You are on page 1of 33

CHIỀU TỐI

Ai đó đã nói rằng: “Điều kì diệu tuyệt đỉnh của nghệ thuật, đặc biệt thi ca, là ở nơi đó ta
có thể tự do sắp đặt một thế giới riêng như mình khao khát. Thế giới ấy dẫu ảo huyền hay u ám
tới đâu cũng phải thấm đẫm tính nhân văn cao cả, hướng nhân loại tới sự cao đẹp.” Thi ca bao
giờ cũng thế, phải gắn mình vào nguồn mạch cuộc sống, nếu thi nhân quay lưng với cuộc sống,
mải mê với chuyện đúc chữ, luyện câu, mọi giá trị văn chương chỉ còn là kỹ xảo. Sức nặng của
những trang thơ chính từ cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia mà tạo thành, nhà thơ phải đến đó để
viết lên từ thứ mực được chưng cất từ chính hiện thực cuộc sống, dù nó có thế nào đi chăng nữa
thì thơ anh vẫn phải “thấm đẫm tính nhân văn cao cả” và phải “hướng nhân loại tới sự cao đẹp”.
Hồ Chí Minh đế với thơ ca cũng vậy, những trang thơ của Người mang đậm trong mình chất
“thép”, đó chính là cảm hứng đấu tranh tích cực, là tính chiến đấu của thơ ca và văn học nghệ
thuật. Người luôn biến những thứ tầm thường thành thú vui tiêu khiển, tạm quên đi cảm giác khó
nhọc bị tra tấn nơi đất khách quê người, đặc biệt qua bài thơ “Chiều tối” đã cho ta thấy tình yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt đầy phi thường của người tù
cách mạng:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”
Không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh còn là nhà văn, nhà thơ lớn
với nhiều tác phẩm có giá trị. Với Bác, người nghệ sĩ phải là một chiến sĩ chủ động tích cực trên
mặt trận với vũ khí đặc biệt là các tác phẩm văn chương: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt
trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Ta vẫn thường thấy những thi phẩm nghệ thuật
thường ra đời trong hoàn cảnh rất đỗi nên thơ, khi trà dư tửu hậu hoặc lúc tức cảnh sinh tình,
nhưng thơ Bác ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất vẫn vươn mình để trở thành áng thơ
tuyệt bút. “Mộ” (Chiều tối) được Bác lấy cảm hứng từ khung cảnh miền sơn cước vào một buổi
chiều trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo cuối tháng 10 năm 1942. Đây được coi
là một trong những thi phẩm đặc sắc trích từ tập “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù), bài thơ
mang đậm màu sắc cổ điển song cũng thấm đượm tinh thần hiện đại qua đó góp phần làm nổi bật
cốt cách của “bậc đại trí, đại nhân, đại dũng” (Viên Ưng – Trung Quốc).

Ngay từ những nét phác họa đầu tiên ta đã thấy hiện lên bức tranh cổ kính, đậm nét của
thi ca cổ điển:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ


Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Cảnh vật vùng sơn cước là những hình ảnh thực được hiện lên rõ nét qua con mắt và tâm trạng
của người tù nơi đất khách quê người. Chiều tối là lúc ánh sáng ban ngày gần vụt tắt hẳn, người
đi đường ngước mắt nhìn lên bầu trời – nơi vẫn có chút ánh sáng ban ngày còn sót lại và chợt
nhận thấy một cánh chim lẻ bầy mỏi mệt (quyện điểu) đang bay về rừng tìm nơi trú ngụ. Chẳng
lẽ tự nhiên mà cánh chim ấy rơi vào điểm nhìn của Bác, sự cảm nhận đó xuất phát trên cơ sở ý
thức sâu sắc của cái tôi cá nhân trước ngoại cảnh, và trên cơ sở sự gần gũi, tương đồng: suốt một
ngày bay đi kiếm ăn, cánh chim đã mỏi mệt, người tù cũng mệt mỏi sau một ngày vất vả lê bước
trên đường trường. Những cánh chim kia còn biết tìm về tổ ấm khi màn đêm buông xuống còn
người tù tha hương nơi đất khách vẫn phải rảo bước trên con đường gian khổ mà chẳng biết điểm
dừng chân sẽ là ở đâu. Sẵn có một tâm hồn nhạy cảm nên Người không thể không chạnh lòng và
gợi lên nỗi nhớ quê hương cồn cào, da diết, dường như Bác cũng muốn dừng chân sau một hành
trình nhọc nhằn đầy khó khăn:
“Năm mươi ba dặm một ngày trời
Áo mũ ướt đầm, dép tả tơi…”
Ngược dòng thời gian, ta sẽ bắt gặp tứ thơ tương tự qua những vần thơ của Lí Bạch:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”
Cũng là cánh chim, chòm mây lẻ nhưng thơ Lý Bạch và thơ Bác chỉ giống nhau ở hình xác thi
liệu, còn hai thế giới cảm xúc là hoàn toàn khác nhau: Thơ Lí Bạch tái hiện hình ảnh cánh chim
bay vào cõi hư vô lạnh buốt mang cảm hứng thoát tục lánh đời còn cánh chim trong thơ Bác có
điểm đến rất rõ ràng: về rừng – về với cõi trần gian gần gũi, về với tổ ấm thật thân thương. Nhìn
cánh chim mà Người thấy trong dáng bay của nó có cả sự mệt mỏi. Phải chăng đó chính là tình
cảm nhân đạo, là tấm lòng cảm thương cho cánh chim sau một ngày vất vả lam lũ. Cái nhìn ấy
thể hiện sự nhân ái, bao la của Người đối với vạn vật như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
“Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người”
Trong câu thơ sau “Cô vân mạn mạn độ thiên không” mang đậm đà phong vị cổ thi và đẹp như
một câu thơ Đường, cũng mượn thi liệu quen thuộc là hình ảnh chòm mây để miêu tả cảnh chiều
tà:
“Bạch vân thiên tải không du du”
(Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay)
(Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu)
Song những áng mây trong thơ Bác không phong lưu, cao sang mà rất bình dị, êm ả của bầu trời
miền sơn cước. Đối chiếu với bản dịch thơ, rất tiếc người dịch đã làm mất đi sự cô đơn, lẻ loi của
đám mây (cô vân) và dáng vẻ lững lờ như chất chứa nỗi niềm, giúp ta hình dung ra cả một
khoảng trời trong trẻo, mênh mang, tĩnh lặng cùng chút gió thu nhè nhẹ hiu hắt buồn (mạn mạn).
Hai hình ảnh tương phản ở đầu và cuối câu thơ: “cô vân” – “thiên không”, đối lập giữa không
gian cao rộng, thoáng đạt của bầu trời với sự lẻ loi của áng mây khiến cho không gian càng rộng
mở mênh mông, rợn ngợp và cánh chim càng nhỏ bé, đơn độc, đáng thương. Lối vẽ chấm phá cổ
điển không làm cho hình ảnh chòm mây rơi vào ước lệ giống với thơ xưa mà ngược lại giúp
chúng sống động như mang tâm tình, xúc cảm. Áng mây dường như không biết đi đâu, về đâu
trong cảnh chiều tàn đang dần khép cửa, nó khiến người tù cách mạng nghĩ đến thân phận bơ vơ
nơi đất khách quê người của mình, đó vừa là nỗi buồn cố hữu trước cảnh thiên nhiên vừa là nỗi
buồn phải xa quê nhưng lúc nào cũng nhớ về quê hương:
“Năm tròn cố quốc thân vô tội
Hóa lệ thành thơ tả nỗi này”
Bằng những thi liệu cổ điển quen thuộc, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và bút pháp chấm phá
chỉ gợi mà ít tả, thi nhân đã dựng lên bức tranh chiều muộn thanh bình miền sơn cước. Bức tranh
ấy hoàn toàn không có dây trói hay gông xiềng, tư thế một tù nhân đã thay thế hoàn toàn bởi tư
thế của một hành nhân, một thi nhân. Cảnh vật được cảm nhận từ điểm nhìn cao rộng khoáng
đạt, vì vậy cảnh tuy hoang vắng, phảng phất chút buồn nhưng không cô liêu, tuyệt vọng. Và
người tù cách mạng đã dành những tình cảm yêu thương, trìu mến cho vạn vật, cho tự nhiên vốn
dĩ rất thơ mộng này. Tự chủ trong cái nhìn thiên nhiên và đồng thời con người cũng tự chủ trong
cả những cảm xúc vui buồn. Hai câu thơ không khẩu khí mà lại làm ta rung động. Người tù đang
tự do tự tại trước cảnh ngộ éo le như Bác đã từng viết khi mới bước vào nơi bị giam cầm:
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao”.
Hai câu thơ là tư thế của con người làm chủ hoàn cảnh, làm chủ cuộc đời, càng đặt hai câu thơ
trong hoàn cảnh sáng tác của nó, người đọc càng cảm nhận được bản lĩnh phi thường, tinh thần
thép của người tù chiến sĩ Hồ Chí Minh trước những khắc nghiệt của cuộc đời:
“Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”
(Hoàng Trung Thông)
Hai câu thơ cuối có sự vận động về thời gian từ chiều đến tối, có sự vận động từ không gian
thiên nhiên đến không gian cảnh sinh hoạt. Nổi bật trong bức tranh là hình ảnh cô thiếu nữ xóm
núi đang xay ngô chuẩn bị cho bữa tối, đây là một thi liệu mang đậm tính dân chủ cho văn
chương cũng như sự vận động mới mẻ cho hình tượng thơ:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Ta vẫn thường thấy trong thơ xưa, cảnh thiên nhiên thường vắng bóng con người hoặc con người
bị hòa vào thiên nhiên, họ thường nhỏ bé, cô đơn, thường tĩnh lặng, thụ động và luôn chịu sự chi
phối của ngoại cảnh như trong bài “Qua đèo ngang” của bà Huyện Thanh Quan:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Nhưng khi đến với bài thơ “Chiều tối”, trung tâm của bức tranh giờ đây lại là con người – hình
ảnh cô gái đang lao động chăm chỉ xay ngô bên bếp lửa như mang đến sức sống cho khung cảnh
chiều tối. Đặc biệt, đó là sự gắn kết “thiếu nữ” – “sơn thôn” đã cho ta thấy cảm xúc, hồn thơ của
Bác. Người luôn luôn phát hiện mối quan hệ hòa hợp giữa người và cảnh vật. Không phải ngẫu
nhiên có sự kết hợp này, dường như xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ vào sự xuất hiện của
thiếu nữ. Và thiếu nữ xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi mà gắn liền với cộng đồng “sơn thôn”
của mình, đó vẫn luôn là cách nhìn đặc biệt thường gặp trong thơ Bác:
“Làng xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh”
(Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung)
Ở câu thơ thứ 3 lại một lần nữa bản dịch thơ không thể thể hiện được hết ý nghĩa của bản nguyên
tác khi “sơn thôn thiếu nữ” dịch là “cô em xóm núi”. Bác không gọi cô gái bên bếp lửa hồng ấy
với hai từ cô em mang sắc thái bông đùa mà Bác trân trọng gọi người con gái ấy là thiếu nữ – gợi
cảm xúc về sức trẻ, tuổi thanh xuân của cô. Mặt khác, thơ cổ cũng đã nhiều lần nhắc đến hình
ảnh người thiếu nữ, nhưng là những thiếu nữ đài các nơi khuê phòng:
“Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
(Truyện Kiều)
Là những mĩ nhân, những quý tộc thượng lưu ở lầu son gác tía như trong thơ Lí Bạch:
“Mĩ nhân nhất tiếu khiên châu bạc
Giao chỉ hông lâu: thị thiếu gia”
(Mĩ nhân nở nụ cười vén bức rèm châu
Rồi chỉ về phía lầu hồng nói với ta: ấy là nhà của thiếp)
Còn người thiếu nữ trong “Chiều tối” xuất hiện cùng khung cảnh lao động bình dị nơi xóm làng
mang vẻ đẹp khỏe khoắn, mộc mạc mà gần gũi, đầy thương mến và chính cuộc sống lao động
bình dị đó càng trở nên đáng quý, đáng trân trọng biết bao giữa rừng núi chiều tối âm u heo hút.
Nó mang lại cho người đi đường chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui và hạnh phúc trong lao
động của con người, tuy vất vả mà tự do. Trong câu thơ thứ ba ở bản dịch thơ, người dịch đã sơ ý
đặt thêm chữ “tối” vào khiến giảm đi ít nhiều tính hàm súc, cô đọng. Xét về thời gian thì quả
thực khi cô gái xay ngô thì trời đã tối nhưng cảm quan nghệ thuật của Bác thì rất dị ứng với bóng
tối và hơn cả người đọc hoàn toàn có thể nhận thấy được bước chuyển biến của thời gian ngay cả
khi không có sự xuất hiện của chữ “tối” như Lê Trí Viễn đã từng bình luận: “Thời gian trôi dần
dần theo cánh chim và làn mây, theo vòng xoay của cối ngô quay mãi quay mãi”. Ở hai câu thơ
cuối này, thi nhân đã sử dụng thành công cấu trúc lặp vòng tròn từ cuối câu ba tới đầu câu bốn:
“ma túc bao – bao túc ma” mặc dù đối với một bài thơ tứ tuyệt chỉ vỏn vẹn hai mươi tám chữ
việc dùng phép lặp rất ít khi xảy ra. Cụm từ “ma túc bao” ở cuối câu thơ thứ ba đã gối đầu vào
câu thơ thứ tư theo lối đảo ngược, nếu đọc liên tục ta sẽ có ấn tượng về những vòng quay đều
đặn của chiếc cối xay ngô, nó cứ chuyển động dường như triền miên không dứt: “…ma bao
túc…bao túc ma…ma bao túc” đưa ta với một buổi tối sum họp, ấm áp của một gia đình vùng
sơn cước. Hồ Chí Minh đã có phát hiện mới trong bút pháp miêu tả thời gian đó là sự vận động
từ bóng tối ra ánh sáng, vòng quay của chiếc cối chấm dứt đồng nghĩa rằng công việc kết thúc và
lò than cũng vừa đỏ. Ánh lửa hồng xuất hiện bất ngờ tỏa sáng vào đêm tối đã xua tan cái lạnh
lẽo, tối tăm thắp lại ánh sáng và sự ấm áp cho đêm miền sơn cước. Chữ “hồng” nằm ở cuối bài
thơ có một vị trí đặc biệt, nó được xem là nhãn tự của toàn bài. Nhà thơ Hoàng Trung Thông
nhận xét: “Với một chữ hồng Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi,
sự uể oải, sự vội vã…” Ánh hồng không chỉ tỏa ra từ bếp lửa mà còn tỏa ra từ tấm lòng nhân ái,
tinh thần lạc quan của người tù cách mạng. Dường như trong thơ Bác luôn hướng về những thứ
cao cả, đẹp đẽ: “từ tư tưởng đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh
sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh. Như vậy, chữ “hồng” đã tạo lên một điểm sáng nghệ
thuật đem lại giá trị thẩm mĩ, nó vừa xua tan cái lạnh lẽo, vừa gợi cảm giác vui tươi, bình yên,
đầm ấm của cuộc sống, vừa biểu tượng cho sự lạc quan, yêu đời của Bác. Ngọn lửa ấy đã làm
bừng sáng chất thép trong thơ Hồ Chí Minh. Đó là chất thép của những tình cảm lớn lao, của
niềm tin và nghị lực phi thường.Những năm 40 của thế kỉ trước, trên thi đàn văn học lãng mạn
vang lên những vần thơ nặng trĩu buổi chiều của Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim
nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa…”. Những câu thơ của chàng thanh niên trí thức tiểu tư sản đã
mang theo tâm trạng bất lực của cả một lớp người đang ngột ngạt giữa xã hội đen tối Việt Nam
dưới ách ngoại bang. Cũng trong một buổi chiều giữa nơi đất khách Trung Hoa, một người tù
“tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao la,
làm nên những vần thơ tuyệt tác, vừa cổ kính, vừa rất trữ tình thư thái. Đọc thơ Người ta khám
phá được “từ màu sác cổ điển bỗng tỏa sáng tinh thần thời đại”, thấy được tư thế ung dung của
người tù cách mạng như nhà thơ Tố Hữu từng viết:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, tay mờ, tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
“Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng,
Hoa tàn hoa nở cũng vô tình,
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
Kể tù nhân nỗi bất bình.”
Thời gian có thể làm cho cái đẹp bị tàn phai, nhưng không thể giết chết cái đẹp. Hoa
hồng tàn về thân xác cánh hoa có thể rơi, đài hoa có thể rụng nhưng hương hoa vẫn còn thơm
mãi, hồn hoa biết bay đi để tìm người bạn tri âm tri kỉ cùng chia sẻ nỗi buồn, nỗi bất bình, tài
năng của người nghệ sĩ có thể làm cho cái đẹp bất tử. Những vần thơ “Chiều tối” cũng vậy, nó
vẫn vươn mình trong “vùng đất chết” để trở thành một thi phẩm chói lòa, vượt ra khỏi nỗi khổ
của người tù chuyển lao, thoát khỏi “cái dơ bẩn thấp hèn” và thay vào đó là một tâm hồn yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống và yêu con người đến tha thiết.
TỪ ẤY
Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Với Tố Hữu tả cảnh hay tả tình, khóc mình hay khóc
người, viết về vấn đề lớn hay vấn đề nhỏ đều là để nói cho hết cái lí tưởng cộng sản ấy thôi”. Chỉ
vài dòng nhận xét ấy thôi đã đủ cho ta hiểu về Tố Hữu- nhà thơ tình cách mạng lớn nhất trong
thơ Hiện đại. Giữa bao ngọn cờ sai lạc dưới sự thống trị của thực dân Pháp, Tố Hữu hiện lên như
lá cờ Đảng mang cái lí tưởng, cái lối sống, cái triết học đúng đắn nhất đương thời thấm nhuần
vào từng dòng thơ của mình. Ngay cả khi đến cái tuổi “gần đất xa trời” trong ông vẫn nồng nàn
chung thủy với Cách mạng:
“Thuyền có vượt sóng không nghiêng ngả
Nghĩa lớn xuôi dòng lộng ước mơ
Mới nửa đường thôi, còn bước tiếp
Trăm năm duyên kiếp Đảng và Thơ”
Hiện lên như một vệt sáng giữa bầu trời tăm tối, bài thơ “Từ ấy” được coi là tuyên ngôn về cuộc
sống của chàng thanh niên 16-17 tuổi đầy nhiệt huyết, vạch ra cho người thanh niên ấy một lẽ
sống, một lí tưởng giữa những cám dỗ lúc bấy giờ. Tố Hữu đã có lần tâm sự: “Nếu không có “Từ
ấy” thì không biết tôi đã trở thành thế nào. May mắn lắm là một người vô tội.”
Bài thơ “Từ ấy” được sáng tác năm 1938 in trong phần “Máu lửa” thuộc tập “Từ ấy”
mang những sắc thái riêng tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu, thể hiện niềm vui cũng như tâm
nguyện của người thanh niên trẻ khi đến với con đường Cách mạng.
Bài thơ mở ra là niềm say mê, vui sướng của tác giả khi bắt gặp lí tưởng của Đảng trong lúc còn
“Băn khoăn đi tìm lẽ yêu đời”. Hai câu thơ đầu được nhà thơ khéo léo sử dụng bút pháp tự sự kết
hợp với bút pháp trữ tình, lời thơ đầy niềm say mê, nao nức của ông khi đón nhận lí tưởng cách
mạng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
“Từ ấy” không chỉ đơn thuần là cột mốc thời gian. Nó đứng đầu khổ thơ còn giữ sứ mệnh là cột
mốc thiêng liêng của cả cuộc đời, là bước ngoặt quan trọng trong lẽ sống và tâm hồn nhà thơ. Nó
chấm dứt những tháng ngày dài quanh quẩn đi tìm lẽ yêu đời. Hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt
trời chân lí” đã diễn tả niềm hạnh phúc của nhà thơ khi bắt gặp lí tượng cộng sản. Đây là những
hình ảnh rực rỡ, chói chang vừa làm bừng tỉnh, vừa chiếu sáng tâm hồn nhà thơ và xua tan đi
bóng tối của chủ nghĩa cá nhân trong tâm hồn thi sĩ. Không ít lần ánh sáng huy hoàng của chân lí
đã soi sáng vào thơ Tố Hữu:
“Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng
Ta đi tới chỉ một đường cách mạng”
Những động từ mạnh “bừng”, “chói” góp phần khẳng định vai trò của lí tưởng cuộc sống đối với
đời cách mạng, đời thơ của Tố Hữu. Một bên là ánh sáng đột ngột (bừng), một bên là ánh sáng
xuyên thấu rất mạnh, rất rực rỡ (chói) nó như bao kín đôi mắt nhà thơ và như soi sáng trong lòng
tác giả. Ánh sáng ấy đã hoàn toàn xua đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong
tâm hồn nhà thơ một chân trời như nhà thơ Chế Lan Viết từng viết:
“Nếp rêu con cũng chói lòa ánh sáng
Khi mặt trời tư tưởng rọi hang sâu”
Ở đây còn có cái gì tỏa sáng giống như cô gái gặp được người yêu trong bài ca dao xưa:
“Thấy anh như thấy mặt trời
Chói chang khó ngó trao lời khó trao”
Có lẽ ánh sáng lí tưởng đã hồi sinh một đời người, đã xua tan màn đêm của u mê, đã mở ra cho
nhà thơ một chân trời mới mẻ của tư tưởng tình cảm.
Hai câu thơ tiếp theo được viết theo bút pháp trữ tình lãng mạn diễn tả niềm vui sướng vô hạn
của nhà thơ trong buổi đầu đến với cách mạng:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Tố Hữu ví tâm hồn mình như “một vườn hoa lá”, ông đã lấy cái cụ thể để diễn tả cái trìu tượng
thật sống động tạo ra phép so sánh chính xác, độc đáo, bất ngờ và mang tính thẩm mĩ cao. Trong
khu vườn ấy là một cuộc sống đầy màu sắc, âm thanh, mùi vi. Đó là màu xanh của lá, là hương
thơm ngây ngất của hoa, là âm thanh tiếng chim ríu rít rộn ràng. Tất cả âm vang của cuộc sống
đã được nhà thơ chắt lọc để nuôi dưỡng tâm hôn. Xuân Diệu- một đại biểu xuất sắc của thơ ca
lãng mạn thời ấy cũng có hình ảnh tương tự khi diễn tả tình cảm trong trẻo, hồn nhiên của cặp
tình nhân:
“Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi”
“Đậm” là sự ngào ngạt của hương thơm, “rộn” là cái ríu rít của âm thanh, hai tính từ đã diễn tả
sức sống mãnh liệt, niềm vui và hạnh phúc tột đỉnh của tâm hồn thi sị Các giác quan đã được
đánh thức, khu vườn ảo của tâm trạng đã thêm phần cụ thể, tràn đầy âm thanh, hương vị,…
Trong sự tỏa sáng của chân lí, ngôn từ thơ Tố Hữu cũng như cựa mình trỗi dậy. Sự sống cứ ăm
ắp dâng lên, nhà thơ sung sướng đón nhận cái chân lí như cỏ cây hoa lá đón ánh nắng mặt trời.
Mượn hình ảnh thiên nhiên để thể hiện tâm hồn vừa nhấn mạnh tính tất yếu của cách mạng, vừa
tạo nên những hình ảnh thơ lấp lánh , sống động. Ở Tố Hữu, lí tưởng sống là nguồn sống của đời
người, nguồn sống của thơ ca cũng giống như M.Gorki từng nói: “Văn học giúp con người hiểu
được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng
hướng tới chân lí”.
Không chỉ giác ngộ được lí tưởng cách mạng, Tố Hữu đồng thời còn thể hiện nhận thức mới mẻ
về lẽ sống:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Tố Hữu vốn là một thanh niên sống ở môi trường thành thị nên cũng mang trong mình tinh thần
tiểu tư sản với một cái tôi cá nhân. Muốn bước ra khỏi vòng tròn của cái tôi ấy đâu phải dễ dàng,
chính ông cũng từng thừa nhận rằng:
“Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vơ vẩn theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát than ôi bước chẳng rời”
Vậy mà từ khi gặp lí tưởng cuộc sống, Tố Hữu đã có một bước ngoặt quan trọng về nhận thức
hay nói đúng hơn là một cuộc lột xác về tư tưởng, một cuộc thay máu của lẽ sống. Ông đã xây
dựng một tương quan mới giữa cái “tôi” với “mọi người” với “trăm nơi” với “bao hồn khổ”, giữa
cái riêng với cái chung, giữa cái tôi với cái ta. “Buộc” và “trang trải” là hai động từ chỉ hoạt động
có tính tình nguyện, là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng đều nằm trong nhận thức mới
về lẽ sống của Tố Hữu. “Buộc” không có nghĩa là ép buộc một cách gắng gượng mà là tự nguyện
tạo ra sự gắn bó, đoàn kết, đồng cảm với mọi người. “Trang trải” là tâm hồn nhà thơ luôn trải
rộng với cuộc đời, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng người cụ thể. Dường như Tố Hữu đã
vượt qua giới hạn của cái “tôi” cá nhân nhỏ bé để sống chan hòa với mọi người, để hòa nhập vào
cái ta chung cũng giống như sự chuyển đổi đại từ trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
…………………….
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Từ “để” được lặp lại hai lần nhằm nhấn mạnh sự gắn bó, chia sẻ giữ bản thân mình với “mọi
người” với “trăm nơi” với “bao hồn khổ”. Giác ngộ lí tưởng cộng sản là giác ngộ về tình cảm.
Trước hết là giác ngộ về chỗ đứng, về phía nhân dân, về những đối tượng như Tố Hữu đã từng
nói “những tù nhân khốn nạn của bần cùng”. Khi đã hòa chung với mọi người, ông đã tìm thấy
nguồn sức mạnh: “gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”. “khối” là sự gắn kết trong một tập thể,
một cộng đồng, “mạnh” là sự hiệu quả từ việc gắn kết. Nếu như Cac mác biến định nghĩa ấy
thành câu nói làm kinh hoàng hệ thống tư sản: “Vô sản tất cả các nước bị áp bức đoàn kết lại” thì
Tố Hữu lại biến chúng thành thơ. Hai chữ “gần gũi” làm lay động cả nhận thức lẫn con tim. Tình
yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo, ông cũng muốn được
như Cácmac :
“Vì lẽ sống hi sinh cho cuộc sống
Đời với Mac là tình ca nghĩa rộng”
Với Tố Hữu ánh sáng lí tưởng đã tạo nên những biến đổi sâu sắc khiến một thanh niên tiểu tư sản
đã trở thành nhà thơ của nhân dân. Tình yêu thương con người của Tố Hữu là tình cảm hữu ái
giai cấp, ông đã đặt mình giữa dòng đời để thấy được niềm vui và sức manh. Qua đó Tố Hữu
khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống: “Cuộc đời là nơi xuất bản, cũng là
nơi đi tới của văn học”.
Từ sự gắn bó khăng khít đầy tình cảm, Tố Hữu đã nâng tình cảm giai cấp lên thành tình cảm ruột
thịt, ông coi quần chúng nhân dân như những người trong gia đình:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…”
Khổ thơ tiếp nối ý tưởng của khổ thơ thứ hai, tiếp tục bắc cây cầu từ cái “tôi” đến cái “ta”. Tôi
hướng về “vạn nhà”, “vạn kiếp phôi pha”, “vạn đầu em nhỏ”, hình ảnh thơ hiện lên cụ thể hơn,
sinh động hơn và cũng xúc động hơn. Từ “vạn” được lặp lại ba lần vừa nhấn mạnh số đông, vừa
tran đầy nhiệt huyết của nhà thơ muốn bứt khỏi cái tôi riêng tư để đến với chân trời rộng lớn. Nó
cũng là số từ mang tính ước lệ để một lần nữa khẳng định sự đoàn kết, đàm ấm, thân thiết như
một gia đình. Điệp từ “là” gắn với những đại từ chỉ quan hệ thân thuộc (em, con, anh) một mặt
thể hiện mối quan hệ tự nhiên mà gắn bó sâu sắc, mặt khác khẳng định nhiệm vụ, vai trò lớn lao
của người thanh niên đối với cộng đồng. Tố Hữu nhận thấy bản thân mình là một thành viên của
đại gia đình quần chúng lao khổ. Đến đây làm ta nhớ đến những dòng thơ xúc động khi Tố Hữu
viết về Bác Hồ:
“Người là cha là bác là anh
Quả tim lớn bọc trong dòng máu đỏ”
Khổ thơ vừa như lời tâm niệm của người chiến sĩ trẻ, vừa thể hiện niềm vui của nhà thơ khi chủ
động tìm đến đại gia đình mới của mình. Tấm lòng nhà thơ đồng cảm, xót thương khi nói tới
những con người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả (vạn kiếp phôi pha). Tấm lòng
nhà thơ thông cảm, chia sẻ khi nói tới những em nhỏ lang thang tội nghiệp, không nơi nương tựa
(cù bất cù bơ). “Cù bất cù bơ” là tính từ khá mới lạ nhưng người đọc vẫn cảm nhận được hoàn
cảnh nay đây mai đó, bơ vơ của đồng bào ta trong đói khổ. Tâm trạng của nhà thơ đã có sự
chuyển biến mạnh mẽ từ đồng cảm, sẻ chia đến căm giận trước sự bất công ngang trái của cuộc
đời. Tố Hữu đến với nhân dân lao động không chỉ là nhận thức mà còn là giao cảm lớn giữa cá
nhân với cộng đồng. Xét đến cùng, cách mạng chính là cuộc giao cảm vĩ đại của con người với
nhau như Lenin đã dùng hình ảnh: “em là ngày hội của quần chúng”.
Khép lại bài thơ là sự chân thành, thái độ quyết tâm cũng như trách nhiệm của Tố Hữu với sự
nghiệp cách mạng nước nhà đúng như Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Tố Hữu là nhà thi sĩ làm
cách mạng và là nhà cách mạng làm thơ”. Còn Chế Lan Viên thì cho rằng: “Thơ Tố Hữu là thơ
cách mạng chứ không phải thơ tình yêu… nhưng thơ anh là thơ của một tình nhân. Anh nói các
vấn đề bằng tình yêu say đắm”
“Từ ấy” chính là tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí tưởng của chàng thanh niên trẻ.
Bài thơ vừa có chất triết lí, vừa gần gũi thân thuộc. Từng câu thơ như nung nấu ý chí quyết tâm
của người cộng sản luôn cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và có lẽ suốt cuộc
đời chàng thanh niên trẻ đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp ấy:
“Tạm biệt đời ta yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ một nắm tro
Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất
Sống là cho, chết cũng là cho”
VỘI VÀNG
Thời đại thơ Mới là một nhánh rẽ đầy ngoạn mục, táo bạo của nền thơ ca Việt Nam. Khi
ấy, thơ văn khoác lên cho mình một chiếc áo được cách tân đầy mới mẻ, là mảnh đất vô cùng
màu mỡ đã vun trồng biết bao hồn thơ độc đáo như: Tản Đà, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử hay Xuân
Diệu. Nếu Tản Đà được biết đến là người “đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi
tân kì đương sắp sửa” thì Xuân Diệu lại là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị trí xứng
tầm trong lòng độc giả. Bài thơ “Vội vàng” – một thi phẩm tiêu biểu cho một phong cách thơ
được cách tân rất mới mẻ về cả nội dung và hình thức của Xuân Diệu, bài thơ thể hiện quan niệm
sống, niềm ham sống, khao khát sống và tận hưởng đến vô biên của thi nhân:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợp tắt
Còn hơn buồn lẻ loi suốt trăm năm”
Mở đầu bài thơ là bốn câu thơ có lẽ mang nét độc đáo nhất trong bài, thể hiện mãnh liệt
và táo bạo của thi nhân:

“Tôi muốn tắt nắng đi


Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Chỉ riêng bốn câu thơ ấy mang thể ngũ ngôn, đây là thể thơ phù hợp cho việc diễn tả cảm xúc
đặc biệt của Xuân Diệu. Câu thơ ngắn kết hợp với nhịp điệu gấp gáp, dồn dập tựa như những cơn
sóng đang trào dâng dữ dội trong lòng nhà thơ. Điệp ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần, đều
đứng ở đầu câu qua đó thể hiện khát vọng cháy bỏng của thi sĩ cùng với sự chủ động, kiêu hãnh
về khát vọng của mình. Sau điệp từ là những động từ có tính mệnh lệnh cùng những hình ảnh
thuộc về tự nhiên và biểu tượng cho cái đẹp: “tắt nắng”, “buộc gió”. Ta đều biết rằng nắng và gió
luôn tuân theo quy luật của tự nhiên khiến con người không thế chế ngữ được. Vậy mà ở đây,
Xuân Diệu có khát vọng hướng tới cái không thể, khát vọng chiếm đoạt quyền của tạo hóa để níu
giữ vẻ đẹp đất trời. Ông sợ gió cuốn đi hương thơm ngào ngạt, sợ nắng làm nhạt mất màu xuân
sắc. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quy luật của vũ trụ, đảo ngược quy luật thiên nhiên
là một điều phi lý bởi ngay nhà thơ Xuân Quỳnh vẫn luôn tin vào quy luật của tạo hóa:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Nhưng đối với Xuân Diệu, ông muốn chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để giữ cho vẻ đẹp trần
gian mãi mãi mang sắc xuân. Dù có là ước muốn viển vông và phi lí đi chăng nữa thì nó vẫn có
cái đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn, luôn thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống. Dường như với
ông, cuộc sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kì diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến.
Với tâm hồn cao cả của một thi sĩ, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp phơi phới đầy tình tứ ở
những cảnh vật thiên nhiên nhiên quen thuộc quanh ta:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa quả của động nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Nhà thơ Thế Lữ đã từng nói: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả
mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mấy trời thanh sắc” cũng
bởi vậy mà ông đã cảm nhận về mùa xuân bằng tất cả sự tinh tế nhất của tâm hồn. Thiên đường
trên mặt đất vừa như một mảnh vườn tình ái vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc
với thực đơn quyến rũ. Nếu như những nhà thơ lãng mạn chỉ muốn sống một cuộc sống nơi thoát
khỏi nơi trần thế, trốn khỏi cõi hư vô hão huyền, bồng lai tiên cảnh như Chế Lan Viên hay Thế
Lữ từng viết:
“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Ðể nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo!”
(Những sợi tơ lòng – Chế Lan Viên)
“Trời cao xanh ngắt. Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai”
(Tiếng sáo Thiên Thai – Thế Lữ)
thì Xuân Diệu đã “Đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Lầu thơ của ông được xây dựng
trên mặt đất bằng một tấm lòng trần gian. Bức tranh hội tụ đầy đủ hương thơm, ánh sáng, màu
sắc, âm thanh. Cảnh vật hiện lên đều có đôi, có cặp: “ong bướm” – “tuần trăng mật”, “hoa” –
“đồng nội xanh rì”, “lá”– “cành tơ phơ phất”, “yến anh” – “khúc tình si”. Xuân Diệu đã dựng lên
một bức tranh thiên nhiên với những vẻ đẹp rất cụ thể, chúng được liệt kê bằng hàng loạt tình tứ
đậm nhạt khác nhau cùng cách ngắt nhịp đầy linh hoạt, biến hóa. Nếu các thi nhân xưa thường
chỉ sử dụng thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các nhà thơ mới trong đó có Xuân
Diệu lại huy động tất cả những giác quan để cảm nhận cảnh vật đất trời lúc sang xuân. Có lẽ do
ảnh hưởng từ thơ ca Phương Tây, Xuân Diệu đã sáng tạo ra những hình ảnh mới lạ in đậm phong
cách nhà thơ. Trong cảnh ấy có hình ảnh “tuần tháng mật” của loài ong bướm, chúng say mê
trong mùa hoa tựa như con người đang chìm đắm trong niềm hạnh phúc ban đầu. Ở đấy có hình
ảnh “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ” gợi sức sống mới trẻ trung, phơi phới, hứa hẹn một
mùa trái chín. Nếu như thi ca Trung Đại xưa luôn lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho vẻ đẹp con
người thì nay lầu son gác tía của thi pháp Trung Đại đã bị phá vỡ, chao đảo nói như nhà thơ Lưu
Trọng Lư: “Các cụ ta ưa cái màu đỏ choét, ta lại ưa những màu xanh nhạt…cái cụ bâng khuâng
vì tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây
thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi, ta tì ta cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng
xanh mướt. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn
trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi… cái tình trong giây
phút, cái tình ngàn thu…” Và Xuân Diệu là một trong những nhà thơ đã phá vỡ tính quy phạm
ấy qua hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi”. Những tia nắng xuân bừng sáng tựa như cặp mắt của
thiếu nữ đang chớp dưới hàng mi dày thật quyến rũ. Chính ánh sáng ấy đã tưới lên cảnh vật
nguồn nhựa sống mang đến cho bức tranh thiên nhiên năng lượng tràn trề, thế mới hiểu những
khao khát của Xuân Diệu hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, qua điệp từ “này đây” được nhắc lại đến
5 lần khiến những câu thơ giống như một chuỗi tiếng reo vui của tác giả khi phát hiện ra thiên
đường trên mặt đất. Giống như Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm
vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”, Xuân Diệu cũng vậy, với sự say mê và thích thú,
ông đã biến thành một hướng dẫn viên du lịch đắm chìm trong những lời giới thiệu để chào mời
mọi người đến tận hưởng nơi đây. Bằng giọng thơ mượt mà, êm dịu như một cánh hồng nhung,
thiên đường trên mặt đất của Xuân Diệu không phải là thế giới xa xăm, lạ lẫm mà là những điều
thân quen ở quanh ta khi mùa xuân đến. Vẻ đẹp ấy được nhìn qua cặp mắt “non xanh, biếc rờn”
và được sàng lọc qua tình yêu của người nghệ sĩ mang tình yêu thiên nhiên, cuộc sống đến cháy
bỏng. Được xem là: “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) nên Xuân Diệu đã
kết lại bức tranh mùa xuân bằng hai câu thơ đầy gợi cảm:
“Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Thiên đường trên mặt đất thắm sắc, ngát hương và tràn đầy ánh sáng nay được Xuân Diệu khép
lại bằng lối văn vô cùng độc đáo và gợi cảm. Tháng giêng thanh tân, diễm lệ, tràn đầy ánh sáng,
màu sắc, hương thơm đã trở thành “cặp môi gần” của người tình. Chỉ với một chữ “ngon”
chuyển đổi cảm giác cho ta thấy tình yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng si của thi sĩ. Ông bị ảnh
hưởng rất rõ rệt trường phái thơ tượng trưng Pháp, trong một bài thơ khác ông cũng đã vẫn dụng
sự tương giao của các giác quan:
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Tâm trạng của nhân vật trữ tình được thể hiện rất rõ qua hai câu thơ:
“Tôi sung sướng. Nhưng tôi vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Dấu chấm giữa câu thơ “Tôi sung sướng. Nhưng tôi vội vàng một nửa” như ngắt làm đôi và cũng
như phân tách nhà thơ thành hai nửa: nửa sung sướng và nửa vội vàng. Tâm trạng sung sướng là
niềm hạnh phúc, lạc quan, tươi vui đón nhận cuộc sống bằng tình cảm trìu mến, thiết tha, gắn bó.
Còn vội vàng là tâm trạng tiếc nuối, buồn đau bởi nhà thơ sợ tuổi trẻ qua đi. Xuân Diệu luôn là
con người như thế đấy! Trong lúc vui ngất ngây thì tình yêu thi sĩ đã phải thổn thức bởi những
điều tiếc nuối. Cũng bởi vì vậy, mặc dù đang sống trong mùa xuân nhưng thi nhân đã cảm thấy
tiếc nuối mùa xuân: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Đây là tâm trạng hoài cổ mà ta
thường bắt gặp trong thơ của các thi nhân xưa. Nhưng ở đây, sự hoài cổ của Xuân Diệu thật lạ và
ám ảnh, nhà thơ không chỉ tiếc nuối những cái dĩ vãng đã qua mà còn tiếc nuối ngay cả những
cái đang hiện hữu. Mùa xuân chưa qua mà Xuân Diệu đã cảm thấy tiếc nhớ, đây quả là một trái
tim quá nhạy cảm với những chuyển biến của thời gian cũng là một tâm hồm đa sầu, đa cảm.
Bằng ngôn ngữ rất đỗi Phương Tây nhưng cũng chẳng kém phần gần gũi, thân thuộc, Xuân Diệu
đã mang đến cho người đọc một giọng thơ lạ, một cách cảm nhận về mùa xuân thật nồng nàn, tha
thiết.
Không chỉ dừng lại ở việc thể hiện tình yêu tha thiết của mình đối với cuộc sống nơi thiên đường
hạ giới mà thi nhân còn thể hiện nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người và sự qua nhanh
của thời gian qua 17 câu tiếp theo. Trước tiên đó là quan niệm hết sức độc đáo:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Từ trước đến nay thời gian luôn vận động theo đúng quy luật của tạo hóa và cũng có nhiều cách
quan niệm về nó như: “thời gian thấm thoát thoi đưa”’ “thời gian như bóng câu vút qua cửa sổ”,
“thời gian như nước chảy qua cầu”’… ngay cả Xuân Diệu cũng vậy, ông đã sử dụng nghệ thuật
điệp từ, từ nhiều nghĩa và từ mang sắc thái tương phản để diễn tả sự trôi qua của thời gian, sự tàn
phai của tạo vật. Người ta mừng vì mùa xuân tới thì Xuân Diệu trong niềm vui chào đón mùa
xuân thoáng qua có một chút xót xa vì nó tới cũng là lúc tuổi xuân dần trôi qua mau. Xuân Diệu
đã đối lập mùa xuân của đất trời với tuổi xuân của con người. Nếu như mùa xuân của đất trời qua
đi rồi lại trở về theo đúng vòng tuần hoàn của nó. Còn tuổi xuân của con người thì một đi không
trở lại. Ngỡ như Xuân Diệu đưa ra điều phi lí nhưng thực ra hoàn toàn biện chứng và trong cái
biện chứng ấy lại chứa đầy cảm xúc. Xuân Diệu từng viết: “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” để
rồi đến bài thơ “Vội vàng” thì triết lí nhân sinh gắn liền với cảm thức về thời gian một lần nữa
được nhấn mạnh.
Chính vì cảm nhận được tuổi xuân của con người một đi không trở lại nên thi nhân thấy tiếc
nuối, buồn đau:
“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian”
Vẫn là những từ ngữ mang màu sắc tương phản, Xuân Diệu đã đi từ mùa xuân của thiên nhiên để
mở ra mùa xuân của con người. Với giọng điệu như hờn giận, u hoài, Xuân Diệu đã đối lập cái
vô hạn của đất trời với cái hữu hạn của đời người. Đất trời thì còn mãi nhưng tuổi xuân con
người thì không, dường như thiên nhiên đã trở thành lực lượng đối kháng với con người.
Và rồi Xuân Diệu còn say sưa tranh luận với quan niệm cũ về thời gian:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Xuân Diệu đã tạo nên thế đối lập giữa cá nhân nhỏ bé với sức mạnh vô thường của tạo hóa, thi
nhân như nhận ra sự bất lực của mình khi muốn chiến thắng thời gian. Bởi vì dẫu vũ trụ là vĩnh
viễn, dẫu thời gian có thể tuần hoàn nhưng tuổi trẻ của con người “chẳng hai lần thắm lại”. Nhận
ra cái yếu hạn trong sức mạnh của con người, Xuân Diệu như thở dài ở những câu thơ chất chứa
nỗi buồn về sự bất lực trước quy luật tự nhiên, ý thức được điều đó, nhà thơ lại càng trân trọng
tuổi xuân hơn và đây cũng là tiếng nói tiêu biểu của một tâm hồn tha thiết yêu đời, yêu cuộc
sống.
Nguyễn Du từng viết:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Xuân Diệu ý thức được đời người quá ngắn ngủi nên ông đã nhìn bức tranh thiên nhiên mất vẻ
tươi vui:
“Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”
Trời đất là vĩnh hằng, đời người là hữu hạn, hình dung về một thế giới chẳng còn tôi khiến thi
nhân đau đớn, tiếc nuối khiến ông cảm thấy “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”. Ở đây, cuộc
chia phôi như làm rớm máu cả thời gian, nó không diễn ra ở một không gian cụ thể hay nhỏ bé
mà diễn ra ở không gian rộng lớn “Khắp sông núi”. Dường như chỗ nào cũng ủ ê những tiếng nỉ
non, than vãn. Một ngọn gió mùa xuân nhỏ bé, duyên dáng đang vương vít với những cành cây
chẳng muốn rời xa. Gió và cây đang thì thào lời tiễn biệt và gió như giận hờn vì sớm phải chia
tay. Tiếng chim đang hót rộn ràng bỗng đứt giữa chừng bởi lo sợ độ phai tàn của cuộc thi sắp
đến. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với những câu hỏi tu từ liên tiếp như khẳng định thêm nỗi
buồn của cảnh vật thiên nhiên khi xuân tàn và đó cũng là tâm trạng bâng khuâng, tiếc nuối đến
ngẩn ngơ của thi sĩ Xuân Diệu. Cách cảm nhận thời gian của thi nhân là cách cảm nhận đầy tính
mất mát, có được điều đó là do tác giả ý thức được cái tôi cá nhân một cách sâu sắc, ý thức về sự
có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời và cũng do ông luôn nâng niu, trân trọng từ giây phút của
cuộc đời nhất là những năm tháng tuổi trẻ:
“Chẳng bao giờ, ôi! chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”
Với nhịp thơ dồn dập, gấp gáp, cách ngắt nhịp biến hóa, ý thơ như hóa lời giục giã với mọi
người: hãy mau lên, vội vàng lên để tận hưởng những giây phút tuổi xuân, để sống có ý nghĩa
khi chưa mãn chiều xế bóng. Nỗi lo âu của nhà thơ về vòng quay của tạo hóa chợt bừng lên
thành tiếng thôi thúc, gấp gáp: “mau đi thôi”. Tiếng gọi mãnh liệt ấy từ lâu đã vang vọng suốt
những trang thơ của Xuân Diệu:
“Mau với chứ vội vàng lên với chứ
Em em ơi tình non sắp già rồi”
hay:
“Gấp đi em anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”
Xưa kia nhà thơ Nguyễn Trãi từng viết trong chùm thơ “Tiếc cánh”:
“Xuân xanh chưa dễ hai lần lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”
Những vần thơ ấy càng giúp người đọc thấy được ý thức về thời gian và tuổi xuân của thi sĩ
Xuân Diệu.
Nhận ra rằng chẳng thể sống mãi với thời gian vậy cớ gì ta không ngại, không tận hưởng cuộc
sống bằng cả trái tim nồng cháy trước khi ta già nua cơ chứ?
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
……
……
-Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Ba từ “Ta muốn ôm” được tách riêng biệt làm nổi bật hình ảnh nhân vật trữ tình đầy kiêu hãnh.
Ông như muốn đứng trên cao, dang rộng vòng tay để cảm nhận, để ôm trọn trái đất này. Ta bỗng
nhớ tới cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
(Với mọi việc trong trời đất này không việc gì không phải của ta)
Còn với Xuân Diệu, cái tôi của ông cũng thật kiêu hãnh, nếu đoạn mở đầu là điệp ngữ “tôi
muốn” thì đến đây đã trở thành “ta muốn” nghe thật tự tin làm sao! Bởi vậy mà Viên Mai từng
nói rằng: “Làm người thì không có cái tôi… nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”.
Trong thơ của mình, Xuân Diệu luôn khẳng định cái tôi cá nhân, có lúc ông bộc bạch một cách
chân thành:
“Tôi chỉ muốn là một cây kim bé nhỏ”
Mà vạn vật là muôn đá nam châm”
có lúc ông khẳng định mình là người đứng đầu duy nhất:
“Ta là một là riêng là thứ nhất”
Như vậy trong thơ Xuân Diệu luôn thể hiện được cái tôi cá nhân tự tin và đầy kiêu hãnh. Ba từ
“Tôi muốn ôm” như một nốt nhấn để rồi từ đó âm thanh của khát vọng tuôn trào, dào dạt tràn
qua cả ngôn từ. Giữa những câu thơ dài đột ngột xen vào một câu thơ ngắn như thắt ngang giữa
bài làm ta liên tưởng đến vòng tay đang níu giữ, quấn quít “cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”.
“Mơn mởn” là từ láy gợi cảm và giàu ý nghĩa gợi cảm giác cây cối, sự vật đang ở độ non mướt,
tươi tốt, đầy sức sống. Lần theo bước chân vội vàng ta bước vào một thế giới đầy ắp những hình
ảnh sinh động, đẹp đẽ:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hồn nhiều”
Phép điệp cấu trúc “Ta muốn” đã khiến đoạn thơ trở nên dồn dập, gấp gáp tựa như những cơn
sóng ào ạt nối tiếp nhau, như hơi thở gấp gáp của thi nhân đã diễn tả khát khao đến hàm hở
cuồng nhiệt. Sau mỗi lần điệp lại đi liền với một động từ mạnh được sắp xếp theo trật tự tăng
tiến: “riết”, “say”, “thâu”; cùng với đó là những hình ảnh nồng nàn, khỏe khoắn: “mây đưa và
gió lượn”, “cánh buồm với tình yêu”. Thiên nhiên rực rỡ sắc màu say nồng và đầy quyến rũ lại
tràn ngập trong hồn thơ Xuân Diệu. Những hình ảnh ấy làm đoạn thơ đầy sinh khí và làm sống
lại không khí tươi vui của toàn bài thơ. Trời xuân thì non tơ, tình xuân thì nồng nàn khiến nhà
thơ trở nên “tham lam”, dường như lúc nào cũng muốn khát khao thêm:
“Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Sự kết hợp giữa những từ “no nê”, “đã đầy” và điệp từ “và” đã thể hiện cảm xúc ham muốn đến
tột cùng trong tâm hồn thi sĩ. Ở đây không chỉ là sự tận hưởng tinh thần mà còn là tận hưởng
theo kiểu vật chất không có điểm dừng. Với ông, cuộc sống trần thế như bày ra cả một bàn tiệc
đầy những hình ảnh non tơ và đầy hương sắc vì vậy Xuân Diệu đã khát khao đến tột cùng đúng
như phong cách Xuân Diệu – một cái tôi không bao giờ chấp nhận sự lưng chừng, lỡ cỡ. Với
những khát khao ấy, nhà thơ đã nhìn mùa xuân giống như con người và thốt lên một tiếng kêu
thể hiện niềm yêu đời, khát khao chưa từng có trong thơ ca Việt Nam:
“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
“Hỡi” là tiếng gọi tha thiết vang lên cuối bài làm mạch cảm xúc của nhà thơ như vang lên không
dứt. Ông khát khao tận hưởng mùa xuân, một mùa “xuân hồng” chứ không phải là “xuân xanh”
như trong thơ Nguyễn Bính:
“Mùa xuân là cả một mùa xanh”
Xuân hồng là đôi má nồng nàn của thiếu nữ. Với Xuân Diệu con người mới là chuẩn mực của cái
đẹp nên mùa xuân cũng giống như người thiếu nữ căng tràn sự sống. Nhà thơ muốn cắn vào nó
cho thỏa mãn đam mê. Với cách sử dụng từ ngữ táo bạn, Xuân Diệu đã thể hiện một ham muốn
không có giới hạn. Đứng trước sự hấp dẫn của mùa xuân dường như thi sĩ không nén nổi lòng
yêu thiên nhiên đã đi đến một cử chỉ táo bạo nhưng cũng thật đáng yêu. Ta nhớ tới những câu
thơ của Anh Thơ trong bài “Hôn con”:
“Mặt trăng của mẹ
Mẹ nâng trên tay
Mặt trăng tươi thế
Mẹ cắn vào đây”
Còn Xuân Diệu, ông từng định nghĩa mình là: “kẻ đưa răng bấu mặt trời”, một thi sĩ từng
“ngoạm sự sống làm êm đói khát” đã thể hiện tình yêu cuồng nhiệt, si mê cuộc sống đúng như
Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Xuân Diệu là nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước
non lặng lẽ này, khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết”.
Nếu như Huy Cận, Chế Lan Viên hay Hàn Mạc Tử đều cùng nhau thoát li hiện thực, tìm
về một cõi xa xăm nào đấy để ôm ấp những nỗi sầu u oải, mơ hồ thì “Thơ Xuân Diệu là một
nguồn sống dào dạt chưa từng thấy… Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội
vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi
buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. (Hoài Thanh) Cũng là nỗi buồn nhưng nỗi buồn ấy, ngọt
ngào, hồ hởi và háo hức, đó là sự tiếc nuối trước dòng chảy không ngừng của thời gian, là sự cô
đơn giữa dòng đời của cái Tôi nhỏ bé đã tạo nên một hồn “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ
mới”. “Chưa bao người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ
màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo
não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên,… và tha thiết, rạo rực,
băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam). Chẳng lẽ tự nhiên mà Hoài Thanh lại ưu ái
Xuân Diệu đến vậy, chỉ có thể là do những cống hiến to lớn của ông dành cho thi đàn văn học
Việt Nam đặc biệt là qua thi phẩm “Vội vàng”. Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống
hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình nhất là những năm tháng tuổi trẻ.
Tư tưởng ấy được thể hiện qua bàn tay nghệ thuật điêu luyện, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng điệu say mê, sôi nổi nhưng sáng tạo độc đáo về ngôn từ và
hình ảnh. Cũng bởi lẽ thế “Vội vàng” dù đã được sáng tác những năm 30 của thế kỉ trước nhưng
vẫn vang vọng, đọng lại trong lòng hậu thế những vần thơ tựa như mật ngọt đầy tinh túy khiến ta
phải ghi nhớ mãi cái tên Xuân Diệu-ông hoàng thơ tình trong làng thi ca Việt!
TRÀNG GIANG
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa
Cùng đất nước mà nặng buồn sầu núi
Những câu thơ trên như gói lại cái hồn riêng của thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám.
Dường như mỗi câu thơ là chất chứa bao nỗi sầu thiên thu vạn cổ, ẩn trong đó những tâm tình
sâu nặng với quê hương đất nước. Huy Cận hay viết về thiên nhiên, vũ trụ về những khoảng thời
gian buồn vắng hiu quạnh với sự kết hợp của chất cổ điển và hiện đại làm nên một vẻ đẹp riêng
độc đáo. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ, cho hồn thơ Huy Cận.
Bài thơ không chỉ mang nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên mênh mông hiu quạnh,
mà còn thấm đượm cả nỗi sầu nhân thế và tấm lòng yêu nước thầm kín của thi sĩ.
Tràng giang được gợi cảm hứng từ một buổi chiều cuối thu nơi bờ nam bến Chèm, trước
khung cảnh sống Hồng đang mùa nước lớn. Chàng thi sĩ chứng kiến những cánh bèo, cành củi
đang trôi nổi giữa dòng nước mênh mông mà gợi ngay lên một tứ thơ. Bao trùm bài thơ dường
như là một nỗi buồn mênh mang vô tận của thi sĩ khi đứng trước thiên nhiên, đất nước và cuộc
đời. Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra chất cổ điển rất riêng của Huy Cận. Nhà thơ dùng một từ
Hán – Việt để đặt nhan đề cho bài thơ của mình. Từ Hán Việt có tác dụng lớn nhất là gợi ra
không khí cổ điển, trang trọng và phảng phất chất Đường thi. Không những vậy thay vì dùng
“Trường giang” Huy Cận biến âm dùng Tràng giang, hai âm “ang” được đặt liên tiếp là âm mở
vừa gợi được cái dài rộng của không gian vừa gợi được cái mênh mang, bát ngát man mác xúc
cảm trong lòng độc giả. Bên cạnh đó “Tràng giang” còn có sức khái quát.
Nó không phải là một con sông cụ thể nào, không phải con sông của đời thường mà dường như
là con sông của lịch sử, của văn học, của thi nhân và còn là con sông cuộc đời. Bước qua nhan
đề, người đọc lại gặp ngay lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” như bao trọn cảm
hứng của toàn bài thơ. Đó là không gian của trời rộng sông dài, là cảm xúc của bâng khuâng
thương nhớ. Thế cho nên nếu toàn bài thơ là không gian rộng lớn là cảm xúc thoáng buồn thì
cũng hoàn toàn là hợp lý.
Trong mạch cảm xúc như thế khổ một mở ra một không gian sông nước rộng lớn mênh mang:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp


Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Hình ảnh đầu tiên của bài thơ là hình ảnh những con sóng khẽ gợn, nối tiếp nhau đến vô cùng, vô
tận, tầng tầng lớp lớp không dứt. Câu thơ sử dụng bút pháp “lấy động tả tĩnh” của văn học trung
đại. Chuyển động của con sóng chỉ là “gợn” rất khẽ, rất nhỏ dường như tan đi trong cái không
gian mênh mông của sông của trời. Con sóng đi cùng với tràng giang đã không còn là con sóng
thực mà dường như mang một lớp nghĩa ẩn dụ mới. Nó gợi đến nỗi buồn trong tâm hồn con
người trước sự dài rộng của không gian. Cùng với hình ảnh sóng nước là hình ảnh con thuyền
đang lênh đênh xuôi theo dòng. Hình ảnh này như gợi đến kiếp sống nổi lênh của một lớp người
bé nhỏ trong xã hội. Đây cũng là một thi liệu quen thuộc gần như đã trở thành chuẩn mực trong
văn học. Trong thơ Đường, ta đã từng bắt gặp hình ảnh con thuyền và dòng sông đầy ám ảnh,
trĩu nặng cái tình của người đưa tiễn:
Cô phàm viễn cảnh bích không tận
Duy kiến Trường giang thiên tế lưu
(Lí Bạch)
Khác chăng là con thuyền của Huy Cận không còn là con thuyền mang vẻ đẹp kĩ vĩ nữa mà nó
thoáng vẻ mênh mang gợi cái chia lìa xa cách:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Con thuyền thì nhỏ bé, hữu hạn mà dòng sông thì rộng lớn vô hạn. Cái hữu hạn đối với cái vô
hạn dường như càng tô đậm cảm giác nhỏ bé cô đơn. Hơn thế nữa thuyền và nước vốn là những
sự vật gắn bó nước chảy thuyền trôi vậy mà ở đây lại bị chia tách với hai chuyển động ngược
chiều về hai phía khác nhau. Cặp từ láy “điệp điệp”, “song song” ở hai câu thơ trước đã tô đậm
ấn tượng về nỗi buồn mênh mang đang lan trên mặt nước, lại càng có tác dụng hơn khi tạo nên
cấu trúc câu song ứng và rồi đến câu thơ thứ ba thì hai vế đối song ứng được dồn vào một câu
thơ. “Thuyền về” đối với “nước lại” như nhấn vào cảm giác chia lìa đôi ngả. Và phải chăng vì sự
chia lìa đó mà dòng sông tràng giang càng thêm u buồn lặng lẽ?
Nếu ba câu thơ đầu mở ra một không gian Đường thi mang đậm chất cổ điển thì câu thơ thứ tư
lại mang dáng vẻ của thơ ca hiện đại:
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Trong thơ xưa nếu muốn gợi đến kiếp người nhỏ bé lênh đênh các nhà thơ thường dùng hình ảnh
hoa trôi, bèo dạt. Huy Cận lại chọn hình ảnh một cành củi khô đang trôi dạt giữa dòng nước
mênh mang để thể hiện điều đó. Biện pháp đảo ngữ cùng cách ngắt nhịp 1/3/3 càng như nhấn
mạnh hơn vào cành củi khô, nhỏ bé, khô héo, cạn kiệt sức sống. Ý thơ này có lẽ vừa được khơi
nguồn từ hình ảnh thực khi nhà thơ đứng ở bờ nam bến Chèm giữa mùa nước lớn, những cành
cây khô trôi từ thượng nguồn về bến sông. Nhưng có lẽ nó còn mang một lớp nghĩa ẩn dụ khác.
Nó gợi về một lớp người lúc bấy giờ trong xã hội. Ý thơ này càng được làm rõ hơn với từ “lạc”
dường như là sự trôi nổi vô định, mất phương hướng. Một cành củi khô héo không sức sống mà
vẫn bị giằng xé, chao đảo giữa dòng nước mênh mang của cuộc đời. Nó gợi đến hình ảnh một
lớp người như nhà thơ trong xã hội xưa, những trí thức tiểu tư sản có ý thức về cái tôi nhưng lại
bế tắc, mất phương hướng trước hiện thực xã hội bấy giờ. Hình ảnh này thể hiện sức sáng tạo của
Huy Cận khi ông đã mang vào thơ một hình ảnh rất đời, rất thực tạo ra một hình ảnh mới giàu
sức gợi, đậm chất hiện đại phá vỡ tính ước lệ và cổ xưa của thơ Đường. Như vậy khổ thơ thứ
nhất đã gợi lên không gian mênh mông rộng dài của sông nước, gợi thân phận nhỏ bé mất
phương hướng giữa cuộc đời của một lớp người, gợi được nét buồn phảng phất mênh mang.
Đồng thời, khổ thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển lại vừa hòa quyện nét hiện đại mới mẻ, tạo nên một
bức tranh thiên nhiên giàu sức gợi.
Nếu khổ thơ thứ nhất là cái nhìn cận cảnh của nhà thơ trước dòng sông mênh mông để thấy từng
gợn sóng từng cành củi khô trôi dạt thì khổ hai là cái nhìn bao quát toàn cảnh sông dài, trời rộng
đến bâng khuâng:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Hai câu thơ đầu đã vẽ lên khung cảnh buổi chiều trên sông nước. Cảnh thật vắng vẻ, tĩnh lặng.
Nét bút chấm phá của Huy Cận đã phác họa nên một bức tranh sông nước mênh mang đến rợn
ngợp. Nhà thơ điểm vào khoảng không gian rộng lớn ấy một vài chấm nhỏ để tạo nên sự tương
phản gay gắt giữa vũ trụ bao la và những sự vật thật nhỏ bé:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Biện pháp đảo ngữ đẩy từ “lơ thơ” lên đầu đã nhấn mạnh vào cảm giác thưa thớt, nhỏ bé của
những cồn cát. Cùng với đó là hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đứng ở đầu và cuối câu thơ như gợi
ra cái hiu quạnh, vắng vẻ, lẻ loi, cô đơn của cảnh vật. Những cồn cát nhỏ ven sông trong cái gió
đìu hiu của lau lách, hoang vu như làm dấy lên trong lòng người nỗi cô đơn, buồn vắng. Không
gian tĩnh lặng ấy càng được nhấn:
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Chợ trong tâm thức người Việt gắn với tươi vui, bởi đó là nơi gặp gỡ, giao lưu của người dân
xưa. Thế nên chợ vãn, chợ tàn sẽ gợi nên sự vắng vẻ, gợi nỗi buồn. Ở đây, nhà thơ của cảnh sắc
quê hương tiếp tục dùng biện pháp lấy động để tả tĩnh. Âm thanh vang lên những lại chỉ là âm
thanh từ xa vọng lại và cũng là âm thanh của chợ vãn nên dường như có như không, gợi cái tĩnh
lặng hơn cái ồn ào, tấp nập. Từ “đâu” đứng ở đầu câu thơ tạo ra nhiều cách hiểu. Nó có thể là từ
để hỏi như đâu đó tiếng chợ chiều vọng đến, cũng lại có thể là từ phủ định, làm gì có, đâu có đâu
tiếng chợ chiều. Đến cả tiếng chợ vãn, chợ tan mà cũng như có như không thì bức tranh đó phải
tĩnh lặng, buồn vắng tới mức nào. Một lần nữa bút pháp cổ điển lại giúp tác giả gợi được cái vô
hạn của không gian và sự nhỏ bé của sự vật, cái tĩnh lặng của cảnh sắc với những âm thanh bé
nhỏ của cuộc sống. Từ sự đối lập tương phản đó bức tranh buổi chiều, cảnh ngày tàn hiện lên:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Câu thơ đầu như một sự mở rộng về không gian. Huy Cận đã có sự quan sát tinh tế và kĩ càng để
nhận thấy nắng càng xuống trời càng lên cao. Không gian như được mở ra hai chiều rộng dài đến
bát ngát. Thêm nữa chuyển động trái chiều mang lại cảm giác mạnh cho người đọc về một không
gian như được mở dần ra. Nhưng chưa dừng lại ở đó, “người dệt nên những vần thơ hàm súc,
triết lí” đã có cách dùng từ ngữ thật sáng tạo. Nếu thông thường chúng ta dùng từ “chót vót” để
gợi độ cao thì ở đây ông dùng từ này để chỉ độ sâu. Sự bất thường này lại mang đến một hiệu quả
lớn. Bạn đọc như nhận ra một chiều khác nữa của không gian sông nước đó là chiều sâu, không
gian được đẩy tới tận cùng tạo ra một chiều kích mới. Và phải sâu đến độ nào để thi nhân phải
thốt lên “sâu chót vót”. Cụm từ sáng tạo này càng khiến cho khung cảnh thêm rợn ngợp, cái lẻ
loi chống chếnh của con người càng được tô đậm thêm. Ở câu thơ sau một lần nữa các chiều kích
của không gian được nhắc lại trong cái vô hạn của đất trời. Và không gian càng mở ra bao nhiêu
thì cảm giác cô liêu càng được nhấn mạnh bấy nhiêu. Cái điểm dừng bé xíu của bến cô liêu như
lạc giữa đất trời, như lẻ loi đến cô độc. Như vậy khổ thơ thứ hai trong cái nhìn bao quát taofn
cảnh vật của thi nhân đã mở rộng không gian ra mọi chiều kích, tới không giới hạn để rồi nhìn lại
con người càng thêm bé nhỏ, trống vắng và cô quạnh.
Hướng điểm nhìn vào hai bên bờ sông, chàng thi sĩ phát hiện ra hàng loạt những hình ảnh khác
nhỏ bé của bến sông và dường như các hình ảnh này càng giúp thi nhân tô đậm sự buốn vắng, cô
quạnh, chia lìa.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh bèo dạt rất quen thuộc và xuất hiện nhiều lần trong thơ ca truyền thống. Nhưng ở đây
cánh bèo dạt vẫn gợi lên những cảm nhận mới. Hình ảnh này diễn tả một cách thấm thía sự hợp
tan, chia lìa của những kiếp người chứ không chỉ gợi sự nhỏ bé mong manh, trôi dạt như trong
thơ ca truyền thống. Bèo dạt hàng nối hàng như bao kiếp người lênh đênh trên dòng nhân thế.
Cảm nhận về sự lênh đênh, trôi dạt vô dịnh của một kiếp người càng khiến nỗi sầu tăng lên gấp
bội trong lòng thi nhân. Ở khổ thơ này Huy Cận còn nhắc đến những chuyến đò và những cây
cầu. Đây là những hình ảnh gợi sự kết nối, giao lưu. Vậy mà tác giả nhắc tới những sự vật đó,
không phải là để khẳng định cái có mà là để miêu tả cái không có, không tồn tại trong bức tranh
sông nước tràng giang. Không cầu, không đò hay chính là không có sự kết nối của con người,
hay chính là sự cô đơn, hoang vắng đến tột cùng? Trong sự vắng lặng đó không gian vẫn tiếp tục
được trải ra đến vô cùng của bờ xanh với bãi vàng. Bức tranh xuất hiện những gam màu vốn
không đen tối nhưng lại chẳng thể làm cảnh sắc thêm tươi sáng, thêm sức sống. Dường như hai
bờ sông là một thế giới tách biệt với những bờ bãi kia, những cánh bèo cũng vì thế mà chẳng biết
trôi dạt về đâu. Trước một cảnh sắc như thế lòng người sao có thể vui tươi, háo hức. Hay cũng vì
lòng người nhiều tâm tư trĩu nặng mà cái nhìn với cảnh cũng tấm đẫm ưu tư?
Từ sự dẫn đường đó, khổ thơ thứ tư bộc lộ rõ hơn tâm tình tác giả:
Lớp lớp mây cao đùn núi bác
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòn quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hai câu đầu của khổ thơ mang đậm ý vị của Đường thi, nhuốm màu sắc cổ điển. Đó là cảnh buổi
chiều, cảnh hoàng hôn với cánh chim và chòm mây những thi liệu vô cùng quen thuộc trong thơ
ca:
 Chim bay về núi tối rồi (ca dao)
 Chim hôm thoi thóp về rừng (Nguyễn Du)
 Chúng điểu cao phi tận
 Cô vẫn độc khứ nhàn (Lí Bạch)
Ở đây cánh chim và chòm mây một lần nữa thực hiện đúng chức năng của mình gợi ra buổi
chiều nơi sông nước mênh mang. Cảnh sắc có cái hùng vĩ lên thơ với những lớp mây cao như
những ngọn núi lấp lánh ánh bạc phía chân trời, với cánh chim chiều nghiêng bóng vội vã tìm về
tổ ấm. Trong cái nghiêng của cánh chim dường như chở nặng cả bầu trời, bóng chiều rơi dần
xuống. Câu thơ vừa quen thuộc vừa mới mẻ cho thấy cái tinh tế riêng của thi sĩ. Cánh chim nhỏ
bé nghiêng bóng cũng một lần nữa nhấn mạnh sự tương phản giữa những thực thể nhỏ bé tồn tại
trong bức tranh với không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ. Có lẽ sự tương phản ấy đã làm dấy lên
trong lòng mỗi người đọc cảm giác tịch mịch, u bóng gợi nỗi buồn ẩn sâu nào đó trong mỗi
chúng ta.
Hai câu thơ sau mượn ý thơ của Thôi Hiệu một nhà thơ nổi tiếng đời Đường trong bài Hoàng hạc
lâu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Nếu Thôi Hiệu cần một màu khói để gợi nỗi nhớ nhà, nếu màu khói trong ý thơ xưa gợi không
khí sum họp khiến người tha phương khát khao tình quê thì nay trong thơ Huy Cận không cần
màu khói ấy nỗi nhớ nhà, tình yêu quê hương đất nước vẫn thường trực và trào sôi. Có lẽ tình
yêu thầm kín mà da diết dành cho quê hương đất nước ẩn chứa trong tâm chàng thi sĩ đa sầu ấy
đã làm lên một tứ thơ hay và xúc động đến vậy. Bài thơ khép lại với nỗi nhớ quê, với tình yêu
nước sâu lắng đó và giá trị của tác phẩm có lẽ chính là ở đây chăng?
Tràng giang là một thi phẩm đặc sắc của Huy Cận nói riêng và phong trào thơ mới nói
chung. Nó không chỉ tiêu biểu cho phong cách thơ, hồn thơ Huy Cận mà dường như nó còn thể
hiện tâm tư của một lớp người lúc bấy giờ. Những con người nhỏ bé, bế tắc mất phương hướng
trước dòng sông cuộc đời nhưng chưa bao giờ tâm hồn lìa bỏ khỏi quê hương, tình yêu quê
hương đất nước vẫn chảy trong họ những một dòng sông mãnh liệt và bền vững để chống đỡ với
những sóng gió của dòng sông cuộc đời. Vẻ đẹp của “Tràng giang” có lẽ còn ở sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa chất cổ điển và chất hiện đại làm nên một thi phẩm độc đáo.
ĐÂY THÔN VỸ DẠ
Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người, trước hết không gì bằng tình, đầu tiên
không gì bằng lời, tha thiết không gì bằng thanh, sâu xa không gì bằng nghĩa. Vậy đối với thơ
tình là gốc, lời là cảnh, thanh là họa, nghĩa là quả”. Có thể nói, tình cảm là yếu tố sinh mệnh của
thơ ca, thiếu tình cảm thì chỉ có thể trở thành người thợ làm những câu có vần chứ không làm
được nhà thơ. Đồng thời, thơ ca không bộc lộ tình cảm một cách bản năng, trực tiếp mà nó được
ý thức, được siêu thăng, được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ gắn liền với ý thức về mình, về đời.
Hiện lên như một “ngôi sao chổi” xoẹt qua bầu trời thi đàn văn học với cái đuôi chói lòa, rực rỡ
của mình, Hàn Mặc Tử đến với thơ, với đời bằng tình cảm tha thiết, chân thành của một kẻ sĩ
đứng giữa hai bờ sinh tử, chơi vơi giữa cõi thực và cõi mộng. Gã làm thơ khi đã nếm trải đủ mùi
vị đau thương trong chốn vốn chẳng có gì là vĩnh hằng. Bao giờ cũng vậy, Hàn Mặc Tử luôn
muốn thoát li hiện thực, tìm về một cõi xa xăm nào đấy để ôm ấp những nỗi sầu u oải, mơ hồ, và
có lẽ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã bước ra từ sự quằn quại, đau đớn để góp vào vườn thơ Hàn “rộng
không bờ không bến” một cõi hư vô rợn ngợp khiến thi nhân không khỏi thổn thức:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?


Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
………………………………
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu, có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong
phong trào thơ Mới giai đoạn 1932 – 1945. Thế giới thơ ông đầy bí ẩn, phức tạp, luôn đan xen
giữa những gì thân thuộc, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những gì ghê rợn, ma quái, cuồng
loạn nhất. Trong dó hình ảnh trăng, hoa, nhạc luôn chan lẫn với hình ảnh hồn, máu, yêu ma nói
như Hoài Thanh: “Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến, càng đi xa càng ớn lạnh…”. Sự
nghiệp thơ ca của Hàn là một tháp ngà kiêu sa, tráng lệ, ánh hào quang của nó tỏa sáng chói lòa
nhân thế… vì vậy những hình tượng thơ của ông khiến người đọc khó đến gần, khó nắm bắt và
có khi khó hiểu. Vườn thơ của ông có lẽ được xếp vào loại “siêu”: siêu thực, siêu thức và siêu
thoát nhưng đọc thơ ông nào đã thoát, rốt cuộc vẫn lơ lửng, vẫn còn đó một câu hỏi lớn: “Hàn
Mặc Tử, anh là ai?”. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được in trong tập “Thơ điên” (1938), toàn bộ thi
phẩm là tiếng lòng vừa tha thiết mê đắm, vừa đau đớn tuyệt vọng của một thi nhân yêu đời da
diết mà phải vĩnh viễn rời xa cuộc đời bởi bi kịch éo le và vô vọng.

Tại trại phong Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã nhận được tấm bưu ảnh chụp cảnh bến Vĩ Dạ
cùng lời thăm hỏi của Hoàng Cúc. Chính bức ảnh cùng lời hỏi thăm đó đã gợi lên trong lòng nhà
thơ kỉ niệm về một miền quê và người con gái trong mối tình đơn phương, cũng bởi vậy mà mỗi
vần thơ thấm đượm nỗi buồn sâu sắc. Thôn Vĩ Dạ là một làng nhỏ nằm bên bờ sông Hương, đây
là nơi nghỉ ngơi của những quan lại, viên chức về hưu hưu nên cuộc sống nơi đây vô cùng bình
yên, no đủ và thơ mộng với những vườn cây xum xuê, những ngôi nhà xinh xắn,… Từ xa xưa Vĩ
Dạ đã đi vào thơ ca bởi vẻ đẹp thi vị, tiêu biểu cho cảnh sắc xứ Huế:
“Du khách bảo đây vườn kín đáo
Đây xứ mơ màng đây xứ thơ”
Hay nhà thơ Bích Khê đã từng viết:
“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc tre cần chúc không buồn mà say”
Mạch thơ như một dòng tâm tư bất định, khước từ vai trò tổ chức chặt chẽ vốn là đặc
trưng của “Thơ điên” với những “đứt đoạn”, “cóc nhảy”. Có thể thấy thi phẩm được dệt bằng
một chuỗi hình ảnh liên kết với nhau rất bất định. Vừa mới ngoại cảnh (phần đầu) thoắt đã tâm
cảnh (phần sau). Hãy còn tươi sáng (Vườn thôn Vĩ) chợt đã âm u (cảnh sông trăng và sương
khói)… Những mảng thơ phản trái nhau cứ dính kết vào nhau ngỡ như rất thiếu trật tự, “vô kỉ
luật”. Nhưng nhìn kĩ sẽ thấy đó chỉ là sự chuyển kênh quá mau lẹ từ “hàng chữ gấm” sang “đôi
mắt mờ lệ”. Dường như Hàn Mặc Tử đưa ta từ cõi thực đến cõi mộng rồi chìm đắm vào hư vô
lúc nào không hay.
Câu hỏi mở đầu chủ yếu là thanh bằng khiến lời thơ thật nhẹ nhàng, êm ái như nghe văng
vẳng bên tai giọng nói của người con gái xứ Huế ngọt ngào:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Đại từ “anh” gợi cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng đó là sự phân thân
của nhân vật trữ tình, thi nhân tự vấn lòng mình “sao lâu quá rồi mà chưa một lần về thăm thôn
Vĩ?” như nhắc nhở đến một việc cần làm, đáng phải làm, mà cũng chẳng biết giờ đây có còn cơ
hội để thực hiện nó nữa không, ấy là về lại với thôn Vĩ, về thăm lại chốn cũ, cảnh xưa. Có người
lại cho rằng đó là lời của Hoàng Cúc đang hỏi dịu dàng, kín đáo nhưng ẩn sau trong đó là lời
trách móc “Thôn Vĩ đẹp sao anh chẳng về chơi?”. Hàn Mặc Tử dùng hai chữ “về chơi” bởi nó
mang sắc thái thân mật, gần gũi thay vì chỉ mang vẻ xã giao, có khoảng cách như hai chữ “về
thăm”. Chẳng phải vô tình mà nhà thơ viết “không về chơi thôn Vĩ?”, “không về” khác hoàn toàn
với “chưa về”. Nó dường như khép lại mọi nẻo đường về thôn Vĩ, cộm lên biết bao xót xa vì giờ
đây thôn Vĩ chỉ còn trong hoài niệm của quá khứ xa vời. Hố sâu ngăn cách giữa Hàn Mặc Tử với
thế giới ngoài kia chính là căn bệnh hiểm nghèo khiến cho nhà thơ vô cùng cô đơn, tuyệt vọng.
Hơn nữa, hai chữ “không về” còn thể hiện rõ được tình cảm một phía của Hàn Mặc Tử với
Hoàng Cúc. Đó là dòng sông một bờ mà phía bờ đó lại xuất phát từ Hàn Mặc Tử:
“Dòng sông anh tự đặt
Xin mùa thu chiếc lá làm thuyền
Có một dòng sông trôi vào lãng quên
Nước trong như nước mắt
Điều chưa thấy mà sao đã mất
Có một dòng sông chỉ có một bờ
Phía bờ kia quay mặt
Dòng sông anh không qua được bao giờ”
Câu hỏi mở đầu mang nhiều sắc thái khác nhau, hỏi để mà trách nhưng lời trách thân mật,
đáng yêu. Trách để mời mọc, để tiếc nuối. Thanh trắc duy nhất của câu thơ rơi vào chữ “Vĩ” ở
cuối cùng khiến cho nỗi buồn như đằm xuống thành nỗi nhớ vô hạn về cảnh và về người thôn Vĩ.
Câu hỏi tu từ như cái cớ để nhà thơ gợi lại vẻ đẹp thi vị, nên thơ của thôn Vĩ Dạ.
Bắt đầu bằng câu hỏi đầy ẩn ý đã giúp nhà thơ mở ra khung cảnh thiên nhiên thôn Vĩ tinh
khôi, sống động, tươi đẹp và căng tràn sức sống:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Đọc thơ Tử, qua các tập, thấy vườn thực sự là một môtip ám ảnh. Nào vườn trần, vườn
tiên, vườn chiêm bao… Dù mỗi nơi một khác, nhưng vườn của Tử đều mang chung một diện
mạo mà Tử muốn gọi là “chốn nước non thanh tú”. Nhắc đến Vĩ Dạ, hình ảnh đầu tiên hiện lên
trong tâm trí nhà thơ là hình ảnh hàng cau, nó mang vẻ đẹp rất đặc trưng của nhà vườn xứ Huế.
Cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi. Cau còn là loài cây
thân thuộc với làng quê Việt Nam – nơi có tập tùng ăn trầu từ ngàn đời. Nguyễn Bính đã đặt mối
tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên nền phong cảnh có hình ảnh hàng cau quen thuộc:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.”
Bởi lẽ là loài cây cao nhất trong vườn Vĩ Dạ, cau được đón những tia nắng đầu tiên trong một
ngày mới tràn đầy sức sống. Thơ Mới thường đem đến cho người đọc những cấu tứ, thi liệu mới
mẻ. Ta đã bắt gặp trên diễn đàn thơ Mới nhiều màu nắng lạ, đó là cái nắng chang chang trong bài
thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử:
“Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
hay “Nắng trở chiều” trong thơ Xuân Diệu:
“Con đường nhỏ nhỏ nắng xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều”
còn ở đây ta lại bắt gặp hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên”. Từ “nắng” được lặp lại
hai lần cho ta cảm giác thôn Vĩ đang bừng sáng lên trong ánh bình minh. Đó không phải là ánh
nắng nhạt buồn của hoàng hôn hay ánh nắng chói gắt của buổi trưa mà là ánh nắng mới mẻ,
trong sáng và tinh khôi của buổi sớm mai làm ta liên tưởng đến câu thơ của Hồng Nguyên: “Có
nắng chiếu đột kích mấy hàng cau”. Chi tiết ấy không chỉ gợi lên cảm giác trong trẻo, tươi tắn
mà còn mở ra không gian thôn Vĩ trong buổi sớm mai mà còn là khoảnh khắc diệu kì khi làn
sương mỏng trên lá cau chưa kịp từ biệt sau một đêm dài thì thi nhân đã bắt gặp những tia nắng
ban mai tổ điểm, đó là nắng ướt, nắng tươi, nắng long lanh, nắng thiếu nữ. Cây cau xuất hiện
trong vườn thôn Vĩ như cây thước của thiên nhiên để đo mực nắng như thầy Chu Văn Sơn từng
viết: “Đốt cau như thước đo mực nắng trong vườn”. Phải yêu lắm, say lắm vẻ đẹp của đất trời,
của thiên nhiên xứ Huế thi nhân mới chụp được khoảnh khắc đặc biệt ấy vào tâm trí mình. Nắng
dường như làm bừng sáng cả khoảng trời kí ức của nhà thơ, nó lưu lại trong tâm hồn thi sĩ những
kí ức không thể nào phai. Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm
người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”, bước vào thơ Hàn ta như được chiêm ngưỡng vẻ đẹp
tuyệt sắc đến cực tả của thiên nhiên cũng như con người. Ở câu thơ tiếp theo, thi nhân đã chuyển
điểm nhìn từ bầu trời tràn ngập ánh nắng xuống khu vườn phủ đầy một màu xanh lá, khu vườn
ấy như hóa thành một viên ngọc lớn trong đôi mắt của thi nhân:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ như một tiếng reo vui đầy thích thú thể hiện sự ngạc nhiên đến bất ngờ của tác
giả trước vẻ đẹp của thôn Vĩ. Câu thơ sử dụng một loạt các từ trong cùng một trường từ vựng:
“mướt”, “xanh”, “ngọc” để miêu tả màu xanh non tơ, trẻ trung, tươi mới. Vườn Vĩ Dạ sau một
đêm những chiếc lá cây được sương đêm lau chùi sạch sẽ giờ đây bỗng bừng sáng lung linh. Tác
giả khéo léo sử dụng từ cảm thán “quá” – không chỉ là từ chỉ mức độ gợi vẻ đẹp thanh sạch của
cây lá, nhà vườn xứ Huế mà còn bộc lộc cảm giác ngạc nhiên, đầy ngưỡng mộ, cùng với đó việc
dùng tính từ “mướt” chứ không phải là “mượt” vì tính từ ấy ngoài chỉ sự nhẵn bóng còn gợi vẻ
óng ả, mỡ màng. Hai thanh trắc đứng liền nhau trong cụm từ “mướt quá” đã tạo ra ấn tượng
mạnh về một tiếng reo, một cảm xúc bồng bột không thể kiềm chế. Vẻ đẹp của vườn cây còn
được miêu tả qua phép so sánh độc đáo “xanh như ngọc” – đó là cách nói ước lệ nhằm lí tưởng
hóa đối tượng thẩm mĩ, gợi ra màu xanh trong mướt, quý giá, cả vườn thôn Vĩ hiện lên như một
viên ngọc óng ánh sắc xanh và tỏa ra không gian một màu xanh long lanh ánh sáng. Dường như
trong thơ Hàn rất ưa dùng những vật liệu cao sang nhất là giai đoạn cuối đời. Các trang thơ đều
tràn ngập những vàng, gấm, lụa, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược… đặc biệt là ngọc
được so sánh ở mức tuyệt đối:
“Đức tin thơm hơn ngọc
Thơ bay rồi thơ bay”
hay:
“Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc
Cả một mùa xuân đã hiện hình”
Nói về màu xanh ngọc bích, trước đó Xuân Diệu đã từng viết:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”
Sau này Nguyễn Tuân cũng dùng màu xanh ấy để nói về màu nước của con sông Đà vào
mùa xuân. Tiếp đến là cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “vườn ai”, vườn Vĩ Dạ vườn nào mà chẳng
đẹp, vườn nào mà chẳng tươi nhưng để có được vẻ đẹp khiến thi nhân say đắm như vậy chỉ có
thể là vườn của người mình thương, mình nhớ. Hai chữ “vườn ai” không phải là câu hỏi để tìm
chủ nhân khu vườn mà chỉ là cách thể hiện niềm vui sướng, niềm bất ngờ khi gặp lại dẫu chỉ là
trong tưởng tượng mà thôi. Đại từ phiếm chỉ như mang một sắc thái mơ hồ, mang lại cho cả câu
thơ một chút nhớ nhung, một chút ngậm ngùi và một chút xa vắng bởi tất cả đã thuộc về thế giới
khác, thế giới của ai đó ngoài kia chứ không còn thuộc về mình nữa… Cuối cùng Hàn Mặc Tử
khép lại khổ thơ bằng một nét vẽ thi vị về cảnh và người thôn Vĩ:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Từ một hình ảnh thật trong tấm bưu thiếp, Hàn Mặc Tử đã sáng tạo nên một hình tượng
nghệ thuật độc đáo, thơ mộng, đẹp đẽ. “Mặt chữ điền” chỉ những người có khuôn mặt vuông
vắn, đầy đắn ứng với đức tính thật thà, phúc hậu, Khuôn mặt ấy trở nên duyên dáng khi được
những cành trúc tô điểm, bóng dáng con người làm cảnh Vĩ Dạ vốn đã đẹp nay lại càng đẹp hơn
trong sự hài hòa giữa cảnh và người, giữa tĩnh và động qua tạo nên nét đẹp e lệ, kín đáo, duyên
dáng của con người xứ Huế. Hàn Mặc Tử đã hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như
tỏa bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Song có lẽ đây là câu thơ gây nhiều tranh cãi bởi khuôn mặt chữ điền kia là đàn ông hay
phụ nữ? lối tạo hình của nó là cách điệu hay tả thực? Dường như vườn thơ Hàn là một tháp ngà
kiêu sa, tráng lệ, ánh hào quang của nó tỏa sáng chói lòa nhân thế… bởi lẽ những hình tượng thơ
của ông khiến người đọc khó đến gần, khó nắm bắt hiểu, nhiều tầng nghĩa và cũng có nhiều cách
hiểu. Có người cho rằng đó là khuôn mặt đôn hậu của người con gái xứ Huế, có người lại cho
rằng đó là khung cửa sổ, là cổng nhà quý phái hay đặc biệt hơn cả đó chính là khuôn mặt của tác
giả. Tìm trong thơ Hàn, sẽ thấy đây là lối tạo hình khá phổ biến, và cái nhân vật nép mình khi thì
sau cành lá, khóm lau, khi thì sau rào thưa, bờ liễu… thường là hình bóng tự họa của Tử, mà Tử
vẫn có cái “thói” tự vẽ mình một cách rất kiêu hãnh:
“Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó
Ngồi xuống đây bên thảm ngọc vườn châu”
Hàn Mặc Tử tự vẽ mình lên trang thơ như một “kẻ đứng ngoài”, “kẻ đi ngang qua cuộc
đời”, “kẻ đứng cách xa hàng thế giới”, là vị “khách xa lạ”, là kẻ đứng ngoài mọi cuộc vui, mọi
cảnh đẹp trần thế. Phải chăng đó là sản phẩm của mặc cảm chia lìa?
Đắm chìm trong cảnh sắc tươi đẹp của vườn thôn Vĩ chỉ là khoảnh khắc với Hàn Mặc Tử,
để rồi khi tác giả chợt nghĩ đến hố sâu ngăn cản giữa mình với thôn Vĩ bởi chứng bệnh nan y như
đang vẫy gọi án tử hình. Cũng vì vậy bài thơ đã có sự chuyển ý, “bật cóc” rất nhanh từ cảnh sắc
vui tươi đã chuyển sang đau thương u hoài:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Cái lối chuyển tứ nhanh, có khi rất xa, có khi rất kì lạ song đó là một đặc điểm của thơ
Hàn và khi “những đột xuất ấy lặp đi lặp lại với tần số cao sẽ tạo nên sự khó hiểu” (Vũ Quân
Phương), quả thực là như vậy. Bốn câu thơ khổ hai không có liên hệ gì về chi tiết với đoạn một,
cả khu vườn hay khuôn mặt chữ điền kia cũng không hề được nhắc lại. Cảnh bây giờ đã hoàn
toàn khác, nhưng cái tâm trạng vẫn một xa cách, vẫn một vắng vẻ. Thấm đượm trong lời thơ là
cảm giác buồn vắng, sầu tủi, chia lìa. Nhịp thơ 4/3 chậm rãi như ngắt câu thơ làm hai nửa, âm
điệu dàn trải như đưa người đọc chìm đắm vào nỗi buồn hiu hắt cùng thi nhân, câu thơ khiến ta
liên tưởng đến những vần thơ của Thế Lữ:
“Anh đi đường anh tôi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi.”
Nhưng nếu như Thế Lữ nói trực tiếp lời nhân vật trữ tình thì Hàn Mặc Tử lại mượn hình
ảnh để nói lên tiếng lòng. Dường như cảnh vật đang bắt đầu chia lìa, gió và mây đều có đường đi
riêng cũng giống như sự chia li của mối tình đơn phương, vô vọng sớm muộn cũng tàn. Điệp từ
“gió” và “mây” đã càng tô đậm sự chia lìa ấy. Gió thổi mây bay là quy luật tất yếu của tự nhiên
nhưng cái tưởng như không thể chia cách ấy nay lại xa cách chia lìa, mỗi thứ một phương, gió
một đường, mây một nẻo. Những hình ảnh được lặp lại không phải để nhấn mạnh cường độ của
gió hay sắc độ của mây mà là để tạo ra một khoảng không gian khép kín chia rẽ đôi bờ xa cách.
Nỗi đau đến tốt cũng đã thấm đượm vào cả không gian khiến cho dòng nước sông Hương cũng
nhuốm màu tâm trạng. Phép nhân hóa “Dòng nước buồn thiu” vừa làm hiện lên một dòng sông
phẳng lặng như không trôi chảy, vừa gợi như làm ngưng đọng nỗi buồn. Thêm vào đó là động
thái “lay” của hoa bắp chính là một nét buồn phụ họa vào khung cảnh bởi bản thân nó vốn dĩ
chẳng mang nghĩa buồn hay không vui, ta cảm thấy dường như thật nhẹ nhàng, thật buồn. Nghệ
thuật lấy động tả tĩnh đã gợi lại nỗi buồn đến tê tái, thiên nhiên Huế vốn được ban tặng vẻ đẹp
bình lặng, trầm tư mà giờ đây sàng lọc qua tâm hồn Hàn Mặc Tử đã trở thành nỗi buồn sâu tận
đáy lòng. Có phải có một chữ “lay” buồn như thế từ bông sậy của dân ca đã xuôi theo ngọn gió
thời gian mà đậu vào thơ Tử:
“Ai về giồng dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em”
Có phải chữ “lay” ấy lại trôi nổi thêm nữa để đến với hiện đại nhập vào lá ngô của thơ
Trúc Thông:
“Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió người không thấy về”
Hàn Mặc Tử nhìn thấy hoa bắp lay như nhận ra sự phiêu tán, chia lia. Tất cả gió, mây,
dòng nước đều đang lưu chuyển, đều đang rời bỏ chốn này mà đi hết và bỏ rơi lại hoa bắp. Chỉ
còn một mình, nó đang cố lay động như một sự níu giữ, một lưu luyến trong vô vọng của kẻ bị
chia lìa.
Nếu cõi thực của kí ức trong khổ 1 thật trong trẻo, tươi tắn và rực rỡ với ánh nắng ban
mai ấm áp thì đến khổ hai đã tràn ngập ánh trăng làm vạn vật mờ ảo, nhạt nhòa, lạnh lẽo như
thực, như mơ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Thơ Hàn Mặc Tử ngày là cõi nắng, đêm là cõi trăng. Hàn rất mê trăng, nó đã đi vào vườn
thơ ông thật ám ảnh như một nhân vật huyền thoại, như một nơi chốn để tâm hồn thi nhân được
phiêu du, thoát tục:
“Trăng nằm sóng sỏai trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
hay:
“Không gian đắm đuối toàn trăng cả
Anh cũng trăng mà em cũng trăng”
Còn ở đây Hàn Mặc Tử đã gợi ra một hình ảnh thật lạ, đó là một thế giới huyền diệu, nơi
ấy có con thuyền chở trăng và có một bến sông trăng. Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông
trăng, thuyền mới chở được đầy trăng, đúng như lời nhận xét của Bích Khê: “Hàn Mặc Tử co
con mắt rất mơ, rất ảo nhìn vào sự thực thì hóa sự thực hóa thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao
lại biến thành huyền diệu”. Câu thơ của Hàn làm ta nhớ tới câu thơ rất mực tao nhã, phong lưu
của Nguyễn Công Trứ:
“Gió trăng chứa một thuyền đầy
Củi kho vô hạn biết ngày nào vơi”
Cách diễn đạt phiếm chỉ “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” tạo ra cảm giác bóng tối lạnh
lẽo như bao trùm lên dòng sông, lên cảnh vật, thi sĩ như khát khao có con thuyền chở trăng về,
phải chăng là để chở những khát khao hy vọng đến khắc khoải về một sự gặp gỡ và hòa hợp?
Chữ “kịp” trong câu thơ thứ 2 càng thấm thía nỗi tiếc nuối, xót xa, lo sợ khi luôn biết rằng chẳng
bao giờ kịp nữa nhưng ông vẫn cố hỏi khiến tâm trạng trở nên bồn chồn, chua xót, bất lực. Hỏi
chỉ để tiếc, để tự dày vò bản thân mình mà thôi. Dường như, nếu trăng không về “kịp” thì kẻ bị
số phận bỏ rơi bên rìa cuộc đời này, bỏ dưới trời sâu này sẽ hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, vĩnh
viễn đau thương:
“Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Sao bông phượng nở trong màu huyết,?
Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?”
Cụm từ “tối nay” càng làm thi nhân thêm khắc khoải bởi khi tối là khoảng thời gian cuối
cùng của một ngày, “tối nay” lại mang ý nghĩa xác định khiến quỹ thời gian vốn ngắn ngủi nay
lại càng ngắn ngủi. Chỉ có “tối nay”, chỉ còn “tối nay” nữa mà thôi, dường như với Hàn, sống là
chạy đua với thời gian. Nếu như Xuân Diệu chạy đua với thời gian để sống tận hưởng và tận hiến
hết mình, ông chỉ sợ thời gian cướp đi tuổi trẻ cũng như tình yêu thì ở Hàn Mặc Tử đang đứng ở
giữa hai bờ sinh tử, lưỡi hái của tử thần đã huơ lên lạnh buốt sau lưng bởi vậy gã lo sợ từng khắc
từng giờ sẽ sớm vĩnh viễn rời xa cõi đời. Trong cảnh ngộ ấy, trăng dường như là điểm tựa duy
nhất, là bấu víu cuối cùng của kẻ cô đơn đang chới với trong mơ hồ. “Thơ là sự lên tiếng của
thân phận”, thật trớ trêu, định nghĩa ấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.
Đọc thơ Hàn Mặc Tử đôi khi khiến ta liên tưởng đến những vần thơ của Lamartine, tứ
thơ vừa lãng mạn vừa chứa đựng mầm mống của chủ nghĩa tượng trưng, nhiều lúc phát ngẫu, cõi
lòng nhà thơ có khi như chìm đắm vào trong cõi sương mù bởi vậy cảnh trí ngoại giới được tái
hiện chỉ có tính chất như những âm thanh của tâm hồn đó chính là kiểu thơ “Phong cảnh nội
tâm” như trong bài “Tình hồ” có viết:
“Dưới đá sâu lòng hồ gào thét
Tự vỗ mình đau xiết tâm can
Gió xua bọt sóng miên man
Trên đôi chân đẹp của nàng dấu yêu.”
Thơ Hàn cũng vậy, mặc dù đang sống với cảnh mộng và sống với người trong mộng, câu
thơ đang bồng bềnh phút chốc như trở nên hụt hẫng khi thi sĩ rơi về hiện thực của cuộc đời:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Khi không còn ánh nắng ấm áp, cũng không còn ánh trăng mộng ảo thi nhân đưa người
đọc tới một cõi xa xăm, không gian đã chuyển sang hoàn toàn thế giới mộng ảo. Màu sắc, âm
thanh, đường nét đều mờ nhòa, chỉ còn một bóng hình ai đó đang chập chờn xuất hiện, phải
chăng đó là hình bóng xa xôi của một nữ sinh Đồng Khánh thuở nào… Chữ “mơ” đầu câu thể
hiện niềm mong ước cháy bỏng của thi nhân muốn được cảm nhận, gần gũi với những hình
bóng, hơi ấm của con người và cuộc đời nơi trần thế song điệp từ “khách đường xa” trong hai vế
câu như tái hiện hình ảnh con người nơi trần thế đang xa dần, mờ khuất dần trong ánh nhìn tiếc
nuối mà vô vọng của thi nhân. Hình ảnh người con gái xứ Huế xuất hiện trực diện bằng tiếng
“em” rất mơ hồ. Em gần gũi đấy nhưng mà sao lại quá đỗi xa vời? Gần gũi vì đây là hình ảnh
thường trực trong cõi lòng thi nhân, xa vời vì giữa hai người là khoảng cách thời gian cùng màn
khói sương của quá khứ mờ ảo hay là vì xuất phát từ sự mặc cảm tự ti trong tình yêu:
“Em lớn quá làm sao anh giữ nổi
Nên lúc nào em muốn cứ xa anh!”
(Sechxpia)
Dường như bóng dáng em xa khuất chỉ còn đọng lại sắc áo trắng – một vẻ đẹp thánh
thiện, tinh khôi đúng như Huy Cận từng viết:
“Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,
Hôm xưa em đến, mắt như lòng.”
Hàn Mặc Tử muốn cực tả sắc trắng trong câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra” ở độ
tuyệt đối, tột cùng. Nó choáng cả không gian làm lập lòe cả thị giác. Ta dễ thường thấy trong thơ
Tử hình bóng giai nhân bao giờ cũng là hiện thân sống động của vẻ đẹp trinh khiết xuân tình và
gắn vào làm một với hình bóng họ là sắc áo trắng tinh khôi: “Chị ấy năm nay còn gánh thóc /
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”, đôi lúc khiến câu thơ trở nên kì quặc: “chết rồi xiêm áo
trắng như tinh”. Câu thơ của Hàn làm ta liên tưởng tới màu trắng trong thơ Xuân Quỳnh khi thi
sĩ cảm thấy thời khắc xa cách cuộc đời đã đến gần:
“Người ta khuyên lúc này đừng suy nghĩ
Mà cũng đừng xúc động, lo âu.
Phía trước, phía sau, dưới đất, trên đầu
Dường trong suốt một màu vô tận trắng.”
Hình ảnh “khách đường xa” đã trở về trong cõi mộng khiến nhà thơ ngơ ngẩn, bâng
khuâng, Hàn như bất lực trước cuộc đời khi thấy nó mỗi ngày một xa dần tưởng như nắm bắt
được rồi lại tuột ra khỏi tay…
Say đến đâu rồi cũng phải tỉnh, mơ mộng đến mấy rồi cũng phải quay lại thực tại, Hàn
Mặc Tử cũng vậy, ông đã đến lúc phải quay về với thực tại u ám dù chẳng muốn chút nào, ấy là
chốn lãnh cung ảm đạm mờ mịt chẳng biết tương lai ngày mai ra sao:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Cụm từ “ở đây” đã vẽ ra hai không gian hoàn toàn đối lập. “Ở đây” là nơi nhà thơ đang
sống, là không gian nghiệt ngã và tăm tối đang bủa vây xung quanh Tử tựa một lãnh cung nơi
không có “niềm trăng và ý nhạc”, nơi có “người cung nữ nhớ thương vua”. Không gian ấy bây
giờ chìm trong sương khói mông lung, lạnh lẽo của xứ Huế buồn lắm nắng, nhiều mưa. Dường
như bóng dáng của người đang dần nhòa mờ “nhân ảnh” làm ta nhớ đến câu thơ của Nguyễn Gia
Thiều:
“Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”
Dù tất cả đều chìm vào ảo ảnh nhưng tâm hồn thi nhân vẫn luôn băn khoăn, day dứt với
một câu hỏi:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Từ cõi hư vô ấy, câu hỏi cuối cùng vang lên như một nỗi xót xa, tuyệt vọng của một con
người tha thiết mê đắm với cuộc đời, khao khát bộc lộ tình yêu đời và khắc khoải tìm kiếm sự
đồng cảm, đồng điệu. Câu thơ sử dụng đến hai lần đại từ phiếm chỉ “ai” gợi nhiều liên tưởng đến
mối giao cảm của nhà thơ với người con gái xứ Huế. Chẳng biết thôn Vĩ có hiểu cho mối tình
đơn phương mà tha thiết đó không? Chẳng hay người thôn Vĩ có tình cảm đậm đà với mình
không? Đó là câu hỏi của tình yêu và cũng là câu hỏi muôn thuở của tất cả những người đang
yêu tha thiết như nữ sĩ Xuân Quỳnh đã từng viết:
“Anh có nghe hoa rơi
Quanh chỗ mình đứng đó
Hoa ơi sao chẳng nói
Anh ơi sao lặng thinh
Đốt lòng em câu hỏi:
Yêu em nhiều không anh?”
Câu thơ của Tử rất mơ hồ, một câu hỏi đã hàm ý vô vọng nhưng vẫn thể hiện được niềm
khao khát của thi nhân. Hai chữ “đậm đà” khép lại bài thơ như muốn nói dẫu vô vọng nhưng thi
nhân vẫn khao khát, vẫn mong ai đó biết và thấu hiểu cho tình yêu, cho sự đậm đà của tình
người.
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc
Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.
Biết bao ống kính thiên văn đua nhau chĩa về “ngôi sao chổi” kì lạ ấy, song tiếc thay, cái vừng
sáng vừa trong trẻo, vừa chói lói, vừa ma quái phát ra từ ngôi sao có sức cuốn hút bao nhiêu
cũng có sức xô đẩy bấy nhiêu. Dù xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam vỏn vẹn 12 năm, song
những gì ông để lại cho hậu thế là cả một vườn thơ “rộng không bờ, không bến, càng đi xa càng
ớn lạnh”, càng thấy “nhọc” bởi lớp lớp tầng nghĩa của những vần thơ vẫn chưa được lật mở.
Ba câu hỏi ở ba khổ thơ là ba sắc thái tình cảm hoàn toàn khác nhau. Câu hỏi thứ nhất là
để nhớ mong, tiếc nuối, câu hỏi thứ hai là khắc khoải, lo âu và câu hỏi cuối cùng cho ta thấy khát
khao cũng như hoài nghi của thi nhân. Ba câu hỏi như sợi dây vô hình gắn kết các khổ thơ trong
mặt cảm xúc thống nhất, bài thơ thể hiện một tâm hồn rạo rực tình đời, tình người tha thiết
hướng về cuộc sống đến khắc khoải của thi nhân. Bài thơ đã để lại một bức tranh ngoại cảnh và
tâm cảnh thật đẹp vương vấn mãi trong lòng người đọc như nhà thơ Thu Bồn đã viết:
“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô’

You might also like