghệ
thuật vì đã thể hiện giá trị nổi bật của bài thơ: bức chân dung tự họa của Hồ Chí Minh, từ đó
làm bật lên tư tưởng và những tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của Người hay chính
xác là sự hòa trộn tinh tế giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại.

Nhắc đến Hồ Chí Minh là nhắc đến vị lãnh tụ vĩ đại, người anh hùng đem ánh sáng xua đi
những đêm trường tăm tối và chiếu rọi con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Người là
vầng thái dương, là mặt trời vĩnh cửu ngự trị trong tim của mọi người con từ khắp miền Tổ
quốc. Vậy mà bên cạnh một sự nghiệp chính trị gây tiếng vang toàn cầu như thế, Người còn
là danh nhân văn hóa thế giới, đóng góp nhiều cho nền văn học nước nhà. Vì vậy, tuy Bác
chưa bao giờ nhận mình là một nhà thơ thì chỉ riêng với tập Nhật ký trong tù thôi đã đủ
khẳng định được vị trí quan trọng của Người trong thi đàn Việt Nam rồi.

Về thi phẩm Chiều tối, đây là bài thơ được sáng tác trong khoảng 4 tháng đầu khi Người bị
bắt giam ở Trung Quốc, vào cuối năm 1942, khi đang trên chặng đường chuyển lao từ Tĩnh
Tây đến Thiên Bảo giữa núi rừng, nổi tiếng với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa màu sắc cổ
điển và hơi thở hiện đại. Vậy, hai nét đẹp ấy nghĩa là gì? Trước hết, màu sắc cổ điển ở đây
là sự ảnh hưởng sâu sắc từ thơ ca phương Đông, từ âm hưởng của thời Đường, Tống
trong thơ ca Hồ Chí Minh về cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Còn chất hiện đại là
những dấu ấn riêng biệt, những nét chấm phá mới mẻ của nhà thơ khi vẫn sử dụng thi liệu
cũ nhưng chỉ cần thay đổi vài yếu tố của câu từ là đã có thể tạo ra một cấu trúc mới, ý thơ
mới. Chúng được thể hiện xuyên suốt bài thơ thông qua bức tranh thiên nhiên chiều muộn
miền sơn cước, bức tranh đời sống sinh hoạt của con người và cả những chuyển biến trong
tư tưởng, tình cảm của chủ thể trữ tình.

Có thể nói, chất cổ điển là một nét không thể thiếu trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh. Và
điều đặc biệt ở đây là ngay từ nhan đề của bài thơ, ta đã thấy sự hiện diện của gam màu cũ
kỹ đó khi cảnh chiều tối từ xưa đến nay vẫn luôn là một đề tài quen thuộc, gợi thi hứng,
truyền xúc cảm, khơi nguồn sáng tạo cho con người chắp bút viết nên những vần thơ bằng
niềm rung cảm không bao giờ vơi cạn trước thiên nhiên. Âm hưởng hoài cổ ấy còn được
vang lên rõ rệt hơn qua thể thơ tứ tuyệt hàm súc, một thể loại đặc trưng, niềm tự hào vô
biên của thi ca thời Tống, Đường.

Đến với hai câu thơ đầu tiên, ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp thanh bình, êm ả nhưng có
phần tĩnh lặng, quạnh vắng của thiên nhiên, một bức họa đậm đà màu sắc cổ điển.

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ


Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ


Tầng mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Buổi chiều đối với vạn vật thường là lúc đoàn tụ, nhưng cũng là khi con người ta thấy vô
cùng cô đơn nếu không có một chốn để về. Cánh chim mỏi sau một ngày kiếm ăn cũng đã
bay về tổ của mình, với động lực thúc đẩy và mục đích là trở về nơi nghỉ ngơi. Và nếu như
trong thơ ca cổ điển xưa nay vẫn hay sử dụng thủ pháp lấy không gian để miêu tả thời gian
nên trong cảnh chiều muộn thường xuất hiện hình ảnh cánh chim:

“Chim hôm thoi thóp về rừng”


(Nguyễn Du)
“Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”
(Huy Cận)

thì thơ ca của Bác cũng có hình ảnh “cánh chim bay mỏi” nhưng lại mang những sắc thái
thật riêng biệt. Cánh chim trong thơ Bác không hề nhuốm màu sắc ước lệ, không hướng
đến sự Mệt mỏi, trầm buồn, kết thúc như thơ xưa mà gắn liền với sự quan sát rất thực của
người tù cách mạng khi ngước lên bầu trời lúc chuyển lao. Trong con mắt mang theo tâm
trạng của Bác, cánh chim ấy là biểu tượng của sự Tự do, rộng mở và chứa chan lòng bác
ái. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày
đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm
quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.

Có thể thấy, giữa chủ thể trữ tình với hình ảnh cánh chim có nét tương đồng ở chỗ là đều
mỏi mệt, chim tiếp tục bay, người tù tiếp tục đi, nhưng lại có nét tương phản ở chỗ chim cố
gắng bay để được về tổ ấm, còn người tù tiếp tục đi cũng chỉ đến một nhà lao khác mà thôi.
Người tù chẳng có động lực thúc đẩy. Nếu không có bản lĩnh thì rất dễ mệt mỏi, chán nản.
Mặt khác, khi nhìn cánh chim bay về núi lúc chiều tối làm sao Bác khỏi chạnh lòng. Có lẽ
Người rất nhớ đất nước, nhớ đồng bào. Hình ảnh cánh chim chiều vừa mang ý nghĩa không
gian, vừa mang ý nghĩa thời gian, gợi sự liên tưởng đến hoàn cảnh của người tù đang trên
đường bị giải đi trong trạng thái rã rời, mệt mỏi, từ đó gửi gắm ước mơ trở về.

Song song với cánh chim là hình ảnh chòm mây lẻ trôi lững lờ giữa tầng không. Cũng như
cánh chim sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi bay về tổ để nghỉ ngơi, đám mây cũng như muốn
ngừng hoạt động. Tuy nhiên, bản dịch thơ “chòm mây trôi nhẹ” chưa hoàn toàn lột tả được
hết ý so với nguyên tác khi hình ảnh “cô vân” miêu tả một làn mây lẻ loi, đơn côi gợi nỗi
buồn cô quạnh của cảnh chiều còn Từ “mạn mạn” nghĩa là chầm chậm, uể oải lững lờ trôi.
Thay vào đó, bản dịch thơ lại khiến cho hình ảnh chòm mây không còn giữ nguyên ý là một,
là cô đơn, duy nhất như trước và cũng làm giảm đi nỗi buồn của con người. Đúng là tâm
trạng củamột tù nhân vào buổi chiều tà nơi xa xứ bởi “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
Buồn vì xa Tổ quốc, quê hương, bạn bè đồng chí trong khi Cách mạng đang chờ, buồn vì
mất tự do không biết bao giờ mới được ra khỏi tù: ”Người trong cảnh ấy, cảnh trong tình
này.” Chưa kể cảnh ngộ trong bài thơ Chiều tối của Bác còn là điểm tiếp nối hai sự đọa đày
của người tù: sự đọa đày ban ngày chưa qua, sự đọa đày ban đêm đã chờ đón phía trước.
Trong hoàn cảnh như vậy mà Bác vẫn hướng ánh nhìn yêu thương, trìu mến trước những
biểu hiện nhỏ nhoi của tạo vật, của sự sống, chứng tỏ Người phải có một tấm lòng giàu xúc
cảm và một nghị lực phi thường, cứng cỏi đến nhường nào.

Như vậy, chỉ với vài nét chấm phá cùng bút pháp tả cảnh ngụ tình, dùng điểm vẽ diện, lấy
tĩnh tả động độc đáo của thơ cổ, Bác đã vẽ nên một không gian bát ngát, cao rộng, gợi
không khí êm ả, thanh bình vào lúc trời chiều đồng thời bộc lộ vẻ đẹp của một tâm hồn thi
sĩ, nghệ sĩ say mê trước cảnh thiên nhiên (chất tình), một nhà hiền triết với phong thái ung
dung, tự tại và một chiến sĩ cách mạng với ý chí kiên cường, vượt lên khỏi hoàn cảnh nghiệt
ngã của mình (chất thép).
Nếu như ở hai câu thơ đầu bằng bút pháp cổ điển Bác đã dựng nên bức phông lớn làm nền
cho bức tranh, thì trong hai câu thơ sau, Bác tập trung làm nổi bật hình tượng trung tâm của
tác phẩm nghệ thuật đó. Từ bút pháp cổ điển Bác chuyển hẳn sang bút pháp hiện đại.

"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,


Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng."

(Cô em xóm núi xay ngô tối,


Xay hết, lò than đã rực hồng.)

Đến hai câu thơ này, bức tranh trữ tình về cảnh trời mây đã nhường chỗ cho bức tranh sinh
hoạt gần gũi và ấm áp của con người. Câu thơ chỉ là một lời kể bình thường nhưng ý thơ thì
sinh động và đẹp đẽ biết bao! “Xóm núi” là hình ảnh tả thực giản dị biểu tượng cho sự sống
bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ
đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm
điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu
nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa khi thiên
nhiên thường vắng bóng con người hoặc con người được đẩy ra xa, bị vùi lấp, che khuất để
làm nền cho cảnh vật như hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú


Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Còn Bác thì đưa hình ảnh cô gái lao động lên vị trí trung tâm, đẩy lùi về phía sau nền trời
chiều với cánh chim bay mỏi và làn mây trôi nhẹ. Không chỉ vậy, nếu như người phụ nữ
trong thơ xưa thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép
kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ thì người thiếu nữ trong thơ Bác gắn liền với công việc
lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống, góp phần làm nên vẻ đẹp lung linh
cho bức tranh. Với dụng ý như vậy thì bản dịch thơ “cô em xóm núi” đã không thể hiện được
cái nhìn trân trọng của tác giả cũng như làm mất đi màu sắc tươi trẻ, khỏe khoắn, căng tràn
nhựa sống của người thiếu nữ ở tuổi đẹp nhất của cuộc đời.

Cùng với sự làm việc miệt mài không ngừng nghỉ của cối xay ngô là sự chảy trôi lặng lẽ của
dòng thời gian. Từ cảnh trời chiếu chẳng mấy đã chuyển sang một màu tối mịt khi ngô vừa
xay xong là lò than rực hồng được bàn tay người thiếu nữ nhen lên. Điệp ngữ liên hoàn
(điệp ngữ vòng) “ma bao túc – bao túc ma hoàn” đã cho ta cảm nhận được thời gian đang
vận động, đang xoay vần theo từng vòng quay của chiếc cối. Tài hoa của thi nhân ở đây là
không cần phải sử dụng bất kỳ một chữ “tối” nào trong bài để miêu tả và chỉ ra không gian,
thời gian xung quanh nhưng chúng ta vẫn có thể nhận thấy được điều đó thông qua chữ
“hồng” - nhãn tự của bài thơ. Ở đây, tác giả đã dùng ánh sáng để nói về bóng tối. Đó là một
thủ pháp rất quen thuộc của thơ ca cổ điển. Song bản dịch đã đưa chữ “tối” vào làm giảm
tính hàm súc và vẻ đẹp cổ điển tinh tế đậm màu sắc rất Đường, Tống này của hình ảnh bài
thơ. Theo như nguyên tác, chữ “hồng” đã thực sự tiếp thêm sức sống, là điểm hội tụ của
bức tranh Chiều tối, đem đến cái thần cho thi phẩm tuyệt tác này. Đúng như Hoàng Trung
Thông đã nhận xét: “Với chữ “hồng” đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn
nữa đâu, mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô
gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ tình cảm Bác.” Như vậy chữ “hồng” rất xứng đáng là “ông
thánh thứ hai mươi tám” của bài thơ. Ánh hồng ấy không chỉ tỏa ra từ chiếc bếp lửa bình dị
của một “sơn thôn thiếu nữ” mà chủ yếu được tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan
của Hồ Chí Minh.

Bốn câu thơ của thi phẩm Chiều tối, ta không chỉ thấy được sự vận động của thời gian mà
còn cả trong hình tượng nghệ thuật đến tư tưởng, tình cảm của bài thơ. Đó là những
chuyển biến hết sức bất ngờ trong cảm xúc và mạch vận động khỏe khoắn từ chiều đến tối,
từ cảnh núi rừng lạnh lẽo, cô đơn đến bức tranh đời sống sinh hoạt ấm áp của con người,
từ âm u đến ánh sáng, và từ buồn đến vui “một cái vui tràn đầy trong cuộc sống” (Hoài
Thanh). Để mà từ đó ta khám phá ra được một nét nổi bật trong tư tưởng và phong cách
nghệ thuật Hồ Chí Minh là dẫu khởi hứng của bài thơ là ở cảnh thiên nhiên thì sự kết tụ cuối
cùng của hồn thơ vẫn là niềm vui, ánh sáng và sự sống con người. Qua đó, thấy được tinh
thần lạc quan, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ trong hoàn cảnh nghiệt ngã nhưng
cũng đồng thời thể hiện tấm lòng nhân ái, bao la, quên đi hoàn cảnh của mình, đồng cảm,
chia vui với những niềm vui bình dị bé nhỏ của con người nơi xa lạ. Bài thơ không chỉ thể
hiện tâm hồn Hồ Chí Minh mà còn chứa chan một tinh thần hiện đại của con người Cách
mạng, thời đại cách mạng. Đây cũng chính là một đặc điểm nổi bật về thế giới hình tượng
và sự vận động của tư tưởng trong Nhật ký trong tù.

Là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật có sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và tinh thần
hiện đại, sự hòa quyện tuyệt vời giữa chất thơ và chất thép, Chiều tối đã để lại những dấu
ấn và niềm xúc động khó phai trong lớp lớp thế hệ độc giả chúng ta. Dẫu bao năm có trôi
qua thì ta vẫn sẽ nhớ về hình ảnh một xóm núi miền sơn cước thanh bình, tĩnh vắng với
cánh chim chao liệng, với làn mây trôi hững hờ và cô em chăm chỉ xay ngô bên ánh lửa rực
hồng. Hơn cả là tấm lòng nhân ái bao la làm sống dậy cả một nhân loại của chủ tịch Hồ Chí
Minh mặc bao sự khổ đau, đọa đày đang đè nén bản thân mình. Xin được mượn bốn câu
thơ của nhà thơ Tố Hữu thay cho lời kết:
''Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa.''

Đề 3: Hai khổ đầu hoặc hai khổ cuối: thể hiện tâm nguyện của người thanh niên yêu nước
Tố Hữu: niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển
biến sâu sắc trong tình cảm khi được giác ngộ lý tưởng cộng sản.

Nhiều nhà phê bình văn học đã đặt cho Tố Hữu danh hiệu "Nhà thơ của lý tưởng Cộng
sản". Quả thực, thơ ông lúc nào cũng toàn lợi ngợi ca lý tưởng của giai cấp vô sản, điều mà
ông coi là lẽ sống của nhân loại, của dân tộc và tất nhiên, cũng là của cuộc đời mình. Trong
đó, tác phẩm Từ ấy rút từ tập thơ cùng tên đã đánh mốc son chói lọi trên con đường trưởng
thành về tư tưởng của người thanh niên yêu nước Tố Hữu, thể hiện niềm vui sướng, say
mê mãnh liệt, những nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm khi
bước đầu được giác ngộ lý tưởng cộng sản.

Nhắc đến Tố Hữu là nhắc đến một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nổi
tiếng là nhờ thơ Cách mạng, thơ ông từ tập này đến tập khác (Việt Bắc, Gió lộng, Ra Trận,
Máu và hoa,...) đều theo sát những chặng đường lớn của cách mạng Việt Nam, thể hiện lẽ
sống lớn, những tình cảm lớn của người công dân, người chiến sĩ cách mạng đối với Đảng,
với Tổ quốc, với nhân dân, với Bác Hồ…Và Từ ấy cũng không phải là một ngoại lệ. Ra đời
vào khoảng từ năm 1937 đến năm 1946, lại là sáng tác đầu tay của Tố Hữu, tập thơ đóng
vai trò như một lời tuyên ngôn chắc nịch về lẽ sống, nghệ thuật của nhà thơ mà trong đó, Từ
ấy là một ví dụ tiêu biểu. Tác phẩm nằm trong phần đầu tiên (Máu lửa), thể hiện tiếng reo
hân hoan vui sướng của chàng thanh niên Huế khi bắt gặp ánh sáng lý tưởng của cách
mạng và vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng cộng sản Việt Nam tháng 7 năm 1938.

Niềm xúc động thiêng liêng ấy đã được thể hiện ngay từ nhan đề “Từ ấy” - thời gian phiếm
chỉ, đánh dấu bước ngoặt có tính trọng đại không chỉ trong tư tưởng mà còn cả sự nghiệp
thơ ca của nhà thơ. Và với giọng điệu trữ tình sôi nổi, vui tươi cùng mạch trữ tình chặt chẽ,
ta còn thấy được tâm nguyện của người thanh niên được giác ngộ cách mạng. Trong đó,
hai khổ thơ đầu/cuối đã thể hiện tâm trạng nhà thơ khi gặp lí tưởng của Đảng, cách
mạng và nhận thức mới về lẽ sống, xác định được ý thức, trách nhiệm trước cuộc
đời/những chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của nhà thơ.

Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ diễn tả niềm vui sướng, niềm hạnh phúc tột đỉnh và sự say
mê nồng nhiệt khi bắt gặp lí tưởng Đảng/giác ngộ lý tưởng cách mạng của cái tôi trẻ trung
tràn đầy nhiệt huyết:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ


Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Từ ấy ở đây có nghĩa là từ giây phút ấy, cái giây phút đầu tiên chàng thanh niên học sinh
Nguyễn Kim Thành bắt gặp lý tưởng cộng sản, giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin. Cái giây
phút hết sức thiêng liêng, quyết định cả một cuộc đời, cả một số phận, cả một sự nghiệp, cả
một hồn thơ. Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết
nhưng vẫn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị
của thực dân, phong kiến:
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ mãi theo vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời

Chính trong hoàn cảnh đó, lý tưởng cộng sản như nắng hạ, như mặt trời xua tan đi những u
ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối, hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao
đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Và nếu để ý quan sát thế giới nghệ thuật của các nhà thơ đã có phong cách định hình, sẽ
thấy mỗi một hồn thơ dường như lại thích hợp với một thứ ánh sáng riêng. Thơ cổ điển
thường thiên vị với ánh trăng. Hoài Thanh nói, thơ Hồ Chí Minh đầy trăng. Trước Cách
mạng tháng Tám, tâm hồn Huy Cận rất ám ảnh với cái ánh nắng úa tàn của những buổi
hoàng hôn. Xuân Diệu thì vừa là nhà thơ của mùa xuân và bình minh, vừa là thi sĩ của
những đêm trăng lạnh. Thơ Hàn Mặc Tử cũng tràn ngập ánh trăng, nhưng là thứ ánh trăng
vừa vô cùng tinh khiết, vừa có một cái gì đấy rợn rợn ma quái. Xem ra, hiếm có một hồn thơ
nào thích hợp với ánh nắng chói gắt mùa hạ. Mà ngay cả Tố Hữu cũng vậy thôi. Tinh thần
cách mạng quá đã khiến ông có cảm tình đặc biệt với ánh nắng. Nhưng phải là cái ánh nắng
trong trẻo, tươi mát những buổi sáng mùa xuân, hoặc cái ánh nắng dịu dàng những buổi
chiều thu. Nhà thơ của tình thương mến ngọt ngào, nhà thơ của Huế, tất nhiên chỉ thích hợp
với cái ánh nắng ấy.

Vậy thì cái ánh nắng chói chang mùa hạ trong bài thơ Từ ấy phải được xem là một trường
hợp hiếm hoi đặc biệt. Bình luận về trường hợp này, Hoài Thanh đã liên tưởng tới tâm trạng
của một cô gái nào đó trong ca dao xưa choáng ngợp với một mối tình sét đánh:

Thấy anh như thấy mặt trời


Chói chang khó ngủ, trao lời khó trao

Chân lý lớn quá, lý tưởng rực rỡ quá, chói lọi quá, khiến chàng thanh niên chưa đầy mười
tám tuổi cảm thấy choáng váng. Cách sử dụng hình ảnh ẩn dụ “mặt trời chân lý” cùng
những từ ngữ diễn tả cực mạnh như “bừng”, “chói” ấy không chỉ cho thấy ông coi lý tưởng
cộng sản là nguồn sáng vô biên bất tận mang lại sức sống, nguồn ấm nóng dạt dào mà còn
hàm chứa lòng ngưỡng mộ, niềm biết ơn sâu sắc trước sức mạnh lớn lao, diệu kỳ của Đảng.

Đối với Tố Hữu, chân lý Mác - Lênin không chỉ được tiếp nhận bằng lý trí mà còn bằng tình
cảm, bằng trái tim. Điều này rất có ý nghĩa với người chiến sĩ Tố Hữu và nhà thơ Tố Hữu.
Có tình cảm mãnh liệt mới có hành động chiến đấu hy sinh, có tình cảm sôi nổi mới có thơ
Từ ấy, lý tưởng trở thành vườn hoa lá - "rất đậm hương và rộn tiếng chim", nghĩa là thành
hình ảnh, thành nhịp điệu, thành thơ ca.

Ở đây, hồn người đã trở thành vườn hoa, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng
tiếng chim hót. Một mảnh vườn hoa lá chắc hẳn phải là mảnh vườn xanh tươi, tràn trề nhựa
sống, có lá có hoa lại ngọt ngào hương sắc, có chim hót rộn ràng. Mảnh vườn ấy được so sánh
như tâm hồn nhà thơ. Phải chăng tâm hồn ấy tràn ngập niềm vui, niềm say mê, náo nức trẻ
trung sôi nổi với cảm hứng lãng mạn tràn đầy trong buổi đầu tiếp nhận lý tưởng Cộng sản. Tố
Hữu sung sướng đón nhận lý tưởng cộng sản cũng như cỏ cây đón nhận ánh sáng mặt trời. Lý
tưởng cộng sản đã mang lại sức sống và niềm tin yêu cuộc đời cho con người.

Có thể nói, với kiểu thơ vắt dòng quen thuộc của thơ mới cùng một loạt hình ảnh so sánh, ẩn dụ
và giọng điệu trữ tình đằm thắm, tha thiết, đây quả là khổ quan trọng nhất của bài thơ diễn tả
thật hay niềm say mê lý tưởng mà Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng (Aragông-Pháp). Có thể
coi đó là cái gốc. Hai khổ sau là cành, là ngọn, phát triển ra từ cái gốc lý tưởng ấy, từ cái
"mặt trời chân lý" ấy.

Khổ tiếp theo của bài thơ biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới của cái tôi trữ tình:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Tố Hữu đã đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ.
Ông đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới tiếp nhận được từ quần chúng lao động, không
phải chỉ trong nhận thức mà bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim.
Ở đây, “Buộc” thể hiện ý thức tự nguyện sống chan hòa với mọi người còn “Trang trải” ý
muốn nói tâm hồn tác giả trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn
cảnh của từng con người cụ thể. Như vậy, các từ "buộc", "trang trải", "gần gũi" đều nói lên
sự gắn bó, gắn bó bằng tình yêu thương, bằng tấm lòng với những người lao khổ, nạn nhân
của cuộc đời cũ. Có thể thấy, khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu đã nhận thức được lẽ
sống mới: tự nguyện hòa “cái tôi” cá nhân vào “cái ta” chung của mọi người, trải rộng tình
cảm với đời, đồng cảm với nỗi khổ của con người. Điều đặc biệt là tình yêu thương của
người trí thức tiểu tư sản đã hướng đến quần chúng lao khổ với mục đích đoàn kết tăng
thêm sức mạnh của khối đời để đấu tranh giành độc lập, tự do. Và ở hai câu cuối của đoạn
thơ, tác giả nhấn mạnh tình yêu thương của con người là tình cảm hữu ái giai cấp với quần
chúng lao khổ. Bằng phép điệp và nhịp điệu nhanh dồn dập, sôi nổi, nhà thơ một lần nữa
khẳng định lẽ sống, mục đích cuối cùng của con người Cách mạng là gắn bó với mọi người
tạo sức mạnh tập thể đoàn kết, khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống.
Quan điểm đó của Tố Hữu cũng là quan điểm của giai cấp vô sản:

“Quyết chiến đấu nào ta liên hiệp lại


Hỡi những tù nhân khốn nạn của bần cùng”
(Liên hiệp lại)

Trước bước ngoặt quan trọng của cuộc đời, người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi như nhìn lại một
chặng đường đã đi qua, thấu suốt đời sống tình cảm, chiêm nghiệm về vốn sống và thấy:

Tôi đã là con của vạn nhà


Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
không áo cơm cù bất cù bơ

Tố Hữu đã khẳng định sự chuyển biến tình cảm của mình. Tác giả tự nhận mình là một
thành viên thân thiết ruột thịt trong đại gia đình quần chúng bị áp bức, đau khổ trong xã hội
cũ. Thực ra lý tưởng cộng sản đã bao gồm ngay trong nó nguồn tình cảm lớn. Đó là chủ
nghĩa nhân đạo của giai cấp vô sản hướng về quần chúng nghèo khổ, về nhân loại cần lao.
Cho nên giác ngộ lý tưởng cộng sản, nhà thơ bỗng cảm thấy mình như lớn lên gấp trăm lần,
gấp triệu lần. Cái tôi cá nhân bé nhỏ, yếu đuối "như cây sậy bên đường" trở thành cái tôi
giai cấp, cái tôi nhân loại, mang sức mạnh của cả một "khối đời" vĩ đại (Gần gũi nhau thêm
mạnh khối đời). Không phải ngẫu nhiên mà tác giả dùng hàng loạt số từ và đẩy vọt lên từ
trăm đến vạn: "trăm nơi" "vạn nhà" "vạn kiếp" "vạn đầu em nhỏ" . Đâu phải nhà thơ chỉ
muốn nói số trăm, số vạn. Trăm, vạn ở đây không có nghĩa là số trăm, số vạn cụ thể, mà để
nói rất nhiều, nhiều lắm, là tất cả "mọi người", là "biết bao hồn khổ", là cả nhân loại cần lao,
là cả giai cấp vô sản toàn thế giới liên hiệp lại (Tuyên ngôn Đảng cộng sản). Cũng không
phải ngẫu nhiên mà tác giả dùng hàng loạt từ ngữ chỉ quan hệ ruột thịt: "là con" "là em" "là
anh". Vì giác ngộ tình cảm giai cấp, nhà thơ muốn buộc chặt cái tôi của mình với giai cấp
cần lao bằng tình cảm thân thiết nhất, như tình cảm ruột thịt của những đứa con trong cùng
một gia đình vậy.

Có thể thấy, sự kết hợp giữa điệp từ “là” cùng với “con”, “em”, “anh” cùng số từ ước lệ “vạn”
không chỉ mang ý nghĩa nhấn mạnh và khẳng định tình cảm gia đình đầm ấm, thân thiết,
cho thấy Tố Hữu đã xem như mình như một thành viên của đại gia đình ấy mà còn biểu
hiện sự đồng cảm, tấm lòng xót thương chân thành của nhà thơ đối với những kiếp người
nghèo khổ, nhận thức sâu sắc mối quan hệ cá nhân với quần chúng. Đến với cuộc đời cần
lao chính là đến với người anh em ruột thịt của mình. Trong cuộc sống còn hàng vạn kiếp
sống phôi pha, hàng vạn những em nhỏ sống cù bất cù bơ. Cuộc đời đang chứa chất biết
bao bất công căm giận. Trong khi từ ngữ gợi cảm: “kiếp phôi pha” chỉ những người đau khổ
bất hạnh, dãi dầu mưa nắng để kiếm sống thì “cù bất cù bơ” là không nơi nương tựa phải
lang thang vất vưởng. Điều đặc biệt ở đây là Tố Hữu không chỉ thương xót những người
dưới đáy cùng của xã hội mà còn vì họ hăng say hoạt động cách mạng, đối tượng của hàng
loạt bài thơ Tố Hữu sáng tác trước Cách mạng Tháng Tám.

Là bài thơ trữ tình chính trị đặc sắc, cùng giọng điệu say sưa, nhịp điệu dồn dập, hình ảnh
thơ tươi sáng, giàu sức sống và đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn, khéo léo của nhà thơ
trong việc sử dụng các biện pháp tu từ truyền thống và kiểu câu vắt dòng hiện đại, Từ ấy
quả là “bó hoa lửa lộng lẫy nồng nàn nở ra từ cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc” (theo
Giáo sư Đặng Thai Mai). Bài thơ không chỉ là niềm vui, nhận thức mới mẻ và những chuyển
biến trong tình cảm của Tố Hữu mà còn là tâm trạng của một thế hệ thanh niên cách mạng
được Đảng giác ngộ và dìu dắt để gánh vác sự nghiệp giải phóng dân tộc những năm đất
nước còn dưới ách thực dân, phong kiến.

Đã hơn 80 năm từ ngày Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng tình yêu
cách mạnh và hào khí trong thơ ông vẫn chưa tìm được đến điểm dừng. Bài thơ “Từ ấy” là
một bài thơ của một cái tôi tràn đầy cảm xúc. Đó chính là cái tôi lần đầu được giác ngộ lý
tưởng và nguyện đem cả tinh thần và tuổi trẻ của mình cống hiến cho sự nghiệp chung của
đất nước. Bài thơ còn là một tuyên ngôn nghệ thuật và mang đậm phong cách thơ của Tố
Hữu. Nó xứng đáng là một tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí tưởng, ngày nay vẫn làm
xúc động hàng triệu trái tim độc giả.

You might also like