You are on page 1of 3

Phân tích chiều tối

Nói về tập thơ "Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh, nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã có nhận xét:
"Quy luật thống nhất giữa cách mạng và thơ ca chân chính đã khiến cho Bác Hồ trong khi đào luyện
mình thành một chiến sĩ cách mạng vĩ đại đã cùng lúc, ngoài ý muốn của Người, tự chuẩn bị cho mình
những điều kiện để trở thành một nhà thơ lớn". Đây là một tập thơ ra đời khi bác bị chính quyền Tưởng
Giới Thạch bắt giam. Tập thơ được viết bằng chữ Hán và tiêu biểu trong đó là bài thơ Chiều tối.

Trên đường bị giải đi từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo vào cuối mùa thu năm 1942, bài thơ
"Chiều tối" đã được Bác cho ra đời. Dù phải chịu biết bao những khó khăn, thử thách nhưng cũng chẳng
thể làm chùn bước chân của người chiến sĩ ấy. Bác làm thơ để ngâm ngợi cho khuây, cũng là cách để tự
tiếp thêm sức mạnh chờ tới ngày tự do. Những vần thơ ấy không chỉ "mênh mông bát ngát tình" mà còn
thể hiện một ý chí thép, một tinh thần thép của người chiến sĩ Cộng sản.

Với bút pháp gợi tả và đôi nét chấm phá của Đường thi, Hồ Chí Minh đã vẽ lại bức tranh thiên nhiên trên
con đường chuyển lao:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Khoảng thời gian chiều tối là lúc mà những chú chim sải cánh bay đi để tìm chốn ngủ cho mình sau ngày
dài rời tổ đi kiếm ăn. Cánh chim ấy bay dưới buổi hoàng hôn tạo nên một hình ảnh nhỏ bé giữa không
gian rộng lớn nơi cánh rừng. Chúng ta đâu đó đã từng bắt gặp hình ảnh quen thuộc này trong thơ ca
truyền thống như câu ca dao: "Chim bay về núi tối rồi" hay trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan:

Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn


Chiều tà buông xuống là lúc khép lại một ngày dài để nhường chỗ cho màn đêm và bóng tối buông
xuống ngự trị. Khoảng thời gian này là lúc để nghỉ ngơi nhưng cũng gợi nên những nỗi buồn. Những chú
chim đã tìm được nơi để dừng lại dưỡng sức nhưng người tù thì không thể tránh khỏi cảm giác chạnh
lòng. Bác khao khát có một chốn dừng chân để nghỉ ngơi. Thế nhưng dù mệt mỏi là vậy, cô đơn là vậy
nhưng người chiến sĩ ấy vẫn chẳng hề kêu than mà thản nhiên đối mặt với hoàn cảnh ấy bằng ý chí, nghị
lực phi thường.

Giữa không gian rộng lớn ấy lại có những chòm mây cô đơn, lẻ loi trôi lững lờ. So với nguyên tác thì bản
dịch đã thiếu từ "cô" khiến cho ý thơ không thể diễn tả được hết sự đơn chiếc của những đám mây nơi
bầu trời. Không chỉ có những cánh chim mà cả chòm mây cũng mang sự cô độc. Phải là một người rất
yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời tha thiết thì Bác Hồ mới có thể thấy được rõ cái hồn của cảnh vật đến như
vậy.

Bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng buổi chiều tà ts đã làm hiện lên một tâm hồn thi sĩ. Tâm hồn ấy giao
hoà và cảm thông với vạn vật bởi giữa vạn vật và bản thân người thi sĩ có sự tương đồng. Cho dù tay
chân bị trói buộc, kìm kẹp bởi những gông cùm, xiềng xích nhưng Hồ Chí Minh vẫn giữ cho mình một
phong thái vô cùng ung dung, đĩnh đạc. Nếu như Bác không có một tinh thần thép, một sự lạc quan thì
có lẽ sẽ chẳng thể hướng hồn mình ra thế giới bên ngoài để ngắm nhìn và cảm nhận chúng. Những chất
liệu thơ Đường được sử dụng ở hai câu thơ như: thời gian chiều tối, hình ảnh cánh chim, chòm mây...
Những thi liệu cổ này đều gợi đến một nỗi buồn sao mà hiu hắt, quạnh vắng cho cả chính chủ thể trữ
tình và người đọc. Đồng thời, những hình ảnh ước lệ đó cũng cho thấy được sự vận động của thời gian,
cảnh vật khi mà buổi chiều tà buông xuống.

Nếu như với hai câu thơ đầu tiên đã khắc hoạ nên bức tranh thiên nhiên núi rừng, thì ở hai câu thơ sau
miêu tả khung cảnh sinh hoạt của con người:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng)


Hình ảnh của cuộc sống con người xuất hiện dường như đã đẩy lùi đi nỗi buồn của người tù. Con người
là chủ thể, là trung tâm của bức tranh sinh hoạt này. Bác đã có một cái nhìn vừa bao quát lại vừa chi tiết,
từ xa đến gần, từ bầu trời xuống mặt đất để thể hiện rõ nét cuộc sống của những con người xóm núi.
Vòng xoay của cối xay ngô cứ lặp lại đều đều qua từ ngữ "ma bao túc", "bao túc ma hoàn" cho thấy
những vòng quay cứ nối tiếp nhau không ngừng nghỉ, nó diễn tả một cuộc sống lao động đầy vất vả, cực
nhọc của con người. Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp liên hoàn đầu cuối để thể hiện sự
tuần hoàn của thời gian, của vũ trụ. Người thiếu nữ nơi sơn cước ấy, người mà đang làm công việc xay
ngô chính là chủ thể mà Bác hướng tới. Nếu như trong thơ ca xưa thiên nhiên thường là chủ thể thì
trong thơ Bác con người đã trở thành chủ thể. Hình ảnh của cô gái miền sơn cước ấy, người đang chuẩn
bị bữa tối cho gia đình bên bếp lửa là một hình ảnh thật đẹp, toát lên sự khoẻ khắn của con người. Cuộc
sống lao động, mưu sinh ấy dù có thật vất vả nhưng rất đáng trân trọng.

Lúc này, thời gian đã chuyển hẳn sang tối. Mặc dù ở bản gốc không có từ "tối" thế nhưng hình ảnh lò
than "rực hồng" là dấu hiệu cho người đọc biết rằng tời đã tối rồi. Chữ "hồng" là nhãn tự, là điểm sáng
của bài thơ, cho thất hình tượng thơ có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ nỗi buồn cho tới niềm
vui, từ lụi tàn tới sự sống, từ cô đơn cho tới sum vầy. Hình ảnh lò than ấy dù vô cùng giản dị nhưng mang
trong đó đầy ý nghĩa. Nó đã gợi lên một sự bao la, ấm áp, xoá tan đi những lạnh lẽo nơi núi rừng và cả
sự lạnh lẽo bởi cô đơn trong lòng người. Lò than ấy cũng giống như một ngọn lửa niềm tin mãnh liệt vào
một ngày mai cách mạng sẽ nhất định thắng lợi.

Nhà tù Tưởng Giới Thạch ấy chỉ có thể giam giữ, kìm kẹp thân thể của bác thế nhưng lại chẳng thề làm
khô héo được tâm hồn Người. Ngay cả khi bị đày đoạ về thể xác, Bác vẫn hướng tâm hồn mình ra bên
ngoài để toà vào với tạo vật, với con người. Người đã quên đi những sự cực khổ để vui với những niềm
nui nho nhỏ mà bình dị của người dân lao động. Bài thơ "Chiều tối" đã cho thấy sự lạc quan cách mạng
vô cùng mãnh liệt, mạch thơ và hình tượng thơ luôn vận động hướng về sự sống và ánh sáng. Bên cạnh
đó, sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và hiện đại cũng là điều tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

"Chiều tối" đã cho thấy tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng và tâm hồn của một người thi sĩ đã hoà
quyện vào làm một. Mỗi áng thơ của Bác đều có chất thép, cái chất thép được toát ra từ tư tưởng của
một người chiến sĩ vĩ đại.

You might also like