You are on page 1of 5

Đề bài: Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

1. Mở bài
Hồ Chí Minh được nhân loại biết đến không chỉ là một vị lãnh tụ kiệt xuất
của dân tộc Việt Nam mà còn được biết đến như một nhà văn, nhà thơ lớn của
thế kỷ XX. Ngoài văn chính luận, người còn để lại cho đời một sự nghiệp thơ ca
đáng trân trọng. Trong đó nổi bật nhất là tập thơ "Nhật ký trong từ". Tập thơ
này như một cuốn nhật ký bằng thơ ghi lại những chặng đường giải lao đầy
gian nan vất vả của người tù. Nhưng bằng bản lĩnh thép, tinh thần thép Người
đã vượt qua hoàn cảnh tù đày để hướng về ánh sáng. Bài thơ "Chiều tối" là một
trong những sáng tác tiêu biểu nhất của tập "Nhật ký trong từ". Bài thơ mang
phong vị vừa cổ điển vừa hiện đại, đặc biệt qua bài thơ đã cho ta thấy tình yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt đầy phi
thường của người tù cách mạng:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh còn là nhà
văn, nhà thơ lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Với Bác, người nghệ sĩ phải là một
chiến sĩ chủ động tích cực trên mặt trận với vũ khí đặc biệt là các tác phẩm văn
chương: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt
trận ấy. Ta vẫn thường thấy những thi phẩm nghệ thuật thường ra đời trong hoàn
cảnh rất đỗi nên thơ, khi trà dư tửu hậu hoặc lúc tức cảnh sinh tình, nhưng thơ Bác
ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất vẫn vươn mình để trở thành áng thơ tuyệt
bút. Mộ (Chiều tối) được Bác lấy cảm hứng từ khung cảnh miền sơn cước vào một
buổi chiều trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo cuối tháng 10 năm
1942. Đây được coi là một trong những thi phẩm đặc sắc trích từ tập Ngục trung
nhật kí (Nhật kí trong tù), bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển song cũng thấm đượm
tinh thần hiện đại qua đó góp phần làm nổi bật cốt cách của bậc đại trí, đại nhân, đại
dũng (Viên Ưng Trung Quốc).
Ngay từ những nét phác họa đầu tiên ta đã thấy hiện lên bức tranh cổ kính,
đậm nét của thi ca cổ điển:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Bằng bút phát chấm phá, Bác điểm trong bức tranh chiều tà là hình ảnh cánh chim
hình ảnh ước lệ thường thấy trong văn học cổ có nhiều ý nghĩa biểu tượng, Nguyễn
Du đã từng viết:
Chim hôm thoi thóp về rừng
Hay như bà Huyện Thanh Quan trong bài thơ Chiều hôm nhớ nhà:
Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Và đến tận sau này cánh chim ấy vẫn làm xao xác cả hoàng hôn trong thơ Huy Cận:
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa
Cảnh vật vùng sơn cước là những hình ảnh thực được hiện lên rõ nét qua con mắt
và tâm trạng của người tù nơi đất khách quê người. Chiều tối là lúc ánh sáng ban
ngày gần vụt tắt hẳn, người đi đường ngước mắt nhìn lên bầu trời nơi vẫn có chút
ánh sáng ban ngày còn sót lại và chợt nhận thấy một cánh chim lẻ bầy mỏi mệt
(quyện điểu) đang bay về rừng tìm nơi trú ngụ. Chẳng lẽ tự nhiên mà cánh chim ấy
rơi vào điểm nhìn của Bác, sự cảm nhận đó xuất phát trên cơ sở ý thức sâu sắc của
cái tôi cá nhân trước ngoại cảnh, và trên cơ sở sự gần gũi, tương đồng: suốt một
ngày bay đi kiếm ăn, cánh chim đã mỏi mệt, người tù cũng mệt mỏi sau một ngày
vất vả lê bước trên đường trường. Những cánh chim kia còn biết tìm về tổ ấm khi
màn đêm buông xuống còn người tù tha hương nơi đất khách vẫn phải rảo bước trên
con đường gian khổ mà chẳng biết điểm dừng chân sẽ là ở đâu. Sẵn có một tâm hồn
nhạy cảm nên Người không thể không chạnh lòng và gợi lên nỗi nhớ quê hương cồn
cào, da diết. Nhìn cánh chim mà Người thấy trong dáng bay của nó có cả sự mệt
mỏi. Phải chăng đó chính là tình cảm nhân đạo, là tấm lòng cảm thương cho cánh
chim sau một ngày vất vả lam lũ. Cái nhìn ấy thể hiện sự nhân ái, bao la của Người
đối với vạn vật như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người
Trong câu thơ sau Cô vân mạn mạn độ thiên không mang đậm đà phong vị cổ thi
và đẹp như một câu thơ Đường, cũng mượn thi liệu quen thuộc là hình ảnh chòm
mây để miêu tả cảnh chiều tà:
Bạch vân thiên tải không du du
(Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay)
(Hoàng Hạc lâu Thôi Hiệu)
Song những áng mây trong thơ Bác không phong lưu, cao sang mà rất bình dị, êm ả
của bầu trời miền sơn cước. Đối chiếu với bản dịch thơ, rất tiếc người dịch đã làm
mất đi sự cô đơn, lẻ loi của đám mây (cô vân) và dáng vẻ lững lờ như chất chứa nỗi
niềm, giúp ta hình dung ra cả một khoảng trời trong trẻo, mênh mang, tĩnh lặng
cùng chút gió thu nhè nhẹ hiu hắt buồn (mạn mạn). Hai hình ảnh tương phản ở đầu
và cuối câu thơ: cô vân thiên không, đối lập giữa không gian cao rộng, thoáng đạt
của bầu trời với sự lẻ loi của áng mây khiến cho không gian càng rộng mở mênh
mông, rợn ngợp và cánh chim càng nhỏ bé, đơn độc, đáng thương. Lối vẽ chấm phá
cổ điển không làm cho hình ảnh chòm mây rơi vào ước lệ giống với thơ xưa mà
ngược lại giúp chúng sống động như mang tâm tình, xúc cảm. Áng mây dường như
không biết đi đâu, về đâu trong cảnh chiều tàn đang dần khép cửa, nó khiến người
tù cách mạng nghĩ đến thân phận bơ vơ nơi đất khách quê người của mình, đó vừa
là nỗi buồn cố hữu trước cảnh thiên nhiên vừa là nỗi buồn phải xa quê nhưng lúc
nào cũng nhớ về quê hương. Bằng những thi liệu cổ điển quen thuộc, với nghệ thuật
tả cảnh ngụ tình và bút pháp chấm phá chỉ gợi mà ít tả, thi nhân đã dựng lên bức
tranh chiều muộn thanh bình miền sơn cước. Bức tranh ấy hoàn toàn không có dây
trói hay gông xiềng, tư thế một tù nhân đã thay thế hoàn toàn bởi tư thế của một
hành nhân, một thi nhân. Cảnh vật được cảm nhận từ điểm nhìn cao rộng khoáng
đạt, vì vậy cảnh tuy hoang vắng, phảng phất chút buồn nhưng không cô liêu, tuyệt
vọng. Và người tù cách mạng đã dành những tình cảm yêu thương, trìu mến cho
vạn vật, cho tự nhiên vốn dĩ rất thơ mộng này. Tự chủ trong cái nhìn thiên nhiên và
đồng thời con người cũng tự chủ trong cả những cảm xúc vui buồn. Hai câu thơ
không khẩu khí mà lại làm ta rung động. Người tù đang tự do tự tại trước cảnh ngộ
éo le như Bác đã từng viết khi mới bước vào nơi bị giam cầm:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao.
Hai câu thơ là tư thế của con người làm chủ hoàn cảnh, làm chủ cuộc đời, càng đặt
hai câu thơ trong hoàn cảnh sáng tác của nó, người đọc càng cảm nhận được bản
lĩnh phi thường, tinh thần thép của người tù chiến sĩ Hồ Chí Minh trước những khắc
nghiệt của cuộc đời:
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình
(Hoàng Trung Thông)
Hai câu thơ cuối có sự vận động về thời gian từ chiều đến tối, có sự vận động từ
không gian thiên nhiên đến không gian cảnh sinh hoạt. Nổi bật trong bức tranh là
hình ảnh cô thiếu nữ xóm núi đang xay ngô chuẩn bị cho bữa tối, đây là một thi liệu
mang đậm tính dân chủ cho văn chương cũng như sự vận động mới mẻ cho hình
tượng thơ:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Ta vẫn thường thấy trong thơ xưa, cảnh thiên nhiên thường vắng bóng con người
hoặc con người bị hòa vào thiên nhiên, họ thường nhỏ bé, cô đơn, thường tĩnh lặng,
thụ động và luôn chịu sự chi phối của ngoại cảnh như trong bài Qua đèo ngang của
bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhưng khi đến với bài thơ Chiều tối, trung tâm của bức tranh giờ đây lại là con
người hình ảnh cô gái đang lao động chăm chỉ xay ngô bên bếp lửa như mang đến
sức sống cho khung cảnh chiều tối. Đặc biệt, đó là sự gắn kết thiếu nữ sơn thôn đã
cho ta thấy cảm xúc, hồn thơ của Bác. Người luôn luôn phát hiện mối quan hệ hòa
hợp giữa người và cảnh vật. Không phải ngẫu nhiên có sự kết hợp này, dường như
xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ vào sự xuất hiện của thiếu nữ. Và thiếu nữ
xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi mà gắn liền với cộng đồng sơn thôn của mình. Ở
câu thơ thứ 3 lại một lần nữa bản dịch thơ không thể thể hiện được hết ý nghĩa của
bản nguyên tác khi sơn thôn thiếu nữ dịch là cô em xóm núi. Bác không gọi cô gái
bên bếp lửa hồng ấy với hai từ cô em mang sắc thái bông đùa mà Bác trân trọng gọi
người con gái ấy là thiếu nữ gợi cảm xúc về sức trẻ, tuổi thanh xuân của cô. Mặt
khác, thơ cổ cũng đã nhiều lần nhắc đến hình ảnh người thiếu nữ, nhưng là những
thiếu nữ đài các nơi khuê phòng:
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
(Truyện Kiều)
Còn người thiếu nữ trong Chiều tối xuất hiện cùng khung cảnh lao động bình dị nơi
xóm làng mang vẻ đẹp khỏe khoắn, mộc mạc mà gần gũi, đầy thương mến và chính
cuộc sống lao động bình dị đó càng trở nên đáng quý, đáng trân trọng biết bao giữa
rừng núi chiều tối âm u heo hút. Nó mang lại cho người đi đường chút hơi ấm của
sự sống, chút niềm vui và hạnh phúc trong lao động của con người, tuy vất vả mà tự
do. Trong câu thơ thứ ba ở bản dịch thơ, người dịch đã sơ ý đặt thêm chữ tối vào
khiến giảm đi ít nhiều tính hàm súc, cô đọng. Xét về thời gian thì quả thực khi cô
gái xay ngô thì trời đã tối nhưng cảm quan nghệ thuật của Bác thì rất dị ứng với
bóng tối và hơn cả người đọc hoàn toàn có thể nhận thấy được bước chuyển biến
của thời gian ngay cả khi không có sự xuất hiện của chữ tối như Lê Trí Viễn đã
từng bình luận: Thời gian trôi dần dần theo cánh chim và làn mây, theo vòng xoay
của cối ngô quay mãi quay mãi. Ở hai câu thơ cuối này, thi nhân đã sử dụng thành
công cấu trúc lặp vòng tròn từ cuối câu ba tới đầu câu bốn: ma túc bao bao túc ma
mặc dù đối với một bài thơ tứ tuyệt chỉ vỏn vẹn hai mươi tám chữ việc dùng phép
lặp rất ít khi xảy ra. Cụm từ ma túc bao ở cuối câu thơ thứ ba đã gối đầu vào câu thơ
thứ tư theo lối đảo ngược, nếu đọc liên tục ta sẽ có ấn tượng về những vòng quay
đều đặn của chiếc cối xay ngô, nó cứ chuyển động dường như triền miên không dứt:
ma bao túcbao túc mama bao túc đưa ta với một buổi tối sum họp, ấm áp của một
gia đình vùng sơn cước. Hồ Chí Minh đã có phát hiện mới trong bút pháp miêu tả
thời gian đó là sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, vòng quay của chiếc cối chấm
dứt đồng nghĩa rằng công việc kết thúc và lò than cũng vừa đỏ. Ánh lửa hồng xuất
hiện bất ngờ tỏa sáng vào đêm tối đã xua tan cái lạnh lẽo, tối tăm thắp lại ánh sáng
và sự ấm áp cho đêm miền sơn cước. Chữ hồng nằm ở cuối bài thơ có một vị trí đặc
biệt, nó được xem là nhãn tự của toàn bài. Nhà thơ Hoàng Trung Thông nhận xét:
Với một chữ hồng Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt
mỏi, sự uể oải, sự vội vã Ánh hồng không chỉ tỏa ra từ bếp lửa mà còn tỏa ra từ tấm
lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của người tù cách mạng. Và ta luôn biết rằng, con
đường cách mạng Việt Nam cũng đi từ trong đêm trường nô lệ để đến với con
đường vinh quang cũng được biểu tượng qua ánh hồng:
Trong ngục giờ đây còn tối mịt
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi
Như vậy, chữ hồng đã tạo lên một điểm sáng nghệ thuật đem lại giá trị thẩm mĩ, nó
vừa xua tan cái lạnh lẽo, vừa gợi cảm giác vui tươi, bình yên, đầm ấm của cuộc
sống, vừa biểu tượng cho sự lạc quan, yêu đời của Bác. Ngọn lửa ấy đã làm bừng
sáng chất thép trong thơ Hồ Chí Minh. Đó là chất thép của những tình cảm lớn lao,
của niềm tin và nghị lực phi thường.
Những năm 40 của thế kỉ trước, trên thi đàn văn học lãng mạn vang lên những vần
thơ nặng trĩu buổi chiều của Huy Cận: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng
cánh nhỏ bóng chiều sa. Những câu thơ của mang theo tâm trạng bất lực của cả một
lớp người đang ngột ngạt giữa xã hội đen tối Việt Nam dưới ách ngoại bang. Cũng
trong một buổi chiều giữa nơi đất khách Trung Hoa, một người tù tay bị trói giật
cánh khuỷu, cổ mang vòng xích đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao la, làm
nên những vần thơ tuyệt tác, vừa cổ kính, vừa rất trữ tình thư thái. Đọc thơ Người ta
khám phá được từ màu sác cổ điển bỗng tỏa sáng tinh thần thời đại, thấy được tư
thế ung dung của người tù cách mạng như nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, tay mờ, tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung
Thời gian có thể làm cho cái đẹp bị tàn phai, nhưng không thể giết chết cái đẹp..
Những vần thơ Chiều tối cũng vậy, nó vẫn vươn mình trong vùng đất chết để trở
thành một thi phẩm chói lòa, vượt ra khỏi nỗi khổ của người tù chuyển lao, thoát
khỏi cái dơ bẩn thấp hèn và thay vào đó là một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc
sống và yêu con người đến tha thiết.

You might also like