You are on page 1of 4

Lỗ Tấn đã từng nói: “ Từ trong suối chảy ra là nước, từ trong huyết quản chảy ra là máu”, và

theo lẽ hiển nhiên đó, từ trong trái tim của một người nghệ sĩ đích thực chảy ra những áng văn,
vần thơ trác tuyệt. Thi ca bao giờ cũng thế, phải gắn mình vào nguồn mạch cuộc sống, nếu thi
nhân quay lưng với cuộc sống, mải mê với chuyện đúc chữ, luyện câu, mọi giá trị văn chương
chỉ còn là kỹ xảo. Sức nặng của những trang thơ chính từ cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia mà tạo
thành. Hồ Chí Minh đến với thơ ca cũng vậy, không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân
Việt Nam, Người còn là nhà văn, nhà thơ lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Những trang thơ của
Người mang đậm trong mình “chất thép”, đó chính là cảm hứng đấu tranh tích cực, là tính chiến
đấu của thơ ca và văn học nghệ thuật. Người luôn biến những thứ tầm thường thành thú vui tiêu
khiển, tạm quên đi cảm giác khó nhọc bị tra tấn nơi đất khách quê người. Đặc biệt qua bài thơ
“Chiều tối” (Mộ) đã cho ta thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh
khắc nghiệt đầy phi thường của người tù cách mạng:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.”
“Chiều tối” được Bác lấy cảm hứng từ khung cảnh miền sơn cước vào một buổi chiều trên
đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo cuối thu năm 1942. Đây là bài thơ thứ 31 được
trích từ tập thơ “Nhật kí trong tù”. Bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển song cũng thấm đượm tinh
thần hiện đại, qua đó góp phần làm nổi bật cốt cách của “bậc đại trí, đại nhân, đại dũng”.
Ngay từ những nét phác hoạ đầu tiên, ta đã thấy hiện lên bức tranh thiên nhiên lúc chiều tà,
đậm nét của thi ca cổ điển:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không).
Bằng bút pháp chấm phá, Bác điểm trong bức tranh chiều tà là hình ảnh cánh chim – hình ảnh
ước lệ thường thấy trong văn học cổ có nhiều ý nghĩa biểu tượng:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ”
Chiều tà là khoảng thời gian dễ khắc sâu vào lòng người nỗi cô đơn, trống trải, đặc biệt là đối với
người lữ khách tha phương. Người đi đường ngước mắt nhìn lên bầu trời – nơi vẫn có chút ánh
sáng ban ngày còn sót lại và chợt nhận thấy cánh chim lẻ bầy mỏi mệt đang bay về rừng tìm nơi
trú ngụ. Chẳng lẽ tự nhiên mà cánh chim ấy rơi vào điểm nhìn của Bác, sự cảm nhận đó xuất
phát trên cơ sở sự gần gũi, tương đồng. Vào thời khắc mặt trời xuống núi, mọi sự vật đều cần
một nơi chốn nghỉ ngơi, cánh chim sau một ngày mải miết rong ruổi kiếm ăn cũng không ngoại
lệ. Đến loài vật cũng biết mệt mỏi thì hẳn con người cũng đã kiệt quệ sức lực khi phải di chuyển
cả một chặng đường tù đày dài liên tục. Nhưng điểm khác biệt ở chỗ, chim cố gắng bay về với tổ
ấm của nó, còn người tù chính trị chỉ có thể đi từ nhà lao này đến nhà lao khác. Nếu chim có
động lực thúc đẩy đôi cánh bay đi thì mỗi bước chân di chuyển của người tù ở đây gần như là vô
nghĩa. “Cánh chim” là hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa và nay. Đó
không chỉ là hình ảnh của không gian mà còn mang ý nghĩa của thời gian. Trong “Truyện Kiều”,
khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng:
“Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió cuốn
chim bay mỏi”. Dường như trong cảm nhận của các thi nhân xưa, khi miêu tả cảnh chiều mà
không có hình ảnh cánh chim thì bóng chiều chưa rõ. Cái hay của Bác nằm ở chỗ, nhìn cánh
chim bay mà thấy được trong dáng bay ấy có sự mỏi mệt của nó. Đây chính là tình cảm nhân đạo
của Hồ Chí Minh. Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Người đối với cảnh vật. Đúng
như Tố Hữu đã viết:
“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người.”
Tiếp theo ấy là hình ảnh chòm mây cô độc giữa khoảng không vô định buổi hoàng hôn:
“Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Câu thơ được dịch khá uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi của chòm mây. Người dịch đã
bỏ sót chữ “cô” và chưa thể hiện được hết nghĩa của từ láy “mạn mạn”. Căn cứ vào phần phiên
âm ta thấy, hình ảnh đám mây cô đơn, lẻ loi đang chầm chậm trôi qua bầu trời. Nó không chỉ làm
cho bầu trời thêm cao mà còn gợi lên nỗi buồn bâng khuâng của người tù. Mặc dù câu thơ dịch:
"Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không" chưa được sát nghĩa nhưng cũng thấy được cái hay riêng
của nó. Những áng mây trong thơ Bác không phong lưu mà rất êm ả của bầu trời miền sơn cước.
Áng mây dường như không biết đi đâu, về đâu trong cảnh chiều tàn đang dần khép cửa, nó khiến
người tù cách mạng nghĩ đến thân phận bơ vơ nơi đất khách quê người của mình, đó vừa là nỗi
buồn cố hữu trước cảnh thiên nhiên, vừa là nỗi buồn phải xa quê nhưng lúc nào cũng nhớ về quê
hương.
Ở đây, Hồ Chí Minh đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, không có một chữ nào nhắc đến
“chiều” nhưng người đọc vẫn có thể hình dung một cách rõ nét về không gian chiều tà âm u, hiu
quạnh như nỗi lòng mà tác giả muốn gửi gắm. Nhà thơ lấy cánh chim làm biểu tượng cho cảnh
chiều tà, hoàng hôn và lấy cảnh hoàng hôn thể hiện cho nỗi buồn trong lòng mình. Trong hoàn
cảnh lúc này thì khó lòng Người có thể vui được bởi Người đang chịu cảnh chân tay bị gông
cùm, xiềng xích, bị áp giải đi đường cả một ngày trời mệt mỏi. Trong trái tim của Bác còn nặng
chứa những nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai, một nỗi buồn mỗi khi nghĩ tới quê hương đất
nước còn đang chịu cảnh nô lệ lầm than. Có lẽ lúc ấy, Bác cũng đang khao khát được đứng trên
đất nước mình, được đoàn tụ với đồng bào, với dân tộc.
Chỉ bằng hai câu thơ ngắn, Bác đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên thôn dã thật yên bình với
cánh chim trời và làn mây trôi. Ngược dòng thời gian, ta sẽ bắt gặp những vần thơ của Lí Bạch
trong “Độc tọa Kính Đình sơn”:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn.”
Cánh chim trong thơ Lí Bạch bay về chốn vô định, gợi cảm giác phiêu dạt, chia lìa. Còn cánh
chim trong thơ Bác lại gần gũi, yêu thương hơn bao giờ hết. Chòm mây trong thơ Lí Bạch thoát
tục. Còn chòm mây kia trôi nhẹ nhàng như chính tâm hồn người tù chiến sĩ ung dung, tự tại
thưởng ngoạn cảnh trời chiều chứ không còn là cảnh tù đày mệt mỏi nữa. Hai câu thơ là tư thế
của con người làm chủ hoàn cảnh, làm chủ cuộc đời, càng đặt hai câu thơ trong hoàn cảnh sáng
tác của nó, người đọc càng cảm nhận được bản lĩnh phi thường, tinh thần thép của người tù chiến
sĩ Hồ Chí Minh trước những khắc nghiệt của cuộc đời.
Cảnh chiều tà vùng sơn cước có chút vắng lặng gợi lên cái bâng khuâng trong lòng người đọc.
Nhưng sự biến chuyển của hai câu sau nhanh chóng xóa đi cái hiu hắt vốn có của núi rừng. Đó
chính là lúc mà đôi mắt yêu thương và trái tim nhân ái bao la của Người bắt gặp vẻ đẹp của con
người lao động:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.)
Ta vẫn thường thấy trong thơ xưa, con người thường bị hòa vào thiên nhiên, họ nhỏ bé, tĩnh lặng,
thụ động và luôn chịu sự chi phối của ngoại cảnh . Nhưng ở “Chiều tối”, trung tâm của bức tranh
giờ đây lại là con người – hình ảnh cô gái đang lao động chăm chỉ xay ngô bên bếp lửa như
mang đến sức sống cho khung cảnh chiều tà. Nhưng đáng tiếc lại một lần nữa bản dịch thơ
không thể thể hiện được hết ý nghĩa của bản nguyên tác khi “sơn thôn thiếu nữ” dịch là “cô em
xóm núi”. Bác đã không gọi cô gái bên bếp lửa hồng ấy là “cô em” mang sắc thái bông đùa mà
Bác đã trân trọng gọi là “thiếu nữ”. Điều đáng chú ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong
thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa. Người thiếu nữ trong thơ
xưa thì thường được ví như “liễu yếu đào tơ”, sống trong cảnh “phòng khuê khép kín”, chỉ biết
“cầm, kì, thi, hoạ”. Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị,
đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Phải chăng chính cái sức sống ấy đã làm nên vẻ đẹp sinh
động cho bức tranh.
Với điệp ngữ liên hoàn “ma bao túc – bao túc ma”, thi nhân đã diễn tả những vòng xay nối
tiếp nhau của cô gái, như sự tuần hoàn của thời gian, trời đã tối, tối dần. Hồ Chí Minh đã có phát
hiện mới trong bút pháp miêu tả thời gian, đó là sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, vòng quay
của chiếc cối chấm dứt đồng nghĩa rằng công việc kết thúc và lò than cũng vừa đỏ. “Lò than rực
hồng” xuất hiện tỏa sáng vào đêm tối đã xua tan cái lạnh lẽo, tối tăm, đem đến sự ấm áp cho đêm
miền sơn cước. Chữ “hồng” nằm ở cuối bài thơ có một vị trí vô cùng đặc biệt, nó được xem là thi
nhãn. Nếu hình dung cả bài thơ là một bức tranh thì chính cái chấm lửa đỏ mà người nghệ sĩ tài
hoa chấm lên đó đã mang lại thần sắc cho toàn cảnh, dường như nó làm tăng thêm niềm vui và
sức mạnh cho người tù đang cất bước trên con đường xa thẳm. Ngọn lửa ấy đã làm bừng sáng
“chất thép” của những tình cảm lớn lao và nghị lực phi thường trong thơ Hồ Chí Minh.
Qua bài thơ “Chiều tối”, người đọc luôn thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và tinh
thần lạc quan của Bác. Dù ở trong cảnh tù đày khắc nghiệt nhưng Bác vẫn ung dung, tự tại, vẫn
giữ vững niềm tin, vượt lên trên tất cả để vui với niềm vui của người lao động, hướng về phía
ánh sáng và tương lai. Mệt mỏi có thể chùn chân nhưng không được lùi bước, hướng về phía mặt
trời, bóng tối sẽ ở phía sau. Từ đó, ta thấy được một tình yêu thiên nhiên, khát vọng tự do và
“chất thép” của người tù – chiến sĩ Hồ Chí Minh.
Bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển thể hiện ở bút pháp
tả cảnh ngụ tình, bút pháp chấm phá, thi liệu xưa cũ. Tinh thần hiện đại thể hiện ở tinh thần lạc
quan cách mạng: luôn hướng về ánh sáng, về sự vận động phát triển. Hình ảnh thơ có sự vận
động từ bóng tối ra ánh sáng, từ lạnh lẽo sang ấm áp, từ hiu quạnh, vắng vẻ sang tươi vui. Bác sử
dụng các biện pháp tu từ như: điệp ngữ, ẩn dụ,.. để gửi gắm nỗi lòng qua từng câu chữ. Ngôn
ngữ thơ hàm súc nhưng giàu sức gợi khiến bài thơ không chỉ chân thực mà còn mang cả tâm hồn
của Người.
Thời gian có thể làm cho cái đẹp bị tàn phai, nhưng không thể giết chết cái đẹp. “Chiều tối”
cũng vậy, nó vẫn vươn mình trong “vùng đất chết” để trở thành một thi phẩm chói lòa, vượt ra
khỏi nỗi khổ của người tù chuyển lao, thoát khỏi “cái dơ bẩn thấp hèn” và thay vào đó là một
tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của Bác. Bên
cạnh vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, ta còn thấy được tấm lòng của vị lãnh tụ vĩ đại khi luôn
hướng về cuộc sống của nhân dân lao động, trái tim ấm áp luôn có “chất thép” ngầm mạnh mẽ,
kiên trung với lý tưởng cách mạng sáng ngời. “Con người của tương lai” ấy luôn hướng về thiên
nhiên, cuộc sống, con người với sự đồng cảm và trân trọng “Nâng niu tất cả chỉ quên mình” (Tố
Hữu).

You might also like